Nguyễn Đức Hạnh – Phân mảnh để phát sáng (phê bình) – Mai Văn Phấn
Nguyễn Đức Hạnh – Phân
mảnh để phát sáng

Nhà
thơ Nguyễn Đức Hạnh
Mai
Văn Phấn
Nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh
vừa ra mắt tập thơ song ngữ Việt – Anh “Khát
cháy” (“The Ardour
of Thirst”, NXB Văn Học, 2025), do nhà thơ – dịch giả Võ Thị Như
Mai chuyển ngữ. Tập thơ gồm 95 bài, được Nguyễn Đức Hạnh viết trong thời gian
gần đây. Tôi xem đây là một bước rẽ thi pháp đầy ngoạn mục, đánh dấu sự dứt bỏ
có chủ ý khỏi phong cách thơ vốn ổn định của ông trong 4 tập thơ trước đây. “Khát cháy” mở ra một cấu
trúc thi ca mới lạ, dẫn dắt người đọc bước vào thế giới bất định, đầy ám gợi.
Ẩn sau bước chuyển ấy là
một kiến trúc thi ca được tổ chức đầy dụng ý, tập thơ chia thành bốn phần – tựa
bốn cung bậc tâm hồn đi qua những miền ký ức, khát vọng và chiêm nghiệm: “Khúc
hiếu thuận” – tập trung vào mạch thơ nội cảm, viết về mẹ cha, quê hương và ký
ức tuổi thơ; “Khúc sơn hà” – mở rộng cái tôi công dân với ý thức lịch sử và văn
hóa sâu đậm; “Khúc tri âm” – là tiếng lòng tri ân bạn văn, tiền nhân; và “Khúc
huê tình” – những thi phẩm về tình yêu và hiện sinh, nơi lửa và nước hòa quyện,
kết tinh thành khát vọng sống mãnh liệt. Tập thơ vận dụng nhiều thủ pháp hiện
đại, trong đó nổi bật là lối phân mảnh – một đặc điểm nghệ thuật chủ đạo, định
hình cấu trúc và thi pháp thơ Nguyễn Đức Hạnh. Mỗi phần thơ như một địa tầng
cảm xúc, nơi năng lượng tích tụ bùng cháy thành ngôn ngữ, rực rỡ và dữ dội.
Thế giới thi ca hiện đại
hầu như không còn là một cấu trúc toàn thể, thống nhất, mà đứt gãy, chồng lấn
và xáo trộn – phản ánh trạng thái tinh thần của con người hôm nay: rối loạn,
giãn cách và hoài nghi. Tính phân mảnh đã trở thành một cú trượt mỹ học tất yếu
của thơ đương đại – từ T.S. Eliot với “Đất hoang” (The Waste Land), Paul Celan
với “Tẩu khúc của tử thần” (Todesfuge), đến một số nhà thơ Việt Nam như Nguyễn
Quang Thiều, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Bình Phương, Trần Hùng, Nguyễn Đức Tùng, Lê
Vĩnh Tài... với những cách tân táo bạo về cấu trúc và ngôn ngữ thi ca. Trong
mạch vận động ấy, Nguyễn Đức Hạnh bước đi với nhịp điệu riêng. Thơ ông dồn nén
rồi vỡ ra thành những hạt nhân, lát cắt – như tiếng nói bị ngắt quãng, như nhịp
thở gấp gáp của một tâm hồn luôn trong trạng thái bất an. Người đọc buộc phải
bước vào mê cung của những đơn lẻ, mảnh vỡ, để tự kiến tạo mạch kết nối. Chính
trong sự không toàn vẹn ấy, thơ ông phát sáng.
