Thơ Việt Nam từ sau 1986 dưới góc nhìn thể loại (Luận án tiến sĩ) - Nguyễn Thị Dịu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC

 

 

 

Nguyễn Thị Dịu

 

 

THƠ VIỆT NAM TỪ 1986

DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI

 

 

Người hướng dẫn khoa học:

 PGS.TS. Hỏa Diệu Thúy

TS. Nguyễn Thanh Tâm.

 

 

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC (trích)

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

 

 

Thanh Hóa, 2021

 

 

Maivanphan.com: Năm 2021 NCS Nguyễn Thị Dịu đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài "Thơ Việt Nam từ sau 1986 dưới góc nhìn thể loại", dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hỏa Diệu Thúy và TS. Nguyễn Thanh Tâm. Chúng tôi trích đăng phần Mở đầu, Chương 3 và phần Kết luận, những Chương còn lại sẽ gửi tới Quý bạn đọc vào thời điểm thích hợp.

 

 

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 

 

1. Lý do chọn đề tài

2. Mục tiêu nghiên cứu     

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu          

4. Nhiệm vụ của luận án   

5. Phương pháp nghiên cứu       

6. Đóng góp mới của luận án      

7. Cấu trúc luận án 

 

NỘI DUNG   

 

Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU          

 

1.1. Quan niệm về thơ      

1.2. Thơ Việt Nam trong tiến trình lịch sử của thể loại    

1.2.1. Thơ thời trung đại: những khuôn khổ của thi pháp        

1.2.2. Thơ từ đầu thế kỷ XX đến 1945: hoàn tất công cuộc "lột xác" từ thơ trung đại sang thơ hiện đại     

1.2.3. Thơ từ 1945 đến 1975: Có những gián đoạn trong vận động đổi mới của thể loại        

1.2.4. Thơ từ 1975 đến trước 1986: dò tìm sự thay đổi        

1.2.5. Thơ từ sau 1986 đến nay: hành trình của những thể nghiệm mới     

1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về thơ Việt Nam sau 1986: thành tựu và khoảng trống      

1.3.1. Những nghiên cứu khái quát        

1.3.2. Hướng nghiên cứu các trường hợp cụ thể          

Tiểu kết        

 

Chương 2. THƠ VIỆT NAM SAU 1986 VỚI NHU CẦU TRỮ TÌNH MỚI        

 

2.1. Không gian lịch sử - xã hội - văn hóa của thơ sau 1986      

2.1.1. Hoàn cảnh mới của đời sống xã hội       

2.1.1.1. Trải nghiệm hòa bình, khó khăn thời hậu chiến và khát vọng đổi mới          

2.1.1.2. Tâm lý thế sự chiếm lĩnh trạng thái đời sống  

2.1.2. Sự trở lại mạnh mẽ nhận thức giá trị tự thân và khát vọng khẳng định văn hóa dân tộc

2.1.2.1. Trở lại mạnh mẽ nhận thức giá trị tự thân          

2.1.2.2. Khẳng định văn hóa dân tộc trên hành trình hội nhập         

2.2. Sự nổi bật của chủ thể trữ tình “cái tôi - bản thể”   

2.2.1. Chủ thể trữ tình “cái ta - cộng đồng dân tộc” mất vị trí độc tôn        

2.2.2. Sự “lên ngôi” của chủ thể trữ tình “cái tôi - bản thể”       

2.2.2.1. Chủ thể trữ tình “cái tôi - phái tính” mạnh mẽ     

2.2.2.2. Chủ thể trữ tình với nhu cầu xác lập giá trị tinh thần trên quan điểm cá nhân      

2.2.2.3. Chủ thể trữ tình “cái tôi - suy tư”, chiêm nghiệm         

2.2.2.4. Chủ thể trữ tình là “cái tôi - dấn thân” cho công cuộc đổi mới thi ca

Tiểu kết        

 

Chương 3. THƠ VIỆT NAM SAU 1986 PHONG PHÚ VỀ HÌNH THỨC THỂ LOẠI 

 

3.1. Sự hiện diện bình đẳng các thể thơ

3.1.1. Các thể thơ truyền thống hiện diện sôi nổi          

3.1.1.1. Thể lục bát được “lạ hóa”          

3.1.1.2. Các thể 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ được dùng chủ yếu trong thơ thiếu nhi          

3.1.1.3. Sự trở lại của các thể thơ Đường        

3.1.2. Thể thơ Haiku hội nhập sân thơ Việt      

3.1.3. Thơ tự do đua nhau khoe diện mạo       

3.2. Cấu trúc “động” hay sự giao thoa giữa các thể thơ

3.2.1. Thơ văn xuôi

3.2.2. Thơ tân hình thức   

3.2.3. Thơ "hậu hiện đại"  

3.3. Cấu trúc “động” của câu thơ, dòng thơ     

3.3.1. Các thể thơ theo luật         

3.3.2. Thể thơ tự do

Tiểu kết        

 

Chương 4. THƠ VIỆT NAM SAU 1986 - MỘT SỐ ĐỘT PHÁ TRONG CẤU TRÚC HÌNH TƯỢNG, NGÔN NGỮ, VẦN, NHỊP  

 

4.1. Tính lỏng lẻo trong cấu trúc hình tượng thơ          

4.1.1. Hình tượng thơ được kiến tạo bởi những suy tư, triết lý          

4.1.2. Hình tượng thơ được kiến tạo bởi những biểu trưng    

4.1.3. Hình tượng thơ được kiến tạo bởi cảm giác tâm linh, ẩn ức

4.2. Đề cao vai trò tạo nghĩa của chữ    

4.2.1. Nghĩa được tạo nên từ sự vang ngân của con chữ       

4.2.2. Nghĩa được tạo sinh từ trò chơi sắp đặt chữ    

4.2.2.1. Nghĩa được tạo sinh từ sự kết hợp nhiều ấn tượng giác quan

4.2.2.2. Tạo nghĩa bởi những lắp ghép chữ ngẫu hứng 

4.3. Xu thế thay đổi vần bằng nhịp điệu 

4.3.1. Tạo nhịp mới cho lục bát   

4.3.2. Tạo nhịp trong thơ văn xuôi         

Tiểu kết        

 

KẾT LUẬN   

 

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ      

TÀI LIỆU THAM KHẢO     

PHỤ LỤC. CÁC TẬP THƠ ĐƯỢC KHẢO SÁT 

 

 

 

MỞ ĐẦU

 

1. Lý do chọn đề tài

 

1.1. Thơ - tự nó đã ở trong lòng người, thơ đồng hành cùng với loài người khi con người biết dùng ngôn từ để diễn đạt cảm xúc. Có lẽ vì vậy mà con người sớm tìm ra cách thức để vĩnh cửu hóa nó thông qua những quy tắc, quy luật. Câu chuyện thể loại của thơ từ ngàn xưa đã được coi trọng, bằng chứng là dân tộc nào trên thế giới cũng tạo ra cho dân tộc mình những thể thơ dân tộc với những nguyên tắc sáng tạo mang đặc trưng văn hóa và thẩm mỹ của dân tộc mình. Với dân tộc Việt Nam, thơ là thể loại có “đời sống lịch sử” lâu đời nhất và cũng là thể loại được người Việt Nam vận dụng nhiều nhất trong các tình huống của đời sống văn hóa - xã hội.

 

Tuy nhiên, thơ vừa có tính ổn định, vừa có tính tiếp biến, bởi là sản phẩm tinh thần, khi bối cảnh lịch sử - xã hội thay đổi, không gian văn hóa xã hội thay đổi tác động đến đời sống tinh thần con người, thơ luôn là thể loại “phản ứng” nhanh nhạy nhất với sự thay đổi ấy.

 

1.2. Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hóa. Hơn một trăm năm qua, lịch sử văn học dân tộc có nhiều vận động, thay đổi qua các chặng. Có thể hình dung các chặng ấy như sau: từ đầu thế kỷ XX đến 1930; 1930 đến 1945; 1945 đến 1986 và từ 1986 đến nay. Song, có một điều dễ nhận thấy, trong những chặng vận động ấy, thơ luôn nổi lên như thể loại chủ đạo với nhiều kết tinh nghệ thuật. Với người Việt Nam, thơ luôn là món ăn không thể thiếu trong đời sống tinh thần, thơ cũng là nơi bộc lộ rõ nhất tâm hồn, bản lĩnh sáng tạo của người Việt Nam trong nghệ thuật ngôn từ.

 

Từ sau năm 1986, thơ Việt Nam phát triển vượt bậc, tiếp tục hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa, công nghệ thông tin phát triển. Thơ Việt Nam đang mang một diện mạo hoàn toàn mới. Cuộc bứt phá, đổi mới thơ lần này cũng diễn ra ở cả phương diện nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể loại. Đáng kể là, dàn giao hưởng thơ cách tân lần này hiện diện một lực lượng hùng hậu với sự hội đủ các tầng lớp, thế hệ, tuy nhiên, đều có chung tâm thế: hăm hở đổi mới và giàu nội lực. Không khí đổi mới như nguồn mạch tươi mát thổi bùng sức sáng tạo trong đời sống thơ Việt Nam. Nhìn tổng thể và tập trung ở những trường hợp tiêu biểu, thơ ca Việt Nam hiện nay dường như đã lột xác hoàn toàn. Khó mà diễn tả hết những suy nghĩ và những cung bậc cảm xúc đa dạng của không khí tranh luận trên diễn đàn thơ từ sau 1986 đến nay. Nhiều tuyên ngôn thơ ra đời và thật thú vị, những tuyên ngôn có khi phủ nhận lẫn nhau.

 

1.3. Hành trình đổi mới thơ ca Việt Nam từ 1986 đến nay, đã đi được một chặng dài. Những thử nghiệm, những đột phá, thành công và thất bại cũng đã được kiểm chứng. Để hình dung rõ hơn sự vận động và phát triển của thể loại thơ, hơn nữa, những diễn biến, đa dạng của thơ cần được định giá thỏa đáng. Những khoảng trống trong nghiên cứu cũng là động lực và hi vọng những đóng góp, bổ khuyết  mang ý nghĩa khoa học để khẳng định đóng góp của thể loại ấy đối với tiến trình phát triển của văn học Việt Nam cần tới những công trình nghiên cứu dài hơi và chuyên biệt. Đề tài “Thơ Việt Nam từ sau 1986 dưới góc nhìn thể loại” là một nỗ lực theo hướng đó.

 

Đề tài vừa góp phần lý giải, tổng kết, đánh giá hoạt động, cống hiến của một thể loại quan trọng trong tiến trình đổi mới nền văn học Việt Nam hiện đại, vừa là gợi ý về thể loại cho giới sáng tác.

 

2. Mục tiêu nghiên cứu

 

Đề tài hướng đến mục tiêu nghiên cứu, mô tả phân tích diện mạo của thơ Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại, qua đó đưa ra những đánh giá khái quát, những dự báo về sự vận động thể loại của thơ trong tiến trình phát triển hội nhập với thơ hiện đại thế giới.

 

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

 

Đối tượng nghiên cứu: Như tên của luận án đã xác lập, đối tượng nghiên cứu của luận án là “Thơ Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn thể loại”.

 

Phạm vi nghiên cứu: Dạng thức tồn tại của thể loại thông qua chỉnh thể tác phẩm,vì vậy, nghiên cứu thể loại là nghiên cứu cả nội dung và hình thức văn bản tác phẩm. Với mục tiêu làm rõ đặc trưng và sự vận động thể loại của thơ từ sau 1986, luận án sẽ khảo sát, nghiên cứu các phương diện đặc trưng của thể loại, như: chủ thể trữ tình và cảm hứng thơ; Cấu trúc “động” ở dạng thức thể loại của thơ và một số cấu trúc bên trong của thi pháp thể loại (hình ảnh, ngôn ngữ, vần và nhịp thơ).

 

Phạm vi khảo sát tư liệu: Trước hiện thực đời sống thi ca vô cùng phong phú, chúng tôi ưu tiên khảo sát những tác phẩm sau: trước hết là những tác phẩm đoạt giải trong các cuộc thi thơ do các tổ chức văn chương có uy tín tiến hành từ sau 1986; Tiếp đến là các tác phẩm góp phần tạo nên sự vận động đổi mới thơ sau 1986 được dư luận và công chúng độc giả quan tâm; Các tuyển tập thơ do các nhà xuất bản có uy tín tuyển chọn, giới thiệu.

 

Để có cơ sở cho những kết luận khách quan, khoa học, luận án sẽ mở rộng khảo sát thêm các tác phẩm thơ của giai đoạn trước đó (nhằm so sánh, đối chiếu) và những hiện tượng mới, song, chưa xuất hiện rộng rãi.

 

4. Nhiệm vụ của luận án

 

Trên cơ sở Mục tiêu, Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

 

Thứ nhất, luận án nghiên cứu, xác lập cơ sở lý thuyết và thực tiễn liên quan đến đề tài, đó là lý thuyết về thể loại thơ; Thực tiễn nghiên cứu về thể loại thơ sau 1986.

 

Thứ hai, luận án sẽ khảo sát, nghiên cứu, đánh giá “phương thức chiếm lĩnh và tái hiện đời sống” của thơ sau 1986 ở các phương diện: chủ thể trữ tình và cảm hứng thơ. 

 

Thứ ba, luận án sẽ nghiên cứu, đánh giá “thể thức cấu tạo văn bản” của thơ sau

1986 ở các phương diện: tổ chức văn bản, câu thơ, hình ảnh, ngôn ngữ và nhịp thơ.

 

5. Phương pháp nghiên cứu

 

Để triển khai các ý tưởng khoa học, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

 

Phương pháp nghiên cứu thi pháp học thể loại: thể loại tồn tại thông qua tác phẩm, vì vậy, nghiên cứu thể loại là nghiên cứu cả nội dung và hình thức văn bản tác phẩm và đây thực chất là nghiên cứu thi pháp thể loại.

 

Phương pháp thống kê, phân loại: Trước một khối lượng lớn tác phẩm, tác giả thơ trong hơn ba mươi năm qua, lại nghiên cứu, đánh giá ở góc nhìn thể loại, vì vậy, thống kê và phân loại không chỉ là các thao tác cơ bản mà còn trở thành tư duy nghiên cứu khi nhận diện, đánh giá các tiểu loại thơ.

 

Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: phương pháp này không chỉ góp phần làm sáng tỏ đặc điểm thể loại của tác phẩm mà còn làm những sáng tạo thẩm mỹ của tác phẩm, trên cơ sở đó có thể đánh giá khái quát và dự báo về sự vận động của thể loại.

 

Phương pháp so sánh, đối chiếu: phương pháp so sánh, đối chiếu cũng sẽ là phương pháp chính của đề tài, vì để thấy được sự vận động, phát triển của thể loại ở một giai đoạn cụ thể, cần so sánh, đối chiếu với tác phẩm ở cả hai chiều đồng đại và lịch đại. Phương pháp này sẽ góp phần hỗ trợ thêm tính khách quan, khoa học cho những kiến giải và nhiều khi còn giúp đưa ra những phát hiện mới mẻ, bất ngờ.

 

Phương pháp liên ngành: xem xét, nghiên cứu thơ sau 1986 trong mối quan hệ với các lĩnh vực như: xã hội, văn hóa, tâm lý học… hoặc sự ảnh hưởng, giao thoa giữa thơ với các thể loại khác (tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn, bút ký…), các loại hình nghệ thuật khác như: âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điện ảnh, sân khấu… sẽ giúp cho việc cắt nghĩa và lý giải những cách tân của thơ Việt Nam sau 1986 thấu đáo, khách quan, khoa học hơn. 

 

Ngoài ra, để giải quyết tốt đề tài, chúng tôi sẽ tiếp cận và vận dụng một số lý thuyết hiện đại, hậu hiện đại, như: lý thuyết tiếp nhận, nữ quyền luận, phê bình sinh thái v.v… để soi chiếu, lý giải các hiện tượng thơ.

