Gió và giấc mơ

Hoàng Đăng Khoa và Mai Nhung
Mai Văn Phấn
“em và anh
bóng đổ bóng vào đêm chấp chới”
Mai Nhung
Thơ
Mai Nhung không đến với bạn đọc bằng những tiếng ồn hay cú sốc, mà êm ái như
làn gió mát lành buổi sớm. Câu thơ “nắng
ngủ trong sương lạnh vùi theo gió” (demo
mùa xuân) phần nào hé lộ tinh thần của tập thơ "người qua như
tiếng rao” vừa
công bố. Trong thế giới thơ ấy, mọi hình tướng và thanh âm đều được nâng niu
trong hơi thở dịu dàng, để gió trở thành một chủ thể thẩm mỹ, cất lên giọng
nói, đánh thức một vùng khí quyển. Nhịp điệu đằm thắm ấy của Mai Nhung cộng
hưởng tự nhiên với tập thơ "không gì thực bằng giấc mơ" của Hoàng
Đăng Khoa, nơi hình ảnh và ý niệm vận động theo dòng chảy, mở ra những khả thể
tưởng tượng. Sự đồng cảm giữa hai tác giả không chỉ hiện diện trong sáng tác mà
còn phản chiếu đời sống, nơi họ cùng nhau kiến tạo thế giới nội tâm, là bạn
đời, tri kỷ trong thi ca. Đọc song hành hai tập thơ, có thể nhận thấy mối tương
liên tinh tế: cơn gió mở ra những chiều hướng mới, làm giấc mơ trong tập thơ
kia thêm huyền diệu và vang vọng; ngược lại, giấc mơ dẫn lối, định hình cho gió
lan tỏa, cho thấy sự cộng sinh mang ý nghĩa thẩm mỹ trong thi ca.
Sinh
năm 1991, Mai Nhung viết một cách tự nhiên, hiện đại, không lệ vào vần điệu. “nuốt cạn bao nhiêu gió mưa/ sa động vẫn dư
thừa vũng lệ” (lệ cát), hay "anh
có nghe đất gọi/ mặt trời lên thay chỗ màn đêm/ em vệt mây/ chảy tràn anh tiếng
súng” (tưởng tượng). Thi ảnh của chị được kiến tạo như những mảnh ghép;
trung tâm không còn hiện hữu cố định mà nhường chỗ cho ngoại biên tham gia cấu
trúc, mở ra trường liên tưởng, trong đó mỗi chi tiết có khả năng dẫn dụ cảm
nhận.
Xuyên
suốt tập thơ "người qua như tiếng rao", gió nổi lên như một hình tượng
chủ đạo, mang mật mã nghệ thuật. Trong 38 bài thơ, có tới 34 lần gió xuất hiện
với nhiều biến thể: "gió nghiêng
mình", "gió du mục", "gió choàng vai", "gió trốn
nắng", "gió nấc", "gió reo", "hong gió", "trĩu
nặng gió", "gió nối gió thành bão", "những ngọn đèn thao
thức gió",... Sự phong phú này mở ra không gian đa chiều, gợi tính đa
sắc diện của thế giới, bao quát nhiều cung bậc đời sống và trạng thái tinh
thần. Từ hệ biểu tượng đó, thơ Mai Nhung khơi mở thành những chiêm nghiệm về
thân phận, tình yêu, quê hương và kiếp người trong dòng chảy vô thường.
Nếu
thơ Mai Nhung thiên về sự mềm mại, nữ tính với khuynh hướng dồn nén cảm xúc,
thì thơ Hoàng Đăng Khoa nổi bật bởi năng lượng bộc phát, được kiến tạo trên hệ
thống biểu tượng đa tầng; khi nghiêng về triết luận, khi để ngẫu hứng tuôn
chảy, nhưng vẫn giữ được chiều sâu trữ tình. "cửa mở/ như chưa từng khép/ gió rón rén/ lách vào khoảng trống
cạnh gối nằm" (giấc Đồng Tháp); "gió
thổi bạc tóc/ cao nguyên Đồng Văn/ những khối đá triệu năm/ nằm im tự mình lau
ráo/ và tam giác mạch/ đội đá trổ hoa" (thở cùng Hà Giang). Hoàng Đăng
Khoa đã mở rộng biên độ của thơ ca; ở đó, con người hiện lên giữa mối căng
thẳng của hiện thực và mộng tưởng, của khát vọng kết nối và nỗi cô đơn muôn
thuở. "Bạc Liêu không hoang liêu/ lũ
chim sẻ ríu ran dọc dài cây cầu tình yêu/ giữa biển trời thênh thang cánh
gió" (một chủ nhật khác). Thơ vừa cất lời của cái tôi cá nhân vừa đối
thoại với thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và cả sự im lặng, từ đó khơi dậy tinh
thần nhân bản, ý thức sẻ chia và nhu cầu thanh lọc tâm hồn.
