Miếng thịt trôi vào những cái miệng đói khát / Köttet glider in i de hungriga munnarna - Göran Sommardal
Miếng thịt trôi vào những cái miệng đói khát
Thơ Mai Văn Phấn gợi nhắc những điều gai ương về một
thế giới khác
Göran Sommardal, nhà thơ, nhà phê bình văn học
Göran Sommardal
Mimmi Diệu Hường Bergström dịch từ tiếng Thụy
Điển
PHÊ BÌNH
VĂN HỌC
Trong trường ca
Thời tái chế*, nhà thơ Mai Văn Phấn đã tạo được sự cân bằng kỳ lạ giữa tính tất
yếu và trạng thái tự do. Tôi nghĩ, điều ấy liên quan tới sự kết chéo kỳ diệu
giữa câu chuyện kể và nhân vật đối thoại trong thơ của ông.
Về họ: gã đồ tể, người
diễn viên, ông chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp thời thơ ấu của tác giả, thầy
giáo dậy môn chính trị về tinh thần làm chủ tập thể, những người từng là lính
trận.
Về bạn và tôi:
người đọc bài thơ luôn hiển hiện và không bao giờ ẩn giấu. Vì vậy, chúng ta
đồng thời có thể như vậy hay thực sự đã từng như vậy. Chúng ta có thể biến
thành chính những điều như thế.
Với vòng cung hiện
sinh, nhà thơ đã thành công trong việc hợp nhất trải nghiệm cụ thể của mình với
cõi nhân gian ở khắp mọi nơi, giống như một món ăn đặc sản gia truyền tại nhà: "Mâm cơm dọn ra đón các anh không phải những đồ tế lễ trong
ngày cúng giỗ, mà thức ăn đạm bạc quê nhà, có canh cua rau đay và đĩa cà pháo".
Tập thơ đã làm cho
bạn đọc càng thêm phấn khích. Khi Mai Văn Phấn miêu tả sự việc, vật thể, những
dữ liệu của ký ức trình hiện một cách rõ ràng, thì thế giới vô tri ấy vẫn gợi
nhắc sống động về một thế giới khác: "Miếng
thịt sống được cạo da, rửa sạch. Người đầu bếp cố thái cho vuông vắn, nhưng đa
phần chẳng ra hình dáng gì. Chúng được ngâm tẩm gia vị, quyện lấy nhau bằng
hành khô, tỏi, tiêu, đường, ớt, nước mắm, kẹo đắng. Một đống bầy nhầy reo trong
lửa. Co lại. Vật vã. Nổ lốp bốp. Chúng cùng chung giấc mơ được tái sinh trong
thân xác khác, nhưng hiện thời phải gắng sức chảy mỡ, co rúm, nát nhừ. Đợi chui
qua những cái miệng hôi hám, tham lam".
Bản dịch của Tobias
Theander hết sức sắc nét đến từng chi tiết nhưng vẫn giữ được chất thơ, đúng
như những gì người ta mong đợi ở một nhà thơ bén nhậy, giàu trí tưởng tượng như
Mai Văn Phấn. Với ông, ngay cả máu cũng không phải là biểu tượng gây nên sự chết
chóc hay hiệu ứng kinh dị thông thường. Máu ở đây là cảnh tượng mà những bài
thơ không bao giờ thoát khỏi, điều mà Mai Văn Phấn đã cố gắng hết sức để hóa
giải chúng. Cũng như tự do sẽ không bao giờ ở chính xác nơi chúng ta mong đợi, mà
nó chỉ tồn tại ở đâu đó ngoài kia.
”Máu
điềm nhiên từng bước khoan dung, bình an tựa hơi thở của bé thơ đang ngủ. Máu
chạm vào khoảng không, vào địa danh lịch sử, như con trăn khổng lồ nhẹ nhàng
trườn qua phiến đá. Tựa trái bóng tròn lăn trên sân cỏ. Hạt mưa gọi nhau tụ lại
chảy vào đất trũng”.
________
* "Skrottid" (“Thời tái chế”. Thơ tiếng Thụy Điển. Nhà xuất bản Tranan, Thụy Điển, 2022). Dịch giả: Tobias Theander. Biên tập: Erik Bergkvist.