“Căn nhà bé dựng cuối xa xăm/ Mưa cứ ghé
rồi ôm trong vắt/ Lấy gió đan tấm lưới xanh ngát/ Bẫy hương thơm của hoa dại
lạc đường” (nói với em
khi tóc bạc); hay “Đường mòn sợi dây níu
rừng/ Còn ít lắm như bánh đa sắp vỡ/ Suối - sợi dây xanh tôi níu chính tôi/
Thuở trong vắt đón bao lá thơm/ Rụng khẽ trong chiều đỏ mặt" (Nghẹn
rừng). Đó là những mạch cảm xúc tự do theo dòng ý thức. Ở đó, nhà thơ không kể
chuyện mà gợi mở, không lý giải mà phóng chiếu. Các hình ảnh đặt cạnh nhau theo
liên tưởng tức thời, mỗi thi ảnh vừa là đốm sáng, vừa là vết thương. Tiết tấu
thơ ngắt quãng, chập chờn, khiến người đọc không thể lướt nhanh mà buộc phải
dừng lại, lắng nghe dư ba lan tỏa qua từng câu chữ. Ở đó, thiên nhiên và con
người hòa quyện – như suối trong níu giữ tâm hồn, như gió đan vào ký ức, như
bông hoa rơi vào khoảng trống…
Thơ Nguyễn Đức Hạnh là cách níu giữ bản thân giữa một thế giới đổ vỡ, đầy rủi ro. Những mảnh rời ấy mở ra nhiều lớp liên tưởng, tạo nên không gian thi ca đa tầng, giàu cá tính và cộng hưởng. Chính sự phân mảnh giúp thơ Nguyễn Đức Hạnh tạo những tiết
tấu dị nhịp mà ám ảnh, một cấu trúc xô lệch mà giàu biểu cảm. “Vỏ ống tre quê hương/ Xanh lặng lẽ bụi cây
ai biết/ Tình yêu tụ thành gạo nếp/ Mắt mẩy thơm thức ngó đêm dài” (Tôi là
ống cơm lam nướng vụng).
Nếu
cần một hình ảnh để gợi lên thủ pháp phân mảnh trong “Khát cháy”, tôi sẽ nhắc
đến cánh rừng bùng cháy. Sau mỗi bài thơ của Nguyễn Đức Hạnh, trong tâm trí người
đọc còn vương lại những tàn lửa sáng mãi. Không cốt truyện, không trật tự thông
thường, thậm chí không có cả thông điệp rõ ràng – nhưng thơ ông vẫn cuốn hút
người đọc bằng sức nóng bức bối, âm ỉ, đôi khi chói lòa đến nghẹt thở. “Nỗi nhớ gõ cửa cánh đồng tìm sợi rơm vàng/
Rơm thành khói còn cong nưng nức/ Dòng sông gọi cánh diều/ Tiếng sáo rơi mọc
cây ngọc lan/ Hương hoa thiền trong gió/ Nỗi buồn liền sẹo như cây” (Cán
giấc mơ vỡ).
Tính
phân mảnh trong “Khát cháy” hiện diện trên nhiều tầng nghĩa, tạo nên một cấu
trúc độc đáo. Một số bài mở đầu bằng đoạn văn xuôi phóng dật, dày đặc liên
tưởng – như tán cây lớn – rồi nhanh chóng tách thành những câu thơ ngắn, rẽ
nhánh như rễ cây vươn sâu vào lòng đất. Chẳng hạn bài “Nhớ Vinh” mở đầu bằng
đoạn thơ: "Lửa đỏ trong nước lạnh.
Tuyết trắng gói đa tình/ Giấu thép trong lụa bạch. Lấy bão làm dây buộc tóc
xinh/ Cửa Hội nghiêng chiều đổ sóng vào anh/ Mai xa rồi cắn sông lâu chút nữa…”
Sau đó, chúng tách thành những câu thơ lẻ, khô khốc và gân guốc: "Tri kỷ toàn là gió/ Chân trời nghe
bỏng nhau/ Tâm giao lăn đá tảng/ Đau hoài có kêu đâu…” Thủ pháp ấy được vận
dụng tương tự trong bài thơ “Ngược”, bắt đầu là những cành nhánh sum suê: "Ai đổ mưa Vào cây? Hoa ngậm nắng chờ
ngày mai tới/ Người người bay thành mây. Cười sáng bao phương trời mới".