Hoàng
Đăng Khoa chủ động phá bỏ khuôn phép hình thức, để câu chữ tuôn chảy tự do, tạo
độ mở cho liên tưởng. Ở đó, giá trị tư tưởng và nghệ thuật hòa quyện, đưa thơ
thoát khỏi cái chật hẹp vốn dĩ, hướng tới sự khai sáng và đối thoại. "bài thơ tràn hàng/ không viết hoa mở
đầu/ không chấm cuối/ như buồn tràn tuổi/ như bài kinh từ khởi thủy đến tận
thế/ chúng sinh vừa ngủ gật vừa tụng” (chậm nhanh gì buồn chẳng như nhau). Mạch
thơ vang động dư ba, mở ra khoảng lặng nơi văn bản không còn khép kín; cho
người đọc tiếp tục suy tưởng, để giấc mơ dang dở hóa thành dòng chảy trong tâm
tưởng. Cảm giác mong manh, hư ảo nhưng vẫn chạm tới sự chân thật của đời sống
khiến thơ Hoàng Đăng Khoa trở thành không gian thiêng liêng cho sự hiện hữu con
người. Thơ anh không đi tìm sự hoàn tất, mà hướng tới trạng thái gợi mở, nơi
điều chưa nói đôi khi là phần lắng đọng lâu bền. "trên mái đời/ những ngón tay mưa/ gảy rền khúc nước mắt/ gió hú
man dại/ cuốn theo chiều con âm" (lội qua sông thương).
Thơ
Hoàng Đăng Khoa nổi bật ở khả năng kiến tạo không gian ký ức, nơi địa danh và
dấu tích văn hóa không chỉ đóng vai trò bối cảnh mà còn trở thành chủ thể đồng
hiện. Mỗi miền đất trong thơ anh vừa lưu giữ hoài niệm cộng đồng, vừa được đánh
thức trong nhịp sống hiện tại, qua đó khẳng định mối gắn kết giữa trải nghiệm
cá nhân và chiều kích lịch sử. “anh xuống
bến Bình Than/ xuôi về Vạn Kiếp/ lên Côn Sơn Kiếp Bạc/ bái khuê tảo Ức Trai/
cửa tùng lâm đá vàng đề chữ phúc/ muối lệ vạn kiếp bạc vườn nhân gian"
(lội qua sông thương). Ở đây, quá khứ và hiện tại không phân định rạch ròi, mà hồi
ứng lẫn nhau, tạo thành dòng chảy vừa mang tính lịch sử, vừa giàu tính hiện
sinh. Cái tôi trữ tình không đứng ngoài để ngắm nhìn, mà tham dự vào tiến trình
ấy, để mỗi địa danh, mỗi dấu tích trở thành thực thể sống động trong mối quan
hệ hữu cơ với con người. Nhà thơ vận dụng ngôn ngữ linh hoạt, vừa gần gũi đời
thường vừa giàu sức gợi biểu tượng. Việc chủ động phá bỏ quy phạm hình thức
giúp thơ anh tạo nên độ mở, nơi người đọc không chỉ tiếp nhận mà còn tham dự
vào quá trình kiến tạo ngữ nghĩa. Đặc trưng này khiến thơ anh vượt khỏi giới
hạn của cảm xúc thuần túy, trở thành diễn ngôn đối thoại với ký ức và cả những
biến dịch đương đại.
