MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của luận văn
6. Bố cục của luận văn
Chương 1: NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề cơ bản về thơ và thơ Việt Nam đương đại
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thơ
1.1.2. Khái quát về ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại
1.2. Vài nét về Mai Văn Phấn và thơ Mai Văn Phấn
1.2.1. Vài nét về Mai Văn Phấn
1.2.2. Chân dung thơ Mai Văn Phấn
1.3. Tiểu kết chương 1
Chương 2: VẦN, NHỊP TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Vần trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Khái quát về vần thơ
2.1.2. Các nguyên tắc hiệp vần trong thơ Mai văn Phấn
2.2. Nhịp trong thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Khái quát về nhịp thơ
2.2.2. Cách tổ chức nhịp trong thơ Mai Văn Phấn
2.3. Nhạc điệu trong thơ Mai Văn Phấn
2.3.1. Mối quan hệ giữa vần và nhịp
2.3.2. Cách phối thanh trong thơ Mai Văn Phấn
2.4. Tiểu kết chương 2
Chương 3: TỪ NGỮ VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ NỔI TRỘI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1. Từ ngữ trong thơ Mai Văn Phấn
3.1.1. Từ ngữ trong hoạt động giao tiếp
3.1.2. Một số lớp từ tiêu biểu trong thơ Mai Văn Phấn
3.2. Một số biện pháp tu từ nổi trội trong thơ Mai Văn Phấn
3.2.1. So sánh tu từ
3.2.2. Ẩn dụ tu từ
3.3. Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển, văn học Việt Nam đã tạo ra được những cuộc cách tân nghệ thuật làm sôi động đời sống văn học trong và ngoài nước. Để làm được điều này, phải kể đến đội ngũ sáng tác, họ là những người tiên phong, với những khát vọng sáng tạo đã đưa đến cho nền văn học nước nhà những luồng gió mới.
Từ năm 1986, sự nghiệp đổi mới đã tạo cơ hội cho văn học Việt Nam hội nhập nhiều hơn với thế giới nên đã xuất hiện số ít nhà thơ (trong và ngoài nước) có ý thức sâu sắc cách tân thơ Việt. Họ có đủ kiến thức thi ca, có nền tảng văn hóa và xã hội sâu rộng, có bản lĩnh khám phá và cả lòng dũng cảm, bình tĩnh trước sức ép công luận, dám chấp nhận đơn độc trên con đường mới, mở ra một không gian thơ khác, sáng tạo tiếng nói khác. Họ khác hẳn số đông từ nền tảng, lý tưởng thi ca đến cách biểu đạt ý tưởng, lập ngôn, cách tạo những chuyển động thi ảnh v.v. Chúng ta có thể kể tên những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Trần Quang Quý, Tuyết Nga, Dương Kiều Minh, Đinh Thị Như Thúy v.v. Trong số những gương mặt tiêu biểu đó, Mai Văn Phấn là nhà thơ giàu bản lĩnh, dũng cảm, mang bản sắc sáng tạo riêng biệt.
Nếu Đồng Đức Bốn là nhà thơ lục bát tài ba bẩm sinh, trung thành với thơ truyền thống, đại diện tiêu biểu cho thi pháp cổ điển thì Mai Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình một tư duy thẩm mĩ mới và ông đã thành công. PGS. TS. Đào Duy Hiệp, người đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các tác phẩm thơ Mai Văn Phấn, nhận định: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [29, tr.75]. Còn nhà thơ Đỗ Quyên trong một tham luận rất công phu gửi đến Hội thảo thơ Mai Văn Phấn (15/5/2011) đã khẳng định một cách không do dự rằng: “Mai Văn Phấn là một trong những tác giả có một không hai, với sự cải cách đa phong cách nhất và thuyết phục nhất của thơ Việt đầu thế kỷ 21” [55, tr.204-205]. Có thể khẳng định rằng, thơ Mai Văn Phấn đã nhận được rất nhiều cảm tình của các bạn đồng nghiệp, của giới phê bình chuyên nghiệp với khá nhiều bài viết có chất lượng, mang tính học thuật cao và có sự đa dạng, phong phú ở nội dung thể hiện. Hành trình thơ Mai Văn Phấn là quá trình nhận thức và đổi mới phương cách thể hiện, là khát vọng trong ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp trong nội dung cảm xúc và trong cách tổ chức ngôn từ.
Mai Văn Phấn rất có ý thức trong cách sử dụng ngôn từ theo lối hiện đại, mới mẻ để câu chữ lan tỏa trọn vẹn hết nội hàm và sức lay động của nó trong từng tình huống thơ. Đó chính là cấu trúc điển hình ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn. Do đó, tìm hiểu thơ Mai Văn Phấn chắc chắn sẽ đem lại nhiều hứng thú và bổ ích, giúp ta không những nắm bắt được cá tính của một gương mặt thơ mà còn, qua đó, góp phần nhận diện sự biến chuyển theo hướng hiện đại hóa của ngôn ngữ thơ đương đại. Vì những lẽ đó, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài Đặc điểm ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn làm luận văn tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mai Văn Phấn cùng với vài gương mặt thơ khác được đánh giá là những người có đóng góp trong việc cách tân ngôn ngữ thơ đương đại Việt Nam theo hướng hậu hiện đại. Việc nghiên cứu những nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn là nhằm chứng tỏ điều đó.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Mai Văn Phấn là một hiện tượng thơ khá mới mẻ, phức tạp. Chính vì lẽ đó mà ngay khi Mai Văn Phấn vừa xuất hiện trên thi đàn thì nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình đã dành cho ông một sự chào đón nồng nhiệt. Đặc biệt, từ năm 2009 đến nay, khi Mai Văn Phấn liên tiếp công bố 3 tập thơ mới là Hôm sau, và Đột nhiên gió thổi và Bầu trời không mái che với nhiều thể nghiệm mới về thi pháp thì giới phê bình cả trong và ngoài nước đều ngạc nhiên trước sức sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ của nhà thơ. Vì thế, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá lớn. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, tính cho đến thời điểm này đã có đến hơn một trăm bài viết về thơ ông ở nhiều thể loại: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình v.v.
Các tác giả như Nguyễn Việt Chiến, Kim Chuông, Nguyễn Đức Hạnh, Đào Duy Hiệp, Inrasara, Đình Kính, Trần Thiện Khanh, Hoài Khánh, Đỗ Quyên, Nguyễn Quang Thiều hầu hết đều thống nhất đánh giá: thơ Mai Văn Phấn là một đóng góp lớn cho quá trình hiện đại hóa của văn học nước nhà và Mai Văn Phấn đồng thời cũng là nhà thơ cách tân hàng đầu trong nền thơ đương đại Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã tự tin khẳng định rằng: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ - tình - cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu- hiện- đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân” [10, tr.420]. Nhà thơ Đỗ Quyên trong bài tham luận gửi đến Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn có viết: “Những sáng tạo của Mai Văn Phấn đã đặt ông vào vị trí những nhà thơ hàng đầu của nền thơ đương đại Việt Nam” [55, tr.130]. Th.S. Trần Thiện Khanh lại đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của Mai Văn Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ trong nhịp điệu đời sống hiện đại.”[39, tr.213].
Một số nhà nghiên cứu khác dành mối quan tâm đặc biệt cho sự chuyển biến trên các bình diện nội dung và nghệ thuật trong suốt hành trình thơ Mai Văn Phấn. Nhà văn Văn Chinh cho rằng: Hành trình thơ Mai Văn Phấn là hành trình của sự trở về với bộ đôi song bước: ở bình diện nội dung, đó là “sự trở về với bản thể hồn nhiên, trở về với bản lai diện mục của nhân sinh diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt hơn nhiều”. Và ở bình diện nghệ thuật, đó là “quá trình vùng thoát khỏi các bãi lầy của các trường phái nghệ thuật để trở về với truyền thống, với cổ điển” [8, tr.524]. Còn nhà thơ Nguyễn Hoàng Đức lại đề cập đến sự thay đổi bút pháp thơ Mai Văn Phấn qua các giai đoạn sáng tác: “... Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như lông hồng” [18, tr.35]. Ý kiến của PGS,TS. Văn Giá đã giúp bạn đọc nhận ra cái khó trong việc tiếp cận thơ Mai Văn Phấn:“Thế giới thơ Mai Văn Phấn khá bề bộn: bề bộn về số lượng: 370 bài; bề bộn về ý tưởng; bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên, để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai” [19, tr.528]. Th.S. Nguyễn Thanh Tâm đã góp thêm một ý tưởng trong việc lí giải tư duy và mĩ cảm của Mai Văn Phấn: Sự hoài nghi và chối từ trật tự, mĩ cảm cũ, sự trực nhận của cảm giác và tâm thế của con người trong bối cảnh sống chất ngất rủi ro đã hướng tư duy và mĩ cảm của tác giả vào từ trường hậu hiện đại.
Một số tác giả khác lại quan tâm nghiên cứu ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn. Họ đều thống nhất ở quan điểm cho rằng, Mai Văn Phấn đã tạo ra được một cách diễn đạt hoàn toàn mới và ở một góc độ nào đó ông đã tạo được một thứ ngôn ngữ thơ mới (sự xóa nhòa ranh giới giữa ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ đời thường). PGS.TS. Hồ Thế Hà trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn đã có một cách tiếp cận khá mới mẻ từ thế giới hình tượng và ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn. Tác giả cho rằng: “Mai Văn Phấn đang xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thi ca mà vẫn được gọi là ngôn ngữ thi ca (langue poétique), nghĩa là anh luôn thay đổi hệ ngôn từ để chúng làm tiền trạm cho cảm xúc và suy nghĩ của mình để không trở nên xa lạ với mọi người” [20, tr.227]. Còn theo nhà thơ Đỗ Quyên: “Chúng ta đang bàn đến một thi giới gần như không có vốn từ vựng riêng và lạ. Nếu lướt nhẹ trên vài câu vài bài, sẽ tưởng đây là tay viết bình dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không phải tra từ điển Việt - Việt! Không khó hiểu với từng bài lẻ nếu có được vốn tối thiểu của luật câu cú tiếng Việt...” [55, tr. 187]. Cũng trên tinh thần đó, nhà văn Đặng Văn Sinh trong một bài viết về tập thơ Bầu trời không mái che của Mai Văn Phấn đã nhận xét: “Cũng như “Mùa trăng”, ngôn ngữ diễn đạt của “Hình đám cỏ” thoát khỏi cấu trúc mô hình truyền thống, triệt để sử dụng loại câu không chủ ngữ, đảo ngược chức năng cú pháp, đưa ngôn ngữ thơ vào đời thường, hạ phóng thơ từ tháp ngà đến với quảng đại công chúng” [56, tr.118].
Bên cạnh đó, có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến những hình ảnh mang tính biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn. Họ đã chỉ ra rằng: hình ảnh cây cỏ, ban mai, ngọn lửa, đất đai, ánh sáng và người tình là những hình ảnh có sức ám ảnh lớn và xuất hiện lặp đi lặp lại trong thơ Mai Văn Phấn. PGS. TS. Văn Giá nhận định: “Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ Mai Văn Phấn, có ba hình ảnh cô đọng nhất, chụm nhất nên trở thành tiêu biểu nhất: Đất đai, Ánh sáng và Người tình (được gọi là Em). Cả ba hình ảnh này đều nằm trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động của chúng” [19, tr.534-535]. Còn PGS.TS. Đào Duy Hiệp viết: “Nước cùng những đồng vị mưa, sóng, sương, hơi nước... xuất hiện nhiều trong thơ Mai Văn Phấn, nhất là ở giai đoạn sau” [29, tr.66]. Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế lại khai thác thơ Mai Văn Phấn với các ý tưởng và các triết lý nhân sinh thông qua hình ảnh của cây cỏ: “Qua hình ảnh ngọn cỏ, Mai Văn Phấn tung hoành thể hiện các ý tưởng và các triết lý nhân sinh bằng nhiều thủ pháp, tu từ, ẩn dụ, so sánh thị giác, cảm giác... Và hoàn toàn làm chủ các kỹ thuật đó trong việc khai triển Thi pháp của từng trường đoạn sáng tác mà vẫn giữ được trường thuần cảm để dẫn tới một sắc thái tự nhiên... như Cỏ” [38, tr.373].
Một số tác giả lại tập trung khai thác những nét đặc sắc trong địa hạt thơ tình của Mai Văn Phấn. Họ đều thống nhất cho rằng, Mai Văn Phấn đã làm mới đề tài tình yêu muôn thuở bằng nội lực phong phú, phóng dật và rất độc đáo của riêng mình. Tác giả Nguyễn Hoàng Đức đã từng nhận định: “Tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn không đơn giản là chiếc giường hoan lạc. Mà đó là một quá trình như nụ ra hoa, rồi hoa ra quả. Những nụ hôn có thể hiện lên như khao khát của hiện tại, những khao khát đó bắt nguồn từ hang thẳm cô đơn, đòi sống, đòi yêu và đòi gieo hạt. Rồi cuối cùng đòi được giang tay đón hài nhi chào đời từ giữa cơn đau tràn đầy hạnh phúc. Một cơn đau vĩ đại như sự trở dạ của Càn - Khôn muốn làm nên một cuộc sinh thành khai thiên lập địa” [18, tr.360]. Trong khi đó, nhà thơ Vi Thùy Linh lại chỉ ra sự khác biệt trong thơ tình yêu của Mai Văn Phấn: “Chưa có ai coi sự gần gũi trong tình yêu là nghi lễ, chỉ có Mai Văn Phấn. Trong thơ anh, ái ân trở thành nghi lễ giao linh thiêng liêng của con người; nghi lễ đầu tiên và cuối cùng” [47, tr.4].