Và, tiếp đến chùm rễ sâu bên dưới: "Củ
sắn còi vêu vao ngày đói. Tay cha chai sần vỡ đất./ Lưỡi cuốc mòn chậm hơn đời
người/ Lửa gộc sù sì không ngủ/ Cháy rực hồng gương mặt ban mai". Lối
kết cấu bài thơ theo kiểu “tán cây và chùm rễ” như vừa đề cập xuất hiện khá
nhiều trong tập thơ “Khát cháy”, tạo nên một hệ thẩm mỹ riêng biệt – nơi tính phân mảnh
không gây đứt gãy mà ngược lại kích hoạt các lớp ý niệm sinh trưởng theo cách
riêng: tự do và bất định. Những bài thơ tiêu biểu sử dụng thủ pháp này có thể
kể đến như "Mất ngủ", "Những loài nói thầm thường đau sâu",
"Khúc hạ hồng", "Ướp nắng sớm thành trà"… đã minh chứng rõ
nét cho cách vận dụng độc đáo của tác giả.
Tính
phân mảnh trong thơ Nguyễn Đức Hạnh thường hiện rõ qua những câu thơ đứng độc
lập, không cần văn cảnh vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ nơi người đọc. Đó có thể là
hình ảnh dị biệt, một cú nhảy ngôn ngữ không theo quy luật, hay một câu tưởng
chừng giản dị nhưng găm sâu vào tâm não. Chính sự tách biệt này làm nổi bật sức
vang động nội tại, nơi mỗi câu thơ là khoảnh khắc nén chặt, kết tinh cảm xúc
đến mức không thể rút gọn hơn. Với Nguyễn Đức Hạnh, những câu thơ như vậy trở
thành đơn vị biểu cảm hoàn chỉnh, buộc người đọc tự đối thoại với khoảng trống
giữa các dòng thơ khác: "Cá lỡ hẹn
hò nên lặn rất sâu" (Mẹ ơi con nhóm lửa rồi); "Trong đáy chén phong ba ròng ròng" (Nghĩ về Văn Cao); "Con chó buồn cắn tiếng rõ, tiếng
câm" (Sinh ra ở bến Tượng); “Thơ
là loài cây uống nước mắt mà xanh” (Tháng Ba về Khau Vai); "Bảy cơn bão qua phà. Hát những gì làm
sông màu đỏ?" (Vụt hiện sau mưa); “Từ
cọng sen gầy sang màu áo nhớ” (Hà Nội lúc nào chẳng mưa)... Đó là những
“hạt nhân” cảm xúc được tạo dựng bằng trực giác và sự nhạy cảm tinh tế trước
từng chi tiết của đời sống và những biến động của tâm hồn. Tính phân mảnh không
chỉ tạo nên trải nghiệm đọc đòi hỏi sự chú ý, kiên nhẫn mà còn khơi gợi tầng
nghĩa mới lạ, đa chiều qua khoảng trống ngôn từ. Ở đó, mỗi câu thơ như đốm lửa
bập bùng, chập chờn sáng tối, vừa hiện hữu vừa mờ ảo, mở ra thế giới nội tâm đa
dạng và phức hợp.
Thơ
phân mảnh dĩ nhiên luôn đứng trước nguy cơ rơi vào mơ hồ hoặc vụn vỡ. Nhưng
điểm khác biệt ở thơ Nguyễn Đức Hạnh là: mỗi phân mảnh đều mang một trọng lượng
nội tại, như những tinh thể tự phát sáng. Bởi vậy, nhiều câu trong “Khát cháy” tựa những viên
than hồng – âm ỉ tỏa nhiệt, không cần liên kết vẫn đủ sức lan truyền năng lượng
thẩm mỹ: “Tóc con gái thành cầu vồng đen
cong về hồi ức” (Sông Cà Lồ còn giữ hộ ngày xưa); "Cộng tuổi cho sông bằng bao đời người đi xa ngoái lại" (Sông
và tôi)… Một trong những thi phẩm tiêu biểu cho cấu trúc ấy là “Mẹ ơi, con vẫn
chỉ là con nghé” – nơi mỗi phân mảnh thấm đẫm bản năng và trực giác, được dẫn
dắt bởi dòng cảm xúc thuần khiết. Bài thơ như một dòng tồn sinh run rẩy, nơi ý
thức và vô thức giằng co rồi buông trôi theo bản năng; vận hành bằng dòng ý
thức cuộn chảy, với từng hình ảnh hiện lên bất ngờ, dữ dội. Trung tâm cảm xúc
là hình tượng người mẹ, được soi chiếu từ cái tôi nguyên sơ. Những mảnh ký ức,
nỗi đau, day dứt hiện ra vụn vỡ mà găm sâu. Câu thơ “Lời mẹ dặn dệt thành bao tải/ Con là con nghé hiền mặc suốt mấy mùa
đông”, cho thấy, việc buông lơi lớp vỏ cứng cỏi và chấp nhận yếu mềm cũng
có thể là cách gìn giữ cốt lõi bản thể – một lựa chọn sống theo cảm xúc trung
thực và nhân bản nhất.