Trong
hòa điệu thi ca giữa Mai Nhung và Hoàng Đăng Khoa, tôi chọn gió và giấc mơ là
hai ẩn dụ hạt nhân, mang tính bản thể, liên văn bản. Ở Mai Nhung, gió mở ra khía
cạnh trực quan, mềm mại mà dồn nén nội tâm: “em
vén cánh rèm xanh ô cửa đang mở/ vũ điệu gió tà áo dài đỏ/ từ nơi anh đứng mỗi
ngày/ là mặt đời dưới những đám mây” (chạm). Tác giả khai thác tương phản
ánh sáng – bóng tối qua cánh rèm xanh hé mở ánh sáng đối lập với những đám mây,
và tương phản âm thanh – im lặng qua “vũ
điệu gió” chuyển động nhưng không phát ra tiếng động. Các ẩn dụ tinh tế như
“tà áo dài đỏ” và “mặt đời dưới những đám mây” mở ra liên
tưởng rộng, vừa biểu hiện cảm xúc riêng tư, vừa kết nối với thiên nhiên, nhấn
mạnh sức gợi hình ảnh và chiều sâu nội tâm. Khổ thơ vì thế vừa miêu tả trực
quan, vừa biểu đạt nhịp điệu cảm xúc.
Trong
quan niệm dân gian, gió được xem như hơi thở của trời đất, là tín hiệu cho
những biến chuyển trong đời sống; từ đó, hình tượng gió trong thơ Mai Nhung
không chỉ mang giá trị biểu trưng mà còn gợi mở chiều kích huyền nhiệm. Ở Hoàng
Đăng Khoa, giấc mơ trở thành không gian hiện hữu và xác tín: “không gì thực bằng giấc mơ”. Gió đã làm
biến đổi toàn bộ địa hình mộng tưởng của anh: giấc mơ không chỉ là thế giới bản
thể luận của suy tưởng, mà hóa mềm mại, trĩu xuống bởi hơi thở riêng tư và sự
tinh tế.
Ở
Mai Nhung, tâm trạng có lúc dồn nén đến độ bùng nổ, để lại những hình ảnh vừa
dữ dội vừa luyến tiếc về sự hao khuyết trong dòng chảy thời gian: “nhốt tiếng thở vỡ bung ngực héo/ lệ thả
rông gội tóc hai màu” (phong trần). Hoàng Đăng Khoa lại thiên về cấu trúc
khái quát, nghiêng sang chiều kích xã hội và lịch sử: “mọi văn bản đều là liên văn bản/ tư tưởng chỉ phát sáng khi cọ xát vào
nhau” (cảo thơm). Sự gặp gỡ này khiến giấc mơ của anh – vốn có xu hướng
triết luận và truy vấn bản thể – trở thành hành trình tìm kiếm ý nghĩa tồn tại
trong mê cung của ngôn ngữ và ký ức.
Điểm
đặc biệt là cả hai tác giả vẫn giữ giọng điệu riêng. Thơ Mai Nhung là tiếng nói
thầm, giàu nội lực, "chặt chẽ, tiết
chế nhưng hiền hòa, trôi chảy, không bị lý tính hóa" (Đinh Thanh Huyền).
Hoàng Đăng Khoa luôn là thi sĩ của “giấc mơ địa – nhân”, gắn bó với không gian
rộng lớn và ký ức tập thể, nơi “chúng
mình cầm liều văn chương/ cõng nhau lội hết sông thương này” (lội qua sông thương). Sự
tương tác này giống như một tham chiếu sống động: gió và giấc mơ không chỉ song
hành mà kích hoạt năng lực sáng tạo nơi nhau. Nếu Khoa cho Nhung bầu khí quyển
rộng lớn để gió khoáng hoạt, thì Nhung lại mang đến cho Khoa dòng cảm xúc mạnh
mẽ để giấc mơ thôi không khép lại trong trừu tượng. Nhờ vậy, khi đặt cạnh nhau,
hai tập thơ làm hiện rõ tính cộng sinh thẩm mỹ, đồng thời vẫn khẳng định mạnh
mẽ tính độc lập của mỗi tiếng nói.