 

6. Đóng góp mới của luận án

 

Thứ nhất, trên cơ sở khảo sát các ý kiến, quan điểm về thơ, luận án xác lập những đặc trưng cơ bản của thơ dưới góc nhìn thể loại; Cũng từ những thống kê về thực trạng nghiên cứu thơ Việt Nam sau 1986, luận án chỉ ra những khoảng trống trong nghiên cứu thơ Việt Nam sau 1986 dưới góc nhìn thể loại.

 

Thứ hai, luận án nghiên cứu, làm rõ diện mạo thơ Việt Nam từ sau 1986, từ nội dung đến phương thức/ cách thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn bản.

 

Thứ ba, từ kết quả nghiên cứu, luận án sẽ đánh giá vị trí, vai trò của thơ sau 1986 trong tiến trình vận động, đổi mới văn học Việt Nam sau 1986, đồng thời nhận diện những quy luật phổ quát của thơ đương đại (quy luật giao lưu hội nhập, sự tương tác thể loại, nhu cầu của công chúng, khát vọng sáng tạo của nhà thơ…), cũng góp phần định hướng thẩm mỹ của độc giả theo hướng tích cực, đa dạng, phù hợp với thời đại.

 

Thứ tư, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ trở thành tài liệu tham khảo giúp cho việc tìm hiểu, học tập, nghiên cứu thơ Việt Nam trong tiến trình đổi mới hội nhập văn học thế giới, đồng thời có thể gợi ý cho giới sáng tác về sự vận động của thể loại.

 

7. Cấu trúc luận án

 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của luận án được triển khai thành bốn chương:

 

Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

 

Chương 2: Thơ Việt Nam sau 1986 với nhu cầu trữ tình mới

 

Chương 3: Thơ Việt Nam sau 1986 - phong phú về thể loại

 

Chương 4: Thơ Việt Nam sau 1986 - một số đột phá về cấu trúc hình tượng, ngôn từ, vần và nhịp

 

 

 

Chương 2.

THƠ VIỆT NAM SAU 1986 VỚI NHU CẦU TRỮ TÌNH MỚI

 

2.1. Không gian lịch sử - xã hội - văn hóa của thơ sau 1986

2.1.1. Hoàn cảnh mới của đời sống xã hội

2.1.1.1. Trải nghiệm hòa bình, khó khăn thời hậu chiến và khát vọng đổi mới

 

Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt hai mươi năm, lần đầu tiên kể từ sau cách mạng tháng Tám, đất nước mới thực sự nếm trải niềm vui trong hòa bình, thống nhất. Mặc dù khoảng mười năm sau đó, tiếng súng vẫn nổ ở biên giới Tây Nam và phía Bắc chống lại âm mưu đen tối phá hoại hòa bình của dân tộc ta trước thế lực thù địch ở bên kia biên giới, song, không thể lấn át niềm vui đất nước thống nhất, hòa bình, độc lập là cảm xúc bao trùm. Cảm xúc này chi phối trạng thái, tâm lý người Việt sau đại thắng mùa xuân 1975. Đó là cảm xúc vừa ngất ngây vừa hụt hẫng khi mọi thói quen sinh hoạt, mục tiêu, lý tưởng cuộc sống bị/ được thay đổi. Trong hoàn cảnh thời chiến không biết sống chết lúc nào khiến người ta có thể vô tư trước nhu cầu và quyền lợi cá nhân. Thêm nữa, khí thế “đổi đời” từ cuộc cách mạng Tháng Tám, hai cuộc kháng chiến mà tầm vóc của nó là xung đột dân tộc lịch sử, lí tưởng “không có gì độc lập tự do”, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ(Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến) đã tạo nên tư thế vô tư, trong sáng và rèn luyện nên những phẩm chất cao quý như: lòng yêu nước được xây dựng trên tinh thần dũng cảm, xả thân, đức hi sinh, v.v…, những nét tính cách hay hành vi nhỏ nhen, vụ lợi, cá nhân bị dư luận xã hội phê phán, cô lập. Môi trường xã hội của miền Bắc khi ấy hừng hực khí thế sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của tổ quốc. Hình ảnh những con người gạt tình riêng vì nghĩa lớn được tôn vinh, ca tụng: Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ sau lưng thềm nắng lá rơi đầy (Đất nước - Nguyễn Đình Thi); Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ giếng nước gốc đa nhớ người ra lính (Đồng chí - Chính Hữu); Đi đi non nước chờ anh đó/ tiền tuyến cần thêm có hậu phương (Tố Hữu); Đạp bằng sông núi ta đi/ máu xương chẳng tiếc tiếc gì tuổi xuân (Vô danh), v.v… Giờ đây, những mục tiêu ấy đã hoàn thành, người ta có cơ hội đối diện với chính mình, quan tâm đến bản thân, đến nhu cầu của chính mình và những người xung quanh. Những suy nghĩ, tâm trạng ấy dường như đều được phản ánh trong thơ.

 

Một thực tiễn khác, sau niềm vui chiến thắng ngây ngất, lập tức chúng ta phải đương đầu với muôn vàn khó khăn của thời hậu chiến. Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi ra từ thời chiến đã không thể cáng đáng nổi đời sống của hơn năm mươi triệu dân (54,37 triệu dân, thống kê của năm 1980). Giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu con người chỉ quen “nghề” cầm súng, cũng phải giải quyết công việc cho hàng triệu người dân Miền Nam sau khi đất nước thống nhất. Thêm nữa, nhu cầu cá nhân với những đòi hỏi chính đáng của con người đã trở lại tạo nên nhịp sống hoàn toàn khác với thời chiến. Tính cộng đồng gắn kết “sống chết có nhau” của thời chiến cứ lỏng dần, buông dần ra, thậm chí có nơi, có chỗ trở nên tan rã, người ta có thể ngoảnh mặt lạnh lùng với nhau vì những va chạm, tính toán quyền lợi cá nhân. Sự khủng hoảng, thậm chí có mâu thuẫn xung đột giữa lợi ích cá nhân với cộng đồng, cá nhân với tập thể là có thật.

 

Năm 1986 còn một sự kiện quan trọng khác, đó là đất nước “mở cửa” hội nhập thế giới. Chính sách “mở cửa” từng bước và toàn diện đã dần đưa đất nước đến gần/trở lại với đời sống thế sự, ở đấy con người cá nhân - cá thể là trung tâm của mọi mối quan tâm, đầu tư phấn đấu, hi vọng. Điều này sẽ góp phần chi phối cả nội dung lẫn hình thức của thơ sau 1986.

 

2.1.1.2. Tâm lý thế sự chiếm lĩnh trạng thái đời sống

 

Đây là lôgic tất yếu của những tiền đề lịch sử - xã hội trên đây. Hòa bình trở lại, con người trở về với đời thường - cuộc đời phồn tạp muôn vẻ, nhiều bất ngờ, ngẫu nhiên, đầy nghịch lý, thật - giả, tốt - xấu, thiện - ác đan xen lẫn lộn. Trước đây vị trí của cá nhân là vị trí trong cả một dàn đồng ca. Thời nay, cá nhân dần tách ra khỏi tập thể, sống đời sống riêng của nó. Không thể dựa mãi vào đoàn thể, cái “tôi” giờ đây phải tự chủ, tự quyết lấy cuộc đời mình. Nó bắt đầu lại ý thức mình là một cá thể với mọi nhu cầu, khao khát, nhu cầu được bù đắp cho những hi sinh to lớn, nhu cầu được “xả hơi” của mỗi cá nhân sau những năm tháng phải gồng mình, dốc toàn lực ra mà chịu đựng, bám trụ để sản xuất, chiến đấu. Thậm chí, nhu cầu được hưởng thụ - những hưởng thụ chính đáng của quy luật sinh tồn cũng trỗi dậy mạnh mẽ. Những năm đầu thời kỳ xóa bỏ bao cấp, con người Việt Nam được trải nghiệm tâm lý sung sướng, thoải mái, tự do nhưng cũng không tránh khỏi tâm lý cấn cá,  chới với, âu lo có chút hoang mang. Con người với nhu cầu được “nói” hết những tâm sự chân thực của lòng mình trở thành một nhu cầu bức thiết. “Chưa bao giờ, chúng ta chứng kiến tâm hồn con người Việt Nam mở rộng tất cả các chiều kích như lúc này” [9]. Nhưng khi điều kiện mới cũ dần đi, nói “thật” đã không còn là một nhu cầu thì những vấn đề khác lại nảy sinh. Trạng thái mất điểm tựa, tâm lý hoài nghi, đổ vỡ lòng tin trong những năm đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng đã in đậm nét trong văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Không khí xã hội của những năm cuối thập kỷ 70, thập kỷ 80 của thế kỷ trước luôn xen lẫn những xúc cảm đối lập, những bối rối, suy tư trong sự lựa chọn, phân biệt đúng - sai, tốt - xấu. Môi trường xã hội của cuộc sống đời thường với muôn vàn phức tạp, đặc biệt lại bị thử thách trong hoàn cảnh khó khăn thời hậu chiến nên bao nhiêu bi kịch phơi bày. Nhà thơ Chế Lan Viên không ít lần đau buồn, bi thiết:

 

Giờ hòa bình tôi vẫn làm thơ, nhặt lá

Không phải đất nước mình còn chiến tranh nghèo khó

Mà vì có bao nhiêu thằng sống xa hoa

Vì có bọn người thoái hóa

Khiến cho thắng trận rồi mà vẫn còn nhặt lá, kẻ làm thơ

(Hốt lá)

 

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) chọn hướng đi “mở cửa hội nhập” thế giới tạo ra bước ngoặt mới với những chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng trong đời sống xã hội. Nền kinh tế thị trường khiến cho người ta năng động, cởi mở, tỉnh táo, trí tuệ hơn, song cũng nhiều dục vọng, lạnh lùng, tàn nhẫn hơn. Con người được nhiều về vật chất nhưng cũng dễ dàng mất đi nhiều giá trị quý báu khó có thể tìm lại được. Nền kinh tế thị trường kích thích cạnh tranh, khơi mở những tiềm năng sáng tạo, thôi thúc việc tạo ra những giá trị độc đáo giữa một thế giới đa giá trị, kích thích người ta phải vươn lên, phải đuổi theo liên tục để đáp ứng được những yêu cầu của nó. Sự xóa bỏ bao cấp về tư tưởng, không khí dân chủ rộng rãi, sự mở rộng giao lưu quốc tế về văn hóa, tinh thần coi trọng yếu tố con người và đánh thức ý thức về cá nhân, cá tính.

 

Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin trong thế giới hiện đại đã thu hẹp tối đa khoảng cách về địa lí. Cánh cửa tri thức nhân loại rộng mở trước mắt, người ta có nhiều cơ hội để chọn lựa, để tránh khỏi những cực đoan, giáo điều, phiến diện, khơi dậy những suy nghĩ mới, những tìm tòi, sáng tạo.

Càng ngày, vị thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng lên rõ rệt. Mọi người có nhiều cơ hội học tập, mở mang kiến thức, giao lưu học hỏi dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều này vừa tạo ra nguồn lực chất lượng cao là những con người có tri thức, có văn hóa phục vụ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, song, không thể tránh khỏi hiện tượng “chảy máu chất xám” do nhu cầu cá nhân hoặc các hiện tượng lệch lạc về nhận thức văn hóa. Các hình thức hợp tác, giao lưu, hỗ trợ các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng giữa các nước ngày càng gia tăng về cường độ cũng như về nội dung. Đây không còn là sự trao đổi giữa những giá trị riêng biệt như trước, mà là sự hài hòa, hội nhập của các giá trị. Công cuộc hội nhập thế giới đã diễn ra hơn ba chục năm qua, bầu không khí “mở cửa” giao lưu, làm bạn với thế giới ngày rõ ràng, đậm nét theo mục tiêu xây dựng xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, cũng là cơ sở để tâm lý “thế sự” với nhiều uẩn khúc, phức tạp, đa chiều bộc lộ. Thực tiễn này chi phối và tác động mạnh mẽ tới cảm xúc và nhu cầu trữ tình mới của thơ sau 1986.

 

2.1.2. Sự trở lại mạnh mẽ nhận thức giá trị tự thân và khát vọng khẳng định văn hóa dân tộc

 

2.1.2.1. Trở lại mạnh mẽ nhận thức giá trị tự thân

 

Đất nước trở lại hòa bình với quy luật cuộc sống đời thường cộng với công cuộc đổi mới hội nhập thế giới đã đưa mỗi người trở lại với nhận thức về giá trị tự thân của cái tôi cá nhân. Thực tế, cái tôi cá nhân đã được khẳng định và có vị trí trong nhận thức tư tưởng trong đời sống xã hội Việt Nam từ đầu thế kỷ hai mươi khi tư tưởng hệ của giai cấp tư sản xuất hiện ở Việt Nam theo con đường xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Khẳng định cái tôi cá nhân - cá thể là khẳng định cá tính - bản ngã, là nhu cầu được tôn trọng cái khác biệt. Mỗi cá nhân - cá thể đều là một giá trị. Cốt lõi của công cuộc hiện đại hóa văn học diễn ra vào nửa đầu thế kỷ XX chính là sự khẳng định và sự hiện diện của cái tôi cá nhân - cá thể. Nhu cầu và khát khao khẳng định cái tôi cá nhân - cá thể đã tạo nên sự đột phá mạnh mẽ của nền văn học Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỷ trước, thành tựu mà nền văn học ấy đạt được đáng tự hào đến mức các nhà nghiên cứu phải thốt lên: “Một năm bằng ba mươi năm của người” (Vũ Ngọc Phan), chúng ta đã có “Một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh). Tên tuổi của các tác phẩm, tác giả thời ấy cho đến bây giờ vẫn là những đỉnh cao của văn chương Việt Nam hiện đại.

 

Bối cảnh lịch sử và tính đặc thù của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại những thế lực xâm lược mạnh nhất của loài người đã khiến cho quan điểm tư tưởng về cái tôi cá nhân - cá thể có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng và lợi ích đất nước. Trạng thái sử thi của đời sống đất nước yêu cầu/ khiến cái tôi - cá nhân giờ đây phục tùng cái ta - cộng đồng dân tộc, hòa hợp với mục tiêu của cái ta - dân tộc. Nhà thơ Chế Lan Viên từng tự hào bày tỏ: Những năm toàn đất nước có một tâm hồn, có chung khuôn mặt/ nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau (…). Nhìn một người ta nhìn ra cả nước (Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa). Chúng ta đã phải dốc toàn lực cho hai cuộc chiến tranh vệ quốc, “chiến tranh nhân dân” là phương thức lựa chọn tối ưu, mỗi người dân là một người lính, mỗi cá nhân phải tạm gác những dự định, ham muốn cá nhân để ưu tiên cho lý tưởng độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc. Thơ văn giai đoạn 1945 - 1975, vì vậy, đề cao cảm hứng, chủ thể trữ tình là quốc gia, dân tộc: Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng/ Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết/ cho mỗi căn nhà, ngọn núi, con sông (Sao chiến thắng - Chế Lan Viên); Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi, bờ sông/ Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy (Xuân Diệu); Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ/ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường/ Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ/ Anh là chiến sỹ giải phóng quân (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân); Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ (…)/ Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ/ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa (…)/ Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào/ “Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau...” (Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ) v.v… Cảm hứng và chủ thể trữ tình này làm nên sức hấp dẫn và vẻ đẹp thẩm mỹ của thơ cách mạng một thời. Cách mạng là ngày hội lớn đã tạo thành xúc cảm trữ tình hào sảng lôi cuốn hàng triệu trái tim sẵn sàng dấn thân vào dòng thác cách mạng: Đường ra trận mùa này đẹp lắm (Phạm Tiến Duật); Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính xanh màu áo lính (Thanh Thảo); Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai (Bằng Việt) v.v… Có thể nói, các thế hệ nhà thơ cách mạng giai đoạn 1945 - 1975 đã tự nguyện đứng trong dàn đồng ca “dân tộc - lịch sử” để cùng cất vang lời ca ca ngợi cách mạng, đất nước, tổ quốc, nhân dân… Và điều này là hoàn toàn tự nhiên, không thể khác, bởi, khi đó, tình cảm thiêng liêng nhất, trân trọng nhất, tự hào, đẹp đẽ nhất của mỗi người Việt Nam là độc lập, tự do đồng nghĩa với dân tộc/ tổ quốc/ cách mạng/ đảng - lãnh tụ kính yêu!

