Silence (45) - Tĩnh lặng (45). Mai Văn Phấn. Explicated by Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya - chú giải. Traduction française Dominique de Miscault – Dịch sang tiếng Pháp. Takya Đỗ dịch sang tiếng Việt
SILENCE
Poems by MAI VĂN PHẤN
Translated into English by NHAT-LANG
LE
English Translator-Poet SUSAN
BLANSHARD
Translated into French by DOMINIQUE
DE MISCAULT
Explications by RAMESH CHANDRA
MUKHOPADHYAYA
(based on English translation of the poems)
Edited by SUSAN BLANSHARD
Translated into French and Illustrated by DOMINIQUE DE MISCAULT
Translated into Vietnamese by
PHẠM
MINH ĐĂNG (1 ~ 19) & TAKYA
ĐỖ (20 ~ 45 and Preface)
Tác phẩm của Nhà thơ - Họa sỹ Dominique de Miscault chọn cho bài thứ 45
Silence
45
The bowl of water and I
are white
The ground an ancient
yellow
The field in front
And the bell
Dark yellow
The tabby cat in the yard
Has white patches on its
back
I ring the yellow
Bell
A white color spreads
The cat walks softly
Shaking sunlight all over
the ground
It walks until
it is only a white spot.
(Translated from Vietnamese by Nhat-Lang Le & Susan Blanshard)
Explication
The bowl of water and I are white
The bowl of water that the poet observes is the
bowl of pure consciousness. And hence it is white where all the colors exist
and yet do not exist. They are sublated into white color or the color of pure
consciousness shorn of gnomic and gross elements. Curiously enough anybody is a
bowl of water. And the poet realizes that the water in the bowl and the water
in the poet’s body are the same. The cosmic consciousness and the poet’s consciousness
are not different from one another. However, the poet and the bowl of water
stand on ground which is an ancient yellow. The ancient yellow might represent
the earth. There is a field in front of the poet. And he is aware of the bell
which is dark yellow. The bell could stand for time that rages on human life.
Hence it is yellow, and it tolls the knell of everything of the eye and ear. Hence, it is dark. So in this yellow
background of the phenomenal world, the poet finds the tabby cat with white
patches on its back. The poet rings the yellow bell. It might mean a mantra or
the sequence of signifiers without any signified. That impels the cat walk
softly. The yellow bell or the mantra spread a white color. And the cat walks, shaking
sunlight all over the ground. The poet observes that it walks until it becomes a
white spot. We must take the lesson from the cat. The bell is ringing, but we must
know how to hear it. The tabby cat which was gray has white patches. Every
individual being is gray but in every being there is the pure and the sacred. But
we should imitate the cat and walk softly away from the hopes and desires of
the mundane world. And a time will come when each one of us would be a white
spot shorn of the earthiness of the earth. The kinesthetic image of the cat
walking softly until it becomes a white spot, sinks deep in our mind, like the
beacon light of an impressionist movie.
SILENCE
Poèmes de MAI VĂN PHẤN
Traduits en Anglais par NHAT-LANG LE
Edités par SUSAN BLANSHARD
Traduits en Français par DOMINIQUE DE MISCAULT
Interprétés en Anglais par
RAMESH CHANDRA MUKHOPADHYAYA
(interprétation basée
sur la traduction en anglais des poèmes)
Edités par SUSAN BLANSHARD
Traduite en français et
illustrée par DOMINIQUE DE MISCAULT
Traduite en Vietnamien par
PHẠM MINH ĐĂNG (1 ~ 19) &
TAKYA ĐỖ (20 ~ 45 et Préface)
Nhà thơ-Nghệ sỹ Dominique de Miscault trên bìa tạp chí Platform, Ấn Độ, 12/2016
Silence
45
Un bol d'eau blanche, je suis blanc
le sol ocre jaune
Devant un champ
une cloche
en cuivre
Dans la cour, un chat tigré
des taches blanches sur le dos
Je sonne la cloche
jaune
le blanc se propage
Le chat avance doucement
ébrouant la lumière du soleil
Il avance jusqu'à
n’être qu’un point blanc.
Explication
Un bol d'eau blanche et moi sommes blancs.
Le bol d'eau observé par
le poète est celui de la conscience pure : Tout est blanc c’est-à-dire
toutes les couleurs confondues sans en être une. Tout est assujetti à la
couleur blanche ou la couleur de la conscience pure dépouillée des éléments
gnomiques et grossiers. Curieusement, le monde est réduit à un bol d'eau. Le
poète réalise que l'eau dans le bol et l'eau de son corps sont les mêmes. La
conscience cosmique et la conscience individuelle ne sont pas différentes les
unes des autres. Le poète et le bol d'eau se tiennent sur un sol ocre jaune.
L’ocre jaune représente la terre. Il y a un champ devant. Il constate que la
cloche est cuivrée. La cloche résistera plus longtemps que l’homme. Par
conséquent, tout est jaune. Elle sonne le glas de l'œil et de l'oreille ainsi
tout est sombre. Dans ce fond jaune du monde phénoménal, le poète reconnait un
chat tigré avec des taches blanches sur le dos. Le poète fait sonner la cloche
jaune. C’est un mantra ou une séquence des signifiants sans signification. Le
chat avance doucement. La cloche jaune ou le mantra propagent du blanc. Le chat
marche doucement, la lumière du soleil sur le sol. Le poète observe qu'il
avance jusqu'à devenir un point blanc. Nous devons tirer une leçon du chat. La
cloche résonne mais nous devons apprendre comment l'entendre. Le chat tigré qui
était gris a des taches blanches. Chaque être est gris mais en chacun il y a du
pur et du sacré. Nous devons imiter le chat et marcher doucement face aux
espoirs et désirs du monde. Un temps viendra où chacun de nous deviendra un
point blanc dépouillé de la terre de la terre. L'image kinesthésique du chat
marchant doucement jusqu'à ce qu'il devienne une tache blanche s'enfonce profondément
dans notre esprit comme le phare dans un film impressionniste.
Tác phẩm của Nhà thơ - Họa sỹ Dominique de Miscault chọn cho bài thứ 45
TĨNH LẶNG
MAI VĂN PHẤN
Bản dịch thơ tiếng Anh: LÊ ĐÌNH NHẤT-LANG
Biên tập bản dịch thơ tiếng Anh: SUSAN BLANSHARD
Bản dịch thơ tiếng Pháp: DOMINIQUE DE MISCAULT
Bình chú: RAMESH CHANDRA MUKHOPADHYAYA
(dựa trên bản dịch thơ tiếng Anh)
Biên tập bình chú tiếng Anh: SUSAN BLANSHARD
Dịch bình chú ra tiếng Pháp và minh họa:
DOMINIQUE DE MISCAULT
Dịch bình chú ra tiếng Việt:
PHẠM MINH ĐĂNG (1 ~ 19) & TAKYA ĐỖ (20 ~ 45 & Lời tựa)
45
Bát nước và tôi màu trắng
Mặt đất ngả vàng
Cánh đồng phía trước
Cùng chiếc chuông
Vàng sậm
Con mèo mướp giữa sân
Lưng và đỉnh đầu khoang trắng
Tôi thỉnh chuông
Màu vàng
Màu trắng lan đi
Con mèo thong thả bước
Rũ nắng lên mặt đất
Nó đi cho tới khi
Chỉ còn một đốm trắng.
Bình chú:
Bát nước và tôi màu trắng
Bát nước mà nhà thơ quan sát là chiếc bát chứa đựng thanh tịnh thức.
Và vì vậy nó trắng tinh ở nơi mà mọi màu sắc tồn tại song cũng không tồn tại.
Những màu đó bị chìm vào màu trắng hay màu của thanh tịnh thức đã được thanh
lọc hết những yếu tố bí ẩn và thô thiển. Thật kỳ lạ rằng ai cũng là một bát
nước. Và nhà thơ nhận thấy nước trong bát và nước trong cơ thể ông là một. Ý
thức vũ trụ và ý thức cá nhân của nhà thơ chẳng có chỗ nào khác biệt. Thế nhưng
nhà thơ và bát nước lại đang ở trên mặt đất ngả một màu vàng cổ kính.
Màu vàng cổ kính đó có thể tượng trưng cho trái đất. Một cánh đồng ở
trước mặt nhà thơ. Và ông thấy chiếc chuông màu vàng sậm. Chiếc chuông có thể
tượng trưng cho thời gian đang phóng điên cuồng qua cuộc sống của con người
trên mặt đất. Vậy nên nó có màu vàng. Và nó rung lên hồi chuông nguyện hồn cho
tất thảy mọi vật đang dỏng tai nghe ngóng và vì vậy nó sậm màu. Vậy là trên cái
nền màu vàng của thế giới hiện tượng này nhà thơ thấy con mèo mướp với những
khoang trắng ở lưng. Nhà thơ thỉnh chiếc chuông màu vàng. Hành động này có thể
mang ý nghĩa một câu chú (mantra)
hoặc một chuỗi những dấu biểu thị mà không có vật được biểu thị. Nó khiến con
mèo thong thả bước đi. Chiếc chuông vàng hay câu thần chú ấy lan ra một màu
trắng. Và con mèo vừa thong thả bước đi vừa rũ ánh nắng lên mặt đất. Nhà thơ quan
sát con mèo đó bước đi cho đến lúc nó chỉ còn là một đốm trắng.
Chúng ta cần học con mèo ấy. Tiếng chuông rung khắp nơi nhưng chúng ta
phải biết cách để nghe thấy nó. Con mèo mướp màu xám có những khoang trắng. Mỗi
bản thể riêng biệt đều màu xám nhưng trong mỗi bản thể ở đó đều có sự thanh
khiết và linh thiêng. Song chúng ta phải bắt chước con mèo đó và thong thả bước
ra khỏi những vọng tưởng và tham ái của cõi phàm trần. Và sẽ đến lúc mà mỗi
người chúng ta chỉ còn là một đốm trắng đã thoát được xác phàm. Hình ảnh uyển
chuyển của con mèo đang thong thả bước cho đến khi chỉ còn là một đốm trắng ăn
sâu vào tâm trí ta như ngọn hải đăng trong một bộ phim thuộc trường phái ấn
tượng.
Ts. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Dr. Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Date of Birth:
11/02/1947. Education M.A [triple] M Phil Ph D Sutrapitaka tirtha plus degree in homeopathy. He remains
a retired teacher of B.B. College, Asansol, India. He has published books in different
academic fields including religion, sociology, literature, economics, politics
and so on. Most of his books have been written in vernacular i.e. Bengali. His
maternal grand grand father MM Haraprasad Shastri and his maternal
grandfather Dr Benoytosh Bhattacharyya ex Director Oriental Research Institute,
were great scholars in the field of Buddhism in the modern Indian
context. He was awarded a gold medal by the University of Calcutta for
studies in modern Bengali drama. He has a niche as a recognized critic of
Indo Anglian Literature. His studies on K.V. Dominic as a poet published from
the U.S.A and his study of Mai Văn Phấn’s “hidden
face flower” has been appreciated by the readers of poetry in different
countries of the world.
TS.
Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Ngày sinh: 11/02/1947. Ông có ba bằng thạc sĩ
(ngành tiếng Anh cổ điển, tiếng Anh hiện đại và Lịch sử hiện đại), bằng thạc sĩ
ngành Văn học so sánh, bằng tiến sĩ
ngành Văn học kinh điển Pali, cùng với Bằng y học về phép chữa vi lượng đồng
căn. Ông còn là một giảng viên đã nghỉ hưu của Trường đại học B.B, Asansol, Ấn
Độ. Ông đã có những cuốn sách được xuất bản về nhiều lĩnh vực học thuật bao gồm
tôn giáo, xã hội học, văn học, kinh tế, chính trị v.v. Hầu hết sách của ông đã
được viết bằng tiếng bản địa là tiếng Bengali. Cụ ngoại của ông - ngài học giả
danh dự Haraprasad Shastri, và ông ngoại của ông - Tiến sỹ Benoytosh
Bhattacharyya là cựu Giám đốc Học viện Nghiên cứu Phương đông, là những học giả
nổi tiếng trong lĩnh vực Phật giáo ở bối cảnh Ấn Độ hiện đại. Tiến sỹ Ramesh đã
được tặng thưởng huy chương vàng của Trường đại học Calcutta về các nghiên cứu
nghệ thuật sân khấu Bengal hiện đại. Ông có vị thế đặc biệt của một nhà phê
bình uy tín trong lĩnh vực văn học Ấn độ viết bằng tiếng Anh. Các nghiên cứu
của ông về K.V. Dominic - một nhà thơ từng được xuất bản tại Hoa Kỳ, và nghiên
cứu về tập thơ "hoa giấu mặt"
của Mai Văn Phấn được các độc giả thơ ca tại các quốc gia khác nhau trên thế
giới đánh giá cao.
Nhà thơ - Nghệ sỹ Dominique de Miscault
Poétesse - Artiste Dominique de Miscault
Artiste Plasticienne. Actualités. De plages en pages qui se tournent. C’était hier, de 1967 à 1980, mais aussi avant hier. puis de 1981 à 1992. Et encore de 1992 à 2012 bien au delà des frontières. Aujourd’hui, la plage est blanche sous le bleu du soleil. Ecrire en images, cacher les mots porteurs de souffrance ; on ne raconte pas les pas d’une vie qui commence en 1947. C’est en 1969 que j’ai été invitée à exposer pour la première fois. Depuis j’ai eu l’occasion de « vagabonder » seule ou en groupe en France et dans le monde sûrement près de 300 fois. Les matériaux légers sont mes supports, ceux du voyage et de l’oubli.
www.dominiquedemiscault.fr
www.dominiquedemiscault.com
www.aleksander-lobanov.com
Nhà thơ - Nghệ sỹ Dominique de Miscault
Nghệ sĩ nghệ thuật thị giác đương đại. Từ bãi biển đến trang giấy. Là ngày hôm qua, từ 1967 đến 1980, và trước đó, rồi từ 1981 đến 1992. Và nữa từ 1992 đến 2012 trên tất cả các biên giới. Ngày hôm nay là bãi biển trắng dưới bầu trời xanh. Viết bằng hình ảnh, giấu từ ngữ mang nỗi đau, người ta không kể lại những bước đi trong cuộc đời tính từ năm 1947. Vào năm 1969, lần đầu tiên tôi được mời triển lãm tác phẩm. Kể từ đó, tôi có cơ hội một mình "lang bạt" hoặc theo nhóm ở nước Pháp và khắp nơi trên thế giới, chắc chắn gần 300 lần. Những chất liệu nhẹ là nguồn hỗ trợ tôi, những chất liệu của hành trình và quên lãng.
www.dominiquedemiscault.fr
www.dominiquedemiscault.com
www.aleksander-lobanov.com
Nhà thơ – Dịch giả Lê Ðình Nhất-Lang
Poet –
Translator Nhat-Lang Le
Nhat-Lang Le (Lê Đình Nhất-Lang) was born in
1969 in Saigon, emigrated with his family to France in 1983, and moved to the
U.S. in 1985. He has a B.A. in Linguistics and Computer Science from the
University of California, Los Angeles (UCLA). Nhat-Lang Le worked for more than
a decade as a software programmer, before switching careers to work as a news
translator and editor for a Vietnamese media organization based in the Little
Saigon area of Southern California. He is a co-author of Poems of
Nguyễn Thúy Hằng, Đỗ Lê Anhdao & Lê Đình Nhất-Lang (Vagabond
Press, 2017). He is the translator of two of Mai Văn Phấn’s collections Seeds
of Night and Day (Page Addie Press, 2013) and Grass Cutting in
a Temple Garden (Page Addie Press, 2014). He is a co-translator of Poems
of Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan &
Nhã Thuyên (Vagabond Press, 2014) and The Selected Poems of
Mai Văn Phấn (Publishing House of the Vietnam Writers’ Association,
2015). His Vietnamese poems and translations have appeared in the
printed magazines Thế Kỷ 21, Văn
Học and Văn, and the literary e-zines Tiền
Vệ (tienve.org)
and Da Màu (damau.org).
He has been on Da Mau’s editorial staff since 2007.
Nhà thơ – Dịch giả Lê Ðình
Nhất-Lang
Lê Ðình Nhất-Lang (Nhat-Lang Le) sinh năm 1969 tại Sài Gòn, theo gia
đình sang Pháp năm 1983, sang Hoa Kỳ năm 1985. Có bằng cử nhân ngành Ngữ học và
khoa học điện toán tại Ðại học California, Los Angeles (UCLA). Từng làm
lập trình viên nhiều năm, trước khi chuyển sang dịch thuật và biên tập tin tức
cho một cơ quan truyền thông Việt ngữ ở vùng Little Saigon, Nam California.
Đồng tác giả tuyển tập Poems of Nguyễn Thúy Hằng, Đỗ Lê Anhdao & Lê
Đình Nhất-Lang (Nxb. Vagabond Press, 2017). Dịch giả Anh ngữ của hai
tập thơ Mai Văn Phấn, Seeds of Night and Day - Những hạt giống của đêm
và ngày (Page Addie Press, 2013) và Grass Cutting in a Temple
Garden – Ra vườn chùa xem cắt cỏ (Page Addie Press, 2014). Đồng dịch
giả của tuyển tập Poems of Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan & Nhã Thuyên (Nxb. Vagabond Press, 2014)
và The Selected Poems of Mai Văn Phấn (Nxb. Hội Nhà văn VN, 2015).
Có thơ và dịch phẩm tiếng Việt đăng trên các tạp chí Thế Kỷ 21, Văn Học, Văn,
các báo mạng Tiền Vệ (tienve.org), Da Màu (damau.org)… Trong ban biên tập tạp chí Da Màu từ
năm 2007.
Nhà thơ – Biên tập viên
Susan Blanshard
Poet – Essayist Susan Blanshard
Susan
Blanshard was born in Hampshire, England. She is an internationally acclaimed
poet, essayist, and best-selling author. Susan is English Translator-Poet
for 8 award-winning bilingual poetry books. She is a Committee member of PEN
International Women's Writers and a foundation member of Asian Pacific Writers
and Translators. Susan has written more than 40 books: poetry, short
stories, non fiction, fiction and poetic prose. Her works include Honey in
My Blood, Fragments of the Human Heart and book-length poetic prose
Sheetstone: Memoir for a Lover. Selected poetry and essays are published in
literary magazines including PEN International Women Writers’ Magazine. The
World’s Literary Magazine: Projected Letters, Six Bricks
Press, Arabesque Magazine, Lotus International Women’s
Magazine, Coldnoon International Journal of Travel and Literature, Amaravati Poetic Prism 2017, ICORN
International Cities of Refuge. Nuestra Voz/Our Voice/Notre Voix - The Anthology
of the International PEN Women Writers’ Committee. Susan lived in Hanoi for eight years and has written four travel books
on Vietnam. She is married to an Executive Creative Director and best-selling
author. They have two adult children. Susan resides near Sydney, Australia
where she is completing a co-authored novel with her husband.
Nhà thơ – Nhà phê bình VH Susan Blanshard
Susan
Blanshard sinh ở Hampshire, Anh quốc. Bà là một nhà thơ, viết tiểu luận, là tác
giả nằm trong danh sách có sách bán chạy nhất. Susan là thành viên của Hội Văn
bút các nhà văn phụ nữ quốc tế, và là thành viên sáng lập của Hội Nhà văn và
Dịch giả Châu Á Thái Bình Dương. Susan là nhà thơ, dịch giả tiếng Anh đã dịch
tám thi tập ấn hành song ngữ đoạt giải thưởng. Susan đã viết hơn 40 cuốn sách
gồm các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết phi hư cấu, văn xuôi và thơ văn
xuôi. Bà cũng từng xuất bản những tập văn xuôi mang
đầy chất thơ như Sheetstone: Memoir for a
Lover, Sleeping with the Artist, Fragments of the Human Heart, và Memoir of Love and Art: Honey in My Blood. Thơ và tiểu luận của bà đăng trên nhiều tạp chí và tuyển tập, như The
World’s Literary Magazine, Projected Letters, Six
Bricks Press, Arabesque Magazine, Lotus International
Women’s Magazine, ICORN International Cities of Refuge. PEN
International Women Writers’ Magazine. Tuyển tập của Hội Văn bút quốc
tế The Fourth Anthology, Our Voice, Coldnoon
International Journal of Travel and Literature, Tuyển tập thơ đa ngữ
quốc tế Amaravati Poetic Prism 2017. Bà đã sống ở Hà Nội
tám năm, đã viết bốn cuốn sách du lịch về Việt Nam. Bà kết hôn với một Giám đốc
sáng tạo cấp cao đồng thời là một tác giả có sách bán chạy. Ông bà có hai người con đã trưởng thành. Susan sống gần thành phố Sydney nước Úc, nơi bà đang hoàn thành cuốn tiểu thuyết sáng tác
chung với chồng.
Tĩnh lặng - Silence (1)
Tĩnh lặng - Silence (2)
Tĩnh lặng - Silence (3)
Tĩnh lặng - Silence (4)
Tĩnh lặng - Silence (5)
Tĩnh lặng - Silence (6)
Tĩnh lặng - Silence (7)
Tĩnh lặng - Silence (8)
Tĩnh lặng - Silence (9)
Tĩnh lặng - Silence (10)
Tĩnh lặng - Silence (11)
Tĩnh lặng - Silence (12)
Tĩnh lặng - Silence (13)
Tĩnh lặng - Silence (14)
Tĩnh lặng - Silence (15)
Tĩnh lặng - Silence (16)
Tĩnh lặng - Silence (17)
Tĩnh lặng - Silence (18)
Tĩnh lặng - Silence (19)
Tĩnh lặng - Silence (20)
Tĩnh lặng - Silence (21)
Tĩnh lặng - Silence (22)
Tĩnh lặng - Silence (23)
Tĩnh lặng - Silence (24)
Tĩnh lặng - Silence (25)
Tĩnh lặng - Silence (26)
Tĩnh lặng - Silence (27)
Tĩnh lặng - Silence (28)
Tĩnh lặng - Silence (29)
Tĩnh lặng - Silence (30)
Tĩnh lặng - Silence (31)
Tĩnh lặng - Silence (32)
Tĩnh lặng - Silence (33)
Tĩnh lặng - Silence (34)
Tĩnh lặng - Silence (35)
Tĩnh lặng - Silence (36)
Tĩnh lặng - Silence (37)
Tĩnh lặng - Silence (38)
Tĩnh lặng - Silence (39)
Tĩnh lặng - Silence (40)
Tĩnh lặng - Silence (41)
Tĩnh lặng - Silence (42)
Tĩnh lặng - Silence (43)
Tĩnh lặng - Silence (44)
Từ trái qua: Nhà thơ Trương Nam Hương, MVP, nhà thơ Mousumi Ghosh (Ấn độ), tiến sỹ Ramesh Chandra Mukhopadhyaya, nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn
Tác phẩm của Nhà thơ - Họa sỹ Dominique de Miscault