Minh
chứng cho sự cộng hưởng mà không hòa lẫn là khi những bài thơ cùng “mã thời
gian” hay “mã không gian” được đặt cạnh nhau. Chẳng hạn, cùng khắc họa tháng
Ba, Mai Nhung thiên về cảm xúc trữ tình: “gió
rời con đường ngậm sương/ mang giấc mơ lam về phía biển/ nắng đổ luống đồi cỏ/
khép xuân" (tháng ba như tiếng chim qua). Đó là ngôn ngữ của gió và
nắng – mong manh, thiên về nội cảm. Trong khi Hoàng Đăng Khoa lại phác họa
tháng Ba bằng cảnh tượng lịch sử – xã hội: “sấu
phố Phan Đình Phùng đầu chụm vào nhau/ tâm bất tương phùng câm lặng niềm riêng
đau” (tháng ba Hà Nội). Nếu
ở Mai Nhung, tính phân mảnh trở thành phương thức kiến tạo cảm xúc – mỗi hình
ảnh, mỗi nhịp thơ vừa độc lập vừa gợi mở liên kết, hình thành cấu trúc phức hệ;
thì ở Hoàng Đăng Khoa, thơ không định vị tại một điểm tựa duy nhất, mà vang dội
từ nhiều nguồn mạch: lịch sử, ký ức, tri thức và cả những khoảng trống. Từ đó,
cả hai tác giả không tìm kiếm cái tuyệt đối hay toàn vẹn, mà chấp nhận tính đa
trị, dị biệt, thậm chí đứt gãy, như một cách phản ánh trung thực thế giới đương
đại.
Mai
Nhung viết “bước chân cô đơn/ câm lặng
đeo cườm lên cổ cát/ giữa bốn phía mặt trời/ có tìm được nơi cát thu mình ẩm
ướt” (lệ cát), còn Hoàng Đăng Khoa lại “không
khóc ở Chí Linh/ thì lệ cũng ầng ậng mắt giếng Ngọc/ loang thấm tận bảy mươi
hai ngọn Phượng Hoàng” (không khóc ở Chí Linh). Nỗi đau của Nhung thấm vào
cát, còn Khoa để lệ loang trên đá. Chất liệu khác nhau nhưng đều tiết chế, lan
tỏa như hai sắc màu đối ứng trên cùng một bức tranh. Mai Nhung giữ giọng điệu nhỏ
nhẹ, lắng sâu: “em là cô dâu váy trắng
nhành hoa/ anh là chú rể áo xanh màu lá/ hai ta bện chặt chẳng rời” (họa
mi). Hoàng Đăng Khoa đặt tình yêu trong những mạch dao động, nơi cái tôi cá
nhân soi chiếu không gian, ký ức và dòng chảy cộng đồng: “Lục Thủy thì xanh/ mà anh mờ đục/ chúng ta soi nhau qua gợn nước/ như
thể tin con sóng/ luôn biết nhường nhịn người yêu” (Tràng Thi). Nếu ở Mai
Nhung, tình yêu được biểu đạt như niềm tin nguyên sơ, dịu ngọt của khởi đầu lứa
đôi, thì ở Hoàng Đăng Khoa, tình yêu nồng nàn nhưng được đặt trong thử thách,
vừa khẳng định bản ngã, vừa biết nhường nhịn để gìn giữ. Tình yêu, vì thế, vừa
là lời hẹn ước vừa là quá trình đối thoại, một hành vi dung hòa và sẻ chia.
Qua
hai tập thơ này, có thể nhận thấy thơ Việt đương đại không chỉ vận hành trong
những đường biên đã được xác lập, mà liên tục mở ra nhiều khả thể: đa giọng
điệu, thử nghiệm hình thức, kiến tạo không gian thẩm mỹ nơi riêng tư và cộng
đồng, bản thể và tha nhân cùng đồng hiện và đối thoại. Những cuộc gặp gỡ ấy gợi
mở viễn tượng về một nền thơ không ngừng đổi mới, chấp nhận tính đa trị và dị
biệt như bản chất của đời sống, từ đó kiến tạo những phương thức biểu đạt và
cảm thụ mới mẻ.
Sự
xuất hiện của những tiếng nói như Hoàng Đăng Khoa và Mai Nhung phản ánh sự
chuyển động mạnh mẽ của thơ Việt hôm nay: từ độc thoại sang đối thoại, từ cái
tôi khép kín sang cái tôi gợi mở trong liên kết và hòa nhập. Quá trình này vừa
khẳng định bản sắc vừa cho thấy tính năng động của thi ca trước những biến
chuyển văn hóa – xã hội, đồng thời mở ra những chân trời mới cho cảm thức và tư
duy thẩm mỹ đương đại.
Ninh Bình, 31/8/2025
M.V.P
________________
Hai tập thơ, “người qua như tiếng rao” của Mai Nhung và “không gì thực bằng giấc mơ” của Hoàng Đăng Khoa cùng ấn hành tại NXB Hội Nhà văn năm 2025. Nhan đề hai tập thơ và tên các bài thơ trong tập không viết hoa.