 

Sau 1975, đất nước hòa bình, trạng thái thế sự đã thay thế trạng thái sử thi, nhu cầu và xúc cảm cá nhân thay thế cho cảm xúc cộng đồng lịch sử. Cái tôi cá nhân “được quyền” vui, buồn với những cảm xúc của riêng mình mà không bị áp đặt, quản lý, định hướng. Thơ là thể loại “phản ứng” nhanh nhất với sự thay đổi này. Đó là lý do tại những năm hậu chiến, song song với sự xuất hiện những bài thơ mang cảm hứng hào quang chiến thắng đã xuất hiện những bài thơ với đề tài “vụn vặt” khiến Chế Lan Viên phải thốt lên: Những nhà thơ bỏ các đề tài khoáng đạt/ về trong phòng con ngột ngạt/ như con hổ đại ngàn/ hóa chú mèo con (Đề tài). Tuy nhiên, gần như ngay lập tức, cây bút sau đó, chính tác giả của những vần thơ hào sảng nhất thời chống Mỹ đã thức nhận ra: Nửa đời thơ, anh mới chợt hiểu rằng/ Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá/ xa dần truyện ngắn, bớt dần thơ (Đề tài). Ngạc nhiên hơn nữa, “lá cờ đầu của nền thơ cách mạng” Tố Hữu ở thời điểm ấy cũng viết những dòng này: Đêm cuối năm. Riêng một ngọn đèn/ Dở hay, khôn dại những chê khen/ Làm ăn, hai chữ, quen mà lạ/ Thế cuộc, nhân tình, rõ trắng đen (Đêm cuối năm). Rõ ra là những dòng thơ tâm sự riêng tư của nỗi lòng trước thời cuộc. Giờ đây, mỗi người mới có cơ hội đối diện với hoàn cảnh riêng của chính mình, gia đình mình trong sự chuyển đổi của thời cuộc, các mối quan hệ từ “đồng chí”, “đồng đội” sang mối quan hệ “anh” và “tôi”, “bạn làm ăn”, “đối tác”… điều này tránh khỏi tạo nên những lúng túng, bối rối trong ứng xử, thậm chí những xúc cảm bi quan.     

 

Đất nước mở cửa hội nhập, thế giới từ thế đối đầu, chiến tranh lạnh chuyển sang thế hợp tác, đối tác cùng phát triển, vì vậy, yêu cầu tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo được đặt ra với các nước, đó là nguyên nhân tư tưởng tự do dân chủ phương Tây có cơ hội du nhập vào Việt Nam từ nhiều con đường. Việt Nam đã từng đón bắt cơ hội này ở những năm đầu thế kỷ hai mươi, tuy nhiên, khi ấy, với hoàn cảnh đất nước chưa thoát khỏi ý thức hệ phong kiến, lại mang tâm thế dân tộc bị nô lệ nên sự thức tỉnh “Cái tôi - cá nhân cá thể” tuy kiêu hãnh nhưng thật cô đơn. Đó là cái kiêu hãnh của con hổ bị giam trong cũi, là tiếng địch vi vu mất hút trong bầu trời cao rộng, là Hi Mã Lạp Sơn “cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn”, là “củi một cành khô lạc mấy dòng”… Ý thức “cái tôi - cá nhân cá thể” sau 1975 đã hoàn toàn khác bởi tâm thế dân tộc khác trước. Mặc dù phải đối mặt với muôn vàn thách thức sau hậu chiến, lại trong thế bị cô lập bởi phe xã hội chủ nghĩa bị tan rã, song, dân tộc Việt Nam vẫn ngẩng cao đầu trong tư thế chiến thắng của một dân tộc độc lập và tự do để chọn hướng đi hội nhập thế giới. Đây là tư thế chủ động và tự tin, biết mình biết ta. Mấy chục năm qua, từng bước, Việt Nam đã hội nhập thành công với mục tiêu là bạn với tất cả các dân tộc trên thế giới, tôn trọng tín ngưỡng và đường lối chính trị của các nước, các dân tộc. Có thể nói, toàn cầu hóa là sự lựa chọn bản lĩnh của một dân tộc luôn biết vượt qua những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử để vượt lên. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo điều kiện làm phong phú hơn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn khích lệ nhu cầu khẳng định cá nhân. Hội nhập quốc tế nhãn quan được mở rộng, xu thế đa phương hóa yêu cầu sự hợp tác, tôn trọng sự khác biệt, song, không chấp nhận đồng hóa, ý thức cái riêng, cá nhân sẽ có điều kiện và nhất thiết cần nâng cao. Có thể nói, ý thức cái tôi - cá nhân cá thể ở thời điểm đất nước mở cửa hội nhập trở lại mạnh mẽ không chỉ ở một bộ phận, tầng lớp nào đó trong xã hội mà mang tính toàn thể; không chỉ ở nhu cầu, khát vọng mà còn ở quyết tâm hành động để đạt mục đích.

 

Sự trở lại mạnh mẽ nhận thức về giá trị tự thân được thể hiện qua chủ thể trữ tình là “cái tôi - bản thể” mà luận án sẽ làm rõ ở những nội dung tiếp theo.

 

2.1.2.2. Khẳng định văn hóa dân tộc trên hành trình hội nhập

 

Chủ trương đổi mới đất nước, hội nhập toàn diện với thế giới khiến “văn hóa” - một trong ba mặt trận chính (kinh tế, chính trị văn hóa) của công cuộc đổi mới không thể đi sau. Song, đây cũng là lĩnh vực “nhạy cảm”. “Văn hóa” - bản thân nó vừa mang yếu tố “nhân loại”, vừa mang yếu tố “dân tộc” lại vừa chứa đựng yếu tố cá nhân bởi là sản phẩm của con người. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, có thể nói đây là định hướng mới mẻ trong quan điểm chỉ đạo văn hóa văn nghệ của Đảng trong thời kỳ mới. Cuối năm 1987, cuộc gặp của nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sỹ và chủ trương “cởi trói” cho văn nghệ đã tạo nên bầu không khí cởi mở, dân chủ trong đời sống văn nghệ. Gần như ngay lập tức đời sống văn hóa văn nghệ cả nước trở nên sôi nổi, tươi mới. Các cây bút đều muốn làm mới ngòi bút và muốn được tham dự vào công cuộc đổi mới hội nhập với văn học thế giới. Không phải ngẫu nhiên, những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 hàng loạt những tác phẩm mới mẻ xuất hiện. Có những tác phẩm vừa trình làng đã tạo nên “địa chấn” với sự tiếp nhận của những luồng ý kiến trái chiều (đầu tiên phải kể đến bài ký Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp và một loạt truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu). Liên tiếp trên các diễn đàn văn học “nổ” ra những cuộc trao đổi, tranh luận về những tín hiệu mới trong đời sống văn chương. Các cuộc bàn tròn, hội thảo về tác phẩm, về nhà văn với những quan điểm nói thẳng, nói thật được tổ chức. Cùng một tác phẩm, người khen khen hết lời song người chê cũng phủ nhận sạch trơn (Những ý kiến trong Hội thảo bàn tròn về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu hoặc về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp). Những bài tiểu luận mang tính “kích hoạt” thúc đẩy đổi mới văn học, như: Hoàng Ngọc Hiến viết “Chủ nghĩa hiện thực phải đạo”, Nguyễn Minh Châu viết “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” v.v…

 

 Trong địa hạt thơ, sự vận động đổi mới cũng diễn ra vô cùng sôi nổi. Trước hết, là thái độ khước từ những trói buộc, những trọng trách một thời thơ phải gánh vác, lo toan (Dùng bút làm đòn chuyển xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền - Sóng Hồng) sang quan niệm: thơ là trò chơi nhưng là “chơi thật”, “chơi nghiêm túc” (Lê Đạt); Chơi chuyên nghiệp chứ không phải “chơi đùa”, “không được chơi ẩu” (Phan Thị Vàng Anh). Quan niệm thơ là trò chơi chữ nghĩa này bộc lộ quan điểm đề cao tự do sáng tạo đồng thời nhấn mạnh tính giải trí của thơ. Nhu cầu giải trí cũng là một phương diện của nhu cầu cá nhân và là nền tảng của cá tính sáng tạo. Quan niệm này đã cấp cho thơ những phẩm chất mới: sự phóng khoáng, tự do, đối lập với tính hàn lâm, trang trọng mực thước của thơ truyền thống, cũng tạo nên tính ngẫu hứng, sự lôi cuốn, bất ngờ, nó gợi ra những khía cạnh mới trong mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc. Từ vị thế người chiến sỹ, nhà thiên sứ, nhà thơ trở về với đời thường: nhà thơ “cơm bụi”, nhà thơ “thảo dân”, người “chơi thơ”. Chân dung thi sỹ mỗi thời mỗi khác, khác ở cái thần thái tác phong, khác ở tinh thần thi sĩ. Nếu ở thời kì 1930 - 1945, chân dung tự họa của các nhà thơ đều nhấn vào tính đa cảm, mơ mộng, giàu tưởng tượng:

 

Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

(Cảm xúc - Xuân Diệu)

 

Đến những năm kháng chiến vệ quốc, thi sỹ hiện lên với đầy đủ tự tin, mạnh mẽ, hào hùng với tư thế sử thi, người cải tạo xã hội:

 

Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy

Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.

 (Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên)

 

Từ sau 1986, các nhà thơ trở về trong vẻ đời thường, thi sĩ không còn được chiêm ngưỡng từ xa, trên cao hay mơ màng trong sương khói mà hiện hữu trước ống kính hiện thực, lúc mộc mạc chân thành, khi nghiêm trang tha thiết, song có khi lại lấm láp trần tục và không thiếu khi xuất hiện ở tư thế trào lộng, chua chát bởi những loanh quanh bất lực, những bối rối, bế tắc khi phải “đối phó”với cuộc sống “cơm áo gạo tiền”, với những bất công được chứng kiến.

 

Có thể nói nhu cầu làm mới văn học nói chung, thơ nói riêng đã được thúc đẩy bởi môi trường xã hội và văn hóa đổi mới. Đó là tiến trình không thể đảo ngược, bởi nó phù hợp với quy luật vận động tự nhiên. Điều đó cũng cho thấy sức sống bền vững của một dân tộc đồng nghĩa với việc sáng suốt tìm đường đi cho sự vận động của văn hóa. Văn học trong đó có thơ - nền tảng của văn hóaluôn là lực lượng xung kích đi tiên phong và làm trụ cột cho sự vận động của nền văn học ấy tiến về phía trước.

 

2.2. Sự nổi bật của chủ thể trữ tình “cái tôi - bản thể”

 

Khái niệm “Chủ thể trữ tình” mà luận án sử dụng là cách gọi khác của “nhân vật trữ tình”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên), mục “Nhân vật trữ tình” được xác lập như sau: là “hình tượng nhà thơ trong thơ trữ tình”, “Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả - nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình”. Song, cũng ở mục này, các nhà từ điển lưu ý: Hiện có những tranh cãi về khái niệm nhân vật trữ tình, “thông thường, người ta xem nhân vật trữ tình là hình tượng khái quát như một tính cách văn học. Đó là cái “tôi” đã được sáng tạo ra. Ý kiến khác lại nhấn mạnh, cùng với hình tượng ấy, nhà thơ cũng thổ lộ tình cảm thật chân thành của mình”, tuy vậy “không được đồng nhất giản đơn nhân vật trữ tình với tác giả” [50; tr. 202]. Luận án dùng khái niệm “chủ thể” (trong cặp phạm trù đối lập với “khách thể” - chỉ thế giới bên ngoài) nhằm nhấn mạnh vai trò “chủ thể - tác giả” khác đôi chút với “nhân vật trữ tình” tức “hình tượng nhà thơ trong thơ” nhằm nhấn mạnh vai trò của chủ thể sáng tạo. Tuy nhiên, ranh giới này rất mờ nhạt, luận án sẽ quan tâm khảo sát cả “chủ thể - tác giả” và “chủ thể - nhà thơ trong thơ” để thấy mối liên hệ này đặc biệt như thế nào trong thơ Việt Nam sau 1986. Đây cũng chính là chỉ dấu của công cuộc cách tân thơ Việt Nam từ sau khi đất nước chọn hướng đi đổi mới.

 

2.2.1. Chủ thể trữ tình “cái ta - cộng đồng dân tộc” mất vị trí độc tôn

 

Chủ thể “cái ta - cộng đồng” đã từng giữ vị trí độc tôn dẫn dắt và tập hợp thơ cách mạng Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước 1986 trở thành bè điệu thống nhất với âm hưởng hào sảng hùng ca. Trạng thái sử thi của đất nước đã gắn kết cả dân tộc thành một khối. Chủ thể trữ tình trong thơ thời ấy thường nhân danh dân tộc - lịch sử để biểu đạt tâm tư, nguyện vọng của cả cộng đồng. Khi chủ thể trữ tình xưng “ta”, thì “ta” đây chính là đất nước, dân tộc, thời đại:

 

Của ta trời đất đêm ngày

Núi kia, đồi nọ, sông này của ta

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)

 

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

 

Chào 61 đỉnh cao muôn trượng

Ta đứng mắt nhìn bốn hướng

(Chào xuân 61 - Tố Hữu)

 

Cả khi ta trụ lòng ta lại để tiến trong cơn đau vết máu Hải Phòng

Chính lúc ấy, lòng ta nghe tiếng Bác

(Thời sự hè 72 - bình luận - Chế Lan Viên)

 

Đặc biệt nhất là hình tượng “cái tôi - thế hệ” trong thơ trẻ chống Mỹ. Họ xưng “tôi” nhưng là “chúng tôi” - lớp trẻ, những chàng trai, cô gái tuổi mười tám đôi mươi rắn rỏi, tự tin quyết tâm sẵn sàng gánh vác vận mệnh non sông: Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai (Bằng Việt); Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính/ Xanh màu áo lính (Thanh Thảo); Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ dẫu xa xôi gấp mấy cũng lên đường/ Sống ở Thủ đô mà hồn để mười phương/ nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn (Bùi Minh Quốc); Không sách chúng tôi làm ra sách/ Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình (Hữu Thỉnh) v.v… Họ đã tạo nên hình tượng “cái tôi - thế hệ” độc đáo, là niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ một thời.

 

Trong mỗi nhà thơ/ tác giả - chủ thể/ nhân vật trữ tình ngày ấy ý thức trách nhiệm công dân đặt cao hơn ý thức về cái tôi - cá nhân cá thể. Nói đúng hơn, đã có một sự hòa nhập tự nguyện của cái “tôi” cá nhân và “cái ta” cộng đồng - dân tộc, là sự tự nguyện mang tính dấn thân, xả thân vì nghĩa lớn - phẩm chất đạo đức cao cả mà ông cha vẫn truyền dạy cho con cháu: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh! Khi tổ quốc lâm nguy, tinh thần đoàn kết sẵn sàng hi sinh cá nhân vì độc lập, tự do của dân tộc đã khiến triệu triệu trái tim Việt Nam bỗng có cùng nhịp đập, tất cả cùng hướng đến tình yêu tổ quốc:

 

Khi căm non nước với người đứng lên

Có mối tình nào hơn thế nữa?

Có mối tình nào hơn

Tổ quốc?

(Tình sông núi - Trần Mai Ninh)

 

Lôgic tất yếu khi chủ thể trữ tình là “cái ta” - dân tộc/ lịch sử, nên nội dung chính, chủ đề chính trong thơ giai đoạn này cũng thiên về chủ đề dân tộc - lịch sử, tạo nên sự trùng khít thú vị giữa chủ thể trữ tình với đối tượng trữ tình. Sự trùng khít này đã tạo nên hình tượng kỳ vĩ, cao cả trong thơ. Niềm say mê và tự hào này đã từng làm biết bao trái tim thổn thức:

 

Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?

…Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả

(Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên)

 

Nhiều khi thấy xuất hiện chủ thể trữ tình là “anh”, “em”, song, đó là hóa thân của “cái ta - cộng đồng”, vì vậy, bên cạnh giọng tha thiết, ngọt ngào vẫn thấy giọng hào sảng tự tin:

 

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước hài hòa nồng thắm

(Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

 

Mặt em như tấm gương

Anh nhìn thấy quê hương

(Mặt quê hương - Tế Hanh)

 

Song, có thể thấy, chủ thể trữ tình “cái ta - cộng đồng dân tộc” với giọng điệu hào sảng này hầu như không còn hiện diện như một chủ âm trên văn đàn thơ sau 1986. Có thể nhận thấy sự biến thể của cái “cái ta - cộng đồng”, giờ đây “cái ta” không còn giọng điệu hào sảng mà là “cái ta” của tư thế riêng tư ngẫm ngợi, “cái ta” đầy u uẩn:  

 

Mới bình minh đó, đã hoàng hôn

Đang nụ cười tươi, bỗng lệ tuôn

Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy

Khuấy động lòng ta biết mấy buồn

(Một tiếng đờn - Tố Hữu)

 

Vẫn xưng “ta” nhưng thực chất là nỗi lòng cá nhân, tâm sự cá nhân:

 

Con sâu của bi kịch cá nhân gặm thịt ta làm ta nhục nhã

Và cởi bỏ hết bi kịch, thành vị thánh cao cả

Đằng nào hơn?

(Di cảo thơ - Chế Lan Viên)

 

Chết là hết

Mọi cái đều không

Vì ta không chết trên chiến địa

Vì vết thương này không chứng minh được ta là liệt sĩ

(Ta chết đây - Phùng Khắc Bắc)

 

Ta lang thang khắp phố phường

Người đông lòng vẫn lạnh lùng phố ơi

(Thiếu khoảng trời xanh - Nguyễn Thị Thu Hồng)

 

Xuất hiện nhiều nhất vẫn là chủ thể trữ tình xưng “tôi”. Tuy nhiên, cái “tôi” này cũng rất đa dạng, có khi chủ thể xưng “tôi” nhưng không hẳn là cái “tôi” cá thể mà là cái “tôi” - biểu tượng triết lý: Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi/ Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp/ Nhưng gì hay để quên, những gì hay bỏ sót/ Tôi ấy mà, xin bạn cứ hình dung (Lời thưa - Hữu Thỉnh); Vẽ tôi một nét môi cười/ Một dòng nước mắt một đời phù du (Vẽ tôi - Hoàng Phủ Ngọc Tường); Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình/ Nhân danh một chính mình tồn tại (Tự khúc mùa xuân - Thạch Quỳ). Những cái “tôi” này vừa cụ thể vừa khái quát, vừa riêng tư vừa hòa vào đám đông.

 

Có khi đại diện cho sự bé nhỏ, giản dị, đời thường: Tôi thường bị đám gai của hoa hồng xua đuổi/ Không có cách chi lọt vào mắt vô tình/ Trong tiệc lớn rượu nào ai cũng nhớ/ Tôi ấy mà, những chiếc cốc vô danh (…) Với hạnh phúc tôi đứng ngoài song cửa/ Với chia tan tôi là khúc ca buồn (…) Tôi ấy mà, một cuống rạ bơ vơ (Lời thưa - Hữu Thỉnh). Có lẽ nhiều nhất vẫn là “cái tôi” cá tính với những bộc bạch chân thành: Mà sao tôi chẳng là tôi/ Khi hèn mọn đánh rơi mình vào quên lãng (Ngô Minh); Như tôi mang dấu ruộng, dấu vườn (Nguyễn Duy); Nói với bóng mình trên vách (Hoàng Phủ Ngọc Tường); Tôi nhìn thấy tôi (Nguyễn Khắc Thạch); Tôi đi tìm mặt của tôi (Hoàng Hưng); Tôi hay héo như nước/ Tôi hay buồn như cây (Hữu Thỉnh) v.v…

 

Sự trở lại của cái “tôi - cá thể” lần này mang những sắc vẻ mới khác với sự thức tỉnh ý thức cá nhân những thập kỷ đầu của thế kỷ hai mươi. Cái “tôi” - cá nhân cá thể đầu thế kỷ hai mươi lần đầu xuất hiện và tự khẳng định, vì vậy, nó mãnh liệt, sôi nổi đến ngạo nghễ: Ta là một, là riêng, là thứ nhất/ không có chi bè bạn nổi cùng ta (Hi mã lạp sơn - Xuân Diệu). Chủ thể “cái tôi” ấy vừa sung sướng nhận ra bản ngã của mình, vừa đau khổ khi ý thức được giới hạn và sự cô đơn của nó: Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn (Hi mã lạp sơn); Củi một cành khô lạc mấy dòng (Tràng Giang - Huy Cận); Ta biết ta chúa tể cả muôn loài/ Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi (Nhớ rừng - Thế Lữ), v.v… Đó là “cái tôi” - bản ngã của nhận thức triết học, vì vậy, nhấn mạnh nhiều đến cá tính, nhu cầu khẳng định cái “riêng”, cái “duy nhất” - bản thể phân biệt mình với mọi người. Đó cũng là nhu cầu khẳng định giá trị tự thân, cá tính sáng tạo. Vì vậy mà chúng ta có cả “một thời đại thi ca” được tạo lập bởi một rừng cá tính phong cách. Điều mà Hoài Thanh khi ấy sung sướng quả quyết: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này”. Sự phong phú ấy được lý giải bằng căn cốt của sự giải phóng cá tính, cái “tôi” - cá thể: “Từ người này sang người khác, sự cách biệt rõ ràng. Cá tính con người bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu bỗng được giải phóng. Sự giải phóng có thể tai hại ở chỗ khác. Ở đây, nó chỉ làm giàu cho thi ca” [130; tr. 32].

 

Chủ thể cái “tôi” - cá nhân cá thể trong thơ sau 1986 có sắc thái khác, không quá nhấn mạnh vào nhu cầu khẳng định “bản ngã”, cá tính nữa, bởi người ta đã “biết” đã quen với điều đó qua mấy chục năm rồi. Cái “tôi” - cá nhân cá thể giờ đây muốn đi sâu khám phá, phát hiện con người - bản thể ở mọi cung bậc của nó. Chưa bao giờ con người cá nhân - cá thể lại mẫn cảm và bộc bạch thẳng thắn như thế về cái tôi - cá thể mạnh mẽ, tự tin như vậy trong mối quan hệ với thời cuộc và những va chạm xã hội. Điều đáng nói là với tâm thế phản biện, chủ thể trữ tình phát hiện thế giới ở nhiều chiều kích. Có thể nhận thấy cả một thế giới đa dạng và sinh động khi chủ thể - cái tôi bản thể có dịp phô bày. Nào là chuyện cơm áo gạo tiền -  nỗi niềm của “thi nhân” thời cơ chế thị trường:

 

Chả còn ai yêu vầng trăng và hương lúa ngoài đồng

Yêu bà Tiên hay đám mây trên lầu Hoàng Hạc

Giờ là thế giới của xe cúp, tivi, phim màu ngũ sắc

Của quyền lực, tuổi tên, đốp chát

Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng!

(Thời thượng - Chế Lan Viên)

 

Hoặc

 

Lương thoảng qua như chút hương trời

Đồng nhuận bút hiếm hoi lọt vào nhà trống

Vợ chồng nằm ngủ với nhau đắn đo như vụng trộm

Không sợ cái nào bằng cái sợ sinh con

(Bán vàng - Nguyễn Duy)

 

Chia sẻ này của chủ thể trữ tình dưới đây cũng vậy, họ đưa thơ về với xã hội dân sinh mang màu sắc “hiện sinh chủ nghĩa”: Nhà làm chưa xong/ Vợ học chưa xong/ Con học chưa xong/ Nhiều cái chưa xong/ Và chết cũng không đành lòng nhắm mắt. Hóa ra, chủ thể trữ tình này đã từng là anh lính trận một thuở “đạp bằng sông núi ta đi/ máu xương chẳng tiếc tiếc gì tuổi xuân”, trở về với đời thường là hai bàn tay trắng và thương tích đầy mình. Trong “tính toán” đầy tính “cá nhân” này có nỗi đau của sự thiệt thòi, bất lực.

 

Có khá nhiều nỗi buồn mang tâm sự u uất này của chủ thể trữ tình sau 1986. Có thể nói, cơ chế thị trường như một cú giáng mạnh vào suy nghĩ, tình cảm của những thế hệ đã trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến và cơ chế bao cấp. Họ giống như bị lạc lõng, bị bỏ lại đằng sau giữa cuộc đời mà chính họ đã góp cả xương máu của mình để gìn giữ. Vì vậy, có thể hiểu được tâm trạng chua xót và dằn vặt của những người đã ở lằn ranh giới sống - chết, từng xả thân cho độc lập tự do của dân tộc:

 

Ta đi hết một thời trai trẻ

Tìm thanh gươm nghĩa khí nghìn thu

Đùa thôi nhé, sắc cỏ vàng trên mộ

Anh hùng xưa biệt dấu sương mù.

(Khúc ngâm đùa chơi - Hoàng Phủ Ngọc Tường)

 

Có lúc họ còn nhìn cuộc sống bằng triết lý bi quan:

 

Hư ảo hỡi, giữa vô cùng còn mất
Ta là ai? thăm thẳm có ta không?

(Bừng thức - Trần Nhuận Minh)

 

Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt

Hải Vân ơi xin đừng tắt ngọn sao khuya

Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng

Anh trở về hóa đá phía bên kia.

(Tạm biệt Huế - Thu Bồn)

 

Đáng kể nhất là sự xuất hiện đông đảo chủ thể trữ tình là các cây bút nữ. Nếu muốn nói tới thức nhận một cách tự tin, mạnh mẽ “cái tôi - cá nhân cá thể” mang màu sắc phái tính thì thơ sau 1986 hiện diện điều này rõ ràng nhất. Họ đứng vững trên cái tôi cá nhân để bộc lộ những tình cảm sâu sắc nhất, kín đáo nhất, huyền bí nhất và kể cả những lo lắng thường nhật, những uẩn khúc rắc rối, đều không xa lạ với sự sáng tạo:

 

Em chết trong nỗi buồn
Chết như từng giọt sương
Rơi không thành tiếng

(Viết tặng nỗi buồn riêng - Lâm Thị Mỹ Dạ)

 

Đập nát sự đơn điệu, khuôn khổ cũ kỹ, nhàm chán và cam chịu
Em tự làm mất đối xứng bằng em

Em sẽ vắt mình đến giọt cuối cùng, làm nghiêng ngả mọi ổn định

(Không thanh thản - Vi Thuỳ Linh)

 

Chủ thể tự ví mình là những chú “ngựa non dậy thì” thì đủ biết họ tự tin vào sức sống trẻ trung và khao khát được tự do “tung bờm cất vó” khẳng định mình như thế nào:

 

Thức dậy đi hỡi chú ngựa non của đồng ngực trẻ

Thức dậy và tung bờm cất vó

Phóng như điên

Chỉ cơn điên mới cứu khỏi nỗi sợ hãi

Hèn nhát

(…)

Thức đậy dẫm chân và lắc đầu kiêu hãnh

Trước những yên cương rực rỡ sắc màu

Thức dậy để uống sương mai

Đón mặt trời mỗi sớm.

(Bài ca ngựa non - Trần Lê Sơn Ý)

 

Xuất hiện ở nhiều “vai”, nhiều vị trí, nhiều cung bậc tâm trạng, chủ thể trữ tình của thơ sau 1986 bộc lộ sự trở lại của “cái tôi - cá nhân cá thể” một cách đa dạng và mạnh mẽ, sôi nổi. Nó lấn át chủ thể cái ta - cộng đồng và cho thấy thơ sau năm 1986 đã hoàn toàn khác. Nó đã đổi mới về phía đời thường nhân bản.

 

2.2.2. Sự “lên ngôi” của chủ thể trữ tình “cái tôi - bản thể”

 

“Bản thể” (tiếng Anh: identity, tiếng Latinh: identitas) là khái niệm của triết học duy tâm, “chỉ bản chất của sự vật” hoặc chỉ “quan hệ mà mỗi vật mang chỉ đối với nó mà thôi”. Khái niệm “cái tôi - bản thể” mà luận án sử dụng nhằm nhất mạnh tính chủ thể từ trong bản chất của sự vật, với mỗi cá nhân con người, bản chất ấy bị chi phối từ trong cấu trúc “gen”, “nòi giống” - cha sinh mẹ đẻ. Trong thơ sau 1986, nhận thức của “cái tôi - cá nhân cá thể” bộc lộ tính “bản thể” từ trong chiều sâu triết học, bởi, chưa bao giờ trong thi ca Việt Nam, cá tính của cái tôi - cá nhân cá thể lại bộc lộ một cách tự nhiên đến tận cùng “bản thể” đến thế. Mỗi cá nhân không chỉ tạo ra một phong cách, mà là “đa phong cách”, bởi, không thể lượng hóa được khả năng, đặc tính trong mỗi con người cá nhân - cá thể. Đó là nguyên nhân khiến giới lý luận không thể hệ thống thành các khuôn mẫu phong cách mà chỉ có thể nói tới các xu hướng đột phá, cải cách, thử nghiệm làm mới thơ sau 1986 mà thôi. Chủ thể trữ tình là biểu hiện đầu tiên bộc lộ “cái tôi - bản thể” của thơ sau 1986 và sự đa dạng của hệ thống chủ thể lẫn việc cùng lúc mỗi cá nhân tác giả vừa thuộc hệ thống chủ thể này vừa là chủ thể khác cho thấy con người quả là một “tiểu vũ trụ” thu nhỏ. Hi vọng tìm hiểu, giải mã đến tận cùng tâm lý, tính cách con người là điều bất khả thi. Từ đối tượng khảo sát, luận án hệ thống những biểu hiện của “cái tôi - bản thể” qua phương diện chủ thể trữ tình thành các dạng thức dưới đây. 

 

2.2.2.1. Chủ thể trữ tình “cái tôi - phái tính” mạnh mẽ

 

“Phái tính” một cách gọi khác của khái niệm “giới tính xã hội” để phân biệt sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới ở cả hai phương diện “giới tính sinh học” và “vai trò xã hội” của giới. Ý thức “phái tính” đã tạo cho thơ từ sau 1986 những gương mặt thơ thật ấn tượng.

 

Không phải ngẫu nhiên đã có ý kiến cho rằng văn học sau 1986 là sự lên ngôi của phái nữ. Ý thức giới tính cộng hưởng với tinh thần nữ quyền đã tạo cho văn học Việt Nam sau 1986 nói chung một diện mạo mang thiên tính nữ, đó là sự nổi bật cả về số lượng lẫn chất lượng của các cây bút nữ. Chưa hết, họ còn viết theo lối “tự ăn mình” tức là lấy chính mình hoặc giới mình làm đối tượng khai thác. Ở thể loại văn xuôi, nhiều tác phẩm công khai giới tính nữ ngay từ nhan đề: Hành trang của người đàn bà Âu Lạc (Võ Thị Hảo), Người đàn bà ám khói (Nguyễn Thị Thu Huệ), Người đàn bà bí ẩn (Phạm Thị Ngọc Liên), Người đàn bà bơi trên sóng (Bích Ngân), Người đàn bà kể chuyện, Tiểu thuyết đàn bà, Ba người đàn bà (Lý Lan), Đàn bà xấu thì không có quà, I am đàn bà, Người đàn bà có ma lực (Y Ban), Trên mái nhà người phụ nữGánh đàn bà (Dạ Ngân), v.v… Nhiều tác phẩm còn thể hiện những tín hiệu “ám chỉ” về “giới tính sinh học” của giới nữ: Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Xuân Từ Chiều (Y Ban); Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữGóa phụ đen (Võ Thị Hảo), Thiếu phụ chưa chồng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Chuyện của con gái người hát rong (Võ Thị Xuân Hà), Gái một con (Trần Thanh Hà), Thần nữ đi chân không (Trần Thùy Mai)… Họ đã biến những tác phẩm văn chương thành những diễn ngôn về giới đậm tính bản thể. M.Foucault từng viết: “Trong bản thể con người vốn có một thứ căn bản nguyên sơ là dục vọng, và thứ dục vọng này đưa đến ham muốn tiếp xúc nhục thể, tạo thành sự cộng hưởng sinh hoạt” [122; tr. 7]. Nhà nữ quyền hiện sinh Beauvoir nổi tiếng cũng từng nhấn mạnh nói về tình dục không phải là đặc quyền của đàn ông: “Để trở thành một cá nhân hoàn toàn và bình đẳng với nam giới thì người nữ phải được tiếp cận với thế giới nam giống như người nam tiếp cận với thế giới nữ” [122; tr. 8]. Khẳng định nhân vị đàn bà, đã có một hiện sinh tính dục trong các trang văn phụ nữ. Âm hưởng nữ quyền không chỉ bộc lộ trong văn xuôi mà còn thể hiện rất đậm nét trong thơ. Trong hành trình xác lập cái tôi nữ giới, chủ thể trữ tình là tác giả nữ không chỉ khẳng định bản ngã mà còn tự giải phóng bản thân, bằng ý thức về vẻ đẹp nữ giới; Y thức về cái tôi cá thể, về những đòi hỏi bản năng… tạo nên âm hưởng “nữ quyền” rất sôi nổi. Họ thẳng thắn bộc lộ nhu cầu tình yêu, tình dục như quan điểm thẩm mỹ về hạnh phúc:

 

Đắm đuối em

Đôi mắt Anh

Mang bình minh và bóng tối

Khi em hôn mắt Anh, mắt trong mắt Anh

Khi em nằm nơi Anh,

Khi áp vào tai Anh,

Khi em hòa trong toàn vẹn Anh,

Không còn biết một chấn động nào hơn

Anh xoáy vào em

Cơn lốc .