Cuộc hội thảo khoa học về thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn do Hội Nhà văn phối hợp với Hội Văn nghệ Hải Phòng tổ chức ngày 15/5/2011. Tại hội thảo này, có 30 báo cáo đã in thành kỉ yếu đánh giá về thơ Mai Văn Phấn. Tuy nhiên, các báo cáo này cùng với những bài viết đã đăng báo chủ yếu tìm hiểu và đánh giá thơ Mai Văn Phấn từ góc độ phê bình văn học. Trong một số bài viết, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý đến khía cạnh ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn nhưng mới dừng lại ở những đánh giá khái quát, hoặc đưa ra những nhận xét lẻ tẻ. Do đó, việc nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn từ góc độ ngôn ngữ học vẫn còn là mảnh đất bỏ trống.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cách tổ chức ngôn ngữ trong thơ Mai Văn Phấn gồm vần, nhịp, từ ngữ và một số biện pháp tu từ nổi trội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi xác định luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Xác lập một cách hiểu về thơ, ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại làm cơ sở để tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn.
- Miêu tả định lượng và định tính cách tổ chức vần, nhịp và phối thanh trong thơ Mai Văn Phấn, làm nổi bật nhạc điệu trong thơ ông.
- Tìm hiểu những nét đặc sắc trong việc sử dụng từ ngữ và một số biện pháp tu từ nổi trội trong thơ Mai Văn Phấn.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Tư liệu khảo sát là 150 bài thơ (chọn) trong 7 tập thơ: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997), Vách nước (2003), Hôm sau (2000), Và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010) được tập hợp trong Thơ tuyển Mai Văn Phấn, Nxb Hội Nhà văn, H. 2011.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau đây:
- Dùng phương pháp thống kê ngôn ngữ học để xác lập tư liệu.
- Các thủ pháp phân tích, miêu tả và tổng hợp làm nổi bật những nét riêng trong tổ chức ngôn từ thơ Mai Văn Phấn.
- Phương pháp so sánh để khẳng định những cách tân trong ngôn từ thơ của Mai Văn Phấn.
5. Đóng góp của luận văn
Từ các kết quả nghiên cứu, lần đầu tiên, ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn được nghiên cứu một cách có hệ thống từ góc độ ngôn ngữ học. Các số liệu cùng với những nhận xét, đánh giá của luận văn giúp nhận biết những nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn. Luận văn khẳng định, về phương diện hình thức thể hiện, ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn có sự tìm tòi đổi mới theo xu hướng hậu hiện đại. Các kết quả của luận văn góp phần xác định vị trí của Mai Văn Phấn trong diễn trình đổi mới ngôn ngữ thơ đương đại Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Những giới thuyết liên quan đến đề tài
Chương 2: Vần và nhịp trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 3: Từ ngữ và một số biện pháp tu từ nổi trội trong thơ Mai Văn Phấn.
Chương 1
NHỮNG GIỚI THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Những vấn đề cơ bản về thơ và thơ Việt Nam đương đại
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thơ
1.1.1.1. Định nghĩa thơ
Trong sự phát triển của nhân loại, thơ là hình thái văn học ra đời sớm. Ở nhiều dân tộc trong một thời gian tương đối dài, các tác phẩm văn học đều được viết bằng thơ. Vì thế, có một giai đoạn nói đến thơ ca là nói đến văn học. Vậy thơ là gì? Mỗi thời đại có một cách quan niệm, mỗi chủ nghĩa, trường phái, trào lưu sáng tác lại có quan niệm riêng và thậm chí mỗi nhà thơ trong cùng một chủ nghĩa, một trường phái, một trào lưu, một thời đại vẫn có quan niệm riêng về thơ. Vì thế, có nhiều ý kiến, nhiều quan niệm, nhiều định nghĩa được đưa ra để trả lời cho câu hỏi đó.
Ở phương Tây, Aritstốt (384-322 TCN) đã định nghĩa về thơ: “Thơ là sự mô phỏng động thái của con người được biểu hiện trong ngôn ngữ với sự trợ giúp của hoà âm với nhịp điệu”[1]. Sự mô phỏng mà Aritstốt nói đến ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là sự sáng tạo trên cơ sở hiện thực. Và ngôn từ của tác phẩm nghệ thuật có thể phân biệt với lời nói hàng ngày ở tiết tấu, giai điệu.
Ở phương Đông, Tào Phi (187-226) đã nhấn mạnh đến hình thức và trong các thể loại, hình thức của thơ phải được chú trọng sao cho thật đẹp hơn cả. Còn Lưu Hiệp lại bàn đến 3 phương diện cơ bản cấu thành tác phẩm thơ gồm “hình văn, thanh văn và tình văn. Ngôn từ thơ là sự tổng hợp của hình văn (sự vật), thanh văn (nhạc điệu) và tình văn (cảm xúc)” /Dẫn theo [30, tr.17]/. Bạch Cư Dị đã có ý kiến sâu sắc và biện chứng về thơ ca: “cái cảm hóa lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ gốc là tình cảm, màu lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa” /Dẫn theo [30, tr.18]/. Như vậy, cảm xúc, âm thanh, ý nghĩa đều chứa đựng trong những ngôn ngữ chứa thành bài thơ.
Bước sang thời hiện đại với sự biến đổi sâu sắc của đời sống xã hội. Quan niệm về thơ có nhiều thay đổi với nhiều định nghĩa phong phú và đa dạng.
Ở phương Tây, Boileau - nhà thơ và nhà phê bình văn học Pháp thế kỉ XVIII, trong tác phẩm Nghệ thuật thơ ra đời 1674, cho rằng “Nhà thơ trước hết phải thiên hướng thơ ca, cần được lý trí hướng dẫn v.v. thơ phải sáng sủa, rõ ràng, nghiêm ngặt tuân theo các quy tắc nhịp, vần, quãng ngắt, nghỉ, bố cục” /Dẫn theo [54, tr.17]/. Còn Jakobson trong tiểu luận Ngôn ngữ và thi ca đã nhấn mạnh cơ chế hoạt động của ngôn ngữ thơ là cơ chế lựa chon và kết hợp: Chức năng của thi ca đem nguyên lý tương tương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp [37, tr.83]. Từ nguyên lý phổ quát này, những người đồng quan điểm với ông đã nhấn mạnh đến các yếu tố âm thanh như âm vận, điệp âm, điệp vần, khổ thơ v.v. là những đơn vị thuộc bình diện hình thức. Như vậy, dù đã có cách nhìn mới nhưng bước sang thời hiện đại thơ là gì vẫn chưa được định nghĩa chính xác.
Ở Việt Nam, Lưu Trọng Lư cho rằng “Thơ là sự tập trung cao độ nhất, là cốt lõi của cuộc sống”. Đến nhà thơ Tố Hữu, với ông “Thơ là tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu, thơ là tiếng nói tri âm, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Còn Nguyễn Đình Thi quan niệm “Thơ là tiếng hát chếnh choáng xáo động trong tâm hồn người, thơ phải có tư tưởng, có ý thức và bất cứ cảm xúc tình tự nào của con người cũng dính liền với sự suy nghĩ” [60, tr.87].
Tiêu biểu cho các định nghĩa về thơ trong giai đoạn này có thể thấy là của giáo sư Phan Ngọc. Trong bài viết thơ là gì ông đã đưa ra một phát biểu về thơ rất khác lạ và ấn tượng: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc, và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”[52, tr.11]. Từ đó ông đưa đến định nghĩa thơ bằng ba ý chính: - Có giá trị phổ quát, - Mang tính hình thức giúp người ta nhận diện được thơ, không cần phải có kinh nghiệm và hiểu biết nghệ thuật, - Giúp người ta nắm được thực chất của thơ, để làm thơ, đọc thơ, giảng thơ có kết quả. Đây là một định nghĩa khá lạ về thơ, một cách định nghĩa theo hướng cấu trúc ngôn ngữ đối lập hoàn toàn với ngôn ngữ trong các loại hình văn học khác và ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày.
Theo xu hướng dựa vào thi pháp học, Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp học hiện đại, sau khi so sánh thi pháp thơ và thi pháp tiểu thuyết, đã rút ra bốn đặc trưng nổi bật của thơ như sau: “Có cấu trúc trùng điệp về âm thanh, nhịp điệu, ngữ nghĩa v.v, Có kiến trúc đầy âm vang, Có nhiều khoảng trống trên không gian in thơ, có chất nhạc tràn đầy [28, tr.43]. Mã Giang Lân sau khi tóm tắt một cách công phu toàn bộ các quan niệm về thơ từ trước đến nay, đã đưa ra định nghĩa rằng: “Thơ là một thông báo thẩm mĩ trong đó kết hợp 4 yếu tố: Ý - Tình - Hình - Nhạc” [44, tr.17]. Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh ảnh và nhất là có nhịp điệu” [23, tr.262].
Trên đây là những định nghĩa tiêu biểu về thơ, về loại hình ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù. Tuy nhiên, theo chúng tôi không nên đi tìm một định nghĩa chính xác về thơ. Một thực tế sống động không bao giờ định nghĩa cả. Chúng ta cứ viết nếu đó là thơ sẽ được độc giả gọi là thơ và ngược lại người ta bảo đây mà là thơ sao thì có nghĩa đó không phải là thơ. (Theo nguồn www.vietnam.net).
Nhưng, để giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi rất cần một điểm tựa lí luận. Trên cơ sở những định nghĩa đã nêu trên và thực tế thơ ca, chúng tôi rút ra những đặc điểm cơ bản của thơ như sau:
(1) Hệ thống ngôn từ trong thơ có tổ chức riêng.
(2) Thơ có vần điệu, nhịp điệu và phối thanh (giàu nhạc tính).
(3) Thơ thể hiện cảm xúc, tình cảm bằng hình ảnh.
1.1.1.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu của văn học, vì vậy M.Gorki khẳng định “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học xây nên những hình tượng về con người, về cuộc sống, tái tạo được cái vô hình mong manh nhất, miêu tả đối tượng trong vận động thời gian và không gian vô tân.
Thơ là một thể loại thuộc về sáng tác nghệ thuật nên ngôn ngữ thơ trước hết phải là ngôn ngữ nghệ thuật được dùng trong văn học. Xét ở phạm vi thể loại, ngôn ngữ thơ là một chùm đặc trưng về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp nhằm biểu trưng hoá, khái quát hoá hiện thực khách quan theo cách tổ chức riêng của thơ. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ được thể hiện trên ba bình diện: Ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp.
a. Về ngữ âm
Đặc điểm nổi bật để phân biệt thơ và văn xuôi là tính nhạc, tính nhạc trong thơ được tạo thành dựa vào hiệp vần, ngắt nhịp và hài âm. Các đơn vị âm thanh như thanh điệu, nguyên âm, phụ âm cùng với các thuộc tính âm thanh như cao độ, cường độ, trường độ là những yếu tố tạo nên nhạc điệu cho thơ. Tiếng Việt có số lượng thanh điệu phong phú (6 thanh), các thanh có âm vực (cao / thấp) và đường nét (phẳng / gãy), có số lượng nguyên âm và phụ âm đa dạng (14 nguyên âm, 23 phụ âm). Đó là những đơn vị âm thanh quan trọng được khai thác cùng với các thuộc tính âm thanh (cao độ, cường độ, trường độ) nhằm tạo nên âm hưởng, tiết tấu và nhạc điệu cho thơ. Vì vậy, khi khai thác tính nhạc trong thơ ta cần chú ý đến những đối lập sau: Sự đối lập về trầm-bổng; khép-mở của các nguyên âm làm đỉnh vần, sự đối lập về vang-tắc; tắc-điếc (vô thanh) giữa hai dãy phụ âm mũi và phụ âm tắc vô thanh trong các âm cuối kết vần. Bên cạnh đó, còn có sự đối lập giữa cao -thấp, bằng trắc của các thanh điệu. Ngoài việc tổ chức các đơn vị âm thanh theo sự đối lập, vần điệu và nhịp điệu cũng góp phần quan trọng tạo nên tính nhạc cho thơ ca. Vì vậy, nhạc thơ được tạo thành bởi ba yếu tố chính là âm điệu, vần điệu và nhịp điệu.
Âm điệu, đây là khái niệm được hiểu trong tương quan với vần điệu, nhịp điệu và thanh điệu. Có thể hiểu âm điệu là sự hoà âm được tạo ra từ sự luân phiên xuất hiện giữa các đơn vị âm thanh (nguyên âm, phụ âm, bán âm, thanh điệu) có những phẩm chất ngữ âm tương đồng và khác biệt trên trục tuyến tính. Chẳng hạn, đối với nguyên âm đỉnh vần, ta thường khai thác sự đối lập khép / mở, trầm / bổng. Đối với phụ âm kết vần, ta thường khai thác hai tính chất tắc-vang, tắc-điếc. Đối với thanh điệu, được xem là yếu tố cơ bản làm nên sự khác biệt về phẩm chất ngữ âm của mỗi âm tiết là đối tượng chính của âm điệu, ta thường khai thác trên hai bình diện: âm vực (cao / thấp), cách thức vận động (bằng / trắc). Vì vậy, khi một âm tiết kết thúc bằng một nguyên âm, bán âm và phụ âm vang thì có độ vang và khả năng kéo dài, trường độ lớn hơn các phụ âm tắc vô thanh. Những âm tiết mang thanh bằng, nhìn chung, có âm điệu bằng phẳng, có khả năng diễn tả những trạng thái nhẹ nhàng du dương, ngược lại những âm tiết mang thanh trắc thường tạo ra âm sắc mạnh, trúc trắc.