NGUỒN
(Báo Aftonbladet, mục Văn hóa - Phê bình văn
học)
GÖRAN ARNE SOMMARDAL
Göran Arne
Sommardal, sinh ngày 25 tháng 6 năm 1947 tại Gävle. Ông là nhà thơ, nhà phê
bình văn học, bình luận viên đài phát thanh Thụy Điển và là dịch giả tiếng
Trung. Ông có bằng tiến sỹ ngôn ngữ Trung hoa tại trường Đại học Stockholm, làm
luận án về thơ Trung Hoa cổ điển. Sommardal sống ở đảo Södermalm thuộc thành
phố Stockholm.
Tiểu sử thư mục:
1974 – Lời thú tội
của một tiểu tư sản (thơ, nhà xuất bản Rabén & Sjögren)
1976 - Ở giữa (thơ, Rabens & Sjögren)
1978 – Bài hát sau cuộc bạo loạn (thơ, Rabens & Sjögren)
1982 – Bản thảo về sự thiếu sót trên thiên trần (thơ, Rabens
& Sjögren)
1992 – Cung điện trống rỗng: Khảo cổ về các vết xe (dấu ấn)
và tàn tích từ tâm thức văn học Trung Hoa (Trường Đại học Stockholm)
2001 – Bàn chân được giải phóng: nỗ lực của Trung quốc khi
nói về văn học (phần nhỏ về chính trị) (hội nghị chuyên đề)
2011 – Sự trùng lặp của Trung quốc: 6 chương về kinh nghiệm
bằng văn bản (hội nghị chuyên đề)
2013 – Thơ 75 năm ngày nay: siêu tuyển tập (hiệu đính Göran
Sommarland, Ellerström)
2016 – Vì sao chúng ta có mặt ở Afghanistan (nhà xuất bản
Atlas)
Dịch thuật:
Ba Jin: Thu Xuân (Gidlund 1972)
Li Bai: Say ngà (Câu lạc bộ ca – lời FIB, 1977)
Lu Xun: Trong vết máu mờ nhạt: tiểu luận và các đoạn văn
xuôi 1918-36 (tuyển chọn và bản dịch cộng tác với Britta Kinnemark, Cavefors,
1978)
Lu Xun: Cỏ dại (Yecao) (Câu lạc bộ ca – lời 1988)
Tadeusz Różewicz: Chủ tiệm, An ủi, (Câu lạc bộ ca – lời
FIB, 1996), Chủ tiệm: bản dich từ tiếng Ba lan của Göran Sommardal và An ủi,
bản dịch từ tiếng Ba lan của Anders Bodegård)
Cái lưỡi sẽ mọc dài: thơ Trung quốc (đồng dịch thuật: Li
Li. Hiệp hội Karavan 2007)
Yin Jianling: Con mèo đóng khung (Nhà xuất bản JH, 2012)
Yin Jianling: Trốn chạy (Nhà xuất bản JH, 2013).
Köttet
glider in i de hungriga munnarna
Mai
Văn Phấns dikter är sinneshårda påminnelser om en annan värld
Av:
Göran Sommardal
BOKRECENSIONER
Det uppstår en
besynnerlig balans mellan nödvändighet och befrielse i den vietnamesiske poeten
Mai Văn Phấns diktsamling Skrottid. Jag tror att det har att göra med den
magiska kortslutningen mellan dem han berättar om och den han tilltalar i sin
poesi.
Om
dem: slaktaren, skådespelaren, Chefen för min barndoms kooperativ, läraren i
det kollektiva ägandets etik, alla som någon gång i tiden varit soldater.
Till
dig, och mig: den alltid synlige och aldrig hemlighållne läsaren av dikten.
Alltså samtidigt vad vi kunde vara, vad vi faktiskt har varit. Vad vi kunde
bli.
Med den existentiella ljusbågen lyckas han förena sin egen särskilda
erfarenhet med den mänskliga myllan varsomhelst, som en säregen husmanskost: ”Ni
får riktig mat att äta / inga offergåvor utan husmanskost som soppa på krabba
och aubergine”.