(Đôi mắt Anh -  Vi Thùy Linh)

 

Không che dấu e lệ nữa mà chủ động “nói” ra điều mong muốn:

                    

Em sẽ chờ anh

như lúa đợi sấm tháng ba

như vạt cải vội đơm hoa

đợi ngày chia cánh bướm

như cô Tấm thương chồng từ kiếp trước

lộn lại kiếp này từ quả thị nhận ra nhau

(Huyền thoại - Đoàn Thị Lam Luyến)

       

“Lộn lại kiếp này”, thật ghê gớm và quyết liệt trong hành trình bảo vệ hành phúc. Đừng nghĩ rằng khi họ nhận mình là “phái yếu”, là “những người đàn bình thường” thì họ “yếu” thật, “bình thường” thật, khi họ ý thức về vai trò của mình trước xã hội và cuộc sống thì nghĩa là họ rất “mạnh”, sức mạnh của họ chính là làm nên tình yêu - thương, thử hỏi, trái đất không có tình yêu thương có còn cuộc sống?

 

Chúng tôi là những người đàn bà bình thường trên trái đất

Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày

Chúng tôi chẳng có tàu ngầm, tên lửa, máy bay

Càng không có hạt nhân nguyên tử

Chúng tôi chỉ có chậu có nồi có lửa

Có tình yêu và có lời ru

(…)

Nếu ví dụ không có chúng tôi đây

Liệu cuộc sống có còn là cuộc sống

(Thơ về phái yếu - Xuân Quỳnh)

 

Không còn kiêng nể gì nữa, sex hay không sex, bản năng hay không bản năng, truyền thống với định kiến xã hội: bất chấp tất! Các nhà thơ nữ thể hiện mình, phơi mở và phô bày cái tôi chủ quan, không che giấu, không cần qua trung gian ẩn dụ hay nhờ cậy sự đánh tráo của ngôn ngữ để gợi, tưởng tượng mà trực tiếp, đẩy tới, nâng cao, phóng đại. “Từ tâm tình, thái độ hay cả hành xử của thân xác trong sinh hoạt dục tính. Tất cả đều được phép họ tự ban cho mình” [77; tr. 96].

 

Chưa khi nào chủ thể trữ tình là các cây bút nữ lại táo bạo đến thế khi thể hiện nhu cầu tình yêu thầm kín. Vi Thùy Linh viết: Khỏa thân trong chăn/ thèm chồng. Chưa đủ, lúc khác, chủ thể trữ tình này “nói to” lên suy nghĩ táo bạo:

 

Anh yêu của em

Em yêu Anh cuồng điên

Yêu đến tan cả em

Em đếm từng ngày Anh đến

Ngày dài hơn mùa

Em mong mỏi

Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi

Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi Anh.

(Dệt tầm gai - Vi Thùy Linh)        

 

Khương Hà Bùi cũng không chịu thua kém:

 

Hỡi cơn gió mấy ngàn năm vọng tưởng sóng cồn

Xin gài vào đêm những giấc mơ tình yêu nồng nàn môi ngọt

Em và anh

Say đắm tìm, say đắm yêu, say đắm tin

Say đắm điệu múa thảo nguyên mộng mị đường về

(Thụy du -  Khương Hà Bùi)

 

Họ tự tin đến mức những câu thơ này nếu chỉ viết trước đó ít năm không ai nghĩ nó được viết ra bởi một cây bút nữ:

 

Anh rơi trong em
Rơi không chiều rơi huyễn hoặc
Nắng rơi chiều chợt nắng quái xưa

(Rơi tình - Phan Huyền Thư)

 

Hàng triệu tú cầu cùng đêm trườn qua những ngón mềm khi

chúng mình gắn nhau bằng hơi thở

Những ngón mềm trườn trên thân thể

Tất cả tan vào thao thiết nguồn yêu.

(Một mình tháng tư - Vi Thùy Linh)

 

Khát vọng tình dục thấm đẫm các trang thơ. Họ thể hiện như là tín đồ của hiện sinh hay Freud, họ muốn khẳng định tự do - dân chủ - nữ quyền - xu hướng bình đẳng giới có tính toàn nhân loại:

 

Dằn nỗi cô đơn vào thoái thác

Em thèm miết ngón tay

Không vị mặn của anh

Mắt

Môi lưỡi

Răng

(Điệp khúc sáng mùa đông - Phan Huyền Thư)

 

Quỳ trong đêm em cởi mình

Những cơn gió lao đến bế thốc mùa thu đi

Những cánh tay chạm vào…em…run rẩy

Không phải tay Anh!

Một mình em nức nở

(Nói với anh - Vi Thùy Linh)

 

Vì vậy mà kể cả khi họ thú nhận thất bại thì đó cũng là thú nhận của một ý thức rất chủ động và tự tin:

 

Em muốn ôm cả đất

Em muốn ôm cả trời

Nhưng sao không ôm nổi

Trái tim một con người.

(Khát vọng - Đoàn Thị Lam Luyến)

 

          

Một sự thú nhận đầy nữ tính nhưng thật cá tính mạnh mẽ:

 

Em xanh xao từ thuở 

Không dạy bảo được tim  

(Nghĩ Lại - Phan Huyền Thư)

 

Với phái nam, họ bộc lộ phái tính của mình thật lắm vẻ, từ chọc ghẹo trêu đùa “phái nữ” một cách tinh nghịch:

 

Cô gái ơi anh nhớ em!!!

Như con nít nhớ cà rem vậy mà

Như con dế trống đi xa

Một hôm chợt nhớ quê nhà, gáy chơi

Con dế nó gáy một hơi

Còn anh gáy hết một thời con trai

Tiếng gáy bò đến lỗ tai

Làm em nhột suốt một ngày một đêm.

(Thiếu nữ - Bùi Chí Vinh)

 

Áo trắng là áo trắng à

Một hôm ta thấy bạn ta thẹn thùng

Vở che ngực nhú thẹn thùng

Ta ngơ ngẩn ngó má hồng hây hây

(Áo trắng má hồng - Nguyễn Duy)

 

Cho đến những bày tỏ nhục cảm:

 

Bao giờ cho tới ngày xưa

yêu như các cụ cho vừa lòng ta

cái thời chưa nhiễm SIDA

yêu lăn yêu lóc la đà đã chưa

(Được yêu như thể ca dao - Nguyễn Duy)

 

Có khi còn sỗ sàng bộc lộ những suy nghĩ đi ngược với thuần phong mỹ tục:

 

Xa một ngày bằng triệu mùa đông

Em bỏ chồng về ở với tôi không?

(Em bỏ chồng về ở với tôi không - Đồng Đức Bốn)

 

Xin em đừng nản lòng yêu

Tình tang là cuộc phiêu lưu tuyệt vời

Xin em đừng ngán cuộc chơi

Phiêu lưu đã nhất trần đời là mơ.

(Bài ca phiêu lưu - Nguyễn Duy)

 

Điểm khác nhau là cũng viết về sex, nhưng chủ thể trữ tình - “phái mạnh” không bộc lộ tinh thần “đòi”, “đấu tranh”, “khao khát” mà là nhấm nháp, hưởng thụ. Họ thưởng thức sex và cảm nhận giá trị/ sức mạnh nội cảm của sex:    

 

Chầm chậm cái nhìn chầm chậm

Những khí quản trong đêm chầm chậm

Quờ lên môi nực ướt

chầm chậm

(Chầm chậm - Hoàng Thuấn)

 

Bóng đèn cháy. Taxi trôi vào vùng tối

huyền bí lạ quen khám phá lửa triệu năm giấu kín

Lửa từ trên trào lên hừng hực dậy thì

Lửa từ núi phun xuống đồng bằng phù sa nham thạch

Không ai chết cả

Họ đã đến thiên đường

(Taxi - Nguyễn Trọng Tạo)

 

Mai Văn Phấn không nhìn bạn tình ở góc nhìn gợi dục mà bay bổng hóa sex, mối quan hệ nam - nữ trở thành sức hút âm - dương, đó là nguyên lý của càn khôn, là nguồn mạch của vũ trụ - nguồn mạch sinh nở sự sống:          

 

…Vạt cỏ mềm cơn mơ âu yếm

Quấn chặt anh chăn ấm sơ sinh.

Vươn thẳng

Tán cây quang hợp mặt trời

Lá chồng lên nhau hoan hỉ

Bật dậy thở chung dòng nhựa

Máu từ đất đai chạy qua bàn chân.

 

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Đức, “Cả cuốn thơ dày 120 trang của Mai Văn Phấn được chú mục riêng cho chủ đề tình yêu, chính xác hơn là nhắm thẳng vào tình dục. Nhưng người đọc không thấy gợi lên bất cứ một câu dung tục, thẳng tưng, trắng trợn nào, mà nó như làn gió siêu hình rước ái tình bước vào những cơn mơ, những ám ảnh, những hoài ức, những mường tượng, và những giá trị được siêu việt hóa, lý tưởng hóa của tình dục thân xác” (Đọc Bầu trời không má che) [82; tr. 360].

 

Cùng “gu” với Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều cũng đề cập đến sex và cũng không diễn đạt gây sốc mà tinh tế và khỏe khoắn: Em nằm nghiêng trong đêm/ Như con thuyền cô đơn nép mình trên bến cát/ Tôi cởi áo mình ra căng một cánh buồm (Cánh buồm); Tôi nhớ áo em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa (Sông Đáy); Bỗng một đêm manh áo cũ bay về/ Căng lộng lẫy một lá cờ vĩ đại/ Những chiếc cúc sáng lên như sao buổi sớm/ Anh thấy thân thể em trong bóng áo rạng ngời (Những chiếc áo).

 

Các cây bút miền núi cũng tỏ ra không kém cạnh ở phương diện này. Lò Ngân Sủn (dân tộc Cháy) thể hiện cuộc tình mãnh liệt với chất giọng miền núi hồn nhiên, mộc mạc:

 

Hai ta yêu nhau giữa lều nương

lều nương không phên vách

ta cởi áo làm phên vách.

Hai ta yêu nhau giữa lều ruộng

lều ruộng không chăn chiếu

ta cởi áo làm chăn chiếu

(Con của núi - Lò Ngân Sủn)

       

Còn đây là Y Phương của dân tộc Tày Cao Bằng:

 

Mùa hoa

Mùa đàn bà

Mặt đỏ phừng

Thừa sức vác ông chồng

Chạy phăm phăm lên núi.

Mùa hoa

Mùa đàn ông

Mệt như chiếc áo rũ

Vừa vịn rào vừa đi vừa ngủ

(Thơ Y Phương)

 

Inrasara, nhà thơ của dân tộc Chăm có cách diễn đạt thật hiện đại:

 

Lang thang mãi khu rừng nguyên sinh em

Cho anh mất lối về

(Chuyện chúng mình - Inrasara)

 

Cho đến lúc những gì thuộc về phái tính không còn mới mẻ nữa bởi thực tiễn đời sống đã không còn gì che dấu và các kênh “nhìn” cũng góp phần làm cho chủ đề phái tính không còn tạo lực hấp dẫn thì cảm hứng về chủ đề này nhạt dần.

 

2.2.2.2. Chủ thể trữ tình với nhu cầu xác lập giá trị tinh thần trên quan điểm cá nhân

 

Ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, đời sống tư tưởng xã hội thay đổi, các chuẩn mực giá trị tinh thần cũng thay đổi theo. Hơn ba mươi năm đất nước gắn liền với các cuộc chiến tranh vệ quốc, giá trị cá nhân với các mối ràng buộc riêng tư phải hi sinh cho giá trị cộng đồng. Tất cả đều tự nguyện dâng hiến: Đi đi non nước chờ anh đó/ Tiền tuyến cần thêm có hậu phương (Tố Hữu). Lời người phụ nữ, người vợ và cả những người mẹ tiễn chồng, con ra trận với tinh thần xả thân, dâng hiến như vậy trở thành chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ của người Việt Nam thời đó. Tất cả các quan hệ đời sống khác đều bị hút về quan hệ dân tộc lịch sử, chịu sự chi phối và lấn át của quan hệ này. Sau 1975 mà thực chất là từ sau năm 1986, môi trường hòa bình và quy luật đời thường đã dần thấm vào cuộc sống, thêm nữa, công cuộc hội nhập thế giới và vận hành theo chế thị trường ngày càng kích hoạt nhu cầu cá nhân. Cơ chế thị trường, một mặt, vừa giúp ta thoát khỏi bế tắc của cơ chế quan liêu bao cấp, song cũng tạo nên những bất cập không dễ giải quyết một sớm một chiều. Đó là nguyên nhân, ở giai đoạn bắt đầu hội nhập với kinh tế thị trường, đa phương hóa mọi mặt đã xảy ra khủng hoảng trong việc xác lập, xây dựng những giá trị tinh thần mới về đạo đức. Những quan niệm về đúng - sai, cũ - mới, tiến bộ - lạc hậu, truyền thống - hiện đại… không dễ phân định. Giai đoạn giao thời này sẽ kéo dài bao lâu? Nhà văn Nguyễn Khải trong truyện ngắn Một chiều mùa đông dự đoán: “… Chiến tranh đã kết thúc hai chục năm về trước, cái sự hoàn thiện về mặt đạo đức của cá nhân và của xã hội xem chừng còn phải mất một thời gian dài nữa, cũng phải khoảng dăm bảy chục năm nữa”. Thật khó mà đoán định, ba mươi năm, bốn mươi năm, thậm chí năm mươi năm đối với đời một con người thật dài, song với lịch sử một dân tộc thì chẳng có gì thấm tháp. 70 năm qua, kể từ sau 1945, dân tộc đã xây dựng được một nền tảng văn hóa mới lấy lý tưởng cộng sản làm kim chỉ nam cho mục đích phấn đấu và mục tiêu hành động. Nhiều thế hệ người Việt Nam đã thích nghi và quá quen thuộc với những quy chuẩn đạo đức - thẩm mỹ này. Khi thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, Việt Nam nắm bắt cơ hội, đặc biệt lần đầu tiên chúng ta xác định là “bạn” của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Có thể nói, đây là hoàn cảnh chưa có tiền lệ trong đời sống lịch sử - văn hóa dân tộc. Vì vậy, những lúng túng, băn khoăn và xu hướng kiếm tìm, xác lập những giá trị mới trong đời sống văn hóa tinh thần của đất nước đặt ra như một nhu cầu tất yếu ở cả tầm vóc vĩ mô là quốc gia, dân tộc và vi mô là nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân - cá thể. Thơ - thể loại luôn đi tiên phong trong ứng xử với hiện thực đời sống cũng xuất hiện sớm nhất nội dung này. Chủ thể trữ tình quan tâm, trăn trở tìm kiếm, xác lập những giá trị tinh thần mới đã tạo nên mạch cảm hứng riêng trong thơ sau 1986.  