Về vần điệu, đây là một khái niệm chưa có sự thống nhất cao. Vần trong thơ có một vị trí quan trọng cả trong sáng tác lẫn trong nghiên cứu lý luận. “Vần thơ là sự hoà âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định giữa hai từ hoặc là giữa hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ, nhằm gợi tả, nhấn mạnh ngừng nhịp” [11, tr.12]. Nó như sợi dây ràng buộc các câu thơ lại với nhau, do đó giúp người đọc được thuận miệng, nghe được thuận tai và làm cho người nghe dễ thuộc, dễ nhớ [11, tr.21-22]. Đó chính là chức năng liên kết của vần thơ.
Trong tiếng Việt, đơn vị hiệp vần là âm tiết. Các yếu tố của âm tiết tiếng Việt (thanh điệu, âm đầu, âm chính, âm cuối) đều tham gia vào hiệp vần, trong đó, ba yếu tố đắc dụng nhất là âm chính, thanh điệu và âm cuối. Trong thơ ca truyền thống, dựa vào thanh điệu người ta chia vần thơ thành hai loại là vần bằng và vần trắc. Vần bằng là vần căn cứ trên những âm tiết có thanh ngang và thanh huyền. Vần trắc là những vần có căn cứ trên những âm tiết có thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng. Vần trắc lại được chia thành hai nhóm nhỏ là trắc thường (âm tiết có thanh hỏi, ngã, thanh nặng, thanh sắc), trắc nhập (âm tiết có các âm cuối tắc-điếc, mang thanh sắc và nặng). Ngoài ra, vần thơ còn được quan tâm từ các phương diện vị trí hiệp vần, mức độ hoà âm và cách kết thúc vần (cũng là cách kết thúc âm tiết). Dựa vào vị trí hiệp vần, ta có vần lưng và vần chân (trong vần chân có vần liền, vần cách, vần ôm nhau v.v.). Dựa vào mức độ hoà âm, ta có vần chính, vần thông, vần ép. Dựa vào cách kết thúc âm tiết, ta có vần mở, nửa mở, nửa khép, khép. Vần mở còn gọi là vần đơn, những vần còn lại được gọi là vần phức.
Về nhịp điệu, nhà thơ D. Ê-luy-a nói: Thơ ca trước hết là ngôn ngữ cất cánh thành tiếng hát, ngôn ngữ hát lên, ở nó tràn đầy hi vọng, ngay cả khi nó hát lên những điều thất vọng. Thơ là biểu hiện của nhạc, thanh bổ trợ cho thơ, nhạc có thơ sau đó có thanh /Dẫn theo [69, tr.]/. Nhạc thuộc dòng dõi của thơ, thơ có họ hàng với nhạc, nhà thơ tự thổ lộ cái chí của mình bằng cách tự hát (Miên Trinh). Nhạc điệu được tạo nên bởi sự liên kết giữa nhịp điệu với các yếu tố ngữ âm, trong đó, yếu tố quan trọng nhất tạo nên nhịp điệu là chỗ ngừng, chỗ ngắt trong sự phân bố mau, thưa theo sự chế định của thể thơ hoặc theo sự đa dạng của cảm xúc, thi hứng. Cho đến nay, có hai loại ngắt nhịp trong thơ: ngắt nhịp cú pháp và ngắt nhịp tâm lý. Nhịp trong văn xuôi bao giờ cũng trùng với nhịp cú pháp, còn nhịp trong thơ bị chi phối bởi yếu tố tâm lý và cấu trúc âm điệu. Nhịp thơ gắn với tình cảm, cảm xúc, những rung động ngân vang trong tâm hồn nhà thơ. Vậy nên, nhịp thơ còn là một biểu hiện của phong cách cá nhân. Trong thơ cổ, nhịp điệu được quy định chặt chẽ ở từng thể loại. Đến thơ hiện đại, nhịp thơ được nới lỏng, linh hoạt hơn. Và khi vần trong thơ không còn bị gò bó bởi khuôn khổ, thậm chí có thơ không vần thì nhịp càng phát huy vai trò to lớn của nó trong việc hòa âm, biểu đạt ý nghĩa.
Trong thực tế, thơ ca có hai loại nhịp: nhịp chẵn và nhịp lẻ. Nhịp chẵn là nhịp điệu tự nhiên trong ca dao, còn nhịp lẻ phá vỡ cái đều đặn, cân đối để tạo ra sự phối hợp hài hoà với nhau. Vì vậy, nhịp điệu chính là “năng lượng cơ bản”, “là xương sống của bài thơ”, là tiền đề cho hiện tượng gieo vần.
b. Về ngữ nghĩa
Tính nhạc là tính đặc thù đầu tiên, quan trọng nhất, thiếu nó thơ không thể tồn tại. Nhưng tính nhạc chưa đủ để làm nên giá trị của bài thơ, bên cạnh tính nhạc thì ngữ nghĩa cũng là một yếu tố cấu thành tác phẩm thi ca.
Đặc trưng của thơ là cô đọng, hàm súc. Nhà thơ phải chấp nhận một thứ lao động nhọc nhằn khổ sai vì: Thơ phải được ý ở ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là tôn chỉ của người làm thơ. Cho nên ý thừa hơn lời thì tuy cạn mà vẫn sâu, lời thừa hơn ý thì tuy công phu mà vẫn vụng. Còn như ý hết mà lời cũng hết thì không đáng là người làm thơ vậy (Ngô Lôi Pháp). Cho nên việc lựa chọn từ ngữ, biện pháp tu từ nghệ thuật (chơi chữ, thậm xưng, so sánh v. v.), cấu trúc tổ chức bài thơ trở nên hết sức quan trọng. Mỗi từ ngữ trong bài thơ đều là sự lựa chọn công phu, cẩn trọng của tác giả, đôi khi, chỉ cần một từ mà có thể làm bừng sáng cả câu thơ, bài thơ. Và nhờ những kết hợp khác lạ, bất thường được chấp nhận trong thơ nên từ ngữ đi vào bài thơ nhiều khi không còn là chính nó với nghĩa đen, nghĩa gốc vốn có mà đã được khoác lên mình nghĩa biểu trưng của ngôn ngữ thi ca. Chính đặc tính này đã tạo nên màu sắc lung linh, đa nghĩa của hình tượng ngôn ngữ thi ca.
Nói chung, ngữ nghĩa và ngữ âm là hai mặt cơ bản cấu thành tác phẩm. Dù âm thanh và ý nghĩa của thơ được nghiên cứu một cách cô lập thì hai bình diện này bao giờ cũng được bao hàm một cách tất yếu. Bởi vì,“Sự tương đồng giữa các âm thanh được chiếu lên chuỗi tiết tấu như là nguyên lí cấu thành nó thế nào cũng bao hàm tính tương đồng ngữ nghĩa [37, tr.97].
c. Về ngữ pháp
Bình diện ngữ pháp trong thơ được thể hiện ở những điểm như: sự phân chia các dòng thơ, câu thơ, những kiểu câu và cách sắp xếp tổ chức từ ngữ trong thơ v.v.. Cụ thể, ranh giới giữa câu thơ và dòng thơ không hoàn toàn trùng nhau. Có những câu thơ gồm nhiều dòng, nhưng lại có những dòng thơ gồm nhiều câu. Số lượng âm tiết của dòng và số dòng của một bài thơ đã trở thành tên gọi của thể thơ: ngũ ngôn, thất ngôn, lục bát v. v. (theo số tiếng trong dòng), bát cú, tứ tuyệt v. v. (theo số câu trong bài). Ngoài ra, nhà thơ có thể sử dụng nhiều kiểu câu bất thường về cú pháp như đảo ngữ, tách câu, câu vắt dòng, câu trùng điệp v.v. mà không ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận ngữ nghĩa của văn bản thơ. Trái lại, chính sự kết hợp bất thường đó đem đến những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca, tạo nên tính hàm nghĩa, đa nghĩa, tính biểu cảm mà một cấu trúc thông thường không thể có. Vì thế, ngữ pháp thơ ca được xem là loại ngữ pháp có cấu tạo đặc biệt, độc đáo, mang tính nghệ thuật riêng, một thứ ngữ pháp đầy bí ẩn, đầy ma lực hấp dẫn người tìm hiểu, phân tích, giải mã chúng. Hêghen nói “Nhà thơ là người đầu tiên đã làm cho dân tộc mình mở miệng và thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng và ngôn ngữ. Qua nhà thơ người ta tìm thấy tầm cỡ của thời đại”.
1.1.1.3. Quá trình vận động thể loại
Thời đại cần có thể loại và thể loại xuất hiện để chuyên chở, để ghi lại những gì cần thiết trong lịch sử văn học nhân loại đã xảy ra. Thể loại là khái niệm chỉ dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm văn học. Đó là các dạng thức ngôn ngữ được tổ chức thành những hình thức nghệ thuật riêng biệt, thể hiện cách cảm nhận và thái độ, tình cảm của con người về các hiện tượng của đời sống. Vì thế, qua thể loại chúng ta có thể nhận ra phong cách nghệ thuật của tác giả, của trào lưu, của thời đại.
Trong sự đối lập với văn xuôi, việc tạo lập ngôn ngữ mang đăc trưng riêng của thể loại thơ bị chi phối bởi quan hệ ngữ đoạn và quan hệ lựa chọn (là hai mối quan hệ khách quan của ngôn ngữ) và cảm thức nhạc điệu của từng nhà thơ (yếu tố chủ quan). Chẳng hạn, trong văn xuôi, quan hệ ngữ đoạn giữa các đơn vị ngôn ngữ chiếm ưu thế nên ngôn ngữ văn xuôi thiên về thông báo. Ngược lại, trong thơ, do bị chi phối bởi nhạc điệu của lời thơ, cho nên, quan hệ ngữ đoạn được hiện thực hoá bằng quan hệ lỏng và quan hệ phi lôgic. Quan hệ lỏng là quan hệ ngữ đoạn được tháo lỏng (do bị lược bỏ các hư từ) làm cho khả năng tạo lập các liên kết của từ trở nên hết sức linh hoạt. Và khi cần, có thể tạo ra những kiểu kết hợp bất thường để tạo lập ý nghĩa mới cho cấu trúc ngôn ngữ. Đây chính là qua hệ phi lôgic, chệch chuẩn. Mỗi dòng thơ có thể thể hiện một phán đoán, một thông báo hay chỉ đơn thuần mang ý nghĩa tình thái nhưng bao giờ cũng được bộc lộ qua một tiết tấu, một dư âm.
Dựa vào những biểu hiện về ngữ đoạn được đánh dấu bằng hiện tượng gieo vần, người ta cho rằng vận động tạo vần chính là khâu cơ bản nhất của quá trình hình thành thể thơ. Các bài thơ ngắn gọn nhất là các bài đồng dao. Còn những phát ngôn được tổ chức gồm bốn âm tiết, trong đó, tất cả các âm tiết không kể bằng hay trắc đều tham gia vào vận động tạo vần, tất cả các vần đều có thể vừa kiến tạo ở cuối phát ngôn (vần chân) vừa ở giữa phát ngôn (vần lưng). Đến giai đoạn tiếp theo của cuộc vận động tạo vần “Các quá trình thể loại chứng kiến một sự giãn nở về mọi phía - số lượng âm tiết các câu thơ, hiệp vần bằng hay trắc, và vần chân hay vần lưng” [21, tr.156]. Thơ 5 tiếng có vần chân - bằng/trắc, thơ 6 tiếng có vần chân - bằng/trắc thích hợp cho việc thiết lập những phán đoán, đối xứng phản ánh kiểu tư duy mang tính lôgic cao, có thể xem là thể thơ hàn lâm của tiếng Việt. Thơ 7 tiếng có vần chân - bằng/trắc, có lịch sử hình thành từ Đường luật, mang tính hàn lâm cao; ngôn ngữ thơ trong sáng, tính quy phạm chặt chẽ cả về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Thơ 8 tiếng có vần chân - bằng/ trắc, gần với thơ tự do, phổ biến trong thơ ca hiện đại, có sự phức hợp mới trong cấu trúc ngữ âm. Mỗi dòng thơ là một ngữ đoạn dài chứa lượng thông tin tương đối lớn. Thơ tự do là bước đột phá nổi bật nhất trong thơ Việt Nam, không bị gò bó về số câu, số tiếng, niêm luật v.v. Khả năng biểu hiện ngữ nghĩa thông qua các hình thức ngữ âm của thể thơ tự do là vô cùng lớn. Thơ lục bát kết hợp 6-8 tiếng (âm tiết), kết hợp vần lưng - bằng và vần chân - bằng. Thể thơ này có phẩm chất thẩm mỹ đặc biệt, hội tụ tinh hoa văn hoá và ngôn ngữ dân tộc, dễ nhớ, dễ thuộc, mang âm điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển, phù hợp với diễn tả tình cảm trong sáng. Thơ tự do là bước đột phá nổi bật nhất trong thơ Việt Nam, không bị gò bó về số câu, số tiếng, niêm luật; cách gieo vần cũng rất linh hoạt, có khi gieo vần chân, có khi gieo vần lưng, có khi liên tiếp, có khi giãn cách, khi bằng, khi trắc. Ngoài ra, còn có một số thể thơ hỗn hợp như ngâm khúc, hát nói, song thất lục bát v.v.
Như vậy, thể thơ hình thành, biến đổi là một quá trình chọn lọc tự nhiên của lời nói dân tộc. Đó là sự vận động nội tại của cấu trúc ngôn từ dưới sự điều khiển của tâm thức cộng đồng. Quá trình này phụ thuộc vào tâm lí lứa tuổi, vốn văn hoá và năng lực tư duy nghệ thuật. Khi yếu tố tâm lí đóng vai trò chủ đạo thì thơ thường nghiêng về cảm xúc. Ngược lại, khi lí trí đóng vai trò chủ đạo thì sẽ có thơ trí tuệ, thơ lôgic. Do đó, viết theo thể loại nào vừa là sở trường, vừa bộc lộ rõ phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
1.1.2. Khái quát về ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại
Sau đổi mới, nhiều cây bút không còn thoả mãn với lối viết, với hệ thi pháp đã định hình đã trở thành sáo mòn. Vì vậy, những năm gần đây đã xẩy ra một cuộc chiến đấu căng thẳng để nhà thơ chiến thắng thói quen của ngôn ngữ trong cách biểu đạt và cả trong tư duy vì “cái gốc của đổi mới chính là cảm thức, tinh thần mới” (Nguyễn Hữu Hồng Minh).