Det
skapar en uppfordrande läsning. Också när Mai Văn Phấn så uppenbart beskriver
föremål, materia, minnesfakta så utsöndrar deras sinneshårda värld påminnelsen
om en annan värld: ”Ett stycke rått kött, flått och sköljt. Kocken försökte
så gott han kunde hacka det i prydliga tärningar, men de flesta blev rätt
formlösa. Han marinerade dem i lök, vitlök, peppar, socker, chili, fisksås och
bränt socker. Den slemmiga massan pep på spisen. Krympte. Vred sig. Knäppte. Köttbitarnas
gemensamma dröm var att återfödas i en annan kropp, men för ögonblicket var de
helt upptagna med att avge fett, dra sig samman, gröta sig. De väntade på att
glida in i glupska stinkande munnar”.
Tobias
Theander översättning är detaljskarp och ändå poetiskt återhållen, precis vad
man önskar när det gäller en poet som är så skarpskuret fantasifull som Mai Văn
Phấn. Hos honom är inte ens blodet en ödesdiger symbol eller gängse
skräckeffekt. Blodet är en syn, som dikterna aldrig befriar sig från, och som
Mai gör sitt allra bästa för att försonas med. Precis som friheten aldrig
kommer att finnas precis där vi förväntar oss att den ska vara, bara där
någonstans.
”Sävligt stiger blodet, avslappnat och fridfullt som ett
sovande barns andetag. Det sväller, berör historiska platser, krälar smidigt
som en jättelik pytonorm över en stenläggning. Som en rullande boll.
Regndroppar som ropar åt varann att samla sig i sänkorna”.
FAKTA
(Källan : Aftonbladet)
GÖRAN
ARNE SOMMARDAL
Göran Arne Sommardal, född 25 juni 1947 i Gävle, är en
svensk poet, kritiker, radioproducent och översättare från kinesiska. Han har
doktorerat i sinologi vid Stockholms universitet, på en avhandling om klassisk
kinesisk poetik. Sommardal är bosatt på Södermalm i Stockholm.
Bibliografi
1974 – En småborgares bekännelser (dikter, Rabén &
Sjögren)
1976 – I mitten (dikter, Rabén & Sjögren)
1978 – Sång efter uppror (dikter, Rabén & Sjögren)
1982 – Utkast till en brist på himmel (dikter, Rabén &
Sjögren)
1992 – Det tomma palatset: en arkeologi över ruiner och
rutiner i kinesisk litteraturtradition (Symposion)
1998 – The Empty Palace: an Archaeology of Ruts and Ruins
from the Chinese Literary Mind (Stockholms universitet) [Diss. Stockholms
universitet]
2001 – Den befriade foten: ett kinesiskt försök att tala om
litteratur (och mindre om politik) (Symposion)
2011 – Kinesiska samtidigheter: sju kapitel om den skrivna
erfarenheten (Symposion)
2013 – Dagens dikt 75 år: en meta-antologi (redigerad av
Göran Sommardal, Ellerström)
2016 – Varför var vi i Afghanistan? (Atlas)
Översättningar
Ba Jin: Vårens höst (Gidlund, 1972)
Li Bai: Det långa ruset (FIB:s lyrikklubb, 1977)
Lu Xun: I de matta spåren av blod: essäer och prosastycken 1918-36
(urval och översättning tillsammans med Britta Kinnemark, Cavefors, 1978)
Lu Xun: Vildgräs (Yecao) (FIB:s lyrikklubb, 1988)
Tadeusz Różewicz: Regio ; Relief (FIB:s lyrikklubb, 1996)
[Innehåll: Regio (översättning från polska ... av Göran Sommardal) ; Relief
(översättning från polska av Anders Bodegård)]
En tunga ska växa ut: ny kinesisk dikt (översatt
tillsammans med Li Li, Föreningen Karavan, 2007)
Yin Jianling: Den inramade katten = Huakuang li de mao (JH
Publishers, 2012)
Yin Jianling: Flykten (Chu tao) (JH Publishers, 2013)