 

Chủ thể trữ tình tôn vinh gia đình, quê hương và môi trường quen thuộc trở thành xu hướng kiếm tìm giá trị tinh thần của chủ thể trữ tình thơ sau 1986. Đây là một thực tế thú vị mà không bất ngờ. Đâu phải giá trị mới sẽ luôn nằm ở cái mới, đối tượng mới. Trong hành trình hội nhập văn hóa, các cây bút nhận ra, phải là chính mình từ trong căn cốt mới có thể tự tin hội nhập và hóa ra, chẳng phải tìm kiếm đâu xa, truyền thống và nguồn cội chính là giá trị thiêng liêng mà từ đấy ta trưởng thành. Việc tổ chức những chuyến hành trình trở về nguồn cội để “phát hiện lại” và tôn vinh ý nghĩa của những giá trị truyền thống đã tạo nên hướng khám phá mới của thơ sau 1986.

 

Tôi hát bài hát về cố hương tôi

Trong ánh sáng đèn dầu

Ngọn đèn đó ông bà tôi để lại

…Thuở tôi vừa sinh ra

Mẹ đã đặt ngọn đèn trước mặt tôi

Để tôi nhìn ngọn đèn mà biết buồn, biết yêu và biết khóc.

(Bài hát về cố hương - Nguyễn Quang Thiều)

 

Những biểu tượng: ánh sáng ngọn đèn dầu, mẹ, ông bà… đã trở thành “báu vật” cố hương. Mấy chục năm, bàn chân đã đi từ trận mạc đến trời Tây để rồi nhận ra giá trị văn hóa của “làng Chùa” - quê hương. Nhà thơ khi đầu đã bạc tự nguyện kiếp sau “làm con chó nhỏ” để canh giữ báu vật cố hương:

 

Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ

Để canh nỗi buồn

Báu vật cố hương tôi.

(Bài hát về cố hương - Nguyễn Quang Thiều)

 

Trong “Thay lời tựa” mở đầu  tập Châu thổ Nguyễn Quang Thiều diễn đạt:

 

“Qua giọng kể của bà tôi, một đời sống khác của những gì tôi đã từng biết hiện lên (…) Qua giọng nói của bà tôi, tôi đã lưu giữ trọn vẹn những gì đã qua đời sống này ở làng quê của tôi. Một đời sống mà chẳng bao giờ mất đi như ta tưởng. Một đời sống làm chúng ta hình dung đầy đủ hơn về vũ trụ…” (Châu thổ).

 

Từ chỗ “sợ hãi” đến chỗ “hình dung đầy đủ về vũ trụ” qua lời kể của bà phải chăng là hành trình nhận thức và khi “ngộ” ra thì niềm vui xen lẫn tự hào. Tác giả đã nhiều lần “khóc” và “lễ tạ” (tên một bài thơ của Nguyễn Quang Thiều) khi tìm được “con đường” thức nhận, đó chính là con đường “dắt ta về hồ nước cũ” - “cố hương tôi”. Trong một loạt các bài thơ: Tôi khóc những cánh đồng rau khúc, Những người đàn bà gánh nước sông, Bài hát về cố hương, Cánh đồng, Một bài hát tình yêu của làng Chùa, Nghe tiếng con chim cuốc, Những con thuyền sông Đáy, Tháng mười, Cánh đồng, Bầy chó của tôi, Mười một khúc cảm v.v…, Nguyễn Quang Thiều cho thấy cuộc sống gia đình với những mối quan hệ thương yêu chia sẻ, quê hương - chiếc nôi nuôi dưỡng cả thể xác và tâm hồn, tình bạn - tình yêu thơ ngây trong sáng… chính là những giá trị hình thành nên nhân cách, tâm hồn mỗi con người. May mắn thay cho ai trên hành trình vạn dặm để trưởng thành vẫn giữ được mối liên hệ với những giá trị ấy sẽ không bị “lạc đường”, sẽ là nơi vỗ về “trốn những lo âu về lại cánh đồng” (Cánh đồng), nơi ấy sẽ là ngọn lửa vừa ấm áp vừa dịu dàng “tắm rửa những ban mai” (Hòa âm của những đa bào). Song, đừng cả tin mà nghĩ rằng, trở lại “cố hương” chỉ thấy toàn màu cổ tích, chỉ có yêu thương, ấm áp, bên cạnh những ngọt ngào, chủ thể trữ tình day dứt nhận ra, miền yêu thương ấy cũng là miền gian khó và lam lũ. Không tự ru ngủ mình song cũng khẳng định văn hóa nghìn đời của cha ông vẫn là nền tảng tinh thần để chúng ta bước ra thế giới.   

 

Cũng theo mạch suy nghĩ ấy, Lâm Thị Mỹ Dạ khẳng định những giá trị văn hóa truyền thống đã theo mình, nâng đỡ mình trong suốt hành trình cuộc sống:

 

Tôi yêu chuyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

Mang theo truyện cổ tôi đi

Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa

(Truyện cổ nước mình - Lâm Thị Mỹ Dạ)

 

Đồng Đức Bốn còn quyết liệt khẳng định:

 

Bao nhiêu là thứ bùa mê

Cũng không bằng được nhà quê của mình

(Gửi Tân Cương - Đồng Đức Bốn)

 

“bùa” gây “mê” Đồng Đức Bốn nơi thôn dã - nhà quê ấy là:

 

Cỏ gà cục tác trên đê

Làm cho cua cáy cũng mê mẩn hồn

(Chiếc gió nụ hôn)

       

Đây nữa:

 

Từ trong méo nắn lệch kê

Tôi ngồi thương nhớ đồng quê một mình

(Nhà quê)

 

Cũng nhờ mái rạ mái rơm

Mà tôi vượt khỏi ngàn cơn bão lòng

(Đứng trong cơn bão mà trông)   

 

Nguyễn Duy - cây bút đi ra từ chiến trường và cũng là cây bút nhập cuộc khá sớm với thời “mở cửa”. Ông có nhiều bài thơ “nghị luận” về các vấn đề xã hội. Nguyễn Duy với một chùm các bài: Về đồng, Dòng sông mẹ, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Cầu Bố v.v… tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống quê hương. Đó là những phẩm chất của con người quê hương qua hình ảnh “dân làng tôi”, cha tôi, bà ngoại…, qua những kỉ niệm thiêng liêng:

 

Lụt trắng đồng mà không trắng lòng

Bạn đón tôi hoa đào và xôi gấc

Be tết không đầy nhưng không nhạt

Uống rồi nghe có bão ở bên trong…

(Dân ơi - Nguyễn Duy)

 

Cái cò... sung chát đào chua...

câu ca mẹ hát gió đưa về trời

ta đi trọn kiếp con người

cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Duy)

 

Mai Văn Phấn cũng tha thiết trở về với “vườn”, với “cỏ” và xem đó như là cứu cánh làm trẻ lại tâm hồn:           

 

Ta về đổ bóng xuống vườn

Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi hở mọc vô vàn cỏ non.

(Tản mạn về cỏ - Mai Văn Phấn)

 

Inrasara và nhóm các cây bút Chăm thực sự tạo ra nỗ lực về việc làm thức dậy một nền văn hóa cổ kính, đẹp đẽ đáng tự hào: nền văn hóa Chăm. “Không ai có thể hát thay chúng ta”, câu thơ trong một bài thơ cùng tên của Inrasa có thể coi là tuyên ngôn tinh thần của cây bút này và đó là tinh thần “khai hoang ánh sáng”!

 

Con là Chăm ngay ban đầu vỡ ra tiếng khóc

(còn hơn thế: chín tháng mười ngày trước khi vỡ òa tiếng khóc)

khi con cắm rễ nơi đây

hay khi con lang bạt tận cùng chân trời

con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa cuối đời.

(Lễ tẩy trần tháng Tư - Inrasara)

 

Inrasara còn dành hẳn một trường ca có tên gọi Quê hương gồm mười tám bài thơ và một trường ca cùng tên cũng dành viết về quê hương, tìm về nguồn cội. Nhà thơ kiêu hãnh tự hào về dân tộc mình, một dân tộc đã tạo nên những giá trị văn hóa vĩnh cửu:

 

Trong điệu vũ khơi vơi

Apsara phô phang đường cong diễm ảo

Những đường cong chạm vào vĩnh cửu

Vĩnh cửu xoay trong lốc vô thường

(Quê hương - Inrasara)

 

Có thể “lốc vô thường” sẽ làm mai một hay xói mòn chút ít những tượng đài văn hóa, chẳng hạn tác động của xã hội hiện đại lên đời sống: Rồi một ngày em đi/ Xa cái Chạng gầy, bỏ bờ cỏ dại/ Xa tiếng mõ trâu chiều, bỏ thằng Klu xóm dưới/ (...) Rồi một ngày em không còn nhớ/ Một dòng ariya, một điệu kamăng/ Mùi Kate reo đỉnh tháp Chàm (…) Cuốn dòng chảy thị thành/ Em quên mình là Chăm/ Như quên mình chưa có giấy khai sinh (Sinh nhật cây xương rồng - Inrasara), nhưng, trong căn cốt tâm hồn, bền bỉ và mãnh liệt, dòng chảy văn hóa vẫn âm thầm chảy trong huyết quản của họ và họ nhận ra đó là giá trị vĩnh hằng. Truyền thống chính là giá trị trường tồn khiến các nền văn hóa không bao giờ mất. Những đứa con của sông Lu kia sẽ lớn lên và tắm mát tâm hồn bằng cả văn hóa Chăm văn hóa hiện đại thời hội nhập: Buổi sáng rất sảng khoái, tôi ra sông Lu/ gánh theo đầu kia 41inư akhar Cham K C T, đầu này nhúm chữ cái Latinh A B C/ nhận đầu chúng xuống nước bắt tắm gội từng đứa một/ và tôi vui vẻ tắm với chúng (Bất ngờ nhiều cái nghĩ tối nay - Inrasara).

 

“Hành hương” về nguồn cội vừa để tri ân nơi sinh thành, nuôi dưỡng cả thể xác và tâm hồn:

       

Những câu thơ hớp được từ miệng thợ cấy

từ bà còng lưng xay giã

Mẹ ngồi sàng đêm trăng

những câu thơ ứng vào người này vận vào việc nọ

dắt tôi cuối đất cùng trời...

cáo chết quay đầu về núi, đi đâu cũng trở lại

                                                                      đây nằm

Thì cánh đồng sau vụ gặt lại hoài thai

(Hành hương - Mã Giang Lân)

 

Tìm kiếm giá trị hiện đại: Đây là lôgic tất yếu của hội nhập, tìm về với truyền thống như điểm tựa tinh thần và cũng là để hoàn thiện mình, song, cũng cần nhìn ra thế giới để tìm kiếm cái hay của người để làm giàu có hơn văn hóa dân tộc. Có thể nói chủ thể trữ tình trong thơ sau 1986 đã thể hiện nhu cầu này một cách nhiệt tình, sốt sắng. Nhà thơ Inrasara, cây bút quyết liệt bảo vệ nền văn hóa Chăm và khẳng định nẻo về nguồn cội cũng là người sôi nổi “nhập cuộc về hướng mở”, nhà thơ mạnh mẽ cảnh tỉnh điều này: Khi còn thiết lập cơ man bàn thờ, từ đó phản bác hay mạnh tâm đàn áp, triệt tiêu kẻ không bàn thờ, không nhận bàn thờ đó hoặc kẻ có bàn thờ khác, là ta tự dụng tường thành cách ngăn hậu hiện đại. Cho dù bàn thờ đó có choàng tấm áo bào truyền thống và bản sắc, học thuyết hay chủ nghĩa, tôn giáo với tổ quốc, tự do công bằng bác ái cùng vô số thần tượng các loại, tất tần tật. Là ta đánh mất hết con đường nhập lưu hậu hiện đại (Hậu hiện đại là hậu hiện đại là…). Tinh thần sẵn sàng đón nhận cái mới, cái hiện đại với thái độ tỉnh táo và cầu thị được nhà thơ tuyên bố dứt khoát:

 

không bên lề

không trung tâm

tôi trú trên đường biên

không ngoài luồng

không chánh lưu

sống như thể không đường biên

(Đề từ tập thơ Chuyện 40 năm mới kể)

       

Nhận thức mới về con người “cá nhân - cá thể”: Ý thức về con người “cá nhân - cá thể” đã xuất hiện từ đầu thế kỷ hai mươi và đã hiện hữu trong tâm thức người Việt Nam nửa thế kỷ. Song, về thế giới vẫn vận động không ngừng và đặc biệt càng ngày người ta càng phát hiện được bí ẩn của thế giới con người. Nếu trước đây, con người “cá nhân - cá thể” tồn tại như một ý niệm siêu hình thì giờ đây con người “cá nhân - cá thể” ở giữa đời sống hiện tại, là con người của thực tế. Người ta phát hiện/ ý thức được luồng năng lượng nguyên thủy trong vô thức, tiềm thức trong mỗi cá thể tạo ra những năng lực bẩm sinh tự nhiên mà nếu được kích hoạt có thể tạo ra những đột phá bất ngờ. Những năng lực bẩm sinh ấy, nếu được tôn trọng và khuyến khích cá nhân sẽ có động lực cho những sáng tạo. Ở lãnh địa văn chương, việc các trào lưu, khuynh hướng lý thuyết của thế giới được cập nhật khiến văn học Việt Nam sau 1986 có những đột phá mới mẻ cả về nội dung và cách thức biểu đạt. Không phải ngẫu nhiên, xu hướng xoáy sâu tìm hiểu, phát hiện, giải mã con người bên trong bí ẩn của mỗi cá nhân - cá thể có sức hút văn chương Việt Nam sau 1986  đến vậy. Cũng chưa bao giờ thơ ca Việt Nam nói riêng, văn chương Việt nói chung xuất hiện những cá tính “kỳ dị” trong cách biểu đạt đến vậy. Họ “tuyên ngôn” về nhu cầu được riêng/ khác một cách thật dứt khoát, thẳng thừng, như tuyên ngôn của chủ thể phái tính nữ này:

 

Tôi không ưa đồ trang sức

kể cả nhẫn, vòng và các chức danh

Tôi rất ít bạn

đôi khi tôi mất họ vì một lẽ nào đó

ngoài 30 tuổi tôi không tìm thêm bạn mới

và không thường giao du với các đồng nghiệp

Tôi ngại các tiệc vui

nhiều khi tôi khóc vì chính cái khiến những người xung

quanh tôi vui sướng

và lại muốn thét lên khi mọi người yên lặng.

(Tiểu dẫn - Ý Nhi)

 

Cho đến nay, nhiều hiện tượng vẫn chưa ngã ngũ trong những xem xét, đánh giá. Những hiện tượng đặc biệt này sẽ được luận án đề cập tới ở chương ba và chương bốn.

 

2.2.2.3. Chủ thể trữ tình “cái tôi - suy tư”, chiêm nghiệm

 

Chủ thể “cái tôi - suy tư”, chiêm nghiệm cũng điểm nổi bật trong hệ thống chủ thể trữ tình thơ sau 1986. Sự hiện diện của chủ thể “cái tôi - suy tư”, chiêm nghiệm vừa liên quan đến nhận thức mới về “cái tôi cá nhân - cá thể” vừa liên quan đến thực tiễn đời sống xã hội của đất nước sau 1986, khi chúng ta chọn hướng đi “mở cửa” hội nhập và guồng máy xã hội vận hành từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Vì vậy, đối tượng của chủ thể “cái tôi - suy tư”, chiêm nghiệm trong thơ sau 1986 khá phong phú và đa dạng: suy tư về các mối quan hệ trong đời sống gắn với các nhu cầu, giá trị, thước đo đạo đức, thẩm mỹ. Nhiều hơn cả là suy tư về thân phận cá nhân, con người cá nhân ở chiều sâu triết học.

