Giọng thơ khác, cảnh giới khác / Otras voces, otros ámbitos (phê bình / crítica literaria) - José Luis Morante
Giọng thơ khác, cảnh giới khác
Nhà thơ José Luis Morante
Maivanphan.com: Nhà thơ
José Luis Morante người Tây Ban Nha vừa viết bài “Otras voces, Otros Ámbitos” (Giọng
thơ khác, cảnh giới khác) về tập thơ ba câu của tôi “Esto dijo una cabra” (Lời
con dê) mới xuất bản ở Barcelona, Tây Ban Nha, 2024. Thi sĩ José Luis Morante
đồng thời là nhà văn, nhà phê bình văn học. Dưới đây là bản dịch của bạn Hoàng
Thị Kim Thoa từ tiếng Tây Ban Nha.
José Luis Morante
Tập thơ "Esto dijo una cabra" (Lời
con dê)
Tác giả: Mai Văn Phấn
Dịch giả: Phạm Long Quận
Biên tập và viết lời giới thiệu: Víctor
Rodríguez Nuñez
Nhà xuất bản: La Garúa, Barcelona, 2024
Tôi
thuộc thế hệ nhà thơ, mà ở đó thể thơ hai-cư đã trở thành con đường tự nhiên
nhất hướng đến thói quen đọc thơ, khiến cho độc giả định hình thiên hướng cảm
xúc bắt nguồn từ những thể loại văn học tối giản, với sự tích lũy sâu rộng giữa
các thế hệ. Nhưng những tứ thơ và sự phong phú của ngôn từ đã nuôi dưỡng những
câu thơ đa tầng cũng như sự cương nở của ngữ nghĩa thường lớn gấp nhiều lần ý
nghĩa thông thường của nó. Chính vì thế, việc xuất bản một tập thơ để những
thành tựu và cống hiến của nhà thơ tới gần độc giả hơn, và âu cũng là việc cần
thiết lúc này.
Tập
thơ ba câu "Esto dijo una
cabra" (Lời con dê) của Mai Văn Phấn (sinh năm 1955 tại Ninh Bình,
Việt Nam) nằm trong bộ sưu tập
những tập thơ hai-cư mới
nhất của Nhà xuất bản La Garúa, do hai nhà thơ Jaesús Aguado và Joan de
la Vega tuyển chọn và biên tập. Tập thơ do Phạm Long Quân dịch từ tiếng Việt
sang tiếng Tây Ban Nha, Víctor Rodríguez Núñez biên tập và viết lời giới thiệu.
Tác
giả Mai Văn Phấn từng trải qua hành trình dài của sáng tạo, nghiên cứu và khám
phá nhiều thể loại thơ và đã được bạn đọc xa gần đón nhận. Ông từng sở hữu một
số giải thưởng văn học uy tín tại Việt Nam và một số nước. Tác phẩm của ông
được phát hành rộng rãi ở Việt Nam và được dịch sang nhiều ngôn ngữ quốc tế.
Tuy nhiên, trong ngôn ngữ Tây Ban Nha của chúng ta, hầu như giọng thơ này chưa
được phổ biến rộng, vì vậy lời mở đầu của nhà thơ Víctor Rodríguez Núñez chính
là phần giới thiệu cần thiết để độc giả biết đến tiểu sử tác giả, phong cách
nổi bật, cũng như đặc trưng thế giới nghệ thuật của nhà thơ này: nơi có sự dung
hòa giữa tôn giáo và sự ràng buộc, nơi cái nhìn phê phán và sự chiêm nghiệm sâu
sắc, đến những bối cảnh được đặt cạnh nhau như tư tưởng, tự nhiên và xã hội,
bởi thế giới là một mạng lưới liên kết của các mối quan hệ không ngừng phát
triển.
Ngay
ở phần mở đầu, tập thơ của Mai Văn Phấn có cách tiếp cận đáng ngạc nhiên. Tác
giả hóa thân vào một con dê và cất tiếng nói, bày tỏ khát vọng được trở về rừng
núi, nơi mong giữ được thân phận thiên định tự nhiên của mình. Giọng thơ của ông
tức thì được nhân cách hóa, con người chiêm ngưỡng thiên nhiên, con người lữ
hành, con người cô độc và những sinh vật vô danh cùng nhau lưu lại những cảm
xúc và khoảnh khắc trong tọa độ nhỏ bé của mỗi bài thơ ba câu.
Xuyên
suốt phần này, sự tự do trong thể thức đã thu hút sự chú ý của người đọc. Hình
thức của bài thơ đã liên tục phá vỡ phong cách thơ hai-cư của Nhật Bản, không
tuân thủ theo nhịp thơ 5/7/5 cổ điển. Giọng thơ Mai Văn Phấn được đa dạng hóa
để phù hợp với từng khoảnh khắc vô tình, bất chợt. Mỗi bài thơ ba câu của ông
thường được tối giản, đóng vai trò như một họa tiết chấm phá bằng xúc cảm ngôn
từ. Nhịp điệu mỗi bài cũng khác nhau, tự nhiên và khá đa dạng.
Xuyên
suốt phần đầu tập thơ là sự hiện diện đáng ngạc nhiên của tiêu đề mỗi bài thơ; chúng
tựa những lời mách bảo cho người đọc về ý nghĩa, cốt truyện, tọa độ địa lý hoặc
thời điểm ra đời của bài thơ ấy, hoặc về những điều ẩn mật khác. Tôi đưa ra một
số ví dụ dưới đây để bạn đọc hiểu rõ hơn về động lực của từng bài thơ:
“Thời
công nghiệp
Con
chuồn chuồn đậu trên nóc cần cẩu
Mười
phút
Nâng được ba mã hàng";
"Nhầm tôi là hạt
cát
Gió
Sượt
qua
Mấy lần";
Hay:
"Đọc sách
Hoang
mang
Nhìn
Con đường trong đêm tối"
Đó
là những khoảnh khắc thơ sinh ra trong chiêm nghiệm, nhưng vẫn giữ được sự nhẹ
nhàng, và chắc chắn rằng, nó hoàn toàn phù hợp với triết lý thẩm mĩ và sự tươi
mới của thơ hai-cư hiện đại.
Thông
thường, mỗi tuyển tập hai-cư được biên soạn đều mở ra hàng loạt những mối băn
khoăn và cả sự bất an. Ở đó, niềm tin tôn giáo, tình cảm thiên nhiên và những biến
đổi ngẫu nhiên của thời gian trôi qua đã mang những ý nghĩa đặc biệt. Chúng là
những vấn đề hiện sinh bằng xương bằng thịt, mang đến cho khổ thơ nhịp đập dồn
dập đến ngạc nhiên.
Phần
cuối của tập thơ có tiêu đề “Con mắt nghiêng”, những thi ảnh ở đây ít
phồn tạp hơn phần đầu. Nó trình hiện một số điểm mới về mặt hình thức, chẳng
hạn như tiêu đề của mỗi bài thơ được xóa đi. Sự chiêm nghiệm của người viết
cũng xuất hiện thường xuyên hơn, như thể muốn nhanh chóng nắm bắt những gì đang
chạy trốn để giữ lại ý nghĩa cho những lay động thường hằng:
"Góc vườn
Nước đổ xuống phiến đá
Hoàng hôn trôi nhanh"
(Khúc 1, Con mắt nghiêng)
"Hoa hoàng yến lan ra
mép nước
Cơn gió không dám gần
Cây trút lá xuống vực"
(Khúc 3,
Con mắt nghiêng)
Cái
nhìn lặng lẽ thường làm sáng tỏ sự đa tầng, tính phức rối của thiên nhiên; sự
hoàn hảo về giác quan đã làm thức dậy xúc cảm và tư duy bộc phát với sức mạnh
như một sự hiển linh. Nhà thơ Víctor Rodríguez Nuñez đã viết về phần mở đầu,
phần này có tính liên tục nhiều hơn là gián đoạn, chúng có mối ràng buộc chặt
chẽ với chủ thể bài thơ. Tác giả đã chiêm nghiệm môi trường tự trị tuân theo
dòng ý thức xung quanh mình để thể hiện sự bất cân xứng và mâu thuẫn, diễn biến
tự nhiên của dòng chảy sự sống.
Mai
Văn Phấn và thơ của ông đã hiện diện trên đất nước chúng ta, đạt được thành
công, chính cũng nhờ ở hình thức tối giản và thái độ khiêm nhường của thể thơ
ngắn, độc đáo này. Mai Văn Phấn cũng cho bạn đọc thấy những phát hiện mới từ
thể thơ Nhật Bản, bằng cách biểu đạt trang trọng và cởi mở, cùng với sự tự do
phóng túng của một người lắng nghe được làn gió êm dịu của những điều tế vi,
một người có cảm quan bén nhạy với sự vẹn nguyên, tươi mới của đời sống. Điều
kì diệu ấy được tác giả thể hiện ngay cả trong tách trà ngủ quên trên đôi môi
khô khốc của kẻ lữ hành.
(Hoàng Thị Kim Thoa dịch từ
tiếng Tây Ban Nha)
JOSÉ LUIS MORANTE
Nhà thơ José Luis Morante, sinh năm 1956, tại El Bohodón,
thuộc thành cổ Ávila, phía Tây Bắc Madrid, Tây Ban Nha. Ông đã xuất bản các tập
thơ: “Nhà tròn với tượng”, “Kẻ thù trung thành”, “Nhân dân năng động”, “Nhân
quả”, “Hành trình dài”, “Đêm trống trải”, “Không nơi nào " và "Bơi
cạn”. Thơ của ông có mặt trong các tuyển tập "Bản đồ lộ trình",
"Nhịp đập" và "Bây giờ đã muộn". Năm 2019, nhà xuất bản Polibea đã ấn hành tập thơ hai-cư của ông mang tên
"Điểm nhìn". José Luis Morante đã xuất bản một số tác phẩm văn xuôi, nổi bật là các cuốn sách:
“Nhân vật chính và phụ”, “Lời bên trong”, nhật ký “Đoàn tụ” và các cuốn cách ngôn “Những ngày tươi
đẹp hơn” và “Lý do cá nhân”. Cuối năm 2015, ông đã xuất bản cuốn sổ tay siêu
nhỏ “Những câu chuyện nhỏ” của ông. Năm 2016 tuyển tập "Tái tạo" của
ông được ra mắt, do Valparaíso biên tập, sưu tầm nhiều bài thơ tiếng Tây Ban
Nha đương đại mới nhất. Năm 2018, ông đã biên tập ấn bản "Những câu cách
ngôn và ý tưởng trữ tình" của Juan Ramón Jiménez gửi cho nhà xuất bản La
Isla de Siltolá. Ông cũng là người đã chuẩn bị những ấn phẩm nổi bật của Luis
Felipe Comendador, Herme G. Donis, Joan Margarit, Luis García Montero, Eloy
Sánchez Rosillo và Karmelo C. Iribarren. Nhà thơ José Luis Morante đồng
thời là nhà văn, nhà phê bình văn học ở
Turia và Infolibre.
OTRAS VOCES, OTROS ÁMBITOS
José Luis Morante
"Esto dijo una cabra" - Mai Van Phan
Traducción de Pham Long Quan
Edición y prólogo de Víctor Rodríguez Nuñez
Editorial La Garúa
Colección Poesía
Barcelona, 2024
Pertenezco a una generación que hizo del
haiku una senda natural hacia el hábito lector, una estrategia expresiva
arraigada en los géneros literarios de la brevedad y con amplio cultivo
intergeneracional. Pero las voces y ámbitos idiomáticos que cultivan la estrofa
se multiplican y resulta necesaria la apuesta editorial que acerque logros y
amanecidas.
La nueva colección de la Garúaa dedicada al
haiku, que dirigen Jaesús Aguado y Joan de la Vega, incorpora Esto dijo una
cabra, una compilación de textos mínimos del poeta Mai Van Phan (Ninh Binh,
Vietnam, 1955) traducida al castellano por Pham Long Quan. Edición y prólogo de
Víctor Rodríguez Nuñez.
El autor ha recorrido un largo trayecto
creativo y explorado distintos géneros, con amplia aceptación y con un largo
itinerario de premios, reconocimientos y traducciones a otros idiomas. Sin
embargo, en nuestro idioma es un gran desconocido por lo que el prólogo de
Víctor Rodríguez Núñez es una introducción necesaria para conocer el periplo
biográfico y los rasgos más destacados de su escritura: el equilibrio entre
religiosidad y compromiso, la mirada crítica y la continua atención a panorámicas
yuxtapuestas como la naturaleza, la sociedad y el pensamiento, ya que el mundo
es un continuo entramado de relaciones en renovación constante.
El conjunto de poemas líricos de Mai Van
Phan, tiene en su primer apartado un enfoque sorprendente: cede la palabra a
una cabra para que ratifique su aspiración de volver al monte y asumir su
identidad natural. El personalísimo hablante verbal muda de inmediato y en la
labor creativa de Mai Van Phan se unen observadores de la naturaleza,
peregrinos, solitarios y seres anónimos que capturan sensaciones e instantes en
las diminutas coordenadas del poema.
En todo el apartado llama la atención la
libertad formal: el molde del poema es una ruptura continua del esquema clásico
japonés, basado en el ritmo versal 5/7/5. El enunciado textual se diversifica
para dar acogida a las mínimas anotaciones. El poema se simplifica, juega el
papel de una expresiva viñeta verbal que aglutina tres versos de medida
variable.
También sorprende en todo el apartado inicial
la presencia del titulo en cada poema; son avisos sobre la trama argumental,
las coordenadas geográficas o temporales del poema o sobre los elementos que
copan el primer plano. Pongo algunos ejemplos del apartado para que se entienda
mejor la dinámica del poema:
Era industrial
"Posada en lo alto de
la grúa
En diez minutos
La libélula logra levantar
tres contenedores”;
Confundiéndome con un
grano de maíz
"El viento
Me roza
Infinitas veces”;
Al leer un libro
"De repente el
pánico
Abre ante mis ojos
Un camino en la
oscuridad".
Son instantes nacidos en la contemplación que
salvan su levedad en el poema y que, sin duda, comulgan plenamente con la
filosofía estética del haiku y su frescura.
Cada compilación de haikus abre un abanico de
preocupaciones e incertidumbres. Y en este apartado cobran especial relevancia
el sentimiento religioso, la naturaleza y las variaciones contingentes del
discurrir temporal. Son asuntos de carnalidad existencial, que conceden a la
estrofa el pálpito impaciente del asombro.
El tramo final del libro “Ojos segados”
es mucho menos voluminoso y presenta algunas novedades formales como la
supresión del título en cada texto. También la contemplación aparece con más
frecuencia, como si el estar transitorio necesitara captar lo que se fuga para
dar sentido al trasiego cotidiano:
“1.
En una esquina del jardín
Agua sobre piedra
El crepúsculo se desliza
veloz”;
“3.
Las flores de Osaka
tomaron la ribera
El viento no se atreve a
acercarse
El árbol arroja las hojas
al abismo”.
La mirada desenreda en silencio el ovillo de
la naturaleza y esa perfección sensorial que asciende hasta los sentidos y el
pensamiento para brotar con la pujanza de la epifanía. Como escribe Víctor
Rodríguez Nuñez en el prólogo, en el apartado hay más continuidad que ruptura,
una conexión fuerte entre el sujeto poético que percibe alrededor un entorno
autónomo que se adhiere al fluir de la conciencia para mostrar asimetrías y
contradicciones, el curso natural de la vida al paso.
Mai Van Phan estrena presencia en nuestro
país y lo hace desde la humildad del haiku con un libro que muestra los nuevos
brotes de la estrofa japonesa con un amplio despliegue formal, con la libertad
suelta de quien oye el viento suave de lo minúsculo, con la frescura intacta de
una taza de agua que duerme en los labios resecos del viajero.
(Fuente : Otras voces, otros ámbitos)
JOSÉ LUIS MORANTE
Profesor de E.S.O,
escritor. El Bohodón, Ávila, 1956. Ha publicado los poemarios: "Rotonda
con estatuas", "Enemigo leal", "Población activa",
"Causas y efectos", "Largo recorrido", "La noche en
blanco", "Ninguna parte" Y "Nadar en seco. Las antologías
"Mapa de ruta", "Pulsaciones" y "Ahora que es
tarde" recogen sus poemas. En 2019, la editorial Polibea publica su libro
de haikus "A punto de ver". Entre sus libros en prosa destacan:
"Protagonistas y secundarios", "Palabras adentro", el
diario "Reencuentros" y los libros de aforismos "Mejores
días" y "Motivos personales". A finales de 2015 aparece su
cuaderno de microrrelatos "Cuentos Diminutos". En 2016 presenta su
antología "Re-generación", editada por Valparaíso, recogiendo una
amplia muestra de la poesía española más joven. En 2018 preparó la edición
"Aforismos e ideas líricas" de Juan Ramón Jiménez para la editorial
La Isla de Siltolá. Ha preparado ediciones críticas de Luis Felipe Comendador,
Herme G. Donis, Joan Margarit, Luis García Montero, Eloy Sánchez Rosillo y
Karmelo C. Iribarren. Ejerce la crítica literaria en Turia e Infolibre.es.
Bìa trước tập thơ "Esto dijo una cabra" (Lời con dê)