Tác giả Phan Ngọc đã khu biệt thơ và văn xuôi như sau: “Văn xuôi, đọc, người ta nhớ ý rồi quên cái vỏ hình thức, ngược lại, đọc câu thơ người ta giữ nó nguyên vẹn trong trí óc và được nội cảm hoá ngay lập tức” [52]. Nhận xét ấy đúng với thơ truyền thống nhưng không chắc đúng với thơ đương đại. Những bài thơ đương đại là một mê cung của ngôn ngữ. Thơ không chỉ để nghe, để đọc mà còn để xem, để nhìn. Bởi vậy, thơ đương đại, khó đọc, khó hiểu, khó nhớ hơn rất nhiều. Ngôn ngữ thơ đương đại không êm mượt, réo rắt như thơ ca giai đoạn trước mà nó vận động theo hướng tự do hoá, giàu chất đời thường, đậm chất văn xuôi và đa giọng điệu.
1.1.2.1. Ngôn ngữ thơ vận động theo hướng tự do hóa
Thơ tự do được hiểu đúng nghĩa là sự giải thoát mọi ràng buộc của cái cũ, trong đó có ràng buộc về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Có nghĩa là, ngôn từ thi ca có khả năng tạo ra một hệ hình ngữ pháp âm thanh hoặc ngữ pháp ngữ nghĩa hoàn toàn mới. Về cấu trúc câu thơ, có nhà thơ kéo dài câu thơ bằng cách xuống dòng, không viết hoa để tạo những câu thơ dài theo chiều dọc; có nhà thơ kéo dài câu thơ theo chiều ngang thành những câu thơ văn xuôi. Không lấy vần điệu làm đơn vị cấu trúc để tạo nên hình tượng âm thanh, thơ đương đại thực hiện chức năng thi ca của ngôn từ bằng nhịp điệu của hình ảnh. Nó không còn là phương tiện biểu đạt mà trở thành chất liệu tạo hình trực tiếp (như đường nét, màu sắc của hội hoạ, hình khối của điêu khắc) để thực hiện sự tự do của mộng tưởng, sự phiêu lưu bất tận của tâm hồn. Ngôn ngữ thơ đương đại nỗ lực thoát ra khỏi cơ chế tự động (thói quen) của ngôn ngữ tự nhiên và cả cơ chế tự động về âm luật của các thể thơ truyền thống. Nó chấm dứt lối thơ tự sự và mô tả “Hôm qua em đi chùa Hương…” hay “Bây giờ bến mới gặp đò…” (Nguyễn Bính) hoặc tái hiện cụ thể một sự vật hiện tượng được tri giác, cảm giác “Hơn một loài hoa đã rụng cành…” (Xuân Diệu) để tạo nên một lối thơ trữ tình đúng nghĩa (cảm xúc bất chợt và mông lung, xa vời và dang dở).
Trong thơ đương đại, thể trường ca được các nhiều nhà thơ trẻ sử dụng để kết hợp phương thức trữ tình và tự sự. Trữ tình bộc lộ chủ thể, bộc lộ những cảm xúc và suy tư. Tự sự phản ánh khách thể, mô tả hiện thực với quy mô lớn. Cái tôi nhà thơ trong trường ca được bộc lộ rõ nét. Nhịp thơ phát triển biến thiên đa dạng; giọng thơ nhiều màu sắc, đa thanh, âm hưởng vừa hùng tráng vừa thâm trầm. Đối với họ, làm thơ là say mê tìm tòi thể nghiệm. Những câu thơ xuống dòng, vắt dòng, leo thang, có vần hoặc không vần của Phan Huyền Thư, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Li Hoàng Li, Vi Thùy Linh v.v. đã làm cho thơ đương đại mang một diện mạo khác hẳn so với các giai đoạn trước đó. Tập thơ Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều đã báo hiệu sự thay đổi, nó không nằm trong từ trường âm hưởng thơ truyền thống, không hiểu theo lôgic ngữ nghĩa thông thường. Khi mới ra đời bị kêu là một thứ thơ dịch nhưng dần dần, người ta nhận ra một thứ thơ vụt hiện, chủ trương đề cao sức ám gợi của âm, của tiết tấu, coi trọng giá trị tự thân của chữ. Các thế hệ nhà thơ trưởng thành sau 1975 như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Nguyễn Quyến, Nguyễn Bình Phương, Trần Tiến Dũng, Phan Huyền Thư v.v. cùng với các thế hệ các nhà thơ chống Mĩ như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Trần Nhuận Minh v.v. đang cố gắng xác lập một giọng điệu thơ mới, giải phóng ngôn từ thơ ca khỏi những nguyên tắc từ chương cổ để kiến tạo một thứ ngôn ngữ thi ca thuần khiết, tự do hóa. Họ đã phá vỡ bức tường kiên cố của thơ ca truyền thống bằng cách đưa vào thơ những yếu tố hiện đại và hậu hiện đại qua những cấu trúc nhiều phần mảnh, mạch thơ trôi một cách bất định, tạo cảm giác hỗn loạn, phi lôgic. Chẳng hạn:“…Đọc những câu thơ không biết của ai/ chỉ có lửa mưa và chớp/ trên bàn một tờ giấy nháp/ gạch xoá cơn mơ sau cơm áo bờ phờ…” (Đêm, Lê Vĩnh Tài). Hay: “Vết xước đang lên da non/ vảy huyết tim đen/ em cào ngực/ không có anh trong da thịt” (Điệp khúc sáng mùa đông, Phan Huyền Thư), v.v.. Những câu thơ chặt khúc, mang vẻ mặt vu vơ, có vẻ như chẳng ăn nhập với nhau. Thực ra, các nhà thơ trẻ muốn tìm cách tạo nên những dòng ngữ lưu mới, những cấu trúc ngữ pháp mới, vượt thoát tính hình tuyến của thi ca để tạo ra những dòng liên tưởng mới. Thể thơ lục bát truyền thống cũng được một số nhà thơ cố công làm mới cho nên ta có giọng lục bát bụi bặm của Bùi Chí Vinh, giọng xẩm ngọng của Nguyễn Duy, giọng nhà quê ngang ngang của Đồng Đức Bốn, v.v. Nhiều nhà thơ thành danh, định hình phong cách thời thơ chống Mĩ cũng có ý thức làm mới giọng điệu thơ mình như Hữu Thỉnh với Thư mà đông, Thi Hoàng với Gọi nhau qua vách núi, Vân Long với Những khối tình câm, Nguyễn Trọng tạo với Đồng dao cho người lớn, v.v.
Tóm lại, bên cạnh thơ cũ, thơ mới các nhà thơ đương đại có những tìm tòi sáng tạo về thể loại và ngôn ngữ để thơ có dáng vóc hiện đại nhằm biểu hiện đúng hơn nội dung cảm hứng đầy những phức tạp, đa dạng của con người.
1.1.2.2. Ngôn ngữ thơ giàu chất đời thường, đậm chất văn xuôi.
Nhà thơ Nguyễn Duy từng nói rằng: “Làm thơ mộng mơ là kiểu làm thơ của thời xa xưa, thời mà người ta thiếu thốn quá, nên nghĩ tới một chén rượu ngon, một miếng ăn ngon; ở cõi trần tục này gian khổ quá, người ta nghĩ đến một thế giới huyền ảo. Thơ bây giờ tồn tại trong hiện thực, cũng như thơ ngày càng gần với ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ văn xuôi chứ không tách ra giữa ngôn ngữ đời thường với ngôn ngữ thơ làm hai thế giới khác. Chuyện đó là của thời qua rồi” [www.phongdiep.net, 21/9/2002]. Sau năm 1975, đất nước hòa bình, cuộc sống mới đặt ra nhiều vấn đề thiết thực. Để nói, để viết cho hết, cho đúng cái thực tại ấy, các nhà thơ cần đến tiếng nói của đời thường. Đó cũng là lí do để các tác giả có ý thức đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ.
Ngôn ngữ thơ giai đoạn này hướng đến sự giản dị, không cầu kỳ kiểu cách, trau chuốt như trước mà cách nói dân gian, ngôn ngữ sinh hoạt, khẩu ngữ được nhiều nhà thơ sử dụng khiến cho thơ vừa dễ nhập vào người đọc, vừa có khả năng tạo nên tiếng cười. Tiêu biểu cho cách nói này là nhà thơ Nguyễn Duy, trong bài thơ Trắng… và trắng:
Ối giời ơi… nõn nà sao
Bàn chân lóng ngóng đặt vào nơi đâu
Trắng tinh - trắng toát - trắng phau
Ngó qua thấy đẹp ngắm lâu rợn người.
Nhiều từ ngữ, hình ảnh được sử dụng trong thơ mang tính thời đại, được xem như là dấu hiệu của một xã hội mới - xã hội hiện đại hoá. Thơ Phùng Khắc Bắc có hình ảnh một đôi trai gái đèo nhau bằng “xe Điamang”, với “quần Zin”, “áo PHÔNG sáng lòa”; mặt cô bé đẹp hơn “cô MINH TINH”, v.v. Chế Lan Viên ghi nhận thế giới bấy giờ là thế giới của “xe cúp, tivi, phim màu ngũ sắc”, “của quyền lực, tuổi tên, đốp chát”, v,v. Còn trong thơ Tố Hữu, tác giả nhắc đến “Giống bò Hà Lan, Thụy Sĩ - Trại mới xây hiện đại nhất thời”, “Hãng roi-tơ - Bánh mỳ mít tơ”, v.v. Ngoài ra, có rất nhiều từ được dùng để gọi cuộc đời với tính chất của nó ẩn đằng sau từng con chữ. Đó là chợ đời, nợ đời, chợ tình trong thơ Trần Mạnh Hùng, là cái khôn - cái dại, cái ngắn - cái dài, cái rộng - cái hẹp, cái dở - cái hay trong thơ Lương Quy Nhân, v.v. Những chữ ấy dẫu chưa ở trong thơ cũng đã nghe ra được một chút gì chua xót, một nỗi băn khoăn, một sự đắn đo lựa chọn, một nỗi e ngại trước những biến đổi đang diễn ra trước mắt.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ đương đại thể hiện những vấn đề về tính dục. Sự xuất hiện của nội dung sex trong thơ ở giai đoạn trước không phải không có nhưng được diễn đạt bằng những hình ảnh bóng bẩy, tượng trưng, v.v. Còn ở giai đoạn sau những bài thơ có nội dung sex lại đậm đặc từ ngữ “trần trụi”. Có những bài thơ, từ ngữ trần trụi mang tính thẩm mĩ:
Tất cả rồi dễ qua đi, qua đi
Chúng mình sẽ thành chồng vợ
Nếu không có một lần
Một lần như đêm nay
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em.
(Tan vỡ - Dư Thị Hoàn)
Song song với ngôn ngữ giàu chất đời thường, nhiều nhà thơ còn chủ trương cách tân ngôn ngữ bằng cách thể nghiệm một hình thức mới: Đó là gia tăng chất văn xuôi trong ngôn ngữ thơ. Các nhà thơ đương đại đưa vào trong tác phẩm của mình nhiều mẫu đối thoại, các hình thức tự sự v.v. ở đó, là những hình thức tổ chức ngôn ngữ một cách đầy dặn như ngôn ngữ văn xuôi. Bài thơ không phân khổ, phân đoạn mà được trình bày như một văn bản tự sự, câu thơ được nới rộng:
Anh dắt em đi mãi trong màu xanh thành phố, trên triền xanh của sóng, giữa không tận bầu trời
Chúng mình đã đi qua bao thế kỷ bất an, sao loài người yếu đuối đến thế ?!
Chúng mình đã đi qua ánh sáng bao nền văn minh huy hoàng, mà nhân gian vẫn tìm gì mãi thế ?! Điều quan trọng nhất, bí mật hệ trọng nhất là biết yêu nhau trong sự sống tận cùng
(Xanh - Vi Thuỳ Linh)
Nếu trước đây, các bài thơ được tổ chức một cách chặt chẽ, gắn chặt với vần và nhịp thì giờ đây nhịp và vần không được chú ý đến và gần như bị lược bỏ. Các nhà thơ đã tung phá, thoát ra khỏi quy ước về dòng thơ, câu thơ, bài thơ và tiết tấu để đi tìm một khuôn mặt thích hợp cho sự tìm tòi phóng túng, nội tâm đa dạng phức tạp của con người. Do đó, thể thơ văn xuôi và thể thơ tự do được các nhà thơ đương đại lựa chọn. Sự thay đổi đó dẫn đến giọng điệu thơ giai đoạn này đa dạng.
1.1.2.3. Ngôn ngữ thơ đa giọng điệu
Mỗi thời kỳ văn học thường mang màu sắc của loại giọng điệu riêng, đó là sự kết tinh của thời đại đã sản sinh ra nó. Gọng điệu mang những sắc thái như: hào hùng, đanh thép, vui tươi, tự hào, trang trọng, tin tưởng; có khi sâu xa thâm thuý, có khi mộc mạc giản đơn, hài hước, dí dỏm, hoặc kín đáo trang nhã, buồn thương. Giọng điệu có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn. Mỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau nhưng luôn thống nhất trong một khuôn giọng cơ bản và chủ đạo của thời kỳ văn học ấy.
Nếu như thơ ca trước 1975 tập trung chủ yếu một giọng điệu chủ đạo là ngợi ca, ngọt ngào đầy nhạc tính thì sau 1975 được thay bằng một kiểu giọng khác, lí trí hơn, thô ráp hơn, chói gắt và trục trặc hơn. Về thực chất, đây là sự phá vỡ một mô hình giọng điệu để thiết lập một mô hình giọng điệu hoàn toàn khác. Thơ đương đại trở về với tư duy hướng nội. Các nhà thơ có ý thức đào sâu hơn bản thể tâm hồn. Vì vậy, nó tồn tại nhiều xu hướng, thể hiện nhiều cách thức tìm tòi khác nhau cho nên đã tạo ra sự đa dạng về giọng điệu.
Giọng điệu xót xa trong những câu thơ viết về cuộc chiến tranh và sự vĩ đại của dân tộc, nhân dân cho ta thấy sự đổi mới. Thơ hiện nay đã hạ tông và đã dám nhìn thẳng vào mặt trái của cuộc chiến. Những khổ đau, mất mát, hi sinh được nói nhiều hơn. Những câu thơ như: “Tôi nghe lạnh giữa hai bờ cuộc chiến// Cái chết nối hàng cái chết tiễn đưa nhau” (Ngày đang mở sáng - Trần Anh Thái). Sự khốc liệt của chiến tranh dội vang trên từng nhịp điệu nhanh, mạnh và gãy khúc. Hay: “Cây vàng mã mua cất vào góc tủ// chị sợ đốt rồi hương khói biết bay đâu…”. Mất người thân nhưng có một nấm mồ thắp hương còn may mắn. Người chị trong câu thơ bất hạnh hơn vì không có nấm mồ của người thân, không biết thắp hương vào đâu trong những ngày giỗ, tết. Cũng là ngợi ca chiến thắng nhưng thơ sau 1975 đã có sự trầm tĩnh để đánh giá khách quan về một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng anh hùng của dân tộc.
Sự trở về của cái tôi, nói thực những cảm xúc cá nhân là biểu hiện của tinh thần dân chủ trong giai đoạn mới. Cái tôi cá nhân của thơ đương đại khác hẳn với cái tôi trong Thơ mới, được nói bằng giọng nhức nhối: Thôi vui mà đi, mình nhé// Dùng dằng người khác sẽ thay// Lương tám trăm đô, mỗi tháng// Ơn giời còn một cơ may… (Trần Nhuận Minh). Có khi, hình ảnh thơ thật là chua xót: Các em thất tiết nhiều hơn trước// Bộ ngực nào cũng nhuốm phong sương (Bùi Chí Vinh). Bên cạnh nỗi buồn đau, thơ đương đại cũng có khá nhiều tiếng cười. Đó là tiếng cười ghẹo, cười để quên đi những nhọc nhằn mưu sinh: Con sò con ốc con nghêu// Ngửa trên bãi biển như trêu con cò… (Lời ru con cò biển - Nguyễn Duy). Nó tựa như một thứ xẩm ngọng, và giọng điệu “bụi bậm” góp phần tạo nên sự đa thanh cho thơ.
Không chỉ nhìn vào hiện thực, thơ đương đại còn hướng vào những vùng mờ của tâm linh. Đó là những cảm xúc tôn giáo, hướng về những vùng thiêng. Trong thơ, xuất hiện những không gian kì bí với những nguyện cầu, những đối thoại với thần thánh, trời đất. Vừa hướng về các huyền thoại, tạo nên các huyền thoại, vừa có xu hướng giải thiêng, các nhà thơ muốn bàn luận về những vấn đề nhân sinh, những giá trị vĩnh cửu, về thân phận con người. Hiện thực trong thơ nhiều khi là những vệt mờ, là thế giới ảo diệu trong dòng chảy vô thức của nhà thơ. Sự phân thân của chủ thể trữ tình, sự đa diện của cái tôi đã khiến cho giọng điệu thơ ngân rung những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhiều sắc thái tình cảm khác nhau được thể hiện đậm nét trong thơ Hoàng Hưng, Dương Tường, Hoàng Cầm, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Trần Nhuận Minh v.v.. Khi trở về với cái tôi, các nhà thơ tự xác lập cho mình một cái nhìn riêng nên thơ trở nên đa dạng. Sự phân thân của chủ thể trữ tình, sự đa diện của cái tôi đã khiến cho giọng điệu thơ ngân rung những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhiều sắc thái tình cảm khác nhau. Có thể nói, thơ ca đương đại đã tạo ra một mặt bằng cao hơn các giai đoạn trước đây.
Xu hướng hiện đại hóa thơ ca, làm mới thơ ca đã đưa ra những câu thơ lạ, phá cách, ngôn từ bí hiểm. Chẳng hạn: “Những ngón tay mưa// dương cầm trên mái// những ngón tay mưa// kéo dài tai quái// một nỗi nhớ siêu hình// nhạc nhoè đường xanh// đêm lập thể...” (Serenade 1- Dương Tường). Trong thơ, có nhiều biểu tượng có tính dục làm hoang mang những ai yếu bóng vía. Chẳng hạn: Ai đi sương, tóc dạ, lông, chim// Những tiếng dài, rộng, gió và cây, nhà, khối// tượng, đá, hoa, sương/ Tường vắng, khe, lông (Hoàng Hưng). Thơ Lê Đạt, Hoàng Hưng, Dương Tường có xu hướng vượt qua nghĩa tiêu dùng để đạt tới tự do tuyệt đối trong sáng tạo. Yếu tố vô thức xuất hiện tạo những lớp sương mù trong thơ, những liên tưởng đứt đoạn, những ngôn từ ú ớ, những cách nói vụt hiện như trong cơn mê sảng. Những cách tân này cố gắng đưa thơ Việt đến những miền đất lạ, tôn trọng sự tuôn chảy của dòng ý thức của chủ thể sáng tạo. Các ám thị, các trạng thái mờ ảo tâm linh nổi lên chiếm vị trí chủ đạo để giọng thơ chìm xuống bên trong. Sự chập chờn giữa mơ - thực, những hình ảnh có tính tượng trưng làm cho xu hướng này có một giọng điệu thơ mới lạ. Không ít những câu thơ của Lê Đạt, Dương Tường, Hoàng Hưng và cả Nguyễn Quang Thiều là những câu thơ hay, ngôn ngữ mới lạ. Chẳng hạn: Chiều Âu Lâu bóng chữ động chân cầu (Lê Đạt).
Qua việc tìm hiểu những đặc điểm trên của ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại, chúng ta thấy được sự phát triển đa dạng, phong phú, phức tạp của thời kỳ văn học này. Đặt những đặc điểm ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn qua 7 tập thơ: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997), Vách nước (2003), Hôm sau (2000), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010) trong tương quan với đặc điểm nêu trên sẽ cho thấy rõ hơn những đóng góp của Mai Văn Phấn trong hành trình cách tân thơ đương đại.
1.2. Vài nét về Mai Văn Phấn và thơ Mai Văn Phấn
1.2.1. Vài nét về Mai Văn Phấn
1.2.1.1. Con người
Mai Văn Phấn sinh năm 1955, tại một làng quê hẻo lánh châu thổ Sông Hồng, thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình. Sau tốt nghiệp phổ thông (1974), Mai Văn Phấn vào bộ đội, từng phục vụ trong các ngành kỹ thuật, hậu cần quân sự. Năm 1981, ông chuyển ngành về công ty Thuỷ Lợi II Ninh Bình. Sau đó, học Đại học ngoại ngữ Hà Nội, du học Liên Xô (cũ). Nhà thơ Mai Văn Phấn hiện sống và sáng tác tại thành phố Hải Phòng. Thơ Mai Văn Phấn được giới thiệu tại: Thuỵ Điển, New Zealand, Anh quốc, Hoa kỳ, Hàn Quốc v.v. Thành công trong sáng tác của ông đã được ghi nhận bằng nhiều giải thưởng như: Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội (1994); Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ (1995); Giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 dành cho tập thơ Bầu trời không mái che.
1.2.1.2. Quá trình sáng tác
Trong suốt những năm cầm bút, Mai Văn Phấn sáng tác một số lượng tác phẩm thơ đáng nể. Ông từng phát biểu rằng, «Sáng tạo chính là cuộc vong thân, là quá trình phủ định bản ngã » và «Bài thơ tôi vừa viết xong là bài thơ cũ». Với quan niệm ấy, Mai văn Phấn luôn có xu hướng đổi mới trong hành trình sáng tạo thi ca của mình. Sáng tác của ông được chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn từ thời kỳ khởi đầu đến năm 1995, ngay từ đầu, ông đã tạo được những dấu ấn nhất định. Tuy nhiên, sau đó một thời gian dài ông không sáng tác dành thời gian học tập và tích luỹ vốn sống. Sau 20 năm, Mai Văn Phấn cho ra đời tập thơ đầu tay: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995).
Giai đoạn từ 1995 đến năm 2000: Trong vòng năm năm, Mai Văn Phấn cho xuất bản ba tập thơ Cầu nguyện ban mai, 1997, Nghi lễ nhận tên, 1999, và trường ca Người cùng thời, 1999. Đặc trưng thơ Mai Văn Phấn ở giai đoạn thứ hai tập trung ở trường ca Người cùng thời. Trường ca gồm mười chương với dung lượng lớn, chương 1: Nhóm lửa, đến chương X: Phía trước bàn chân. Phần giữa có 3 chương với tiêu đề: Cộng hưởng I, Cộng hưởng II, Cộng hưởng III làm thành những trụ cột của ngôi nhà Người cùng thời.
Giai đoạn từ năm 2000 đến 2010: Đây là giai đoạn sáng tác đầy tự tin và gặt hái được nhiều thành công của Mai văn Phấn trong suốt hành trình thơ. Các tập thơ được xuất bản:Vách nước (2003), Hôm sau (2009), Và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010).
1.2.2. Chân dung thơ Mai Văn Phấn
1.2.2.1. Thơ sinh ra để nói về niềm hi vọng của con người
Trong tính toàn thể, nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên những niềm hy vọng mãnh liệt và cảm động của con người. Hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng, nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng chính là sự sống. Biểu hiện trong thơ thì đa dạng, nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng tỏ.
Thế giới thơ Mai Văn Phấn khá bề bộn. Bề bộn về số lượng: 370 bài, bề bộn về ý tưởng, bề bộn về thi ảnh, bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay, thế nên, để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai. Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định. Biểu hiện đầu tiên của nó là thế giới phồn sinh, được tập trung vào hai khía cạnh: phì nhiêu và sinh nở.
Trước hết, đó là một thế giới phì nhiêu, nhiều tầng, nhiều cá thể cộng sinh chen chúc đầy hoan lạc, tựa như cánh rừng nhiệt đới vậy. Đọc thơ Mai Văn Phấn, ta thấy sự có mặt của rất nhiều không gian. Ông thích chơi không gian. Đó là không gian cánh đồng, không gian phố phường, không gian dòng sông, không gian căn phòng. Kể cả những không gian giấc mơ, không gian ảo giác đầy mộng mị, hư biến, kỳ ảo, siêu thực với những bóng người, bóng ma, nội thất, đồ vật, con vật… nhiều loại. Từ loạt bài thơ đầu tiên, Mai Văn Phấn đã có những câu thơ tôn vinh thế giới phì nhiêu này: Ghé môi vào miệng thời gian// Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non (Tản mạn về cỏ). Ở nhiều bài thơ, Mai Văn Phấn thường rất thích để cho thiên nhiên và con người hòa thấm trong nhau, trên tinh thần nhất thể hóa: thiên nhiên và con người là/trong một: Anh mơ được em gieo trồng trên ngực// Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt// Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào// Anh cựa mình nồng nàn tươi xốp (Bài ca buổi sớm)
Không chỉ dừng lại ở trạng thái phì nhiêu của sự sống, nhà thơ còn mở vào trạng thái sinh nở của sự sống. Ở Mai Văn Phấn, trạng thái sinh nở, mang thai, thậm chí làm tình là những biểu hiện đẹp đẽ nhất của sự sống nơi trần thế. Bài thơ Tiếng gọi từ cánh đồng nằm trong vệt thơ đầu tay, thế mà Mai Văn Phấn đã sớm tìm đến những hình ảnh này: Qua vỏ trấu của mùa gặt trước// Đã nảy những đọt mầm tia nắng tinh khôi. Nhiều khi, cả thiên nhiên và con người cùng lúc đang cất lên bài ca sinh nở ngàn đời: Lá sen và ngó sen// Tỉnh dậy trong vòng tay của nước// Bờ vai em trong mịn nhô lên// Lại tan theo sóng lăn tăn… (Sáng mùa hè). Ở những bài thơ Từ một đường bay, Dấu vết bình minh, Giọng nói,… và nhiều bài khác, nhà thơ đã biểu đạt thật tinh tế trạng thái sinh nở hân hoan của vũ trụ.
Sau khi tiếp cận với thế giới phồn sinh, nhà thơ tiến thêm một bước nữa, nhìn vào cực bên kia của phồn sinh là sự hóa hóa sinh sinh. Mai Văn Phấn xem cái chết như một sự khởi đầu, mở ra sự sống mới, rồi cứ thế hóa hóa sinh sinh, vô cùng vô tận, miên viễn. Nhà thơ có những hình ảnh về sự thảm bại của cái chết, hoặc về tư thế vươn lên quyết giành giật sự sống, làm cuộc tái sinh mầu nhiệm: Chân trời vừa mai táng bóng đêm (Linh hồn đã bay); Con quạ khật khừ xuyên đêm// Thảng thốt kêu// Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại (Biến tấu con quạ). Thơ Mai Văn Phấn khuyến dụ con người hy vọng vào sự sống bất tử nhờ lẽ hóa sinh mầu nhiệm - một nguyên lý tinh thần nằm ngoài tầm kiểm soát của lý trí/ý chí con người.
Vào những năm sau này, Mai Văn Phấn đẩy ý niệm hóa sinh luân chuyển tiến thêm một bước nữa: ảo giác về sự tồn sinh - lẽ sống chết của kiếp người, sự biến hóa của muôn vật. Bài thơ Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ chính là ảo giác về một kiếp người vô định. Bài Không thể tin là ảo giác về nguyên ủy của các con vật sống. Còn bài Quay theo mái nhà lại là ảo giác về trật tự không gian nội thất. Đến đây, có thể hình dung được cách nhìn thế giới của nhà thơ Mai Văn Phấn. Một thế giới phồn sinh động cựa và luân chuyển hóa hóa sinh sinh vô hồi vô hạn với tất cả vẻ đẹp bí ẩn và mầu nhiệm nhất đã tràn vào thơ anh, thống ngự thơ anh, chiếm ngôi trị vì, không nhượng bộ.
Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ Mai Văn Phấn, có ba hình ảnh cô đọng nhất, chụm nhất, nên trở thành tiêu biểu nhất: Đất đai, Ánh sáng và Người tình (được gọi là Em). Cả ba hình ảnh này đều nằm trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động của chúng. Trong thơ Mai Văn Phấn, không một hình ảnh nào lại có mặt với một mật độ dầy đặc như hình ảnh đất đai. Nhưng trong thi cảm nhà thơ Mai Văn Phấn thì đất lại được ví với người đàn ông, nhất thể hóa với người đàn ông: Đất đai - người đàn ông nằm ngủ// (…) Trên ngực còn vương tro than của mùa đốt đồng (Sau mùa gặt). Hóa ra, nhà thơ đã nuôi nấng trong mình một nỗi khao khát thật lạ: Ta thèm một lần nhân danh đất đai (Khúc phóng túng). Đây là điều thực sự độc đáo ở thơ Mai Văn Phấn.
Tiếp đến là hình ảnh ánh sáng. Tương tự như đất, hình ảnh ánh sáng cũng có mặt tràn lan trong thơ Mai Văn Phấn. Ở nơi nào có ánh sáng, ở nơi đó có giã từ bóng tối, chết chóc, hủy diệt. Và hơn thế nữa, nơi nào có ánh sáng, nơi đó đồng nghĩa với sự phì nhiêu, sinh nở, hóa sinh. Tất cả đều nhất quán trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Đó là những thời khắc tạo sinh lộng lẫy và màu nhiệm của vũ trụ trong hào quang ánh sáng, mà chủ yếu là ánh sáng ban mai: Như vừa mở được chiếc hũ nút// Bóng tối tràn tím rạng đông (Tự thú trước cánh đồng); Lá sen và ngó sen// Tỉnh dậy trong vòng tay của nước (Sáng mùa hè), v.v.. Đó còn là ánh sáng trong những phút giây chan chứa tình yêu tuổi trẻ: Anh bước lên vạt nắng// Một con thuyền ban mai/ Em bảo hãy chờ để khóa chặt cổng (Vườn em). Ở những bài thơ sau này hoặc gần đây nhất, Mai Văn Phấn vẫn không thôi ám ảnh về ánh sáng. Bài Tắm đầu năm lại tìm về ánh sáng của ngọn đèn, thứ ánh sáng của không gian gia đình, của tâm linh, của yêu thương. Bài thơ thật xuất sắc trong một ẩn dụ thân thuộc, khơi gợi, sâu lắng, mang chiều sâu của văn hóa nguồn cội.
Sẽ là không đầy đủ nếu không nói đến hình ảnh người tình, nhân vật được gọi là Em với nhiều dáng vẻ trong thơ Mai Văn Phấn. Thứ nhất, người tình hiện ra qua khuôn hình của kẻ đang yêu vô cùng tình tứ: Con sâu đo em đu lên người anh// thì thầm gặm hết những xanh non (Gió thổi). Thứ đến, người tình như một thứ quyền năng mầu nhiệm: Em đã nghe// Nên gốc cây vừa mới tưới ngấm nhanh đến thế// Vòm phượng vĩ đẫm sương sáng nay bốc cháy// Những quả ngô đồng khô nỏ khua vang (Sáng mùa hè). Và sau nữa là hình ảnh Em trong vẻ đẹp sinh nở, hoài thai: Khẽ nhắm mắt, khẽ ngậm vào tóc em// Đang chết đi và đang sinh sản// Dù có lả đi thành âm u bóng tối// Lại thấy huy hoàng chạm những môi hôn (Anh đã rơi), v.v. Nói về thơ tình, Mai Văn Phấn có không ít những bài thơ thật quyến rũ trong vóc dáng thanh tân hiện đại: Sáng mùa hè, Gương mặt em, Gió thổi, Nghe em qua điện thoại, Vườn em. Tuy nhiên, cả ba hình ảnh Đất đai, Ánh sáng và Người tình trong nhiều trường hợp cùng hiện lên phối thuộc lẫn nhau, hòa quyện trong nhau, tương tác và tôn vinh nhau: Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn đọt mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em).
1.2.2.2. Thơ là hiện thân của sự sáng tạo
Tạo ra phẩm chất thơ mới trong thơ Việt đương đại là khao khát, đích đến của Mai Văn Phấn. Nhìn lại lộ trình thơ Mai Văn Phấn sẽ thấy, nhà thơ đã được “khai tâm” bằng thơ truyền thống và liên tục làm những cuộc “lên đường” để đến với thi pháp hiện đại, cách tân sau này. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, ngay từ những bài thơ đầu tiên, Mai Văn Phấn đã muốn khác và khác. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên trong lời giới thiệu Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn đã nhận xét rằng: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá” [50, tr.8]. Mặc dù trong hai tập thơ đầu Giọt nắng (1992) và Gọi xanh (1995) từ thể thơ, nhịp điệu, kết cấu bài thơ,... chưa thực sự vượt ra ngoài hình thức ổn định của thơ Việt nửa sau thế kỷ XX. Nhưng ta nhận ra ở Mai Văn Phấn ý thức tìm tòi những ý tưởng lạ, hình ảnh lạ để tạo nên sự độc đáo cho thơ mình. Những bài thơ như Rượu xuân, Kinh cầu ban mai, Chiếc lá, Qua hoàng hôn, v.v. là những minh chứng thuyết phục cho nhận xét này. Chẳng hạn: Cầm tay gió dắt vào đêm// Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời// Dấu chân xin cát chớ vùi// Cho ta về lại luân hồi kiếp sau" (Qua hoàng hôn). Không chỉ dừng lại ở những ý tưởng mới lạ, thơ Mai Văn Phấn còn vươn đến những miền liên tưởng độc đáo, đầy sáng tạo. Người đọc có thể thấy rõ điều này qua các bài thơ như Du ca, Nghi Tàm, Cánh chim bay qua, v.v. Chẳng hạn, những vần thơ sau đây: “Bất chợt vệt cánh chim bay qua// Hay quanh quất bóng mình còn sót lại// Cánh chim tựa que diêm quẹt vào ngây dại// Ngọn lửa thiên thần nào có thể bén vào tôi" (Cánh chim bay qua). Một "vệt cánh chim bay qua" mà nghĩ "bóng mình còn sót lại". Quả rất lạ, nhưng còn lạ hơn khi cánh chim lại được nhà thơ ví với "que diêm" thổi bùng lên cái tuổi thơ đầy ao ước bay bổng và cháy bỏng. Đặc biệt, ở cuối giai đoạn này, thơ Mai Văn Phấn đã xuất hiện với hình thức mới mẻ, tự do, phóng khoáng hơn: “Trái đất - căn nhà hộ sinh// Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh// những dòng// mật mã...” (Màu xanh).
Ở các tập thơ Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999), trường ca Người cùng thời (1999), người đọc dễ dàng nhận ra độ “chín” dần về ngôn ngữ, nhịp điệu, thanh âm trong những bài thơ được viết theo thể tự do hay thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn. Nhà thơ Lê Xuân Đố cho rằng: “Thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này bứt phá cách tân thi pháp với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc, bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét đẹp tiềm ẩn của tình yêu, đời sống” [16, tr.283]. Hãy nghe Mai Văn Phấn nói về vẻ đẹp tiềm ẩn của cuộc sống: “Đã mưa// và sấm rền vang// Những đọt mầm khỏa thân trong bóng tối// Đất cố giấu đi trơ trụi khô cằn// Khi cội rễ lần tìm trong ngực” (Biến tấu đêm mưa). Tuy nhiên, đặc trưng thơ ông giai đoạn này tập trung ở trường ca Người cùng thời gồm 10 chương. Trường ca này chứa đựng tất cả những hình thức thơ Mai Văn Phấn đã sáng tác trước đó, đồng thời cũng xuất hiện ở một số chương những thể nghiệm mới về mặt hình thức, về cấu trúc, nhịp điệu, ý tưởng, kết cấu... Riêng chương VIII mang tên MAIL CHO EM, với ảnh hưởng của khuynh hướng siêu thực; hình thức thơ là những từ ngữ nối tiếp nhau, không có dấu chấm, phẩy, xuống hàng, v.v.. Cái duy nhất còn lại là những ký tự vang lên như những câu hỏi mang tính thách thức cũng như kêu gọi người đọc đồng sáng tạo với nhà thơ. Những dòng cuối cùng của bản trường ca đã làm rõ và mở rộng nội hàm của khái niệm người cùng thời mà nhà thơ sử dụng trong bản trường ca: “Cùng thời với cả những người chưa kịp sinh ra mà gương mặt đã hiển hiện trong vòm cây, bóng nước. Cùng thời với cả những người đã chết bởi những từ ngữ hằng ngày ta vẫn thường gọi đến tên nhau” (Người cùng thời - CHƯƠNG X). Tư tưởng xuyên suốt bản trường ca là: “Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên". Tinh thần cao ngất này đồng thời cũng chính là tuyên ngôn thơ Mai Văn Phấn. Trong tinh thần đó, một loạt những hình ảnh truyền tải những thông điệp về cội nguồn, về tổ tiên, về giống nòi, về dân tộc, về Tổ quốc thông qua hình tượng trống đồng và những biểu tượng quen thuộc của quá khứ đã được tấu lên trong một bản hòa tấu hùng vĩ, lúc vang dội, khi hiện hình, khi thúc gọi: Mỏ nhọn con chim nào vừa mổ vào ban mai// Lại lặng lẽ nằm yên trên mặt trống// Bao bình minh sinh ra có hình bọc trứng// Hoàng hôn nào mang khuôn mặt Âu Cơ? (Người cùng thời - CHƯƠNG I). Trường ca Người cùng thời được kết cấu bởi mười chương với dung lượng lớn. Mỗi chương của bản trường ca lại được nhà thơ triển khai theo những mạch vỉa trong không gian và thời gian được dịch chuyển biên độ rộng lớn. Trong đó, vỉa mạch nổi bật là việc nhà thơ chú tâm dùng những hình ảnh và liên tưởng khoáng đạt, ý tưởng hướng tới một cảnh tượng mang tính hiện thực hoành tráng trong tương lai. PGS.TS. Văn Giá đã có những nhận định khá sắc sảo về thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này: “Chặng thứ hai là cả một nỗ lực bứt phá: giờ đây không trọng tự tình nữa, mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha, để rồi phát huy rõ rệt ở chặng 3” [19, tr.539].
Sự đổi mới thi pháp trong giai đoạn ba được đánh dấu bằng sự ra đời của tập thơ Vách nước (2003), một tập thơ mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực. Nhưng phải đến năm 2009, sự đổi mới của thơ ông mới diễn ra quyết liệt nhất. Chỉ trong vòng hai năm, Mai Văn Phấn liên tiếp công bố ba tập thơ: Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009) và Bầu trời không mái che (2010). Điều này đã khiến độc giả ấn tượng không chỉ bởi sức sáng tạo mạnh mẽ, bền bỉ của nhà thơ mà còn bởi những cách tân thi ca vô cùng táo bạo, bất ngờ. Người đọc thấy dường như thơ ông không còn dấu vết nào dù là rất nhỏ của cách viết trước đó. Một vùng đất hoàn toàn mới lạ được mở ra trong thơ Mai Văn Phấn với những hình ảnh, cấu tứ, liên tưởng, kết cấu cũng như cách dùng từ rất mới và lạ, khác hẳn thơ ông trước đây và khác biệt, thậm chí đối nghịch với lối thơ đang chiếm lĩnh thi đàn hiện nay ở nước ta. Những câu thơ sau đây có thể coi là sự thú nhận của Mai Văn Phấn về sự cách tân này: "Nỗi khắc khoải không còn ý nghĩa// Sự thay đổi vượt quá sức mình.// Chưa kịp đắn đo, chưa kịp tưởng tượng// Đã chìm trong mưa, đã cuốn theo mưa" (Từ hạt mưa). Thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này là sự tuyên cáo về cái “khô chết” của các nhà thơ đang tự ngâm vịnh, gặm nhấm sự còi cọc của mình. Bằng những vần thơ khoáng đạt, những hình ảnh thơ cường tráng, mạnh mẽ, những ý tưởng lạ, Mai Văn Phấn đã tạo ra những vần thơ chống lại thói quen lười nhác đã tạo thành quán tính mang tính “di truyền” trong “tư duy thi ca” và trong đời sống chúng ta: “Đừng gượng dậy nói về lòng tin và niềm hy vọng/ khi qua khe cửa hẹp/ gió biển đang bắn vào từng mũi tên mát rượi” (Tỉnh táo tột cùng). Điểm cốt tử trong thơ Mai Văn Phấn là đẩy đến tột cùng, thậm chí là cực đoan và tạo ra sự trái nghịch trong cách nhìn và cách cảm thụ nghệ thuật. Tính phóng đại quá kích của trí tưởng tượng với những hình ảnh và kết cấu hoàn toàn mới lạ đã tạo ra một lối cảm nhận hoàn toàn mới mẻ. Và dưới hình thức mới này, thơ Mai Văn Phấn đã chuyển tải được toàn bộ những gì đang diễn ra trong đời sống này. Mỗi bài thơ của Mai Văn Phấn tác động đến người đọc như là những giấc mơ hay sự phiêu du cùng thi sĩ trong cõi tưởng tượng:
Chúng bịt miệng
trấn lột mọi thứ
và xin tôi bộ phận sinh dục.
Nói rằng xin
bởi nếu tôi không đồng ý
của quý kia phải liệng xuống hố phân
(chúng biết cả bí quyết thần chú).
Tôi bảo:
các ông có thể lấy hết
nhưng cho tôi giữ lại chút riêng
xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ lau, trâu chó.
Tôi cúi xuống đón chiếc ách lên vai
Tôi xù lông và bắt đầu sủa lớn
Tôi lúc lắc và kêu bíp bíp
Tôi mài cơ thể mình xuống sàn nhà.
Tôi chạy quanh và miệng sùi sọt
Tôi nhễ nhại, giả chết, lồng lộn
Tôi rã rời, loạn nhịp, vỡ tung
Tôi thấm nước và vắt ra nước.
(Chỉ là giấc mơ)
PGS.TS. Văn Giá thì cho rằng: “Sang chặng sau cùng này, Mai Văn Phấn đã có được một mùa màng nặng hạt. Nhiều bài thơ được coi là đỉnh cao của thơ Mai Văn Phấn, đồng thời cũng là những thi phẩm sáng giá trong nền thi ca đương đại: Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Nghe em qua điện thoại, Tắm đầu năm, Gió thổi...” [19, tr.539].
Nhìn lại quá trình sáng tác của Mai Văn Phấn, ta thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ. Từ chỗ nghiêng về truyền thống, chưa tạo được nhiều chất riêng đến sự bứt phá mạnh mẽ trong thi pháp ở chặng thứ hai và gặt hái được nhiều thành công ở chặng cuối cùng, Mai Văn Phấn đã thể hiện rõ độ chín của ngòi bút theo thời gian cũng như sự nỗ lực cách tân không ngừng nghỉ của bản thân nhằm tạo ra một phong cách riêng cho thơ mình và hướng đến đổi mới nền thơ Việt trong tương lai.
1.3. Tiểu kết chương 1
Thơ là một nghệ thuật độc đáo. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ trong ngôn ngữ, là ngôn ngữ lấy thẩm mỹ làm cứu cánh. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ chủ yếu được thể hiện ở các bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp, trong đó bình diện ngữ âm là hết sức quan trọng, cần được quan tâm nghiên cứu thấu đáo.
Nền thơ đương đại Việt Nam có nhiều thành tựu nổi bật và đầy triển vọng. Ngôn ngữ thơ đương đại có những điểm nổi bật như phát triển theo hướng tự do hóa, giàu chất đời thường, đậm chất văn xuôi.
Mai Văn Phấn là nhà thơ có vị trí vững vàng trên thi đàn thơ Việt Nam hiện đại. Ông luôn luôn có xu hướng đổi mới trong hành trình sáng tạo thi ca của mình. Ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn độc đáo và mới lạ. Ở các chương tiếp sau, chúng tôi tập trung khảo sát đặc điểm ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn.
Chương 2
VẦN, NHỊP TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Vần trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Khái quát về vần thơ
2.1.1.1. Khái niệm vần và vần thơ
Vần là hiện tượng tồn tại hiển nhiên, khách quan và phổ biến trong thơ ca của bất kì dân tộc nào. Đối với thơ ca Việt Nam, trong các thể thơ truyền thống vốn có niêm luật chặt chẽ như lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn v.v., người ta dễ dàng nhận biết những âm tiết nào hoặc từ nào hiệp vần với nhau do chúng có vị trí cố định trong dòng thơ, câu thơ, khổ thơ. Ngày nay, thơ ca có nhiều đổi mới, vần trong thơ vì thế cũng được nhìn nhận cởi mở hơn. Thậm chí có nhà thơ tuyên bố làm thơ không vần. Tuy nhiên, trên thực tế vần vẫn tồn tại trong thơ.
Tuy vần tồn tại hiển nhiên và khách quan trong thơ nhưng cho đến nay, khái niệm vần tuy đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, nhưng đến nay vẫn chưa có tiếng nói thống nhất. Sở dĩ như vậy là bởi, một mặt, vần trong thơ hết sức đa dạng, phức tạp, lại có sự biến đổi theo diễn trình lịch sử thi ca; mặt khác, cách tổ chức vần thơ mang đặc trưng riêng của từng ngôn ngữ; còn nữa, cách nhận diện vần cũng xuất phát từ những góc nhìn khác nhau. Trước tình hình đó, có nhà nghiên cứu cho rằng: Ý định đi tìm một định nghĩa có tính chất phổ quát về vần bao giờ cũng đưa tới chỗ: một định nghĩa như vậy sẽ trở thành trống rỗng /B.Tomasevxky, dẫn theo [33, tr.10-11]/. Thế nhưng, trong lịch sử thi ca trên thế giới, trong đó có Việt Nam, các nhà thơ, các nhà nghiên cứu, từ nhiều góc độ khác nhau vẫn đưa ra rất nhiều định nghĩa về vần thơ.
Từ góc nhìn của lý luận văn học, các nhà phê bình đều thống nhất xem vần là yếu tố quan trọng của hình thức thơ ca. Trước hết, vần là phương tiện để chuyển tải nội dung tư tưởng, cảm xúc và thi hứng của nhà thơ, góp phần tạo nên âm hưởng hài hoà và tăng sức biểu cảm của thơ. Xét vần trong cấu trúc hình thức của câu thơ, bài thơ, nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm định nghĩa: Vần (chữ Nho là vận) là những tiếng âm thanh âm hoà hiệp đặt vào hai hoặc nhiều câu thơ để hưởng ứng nhau [22, tr.143]. Định nghĩa này tương đối khái quát, chú ý đến đặc điểm cộng hưởng, hoà âm của vần. Tác giả Nguyễn Lương Ngọc cũng cho rằng: Sự lặp lại những thanh đọc theo một âm ở cuối hay quãng giữa dòng thơ để tăng tiết tấu và sự biểu hiện của từ gọi là vần [51, tr.160]. Theo định nghĩa này, thanh điệu có vai trò to lớn trong vần thơ, khẳng định chức năng của vần là tăng tiết tấu và sức biểu hiện của từ.
Bên cạnh sự hòa âm để tăng sức liên tưởng và gợi cảm cho câu thơ, bài thơ, các nhà lý luận, phê bình văn học cũng khẳng định một chức năng nữa của vần đó là chức năng liên kết. Các tác giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, dù không trực tiếp nêu định nghĩa vần thơ nhưng đã gián tiếp đề cập đến cách hiểu về vần thơ. Theo các tác giả này, “Vần có chức năng là lặp lại ngữ âm để làm tăng sự nhịp nhàng của câu thơ và để làm cho mạch thơ gắn chặt với nhau” [10, tr.14]. Bùi Công Hùng xem vần: “Về phương diện ngữ âm có thể coi như lặp lại các âm trong tổ hợp âm nối giữa hai dòng thơ và kéo dài đến cuối bài thơ” [33, tr.160].
Như vậy, từ góc độ lý luận văn học, các nhà nghiên cứu đã xem vần trong vai trò hoà âm, tăng sự gợi cảm và liên kết của thơ. Định nghĩa của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học có thể xem là định nghĩa khái quát nhất, rõ ràng nhất cho ý kiến này: “Vần là một phương tiện tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp lại không hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính hài hoà và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ” [23, tr.362].
Tác giả Mai Ngọc Chừ xem xét vần thơ dưới ánh sáng ngôn ngữ học, cho rằng: “Vần là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những chức năng nhất định như liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhất mạnh sự ngừng nhịp” [4, tr.16]. Cũng dưới ánh sáng của ngôn ngữ học, Đinh Trọng Lạc và Lê Xuân Thại định nghĩa: “Vần là sự hoà âm, sự cộng hưởng âm thanh giữa các đơn vị ngôn ngữ trên những vị trí nhất định nhằm liên kết, các vế tương đương: Bước thơ, dòng thơ, khổ thơ... vần có tác dụng liên kết tạo nên hiện tượng hoà âm” [4, tr.34]. Cùng quan điểm này, giáo sư Nguyễn Quang Hồng nhìn nhận vấn đề khái quát hơn: “Vần là hiện tượng hòa phối hưởng ứng âm thanh giữa các đơn vị ngôn ngữ trên những vị trí nhất định nhằm liên kết gắn nối các vế tương tương trong ngôn từ thi ca” [32, tr.34].
Vậy là, đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn về vần thơ. Tuy nhiên, để giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi chọn định nghĩa của tác giả Nguyễn Quang Hồng làm chỗ dựa. Cũng cần nói thêm, cách hiểu về vần trong thơ và vần trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt có sự xê xích theo quan niệm của từng nhà nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, vần trong thơ gồm ba yếu tố: thanh điệu, âm cuối và âm chính. Trong hầu hết các vần thơ tiếng Việt, âm đệm gần như không tham gia hiệp vần.
2.1.1.2. Vai trò của vần thơ
Khi nói vần là hiện tượng hòa âm trong thơ là nói chức năng tổ chức của nó. Vần là chiếc cầu, là chất keo kết nối các dòng thơ, câu thơ, khổ thơ dính lại với nhau thành chỉnh thể bài thơ. Như vậy, vần có chức năng liên kết văn bản và là một trong những phương tiện liên kết chủ yếu của ngôn từ thi ca, của các văn bản thi ca. Ở chức năng này, hầu hết các tác giả đều có một cách nhìn tương đối thống nhất. “Vần như là sợi dây ràng buộc các câu thơ lại với nhau, do đó giúp cho việc đọc được thuận miệng, nghe được thuận tai, và làm cho người đọc người nghe dễ thuộc dễ nhớ” [4, tr. 31], “vần tách biệt các dòng thơ và tạo liên kết giữa chúng với nhau” [28, tr. 423]. Xuân Diệu cũng cho rằng: “Vần theo gốc dân gian Việt Nam (vừa ở cuối câu, vừa ở giữa lưng câu) là vần bánh trôi, nó dính lấy nhau, lăng líu lấy nhau”. GS. Nguyễn Nhã Bản nhận xét: “Vần như sợi dây nhịp cầu bắc qua dòng thơ” [3, tr.121]. Còn theo Nguyễn Phan Cảnh: Hiệp vần là hiện tượng tạo nên những tiếng vọng theo chu kỳ, đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa các đơn vị ngữ điệu” [4].
Chức năng tổ chức, chức năng liên kết văn bản của vần được thể hiện đặc biệt rõ ở những bài thơ truyền thống vốn có các khổ theo một mô hình cố định. Ở đây, vần thể hiện rõ vai trò tổ chức khổ thơ tức là liên kết các dòng riêng biệt lại thành một khổ. Trong những bài thơ hiện đại vốn không có cấu trúc khổ cố định như thơ truyền thống, mới nhìn qua, người ta có thể nghĩ rằng vai trò tổ chức của vần sẽ kém phần quan trọng. Nhưng sự thật thì hoàn toàn ngược lại. Ở những bài như thế, do không có cấu trúc khổ chặt chẽ, do số lượng âm tiết ở mỗi dòng khác nhau cho nên chức năng tổ chức, chức năng liên kết các dòng thành đoạn, thành bài lại càng quan trọng. Ở đây, nếu vần vắng mặt sẽ có cảm giác câu thơ trở nên rời rạc. Và nếu như ở thơ có khổ “sợi dây” vần được “cắt” đều đặn ra làm nhiều khổ ngắn thì ở những bài thơ tự do, “sợi dây” đó như kéo dài mãi.
Vần thực hiện chức năng nhấn mạnh sự ngừng nhịp và xác lập mối quan hệ giữa vần và nhịp. Vần liên kết các vế tương đương trong ngôn từ thi ca. Cho nên, có thể nói, ngắt nhịp là tiền đề của hiện tượng hiệp vần nhưng ở chiều ngược lại, chính vần cũng tác động trở lại đối với nhịp. Sự tác động này được biểu hiện ở chỗ, nhịp khi có sự hỗ trợ của vần thì chỗ ngừng, chỗ ngắt trở nên rõ ràng hơn, lâu và đậm hơn. Hay nói cách khác, vần có chức năng nhấn mạnh sự ngừng nhịp.
Trong một dòng thơ, âm tiết hoặc từ mang vần thường nổi bật hẳn lên so với các đơn vị khác. Về mặt ngữ âm, đơn vị mang vần bao giờ cũng được nhấn giọng (trọng âm) để cộng hưởng với đơn vị khác bắt vần với nó. Đây không chỉ là hiện tượng ngữ âm thuần túy mà trong nhiều trường hợp, vần thơ có sức mạnh biểu đạt ý nghĩa cho câu thơ, bài thơ. Chẳng hạn, vần eo trong các âm tiết veo, teo ở hai câu đầu bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến có chức năng biểu nghĩa: thể hiện sự co lại, đọng lại không nhúc nhích, cho ta một cảm giác lạnh lẽo, yên tĩnh lạ thường của cảnh vật. Khi nhà thơ gieo vần vào những tiếng, những từ mang lượng thông tin cao, hay đặt vần vào những vị trí thích hợp thì vần thơ sẽ phát huy sức mạnh biểu đạt ý nghĩa cho câu thơ, bài thơ.
2.2.1.3. Phân loại vần thơ
Trong thơ, thông thường, vần được phân loại theo ba cách: theo vị trí các tiếng hiệp vần, theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần và theo đường nét của thanh điệu các tiếng hiệp vần.
a) Theo vị trí hiệp vần, thơ Việt Nam có hai loại vần: vần chân và vần lưng.
- Vần chân (còn gọi cước vận) là vần mà tiếng được gieo và tiếng hiệp vần đều nằm cuối dòng thơ. Vần chân có tác dụng đánh dấu sự kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ. Vần chân gồm các kiểu chính:
Vần chân liên tiếp, ví dụ:
Ta đi đây, với thế kỷ hai mươi
Mạch suối trẻ trong dòng người vô địch!
Ta đi tới biết đâu là tuyệt đích?
Người cuốn lôi ta, ta cuốn lôi người…
(Tố Hữu - Vui bất tuyệt)
Vần chân gián cách, ví dụ:
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi con đến ngày lớn khôn.
(Phùng Quán - Lời mẹ dặn )
Vần chân phối hợp hai kiểu liên tiếp và gián cách, ví dụ:
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi.
(Hàn Mặc Tử - Một nửa trăng)
- Vần lưng (còn gọi yêu vận) là vần mà tiếng hiệp vần nằm giữa dòng thơ. Trong thể lục bát, tiếng hiệp vần thường là tiếng thứ 6 của dòng bát (có khi là tiếng thứ 4). Ví dụ:
Đường qua mấy phố Quy Nhơn
Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần
Người đi quấn áo chen chân
Ờ sao như đã quen thân từ nào?
(Tố Hữu - Tiếng hát đi đày)
Tác giả Phan Ngọc nhận xét: “Thơ ta khác thơ Trung Quốc ở chỗ thiên về vần lưng” [52, tr.14]. Điều đó có nghĩa là, trong thơ ca Trung Quốc, vần chân phổ biến hơn vần lưng; còn trong thơ ca Việt Nam thì ngược lại.
b) Phân loại theo đường nét thanh điệu
Trong các âm tiết hiệp vần, truyền thống thơ Việt Nam đã phân biệt vần bằng và vần trắc.
- Vần bằng: bao gồm các thanh: bằng cao, bằng thấp, các thanh bằng cao - thấp hiệp vần với nhau. Thanh bằng cao gồm: các thanh ngang (thanh không dấu) hiệp vần với nhau, ví dụ:
Ta lên ta hỏi ông trăng
Hoạ là ông có biết chăng sự đời?
(Thơ Tú Xương)
Thanh bằng thấp gồm: các tiếng có thanh huyền hiệp vần với nhau, ví dụ:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi.
(Tố Hữu - Việt Bắc)
Thanh bằng cao - thấp gồm: các tiếng hiệp vần có thanh ngang và thanh huyền, ví dụ:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
- Vần trắc bao gồm các thanh: trắc cao, trắc thấp, các thanh trắc cao - thấp hiệp vần với nhau. Thanh trắc cao gồm các thanh sắc và thanh ngã, ví dụ:
Thằng hai ngày trước
Trốn vào chiến khu
Nó theo cứu nước
Làm lính Cụ Hồ.
(Tố Hữu - Bà mẹ Việt Bắc)
Thanh trắc thấp gồm: các thanh hỏi và thanh nặng, ví dụ:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
(Đoàn Thị Điểm - Bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm)
Thanh trắc cao - thấp gồm các tiếng hiệp vần có thanh trắc cao (thanh ngã, thanh sắc) và trắc thấp (thanh hỏi, thanh nặng), ví dụ:
Ơi chiếc xe vận tải
Ta cầm lái đi đây
Nặng biết bao ân ngãi
Quý hơn bao vàng đầy
(Tố Hữu - Bài ca lái xe đêm)
c) Phân loại theo mức độ hoà âm
Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần, trong thơ Việt Nam hiện đại có ba loại vần: vần chính, vần thông và vần ép, trong đó, phổ biến nhất là hai loại đầu. Với vần chính, hai tiếng hiệp vần phải đảm bảo các yêu cầu sau: có âm chính giống nhau; âm đệm có thể có hoặc vắng; âm cuối (nếu có) phải giống nhau; phụ âm đầu (nếu có) phải khác nhau.
Trong cặp âm tiết hiệp vần chính, phụ âm đầu có thể giống nhau trong hai trường hợp sau đây:
Hai tiếng đó phải mang thanh điệu khác nhau. Ví dụ:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
(Tố Hữu - Việt Bắc)
Hai tiếng đó phải thuộc vào hai từ khác nghĩa nhau. Ví dụ:
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo (…)
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Nguyễn Khuyến - Thu điếu)
Vần chính là loại vần có mức độ hoà phối âm thanh cao nhất, do đó, nó tạo nên âm hưởng tốt nhất cho ngôn ngữ thơ: tạo tính nhạc, tính nhịp nhàng cân đối, sự du dương. Ví dụ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
(Tố Hữu - Việt Bắc)
Trong vần thông, hai tiếng hiệp vần phải đạt các yêu cầu: âm chính: na ná như nhau (cùng một dòng hoặc cùng một độ mở); âm cuối: hoặc giống nhau hoặc cùng một nhóm (cùng nhóm phụ âm mũi: m, n, ng, nh, hay cùng nhóm phụ âm tắc vô thanh p, t, c, ch). Ví dụ:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán toát mồ hôi
(Chính Hữu - Đồng chí)
Tuy không bằng vần chính nhưng vần thông cũng tạo nên âm hưởng tốt cho ngôn ngữ thơ.
Với vần ép, trong thơ ca Việt Nam, vần ép được xem là “ngoại lệ” vì tính không phổ biến của nó. Nhưng trong thơ Việt Nam hiện nay, vần ép trở nên thông dụng hơn, do đó đã có người xem nó như một loại vần chính thức của thơ ca. Trong cặp vần ép, âm chính khác nhau cả về dòng lẫn độ mở; còn âm cuối thì hoặc trùng nhau, hoặc cùng nhóm phụ âm (tắc-mũi hay tắc-miệng). Ví dụ:
Có những mẹ già và em bé
Suốt hai bờ sông
Trên chục dặm đường
Vẫn “hộ” theo tàu mình như thế
(Lưu Trọng Lư - Người con gái sông Gianh)
d) Phân loại theo cách kết thúc vần
Theo cách kết thúc vần và cũng là cách kết thúc âm tiết, có thể phân chia ra vần mở (còn gọi là vần đơn), vần nửa mở, vần nửa khép, vần khép (ba loại sau gọi là vần phức). Vần trong thơ ca và trong cấu tạo một số đơn vị ngôn ngữ khác của tiếng Việt (thành ngữ, tục ngữ, câu đố) đều được hình thành và xây dựng trên cơ sở bộ phận vần của âm tiết. Tất cả những loại vần trên được thể hiện rõ nhất ở âm cuối và âm chính trong âm tiết tiếng Việt.
Âm cuối là thành tố thể hiện rõ rệt nhất đối với tính chất của âm tiết. Vì thế, các nhà ngữ âm học đã dựa vào âm cuối để phân biệt 4 loại âm tiết tiếng Việt: âm tiết mở (không có âm cuối) Ví dụ: bà, về, úa, chia, khuya, mưa, thua,…; âm tiết nửa mở (có âm cuối là bán âm). Ví dụ: mai, tây, cười, nấu, cao, rượu,…; âm tiết nửa khép (có âm cuối là phụ âm mũi m, n, ng, nh). Ví dụ: tim, thêm, uốn, lượn, đồng, lương,…; âm tiết khép (ó âm cuối là phụ âm tắc vô thanh p, t, c, ch). Ví dụ: tháp, nộp, ướt, hát, ốc, luộc,…
Các tiếng hiệp vần trong thơ với nhau bao giờ cũng phải thuộc cùng một loại âm tiết. Có các trường hợp cụ thể sau đây:
Các tiếng hiệp vần đều không có âm cuối (tức là đều cùng loại âm tiết mở). Ví dụ:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Các tiếng hiệp vần có âm cuối giống nhau. Ví dụ:
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ cỏ con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
(Vũ Cao - Núi đôi)
Các tiếng hiệp vần có phụ âm cuối khác nhau nhưng thuộc cùng một nhóm (hoặc cùng nhóm phụ âm mũi, hoặc cùng nhóm phụ âm tắc vô thanh). Ví dụ:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Âm chính là thành tố qui định âm sắc chủ yếu của âm tiết nên cũng có vai trò đáng kể trong việc tạo lập vần thơ. Các tiếng hiệp vần với nhau trong lời thơ phải có âm chính hoặc giống nhau, hoặc phải cùng dòng hay cùng độ mở. Ví dụ về một số cặp vần có âm chính khác nhau.
- Cùng dòng:
Trâu biết nói, trâu không biết xét
Suy mình muông công nghiệp đã dày
(Lục súc tranh công)
- Cùng độ mở:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lăn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước lúc đò đông
(Tú Xương - Thương vợ)
Từ những nhận thức trên, chúng tôi tiến hành khảo sát vần và các nguyên tắc hiệp vần trong thơ Mai Văn Phấn.
2.1.2. Các nguyên tắc hiệp vần trong thơ Mai văn Phấn
2.1.2.1. Các yếu tố tham gia hiệp vần thơ
Hành trình thơ hơn hai mươi năm, Mai Văn phấn, một mặt, vẫn kế thừa các hình thức truyền thống, mặc khác, ông luôn cố gắng làm mới cách diễn đạt để góp phần nhỏ của mình đổi mới ngôn ngữ thơ theo xu hướng tự do hóa, hiện đại hóa. Vần trong thơ ông là một biểu hiện của sự cố gắng tìm tòi, đổi mới đó.
Tiến hành khảo sát 114 bài thơ của Mai Văn Phấn, chúng tôi thu được 576 cặp vần. Tính trung bình có khoảng 5 cặp vần trong mỗi bài thơ. Sau khi thống kê số lượng các cặp vần, chúng tôi tiến hành xem xét sự thể hiện của các yếu tố tham gia hiệp vần trong vần thơ Mai Văn Phấn gồm thanh điệu, âm cuối và âm chính. Vì khảo sát vần thơ dưới góc độ ngôn ngữ học nên khi miêu tả định lượng vần thơ Mai Văn phấn, chúng tôi dùng kí hiệu ghi âm quốc tế (API).
2.1.2.2. Sự phân bố các yếu tố trong vần thơ Mai Văn Phấn
a. Thanh điệu trong hiệp vần thơ Mai Văn Phấn
a1. Tiểu dẫn
Chức năng hòa âm của thanh điệu trong vần thơ thể hiện ở chỗ: các âm tiết hiệp vần với nhau chỉ có thể mang hai thanh cùng tuyền điệu (cùng bằng hoặc cùng trắc), nghĩa là phải đồng nhất ở một đặc trưng ngữ âm quan trọng của thanh điệu. Nếu vi phạm nguyên tắc ấy sẽ phá vỡ sự hòa âm dù cho âm cuối và âm chính đồng nhất. Thanh điệu trong hiệp vần thơ Mai Văn Phấn, nhìn chung thực hiện chức năng hòa âm nhưng vẫn có khá nhiều trường hợp vi phạm nguyên tắc này.
a2. Số liệu thống kê
Khảo sát 114 bài thơ của Mai Văn Phấn, chúng tôi xác định được 576 cặp vần, trong đó, thanh điệu tham gia hiệp vần được phân bố cụ thể ở bảng dưới đây:
Th.điệu
K.quả
|
Nhóm bằng (B)
|
Nhóm trắc (T)
|
Đặc
biệt
|
Tổng
|
cao
|
thấp
|
cao/thấp
|
cao
|
thấp
|
cao/thấp
|
Sốlượng
|
120
|
50
|
212
|
36
|
9
|
43
|
106
|
576
|
Tỉ lệ
|
21,0%
|
8,7%
|
37,0%
|
6,3%
|
2,0%
|
7,0%
|
18%
|
100
|
Ví dụ minh họa:
(1)
Em đi cùng đám mây bông
Mình anh gió hú dọc sông Ngân Hà
(Một mình)
Trong hai câu thơ trên, bông hiệp vần với sông, cùng thanh ngang, cao, thuộc nhóm bằng.
(2)
Vầng trăng em đứng giữa trời
Để rơi ngàn mảnh gương ngời mặt sông.
(Trương Chi)
Trong hai câu thơ trên, trời hiệp vần với ngời, cùng thanh huyền, thấp, thuộc nhóm bằng.
(3)
Mùa thu còn ở trên cao
Ngu ngơ buông thả ngọt ngào lưỡi câu.
(Lơ lửng)
Trong hai câu thơ trên, cao hiệp vần với ngào, thanh điệu cùng nhóm bằng nhưng không cùng âm vực: thanh ngang, cao, trong cao và thanh huyền, thấp, trong ngào
.
(4)
Đỉnh núi che con đường co duỗi
Không nhận ra em hôm qua
Ngựa thở dốc
Bời ngợp cảm giác cỏ
Chùm lưỡi dìu nhau đứt cuống.
(Được quyền nghĩ những điều đã ước)
Trong khổ thơ trên, duỗi hiệp vần với lưỡi, cùng thanh ngã, cao, thuộc nhóm trắc.
(5)
Anh nghiêng vào chiếc lá
Lá bỗng đôm đốm vàng
Có giọt sương lạnh giá
(Chân thật)
Trong khổ thơ trên, lá hiệp vần với giá, cùng thanh sắc, cao, thuộc nhóm trắc.
(6)
Phải tĩnh tâm để bàn tay hoang dã
Cúi nhặt từng chiếc lá rơi.
(Mơ thực)
Trong hai câu thơ trên, dã hiệp vần với lá, cùng nhóm trắc, thanh ngã (trong dã) và thanh sắc (trong lá) cùng âm vực, cao.
(7)
Quẫy vào biển rộng,
Con chim mang tiếng hót sáng choang mơ mộng.
(Giáng sinh)