 

“Cái tôi - suy tư” chiêm nghiệm trước thế thái, nhân tình: Chủ thể trữ tình là “cái tôi - suy tư” chiêm nghiệm trước hết thuộc về những thế hệ đã từng trải nghiệm qua các thời kỳ lịch sử dân tộc trước năm 1986. Sau những năm tháng hi sinh “cá nhân” cho độc lập - tự do của dân tộc, đặc biệt, đối với những cá nhân đã từng ở tuyến đầu trong cuộc sinh - tử, họ trở về với mong muốn được “đền đáp”, được “chăm sóc” từ cộng đồng. Nhưng, thực tiễn của cơ chế thị trường cộng với sự lây lan như cỏ dại của cái tôi cá nhân ích kỷ, cơ hội, ma mãnh đã không khỏi làm họ thất vọng.

 

Ai một thời lấy thân mình che Tổ quốc

Còn nay ai lấy Tổ quốc che thân?

(Nguyễn Khắc Thạch)

 

Trong cuộc mưu sinh nghiệt ngã, những cá thể còn lương tâm, sĩ diện “đếm” từng ngày, kiểm điểm từng ngày nỗi lo lương tâm, nhân phẩm bị cắt xén, méo mó:  

 

Chiếc ly còn trên bàn

Thêm một ngày kỷ niệm chưa bị đem bán

           …

Anh cầm đũa vuốt tóc em

Thêm một ngày bàn tay sạch

Uống nước còn biết tự xấu hổ

Chưa hắt cặn sang người khác.

Thêm một lần đi trên gai

Thêm một ngày được làm người lương thiện.

(Một ngày - Hữu Thỉnh)

 

Chiến tranh đi qua nhưng hậu quả của nó thì vô cùng tệ hại, những thiếu thốn tứ bề bủa vây, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy, nó gian manh đội lốt nhu cầu cá nhân để bao biện cho những toan tính hẹp hòi, thiển cận. Bài thơ “Hỏi” đầy tính triết lý mà chủ thể trữ tình tự phân thân làm lộ ra cuộc đối thoại mà ở đấy chủ nghĩa cá nhân đã phá hủy giá trị tập thể, cộng đồng đã từng là niềm tự hào của dân tộc. Nhưng giờ đây, nguy cơ “người với người sống như thế nào” đang đặt ra thách thức lớn:

 

Tôi hỏi đất:

- Đất sống với đất như thế nào?

-  Chúng tôi tôn cao nhau.

Tôi hỏi nước:

- Nước sống với nước như thế nào?

-  Chúng tôi làm đầy nhau.

Tôi hỏi cỏ:

-  Cỏ sống với cỏ như thế nào?

-  Chúng tôi đan vào nhau

Làm nên những chân trời

Tôi hỏi người:

-  Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

-  Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

-  Người sống với người như thế nào?

(Hỏi - Hữu Thỉnh)

 

Dường như muốn trả lời cho câu hỏi “Người sống với người như thế nào”, bài thơ “Siêu thị mặt” của Trần Quang Quý chiêm nghiệm về kiểu sống quá đề cao chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tạo nên vô vàn thứ giả trá mang khuôn mặt người:  

 

Những cái mặt di cư trong nhau

đến nỗi quên lối về

mặt thật!

Phải sắm nhiều vai kịch trong mỗi đời mặt

góc diễn tấu vỉa hè hay trang trọng sân khấu thời cuộc

Tôi gặp đó đây nhan nhản vô cảm

có khuôn mặt một đời biểu diễn

có khuôn mặt đau không mặt

bóng thời gian làm xiếc phận người

(Siêu thị mặt - Trần Quang Quý)

 

Chủ thể trữ tình đau xót thú nhận trong bất lực:                    

 

Ta không thể nuôi nhau bằng những ánh sao trời

Anh nói vậy xin em đừng khóc

Những ngọn tóc em đang đổ xuống ngực anh

Như những rễ cây bò buồn trong sỏi đá

(Những ngôi sao - Nguyễn Quang Thiều)

 

          

Có lúc còn tự an ủi rằng, đây chỉ là "cõi tạm"

 

Cõi Người thăm thẳm khôn lường

cõi Ta mờ mịt biết đường nào ra

sớm sương cho đến chiều tà

cõi Tạm nhem nhuốc cũng là tạm thôi

(Cõi - Mã Giang Lân)

          

Song, khi chủ thể trữ tình nhận ra bóng tối của bi kịch đạo đức xuống cấp thì cũng là lúc chủ thể ấy biết cảnh giác với những thói xấu có khi ở chính mình:

                                   

Nơi thánh đường không ai thờ phụng

Phi lý lỗi thời mọi toan tính suy tư

Mọi bền chặt đã đến giờ tan loãng

(Nghi lễ nhận tên - Mai Văn Phấn)

 

và tự trang bị cho mình bản lĩnh:

 

Trong nỗi đau tưởng chừng ghê gớm nhất

mà lặng thinh không lời

chỉ âm thầm giằng co, đối lập:

cạn hẹp và lớn lao

kiếm tìm và đánh mất

hạnh phúc và đắng cay

tình yêu và phản trắc...

Không bao giờ để nhân phẩm mình rơi xuống đất

lại ân hận nhặt lên

(Tự sự - Mã Giang Lân)

 

Lẽ đương nhiên, khi nhân tình thế thái phơi bày, mới nhận ra giá trị của những thứ ở bên cạnh mình mà bấy lâu mình coi thường, phó mặc. Chủ thể trữ tình ở đây nói với “em” - người bạn đời bao năm lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời, thấm thía “tình đời” những kẻ từng xúm xít bên anh hôm qua giờ họ đã âm thầm rời anh. Nói với “em” nhưng thực ra là chiêm nghiệm về nhân tình thế thái:

 

Những người quen ngày càng lạ đi

Họ quần tụ rồi xuôi ngược

Chỉ có em như giọt nước mắt

Nằm sâu trong đời anh

(Lặng lẽ - Nguyễn Khoa Điềm)    

 

Hay như cách chọn thứ “vũ khí” thơ ca này để bênh vực mẹ:

Thơ mỗi ngày người càng ít đọc hơn

Nhưng con chọn thứ vũ khí này bênh vực mẹ

Con đi trong mưa, mài trên đá

Gặp niềm vui càng thương mẹ nhiều hơn

(Chạm cốc với Xa - in - Hữu Thỉnh)

          

Hi vọng vẫn “nhú mầm”, hi vọng “sâu mọt bớt sinh sôi”, hi vọng “bão lũ qua đi, trời quang sau những đám mây lam lũ” khi “Quốc hội vào thu”, khi nghe tin đất nước “hết nợ nước ngoài 20 tỉ đô la”. Ngay cả khi còn nhiều băn khoăn, nỗi niềm đau buồn trước thời thế thì đôi mắt của những trái tim thi nhân vẫn yêu mến cuộc đời này, vui với từng niềm vui bé nhỏ của những con người bé nhỏ:

                               

Có cách gì hy vọng lên nhanh

như cỏ

như em bé đánh giày

vừa nhận đồng thù lao còm

huýt sáo giữa phố đông

(Trong mắt nhân dân là niềm hi vọng - Mã Giang Lân)

 

Suy tư, chiêm nghiệm về sự cô đơn: Mặc dù hướng đến đời sống thế sự, song có lẽ chủ thể trữ tình suy tư, chiêm nghiệm về sự cô đơn, về trạng thái cô đơn bộc lộ nhiều nhất trong thơ sau 1986. Khi cái tôi - cá nhân nhận ra tính “cá thể” thì cũng là lúc nó nhận ra sự khác biệt và hữu hạn của kiếp người. Trong Thơ mới giai đoạn 1930 - 1945, cái tôi - cá nhân cá thể ấy đã cảm nhận thân phận bé nhỏ, nổi trôi của kiếp chúng sinh giữa dòng đời vô tận. Đó là “kiếp củi” bé nhỏ đơn độc “một cành khô” “lạc mấy dòng”, là “kiếp bèo” nổi lênh vô định “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” giữa vũ trụ rộng lớn. Song, đó là “cái tôi - cá nhân cá thể” thời ấy là cái tôi - cá thể siêu hình còn cái tôi “cá nhân - cá thể” trong thơ sau 1986 hiện hữu giữa đời thường nên những suy tư, chiêm nghiệm mang màu sắc “hiện sinh”:       

 

Chưa tiêu gì ra món

Đã hết veo cuộc đời

(Đêm trắng - Đoàn Thị Lam Luyến)

 

Ta lang thang khắp phố phường

Người đông lòng vẫn lạnh lùng phố ơi

(Thiếu khoảng trời xanh - Nguyễn Thị Thu Hồng)

 

Một mình cô đơn và trống trải

(Một mình - Lê Lâm)

 

Tôi trụi trần như một thân cây

(Hoa muộn - Bùi Chí Vinh)

       

Ngay trong hạnh phúc tình yêu cũng nhuốm màu bi quan. Người đàn bà tự tin, mạnh mẽ, muốn làm sóng để dân thân cho tình yêu một thời, bỗng có những khoảng khắc thận trọng, đêm đo bất ngờ:

                               

Em đã đặt bàn tay em lên bàn tay anh

Như thận trọng đếm đo gửi trao số phận

Những đường chỉ tay chạm nhau vấn víu

(Valse tháng tám - Xuân Quỳnh)

 

Cô đơn và bi quan đến mức, họ từng thú nhận đầu hàng vô điều kiện:

 

Và buông xuôi trước cỗ máy thời gian:

Nghe thời gian xõa sợi xuống hai vai

(Người hái phù dung - Hoàng phủ Ngọc Tường)

 

Tuy nhiên, với những người trẻ, nỗi buồn và sự cô đơn cũng tan nhanh như khi nó đến. Nhiều khi buồn và vui trong họ trộn lẫn trong vòng xoay bất tận của tạo hóa và họ chủ động tham gia vào vòng xoay ấy để trải nghiệm các cung bậc cảm xúc: 

 

Khi niềm vui tan trong nỗi đau vỡ hoang ánh nắng

Tôi mang hạt giống thu hoạch phương xa gieo cánh đồng làng

em nhân giống dân ca vào giai điệu mới

bờ cỏ vang ngân ngôn ngữ được mùa.

(Hạt mùa mới - Inrasara)

       

Rất nhiều tiếng nói thảng thốt về nỗi cô đơn. Dĩ nhiên, đây là nỗi cô đơn tư tưởng, là xung đột tư tưởng, nó phản ánh sự vận động trong đời sống xã hội, khi những hệ giá trị đạo đức, thẩm mỹ cũ chưa bàn giao xong và hệ giá trị mới chưa kịp hoàn thiện để phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt. Đây là sự cô đơn lạc lõng giữa cái xô bồ, lòe loẹt:

 

Đi giữa phố đông/ không gặp một người/ Ở giữa mọi người/ không gặp một người/ Đến chợ hoa, hoa hồng hoa cúc/ lay ơn thược dược/ Tim đập thình thình/ giá có hương mà vịn (Vô đề I - Mã Giang Lân)

                    

Trên cánh đồng mênh mông, cỏ không đặt ra nghi lễ bốn mùa

Tôi trở về tìm nơi không có tiếng người, không có bóng cây

Bền bỉ hơn sự im lặng, lưỡi cày từ tháng Giêng thuở trước

Dựng lên những luống đất của cơn mơ, một người lạ đến gieo trồng

(Độc thoại - Nguyễn Quang Thiều)

          

Triết lý về sự cô đơn được diễn đạt bằng những hình ảnh biểu trưng thể hiện sự trống trải tuyệt đối, như là thuở khai thiên lập địa. Nhưng cũng ở đây người đọc nhận thấy một khát vọng mạnh mẽ, khát vọng gieo trồng, khát vọng hồi sinh sự sống. Khi vẫn “bền bỉ” nuôi dưỡng khát vọng này thì hình như cô đơn chả còn ý nghĩa gì.

 

2.2.2.4. Chủ thể trữ tình là “cái tôi - dấn thân” cho công cuộc đổi mới thi ca

 

Đây chính là điều đặc biệt của thơ sau 1986, chủ thể trữ tình dấn thân cho công cuộc đổi mới thi ca. “Cách tân hay là chết”, nhóm các cây bút chủ trương đổi mới thơ đã giương lên ngọn cờ cách tân và coi đó mục tiêu, động lực để đổi mới thơ Việt. Đây là sự dấn thân với đúng nghĩa, mượn lời của Jabes, họ “khai chiến” với thơ bằng tuyên bố: “Làm thơ là làm chữ”; “Chữ bầu lên nhà thơ”!

 

Trần Dần là người khởi xướng thơ “dòng chữ” ở Việt Nam. Dũng cảm, táo bạo và quyết liệt, Trần Dần đi tìm con đường riêng cho thơ. Ông được các thi hữu mệnh danh là “người cách tân số một” (Dương Tường, Lê Đạt, Hoàng Cầm). Trần Dần chủ trương “dân chủ hóa” chữ, hoán cải tương quan chữ, tìm những tương quan mới cho chữ cũ” [22; tr. 206]. Ông quan niệm: “Tôi giản dị đồng nhất thơ vào chữ… chữ như ám sát sự vật, từ đó đẻ ra nghĩa mới… tôi viết - tức là tôi để con chữ tự làm nghĩa” [22; tr. 474, 475]. Lê Đạt thì quan niệm: “Người làm thơ thực hiện một trò chơi nghiêm túc, sử dụng những phép tu từ (ám dụ, hoán dụ, lược tỉnh, ghép âm, nói lái, nói dối…) như một đứa trẻ chơi với đồ vật xung quanh…” đọc thơ tôi, đừng cố gắng tìm hiểu nghĩa, hãy cùng biểu nghĩa thì hơn” [30]. Dương Tường cũng thuộc nhóm “làm thơ là làm chữ” nhận xét: “Số người khổ công làm việc với chữ không nhiều”. Quan niệm của tôi khi làm thơ là “làm chữ” và hệ quả của nó là “làm âm” [29]. Quan niệm này ảnh hưởng lớn đến các cây bút trẻ, Vi Thùy Linh tự nhận thấy mình “là người chủ công cho việc sáng tạo hình ảnh và ngôn ngữ”. Phan Huyền Thư tâm niệm: “khi đặt bút viết thì có nghĩa là đang cố gắng tạo ra một giá trị mới cho ngôn ngữ. Lê Đạt cảnh tỉnh: “Các nhà thơ Việt sử dụng Tiếng Việt nhưng lại bỏ quên Tiếng Việt, họ xem ngôn ngữ như một phương tiện chuyển tải chứ chưa xem nó như một đối tượng sáng tạo. Đó là một sự bỏ quên rất đáng cảnh tỉnh… cái chết của một nhà thơ là cái chết của chữ, sự bất tử của họ cũng do chính từ trường của những con chữ của họ tạo nên… Vai trò của nhà thơ, nghĩ cho cùng là vai trò của chữ” [29]…

 

Sau những tuyên ngôn, người ta không thấy sự hiện diện của chủ thể trữ tình đâu cả, nói đúng hơn, chủ thể trữ tình ẩn sau những cuộc chơi chữ nghĩa. Trí tuệ, tâm hồn, khát vọng… của người chơi hóa thân vào những “trò chơi” giống như những thử thách nghệ thuật này. Họ muốn kiếm tìm những “kênh thẩm mỹ” khác. Chẳng hạn, tham vọng “muốn lặn sâu ngoại vật, nội tâm và muốn đi xa thiên đường địa ngục”; “Tôi lại thích Thơ không thời sự, Thơ bao trùm đất nước và thời gian, Thơ lấn sang mọi thế kỷ, và Thơ chấp nhập vào cả cái biện chứng bao la của sự vật” [22; tr. 350] hoặc “đi vào miền cõi còn hoang dã”, để tìm kiếm “tâm lý học miền sâu” của con người. Không muốn dừng lại ở những gì đã có, đã nói, đã viết mà muốn dắt ngôn ngữ đi trên những con đường chênh vênh, lộn xộn, vụt hiện, thoắt biến của cõi vô thức. Trong số họ, có người “Mỗi con chữ trong câu thơ dắt dẫn trên con đường tâm thức ra khỏi lối đi ngữ nghĩa “tiêu dùng”, một điều quen thuộc hàng ngày” (Lê Đạt).