Thơ
Nguyễn Đức Hạnh thường chạm tới những khoảnh khắc khó gọi tên. Dù chủ động
buông bỏ suy lý và sự khôn ngoan, nhưng trạng thái tỉnh thức trong thơ ông
không hề mất đi – mà lắng sâu, trở thành nền móng âm thầm nâng đỡ và nuôi dưỡng
những hình ảnh biến hóa sinh động, đầy bất ngờ. Chính sự cân bằng giữa buông
lơi và tỉnh táo này tạo nên sức mạnh đặc biệt, khiến thơ ông vừa có tính trực
giác mạnh, vừa giữ được chiều sâu suy tưởng. “Mũi tên đồng kể hoài Cổ Loa và Tinh gà trắng/ Đàn Đá mơ thác nước tan
tành” (Bảo tàng); "Đáy sông ấm
nói cười trăm năm trước" (Hội An); "Thôi
hát thật trầm làm cửa kính vỡ" (Mùa đông Hà Nội)…
Mỗi
câu thơ trong “Khát cháy” không khép lại trong một nghĩa cố định, mà mở ra không
gian cộng hưởng, đan xen lịch sử, mộng tưởng và huyễn hoặc tâm linh. Từ đó,
từng hình ảnh, từng biểu tượng như những cánh cửa dẫn lối vào nhiều chiều kích
khác nhau của nhận thức và cảm xúc, kích thích người đọc không ngừng suy tưởng
và tái tạo ý nghĩa trong hành trình khám phá thi ca. “Người đổ đèo vẫn phẻn dao lấp loáng/ Mỗi bước chân rung nghịch một mặt
trời” (Đường rừng về). Đây là thứ thơ không hiển lộ từ lý trí, mà từ máu
thịt, từ những giá trị thiêng liêng.
Điều
cốt lõi trong “Khát cháy” là từ bỏ cấu trúc mạch lạc truyền thống, nhường chỗ
cho hình thức thơ phân mảnh – nơi mỗi câu thơ trở thành một giá trị thẩm mỹ độc
lập. Một câu thơ bật sáng đúng lúc có thể đánh thức toàn bộ trường cảm xúc nơi
người đọc. Chính ở đó, bản lĩnh thi pháp của Nguyễn Đức Hạnh hiện rõ. “Trà nát thương người nát/ Bã trà phảng phất
thơm/ Nước sôi dìm thân phận” (Bã trà); “Mưa
suốt đêm không ướt nổi tiếng chim” (Đêm Hạ Long)… Những câu thơ ấy như
những hòn đảo nhỏ, khi ráp lại tạo nên một vùng khí hậu riêng – biệt lập mà
cộng hưởng, làm bật lên nhịp điệu nội tâm luôn biến động. Tính phân mảnh, trong
trường hợp này là phương cách tồn tại trong một đời sống đã nhiều hoài nghi và
đổ vỡ. Nguyễn Đức Hạnh làm thơ như thắp lửa – cháy đến đâu, phát sáng đến đó; khiến
cái độc sáng bật lên: như tia chớp trong đêm, như tiếng nổ trong sự tĩnh lặng. Ông
không tổ chức bài thơ bằng lý trí, mà để cảm xúc tự vỡ òa, phun lên như dòng
nham thạch: "Khi núi lửa ngả đầu vào
mây trắng" (Giấc mơ mùa thu). Thơ ông thường chuyển giọng đột ngột –
từ đau buồn sang diễu nhại "Thơ tôi
lá tre đậu vào vại nước" (Nghĩ vụn trong đêm), từ trầm lắng sang cao
trào, từ chiêm nghiệm triết lý sang hồn nhiên bản năng: “Sông Đà ôm em và anh kệ vầng trăng khuyết/ Đập uống say nằm khóc một
mình” (Nhớ Hòa Bình); "Em toàn
lạc vào sen/ Lo một ngày không về nhân gian nữa" (Bỗng yêu sau khi đọc
truyện kinh dị). Chính sự bất ngờ ấy khiến người đọc không thể đoán trước,
không thể đọc vội – mà buộc phải dừng lại, lắng nghe và chấp nhận.
Tính
phân mảnh, khi trở thành một cấu trúc có chủ đích và được nâng đỡ bởi cảm xúc
mạnh mẽ, có thể mở rộng không gian tiếp nhận, khai phóng chiều sâu thẩm mỹ. Đây
là thủ pháp đòi hỏi sự nhất quán trong quan niệm nghệ thuật, để các mảnh rời
không trở nên lỏng lẻo. Nếu người viết “lỏng tay”, bài thơ rất dễ rơi vào trạng
thái vụn rời – nơi từng câu thơ tuy có thể gợi sáng riêng lẻ, nhưng không đủ
sức nâng đỡ nhau, như những mảnh vỡ phát quang yếu ớt, khiến người đọc không
thể nhận ra bài thơ là một sinh thể nghệ thuật hoàn chỉnh. Do vậy, dù viết bằng
bất kỳ thủ pháp nào, thì thơ, rốt cuộc, vẫn là câu chuyện của tâm hồn. Khi câu
chuyện ấy thiếu đi một mạch chảy ngầm xuyên suốt, người đọc có thể bị lôi cuốn
bởi ngôn từ lạ lẫm, choáng ngợp bởi hình ảnh, nhưng vẫn không thể chạm tới tầng
sâu thực sự của xúc cảm. Và ở đó, cái đẹp chỉ còn là bề mặt ánh kim, chứ không
phải là sự sống.
Nhà
thơ Nguyễn Đức Hạnh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ ngành Ngữ văn, Nhà giáo ưu tú. Ông
hoạt động song song ở hai lĩnh vực: nghiên cứu – phê bình văn học và sáng tác
văn chương. Với tư cách nhà nghiên cứu, ông đã hoàn thành 4 công trình chuyên
sâu. Bên
cạnh hoạt động học thuật, Nguyễn Đức Hạnh còn là cây bút sáng tác giàu nội lực.
Ngoài thơ, ông còn viết văn xuôi và đã xuất bản 1 tập truyện ngắn,
thể hiện sự đa dạng và sâu sắc trong tư duy nghệ thuật, đồng thời khẳng định
mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu và trải nghiệm sáng tạo.
Trong
bối cảnh thi ca hiện đại không ngừng vận động và canh tân, tính phân mảnh trong
"Khát cháy" biểu thị
một trong những quan niệm nghệ thuật tiên phong (avant-garde): thơ cần được cảm
nhận như một dòng mạch sống – tự do, phức hợp và giàu tính tương tác. Nguyễn
Đức Hạnh đã thiết lập không gian thi ca biến động nhưng tràn đầy sức gợi, nơi
mỗi câu thơ là một chấn động nội tâm, mỗi bài thơ là một mặt gương phản chiếu
tồn sinh nhiều chiều. Tập thơ không chỉ đưa người đọc vào mê lộ ngôn từ, mà còn
khơi gợi những vùng sáng – tối của tâm thức, ký ức và khát vọng. "Khát cháy" là minh chứng
rõ nét cho khả năng dung hợp giữa trực giác nghệ sĩ và chiều sâu tư duy học
thuật – sự kết tinh của kinh nghiệm sống, khả năng chiêm nghiệm và tinh thần
sáng tạo không thỏa hiệp.
Hải Phòng, 14/7/2025
M.V.P