 

Thật ra, tinh thần muốn cách tân thơ đã được nhen nhóm khi Trần Dần tham gia nhóm Văn nghệ cánh tả gắn với nhà xuất bản Hàn Thuyên. Suốt những năm kháng chiến, mặc dù hăm hở đi theo kháng chiến, dùng văn chương để phụng sự công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng trong con người có “căn cốt cách mạng” là Trần Dần vẫn muốn tìm một cách biểu đạt riêng: “Tôi thích Thơ thời sự, theo sát cái hồi hộp, lo lắng của Đảng tôi, dân tôi, triệu triệu quả tim dân chúng và quân đội, chiến sĩ, lãnh tụ và quần chúng. Tôi lại thích Thơ không thời sự, Thơ bao trùm đất nước và thời gian, Thơ lấn sang mọi thế kỷ, và Thơ chấp nhập vào cả cái biện chứng bao la của sự vật” [22; tr. 350]. Sau vụ Nhân văn giai phẩm, bị gạt ra bên lề “sân chơi chính thống”, Trần Dần vẫn  âm thầm cách tân thơ. Vốn là họa sĩ tài ba, lại cũng yêu âm nhạc, cách tân thơ của Trần Dần dựa vào hai ngành nghệ thuật liên đới là hội họa và âm nhạc. Ông chủ trương tạo nghĩa bằng chính sự vang ngân của con chữ:

 

iiiici - Terr ii Companhi iii Companhii Terii Valizekhi iii

III.QÀ ĐẤT KHÓC NHƯ RIII

 

Đúng là ngôn ngữ đã bị tẩy sạch nghĩa bằng nhiều cách: phá vỡ cấu trúc tạo nghĩa (qà đất, riii), ghép từ ngẫu nhiên, ngẫu hứng vô nghĩa (iiiici, Terr ii, Terii v.v…) nhưng nghĩa của từ lại được tạo ra từ âm thanh phát ra bằng cách đọc to các phụ âm và nguyên âm. Có thể nhận thấy, nguyên âm I chiếm áp đảo ở hai câu thơ trên, thậm chí là chủ âm của mỗi cụm “từ”. Nếu đọc to sẽ vang lên dàn đồng ca “tiếng khóc” với đủ cung bậc, giọng điệu của nhiều đối tượng khóc. Tác giả đã tái hiện tiếng khóc bằng chính âm thanh của chữ!

 

Lê Đạt cũng đã tái hiện “thực tiễn” bằng âm thanh con chữ ở nhiều hình ảnh. Đây tiếng nước róc rách:

 

Trắng vỗ hồ ô Trúc Bạch

Bước động ngày thon róc rách

(Vào hè - Lê Đạt)

 

Còn đây âm thanh của tiếng guốc mộc và qua âm thanh mà nhận ra sự lộn xộn của “một đàn lốc nhốc”:

 

Lũ vật lớn bốc

Một đàn lốc nhốc

Guốc khua cốc cốc cốc

Sơn bốn chân thò mộc

Lộc ngộc

Ngựa quần cộc.

(Ông phó cả ngựa - Lê Đạt)

 

Không chỉ tạo nghĩa qua âm thanh của chữ, các tác giả còn tạo nghĩa qua việc sắp đặt chữ, đảo lộn trật tự chữ, kiểu chữ, mô hình hóa chữ để tạo ấn tượng thị giác: 

 

Lég ende:

Con I vứt lả tả cờ đen dự fóng rung

động ba động trờifường sắp nhẩy

qua bóng rợp của mình.

Con I khôn lẽ ngục tù cùng tất

Larves trăng sAo của nó rụng ii i

(Lời và không lời - Trần Dần)

 

Phần lớn là cách tân theo hướng “chơi chữ” nhưng cùng lúc kết hợp nhiều cách thức, thủ pháp: tách chữ, phép láy, nhân hóa, hóan dụ, ẩn dụ v.v… để tạo hiệu ứng thẩm mỹ bất ngờ:     

 

Chia xa rồi anh mới thấy em/ Như một thời thơ thiếu nhỏ/ Em về trắng đầy cong khung nhớ/ Mưa mấy mùa mây mấy độ thu/ Vườn thức một mùi hoa đi vắng/ Em vẫn đây mà em ở đâu/ Chiều Âu Lâu bóng chữ động chân cầu (Bóng chữ - Lê Đạt); 

 

Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ/ Nhà số lẻ phố trò chơi bỏ dở/ Mộng anh hường tìm môi em bói đỏ/ Giàn trầu già/ khua/ những át cơ rơi (Át cơ - Lê Đạt); 

 

Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió/ Đùi bãi ngô non/ ngo ngó sông đầy/ Cây gạo già/ lơi tình/ lên hiệu đỏ/ La lả cành/ cởi thắm/ để hoa bay/ Em về nói làm sao với mẹ (Quan họ - Lê Đạt);

 

Một thoáng rợn tên là heo may/ Một hương cây tên là kỉ niệm/ Một góc phố tên là hò hẹn/ Một nỗi nhớ tên là không tên (Chợt thu 1 - Dương Tường); 

Chiều se sẽ hương/ Vườn se sẽ sương/ Đường se sẽ quạnh/ Trời se sẽ lạnh/ Người se sẽ buồn (Chợt thu 2 - Dương Tường).

 

Chương ba và chương bốn của luận án sẽ làm sáng tỏ hơn những cách tân ở phương diện hình thức mà ở đó các chủ thể “dấn thân” cho công cuộc cải cách thơ này là những người dẫn đầu. Ở đây, luận án chỉ giới thiệu sự xuất hiện.

 

 

 

Tiểu kết

 

Thơ Việt Nam sau 1986 với nhu cầu trữ tình mới là nội dung chương hai của luận án. Khảo sát diện mạo thể loại của thơ trước hết cần bắt đầu từ chủ thể trữ tình, bởi đó là điều kiện tiên quyết dẫn đến diện mạo của thơ.

 

Chủ thể trữ tình của thơ Việt Nam sau 1986 bị chi phối/ tác động từ môi trường, hoàn cảnh xã hội và văn hóa của đất nước. Môi trường sống hòa bình và xu thế hội nhập toàn cầu khiến chủ thể trữ tình thơ sau 1986 khá đa dạng, phong phú. Đáng chú ý là việc mất vị trí độc tôn của chủ thể trữ tình nhân danh cái ta cộng đồng dân tộc từng chi phối diện mạo của thơ 1945 đến trước 1986 và sự lên ngôi của chủ thể trữ tình “cái tôi - bản thể”. Biểu hiện của chủ thể “cái tôi - bản thể” cũng rất đa dạng, như: chủ thể là cái tôi với xu hướng khẳng định phái tính; Chủ thể là cái tôi với xu hướng xác lập các giá trị tinh thần; Chủ thể là cái tôi với những nhận thức mới về con người cá nhân - bản thể; Chủ thể là cái tôi suy tư, chiêm nghiệm; Chủ thể là cái tôi dấn thân cho công cuộc đổi mới thi ca… Sự đa dạng của chủ thể trữ tình trong thơ sau 1986 cho thấy tinh thần dân chủ trong đời sống văn học nước nhà, đồng thời cho thấy dấu hiệu đổi mới mạnh mẽ của thơ Việt Nam trong tiến trình hội nhập thế giới.  

 

 

 

KẾT LUẬN

        

Đất nước đổi mới đã tạo nên bầu khí quyển rộng rãi cho những tìm tòi sáng tạo. Thơ nói riêng, văn học nói chung ở Việt Nam đã hình thành diện mạo mới, đáp ứng nhu cầu của người sáng tác cũng như thụ hưởng văn chương nghệ thuật. 

          

Thơ ca luôn là người bạn, là sản phẩm tinh thần không thể thiếu của người Việt, vì vậy, sự vận động của thể loại này luôn nhận được quan tâm, đồng hành của bất cứ người Việt Nam nào.

          

Không thể phủ nhận, thơ ca Việt Nam kể từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới đã rất mới, rất lạ. Công cuộc đổi mới ấy đã diễn ra hơn ba mươi năm, những trăn trở, tìm tòi với hi vọng vừa là món ăn tinh thần đem lại khoái cảm thẩm mĩ, chí ít cũng đem lại cảm giác khác lạ cho độc giả Việt Nam thời hội nhập quốc tế. Cũng từng ấy thời gian, có biết bao nhiêu những bài viết bình giá, phát hiện, phủ nhận và ghi nhận sự vận động của thơ; Cũng đã có thật nhiều những công trình dày công nghiên cứu để nhận diện, đánh giá sự đóng góp của thơ ca trong tiến trình vận động của nền văn học Việt Nam hiện đại.

  

Luận án, cũng với mong muốn góp thêm tiếng nói khoa học vào việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá với cái nhìn tổng thể sự vận động thể loại của thơ Việt Nam từ 1986 đến nay. Về đối tượng khảo sát, luận án có diện mạo khảo sát rộng nhất; Về mặt thể loại, luận án cũng chạm đến tất cả các loại hình thể loại. Hơn nữa, luận án không chỉ nghiên cứu lớp vỏ hình thức thể loại mà cả cấu trúc bên trong của thi pháp thơ. Từ mục tiêu ấy, luận án triển khai nghiên cứu vấn đề chính: Các vấn đề lý thuyết và thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu; Thơ sau 1986 với nhu cầu trữ tình mới; Cấu trúc “động” của hình thức thể loại và một số đột phá trong thi pháp thơ.

 

Ở chương thứ nhất, khi luận án khái quát những vấn đề lý thuyết và thực tiễn liên quan đến đề tài, luận án nhận ra rằng, thơ là thể loại cổ xưa nhất, song cũng là thể loại có diện mạo luôn tươi mới, bởi thơ luôn gắn liền với nhu cầu biểu đạt của con người thời đại, vì vậy, khi cuộc sống thay đổi, nhu cầu tinh thần của con người thay đổi, thơ sẽ tự làm mới để đáp ứng với nhu cầu ấy.

 

Lôgic chương hai của luận án giải quyết vấn đề được đặt ra từ cơ sở lý thuyết: “Thơ sau 1986 với nhu cầu trữ tình mới”. Tính “mới” của nhu cầu trữ tình được tạo ra không chỉ bởi chủ thể trữ tình đã được bồi đắp bằng những thế hệ mới, những người sinh sau 1975, thậm chí sinh sau 1986. Họ là những lớp người hoàn toàn được sống trong môi trường hòa bình, môi trường rộng mở của thế giới - thế hệ công dân toàn cầu mà còn từ nhu cầu đã/ muốn thay đổi của những thế hệ trước. Thơ sau 1986 đã hiện diện một “cái tôi trữ tình” mới đa dạng về thế hệ, phong phú, phức điệu về xúc cảm. Quả là chưa bao giờ thơ Việt Nam có thế giới đối tượng cảm xúc sinh động đến thế, đa sắc điệu đến thế, nó không chỉ phản ánh thế giới tinh thần mà còn cả thế giới cuộc sống sôi động của một đất nước đang hồi sinh, hối hả vươn mình để khẳng định vị thế dân tộc.

 

Lôgic của chương ba khảo sát sự vận động của lớp vỏ thể loại. Những cách tân của thơ sau 1986 sẽ được luận án khảo sát từ biểu hiện ở lớp “vỏ” bên ngoài của hình thức thể loại. Đó là các dạng thức loại hình của thể loại, sự pha trộn giao thoa dẫn đến cấu trúc “động” của câu thơ, dòng thơ. Đây cũng là thực tiễn hết sức sôi động của thơ từ điểm nhìn thể loại. Mặc dù thơ Việt Nam đã trở nên hiện đại từ mấy chục năm trước, song, việc định hình ra các loại hình thể loại riêng thì chưa có, những ấp ủ của những ham muốn cách tân thơ bị dang dở bởi tất cả phải tập trung cho vấn đề “sống - chết” gắn với độc lập tự do, phải đến sau năm 1986 mới có điều kiện (cả khách quan lẫn chủ quan) để các cây bút thỏa sức sáng tạo, thực hiện mơ ước của mình. Lần đầu tiên, thơ hiện đại Việt Nam xuất hiện những loại hình thể loại mới mẻ đến mức gây khó cho việc định danh, gây khó cho giới nghiên cứu trong xác định nội hàm thể loại: lục bát cách tân, thơ văn xuôi, thơ tân hình thức, thơ vụt hiện, thơ phi thơ v.v… Cấu trúc “động” của dòng thơ và câu thơ cũng tạo nên những phá cách ấn tượng, lục bát viết thành bậc thang, Haiku được “Việt hóa” thành “Haikâu”, phá bỏ sự phân biệt câu thơ với dòng thơ v.v… Sự thay đổi vẻ ngoài của cấu trúc hình thức đã tạo nên sự thích thú nơi độc giả. Tuy nhiên, đây không chỉ là câu chuyện hình thức, những đổi mới ở lớp vỏ hình thức cũng đã có tác dụng biểu đạt nội dung, góp phần chuyển tải nội dung linh hoạt hơn, sâu sắc hơn.

 

Cuối cùng, những đột phá trong thi pháp của thể loại sẽ hoàn tất diện mạo mới của thơ sau 1986. Luận án đã lựa chọn ba phương diện quan trọng nhất của thi pháp thể loại để khảo sát, đó là: hình tượng, ngôn ngữ và vần điệu. Ở cả ba phương diện đều có những đột phá mới mẻ: đã không còn hình tượng thơ trung tâm quán xuyến, chi phối tư tưởng chủ đề bài thơ mà thay bằng những hình tượng đơn lẻ, giàu tính biểu tượng và đa nghĩa. Điều này khiến hình tượng thơ trở nên mới lạ, kích thích tò mò, khám phá. Ở phương diện ngôn ngữ, cách tân đặc biệt nhất là xu hướng phủ nhận nghĩa “tự vị” của ngôn từ mà tìm đến nghĩa tạo sinh từ âm thanh của tưởng tượng. Nghĩa được tạo ra từ âm thanh của âm vị, hình vị và điều này tạo nên những sắc thái nghĩa vô cùng sống động, phong phú. Tùy vào vốn văn hóa và khả năng tưởng tượng của độc giả mà có những giải nghĩa khác nhau. Tác phẩm là một văn bản “mở”. Tác giả đóng vai người ghi ký tự có “định hướng” và độc giả mới là người quyết định nghĩa của văn bản, đồng thời là người định giá và thụ hưởng khoái cảm thẩm mỹ mà văn bản mang lại. Tạo sinh nghĩa từ âm thanh con chữ thật ra không hoàn toàn xa lạ trong ngôn ngữ Việt. Tiền đề cho ý tưởng mới này chính là thủ pháp tu từ láy. Láy âm, láy vần chính là cách tạo nghĩa từ âm thanh con chữ, tuy nhiên, phải đến các nhà thơ cách tân thì phương thức này mới trở thành nguyên tắc thẩm mỹ, vì vậy, mới được khai thác và tận dụng triệt để cho phương thức sáng tạo mới.

 

Việc dùng “nhịp” thay thế “vần” cũng trở thành cuộc “cách mạng” trong thi ca lần này. Nếu như ở cuộc cách mạng lần trước, Thơ mới tạo nên cả một thế giới vần bay bổng cho cho cuộc cách tân thể loại thì lần này, thơ vận động theo hướng tạo ra cả một thế giới thơ không vần, không ngân nga, không du dương dìu dặt, người ta đọc/ thưởng thức thơ theo cách mà họ muốn và đó chính là “nhịp” của cung bậc tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ. Giờ đây,người ta không chỉ “đọc” mà còn “nhìn”, “nghe” và “cảm giác” thơ.

 

Thơ Việt Nam đang đồng hành cùng con người đi về phía tương lai. Tìm hiểu, nghiên cứu thơ Việt Nam từ sau 1986 đến nay, cảm nhận ấy hoàn toàn có cơ sở.

 

 

 

 

Hiệu trưởng lý giải tại sao 9,98 điểm mỗi môn mới trúng tuyển ĐH Hồng Đức

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị