image advertisement
image advertisement





























 

Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái (Luận văn thạc sĩ) - Dương Thị Phú

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2





 

 

 


Dương Thị Phú

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp

 

 

 


THƠ
 MAI VĂN PHẤN
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

 

 

 

       
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, NĂM 2018

 









 

 

 

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU          

 

1. Lí do chọn đề tài  

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

6. Giả thuyết khoa học

7. Cấu trúc luận văn

 

NỘI DUNG

Chương 1. KHÁI LƯỢC VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NHÀ THƠ MAI VĂN PHẤN

 

1.1. Khái lược về phê bình sinh thái

 

1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái

1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái
1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái
1.1.2.2. Sự phát triển của phê bình sinh thái
1.1.3. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại

 
1.2. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai Văn Phấn

1.2.1. Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thi ca Việt Nam đương đại
1.2.2. Những chặng đường sáng tạo
1.2.1.1. Giai đoạn từ khởi nghiệp đến năm 1995
1.2.1.2. Giai đoạn từ 1995 đến 2000
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay

1.2.3. Quan niệm nghệ thuật

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1


Chương 2. SINH THÁI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN QUA CÁC BIỂU TƯỢNG CƠ BẢN

2.1. Khái niệm “biểu tượng”

2.2. Sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn qua các biểu tượng cơ bản

2.2.1. Hệ biểu tượng về bầu trời
2.2.1.1. Biểu tượng ánh sáng
2.2.1.2. Biểu tượng ngọn gió, giọt sương, chim muông
2.2.2. Hệ biểu tượng về mặt đất
2.2.2.1. Biểu tượng đất
2.2.2.2. Biểu tượng nước
2.2.2.3. Biểu tượng cỏ cây, hoa lá

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Chương 3. MỐI QUAN HỆ HÀI HÒA GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN: SỰ THỨC TỈNH CỦA ĐẠO ĐỨC SINH THÁI

3.1. Sự hài hòa giữa con người và tự nhiên

3.1.1. Người mẹ: cội nguồn thế giới
3.1.2. Người tình: đắm say, rạo rực và tình tứ
3.1.3. Anh trong miên man cảm xúc bất tận
3.2. Sự thức tỉnh của đạo đức sinh thái
3.2.1. Cái nhìn trân trọng môi trường tự nhiên
3.2.2. Những âu lo khi tự nhiên bị tàn phá

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

 


MỞ ĐẦU

 


1. Lí do chọn đề tài


1.1. Trong thời đại ngày nay, vấn đề sinh thái đã và đang trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu. Sự ích kỉ của con người và sự tận diệt tự nhiên đang đe dọa sự tồn tại của toàn nhân loại. Người ta thấy rằng để giải quyết mối căng thẳng giữa con người với tự nhiên, chống lại sự nổi giận của thiên nhiên không chỉ bằng sức mạnh vật chất mà còn phải dựa vào khoa học nhân văn. Giữa thập niên 90 của thế kỉ XX, phê bình sinh thái ra đời có sứ mệnh phân tích, chỉ ra căn nguyên văn hóa, tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, đặt ra vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên để nhận ra nguyên nhân của tình trạng nói trên.


1.2. Sự xuất hiện của văn học sinh thái và phê bình sinh thái không những nhằm cảnh tỉnh thái độ ứng xử của con người với tự nhiên mà còn mở ra cách tiếp cận mới trong nghiên cứu văn học. Từ một phương pháp phê bình được ứng dụng trên thế giới, gần đây lí thuyết này cũng bắt đầu được giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam áp dụng và cho những thành tựu khả quan.


Các nhà nghiên cứu, phê bình văn học cho rằng đã có một “khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975” [21] với quan điểm tác phẩm sinh thái được nhận diện ở ba dấu hiệu: Thứ nhất, tác phẩm từ bỏ cái nhìn mang tính ẩn dụ về tự nhiên để viết với ý thức sinh thái; thứ hai, văn học sinh thái lấy tư tưởng “sinh thái là trung tâm”, tác phẩm viết về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên phải có quan điểm sinh thái; thứ ba, cân bằng tự nhiên cũng đảm bảo cho cân bằng xã hội, đó là lí do vì sao văn học sinh thái tích hợp với các vấn đề xã hội: giới tính (sinh thái nữ quyền), chủng tộc, giai cấp, xã hội (sinh thái hậu thực dân, sinh thái xã hội, sinh thái chủ nghĩa Mác,…


1.3. Dĩ nhiên, văn học sinh thái không chỉ xuất hiện trong văn xuôi mà còn xuất hiện cả trong thơ Việt Nam đương đại. Bên cạnh nhiều nhà văn xuôi quan tâm đến văn học sinh thái, chủ đề sinh thái cũng được nhiều nhà thơ thể hiện hết sức sinh động. Trong số đó, Mai Văn Phấn là một cây bút đáng chú ý. Đọc thơ Mai Văn Phấn, ta dễ bị cuốn hút vào thế giới hình tượng thơ vừa gần gụi, tự nhiên vừa độc đáo. Bạn đọc cũng dễ nhận ra hai tuyến hình ảnh – biểu tượng làm nên vẻ đẹp tượng trưng – siêu thực trong thế giới nghệ thuật ấy: một Con người và một – Thiên nhiên. Cảm hứng sinh thái đến với nhà thơ không hề gò ép mà tự động chảy ra từ mạch nguồn trong sâu thẳm nhân tâm.


Vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình là: Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái.


2.1. Khái lược về phê bình sinh thái


Trên thế giới, phê bình sinh thái được manh nha vào những năm 70 của thế kỉ trước nhưng phải đến những năm 90 của thế kỉ XX mới thực sự trở thành một khuynh hướng nghiên cứu văn học ở Mĩ và tiếp đó lan ra nhiều nước trên thế giới. Trong bài viết Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học, Karen Thornber cho rằng phê bình sinh thái “khảo sát cặn kẽ những ngụ ý về môi trường sinh thái và quan hệ giữa con người – tự nhiên trong bất kì văn bản văn chương nào, kể cả những văn bản (thoạt nhìn) dường như không để ý gì đến thế giới con người” [18]. Phê bình sinh thái ra đời đã bổ sung thêm một hướng tiếp cận văn chương và hứa hẹn đem lại những gợi ý khám phá về một phương diện mới mẻ của các tác phẩm văn học. Ở Việt Nam, từ sau năm 1986, giới nghiên cứu văn học đã cởi mở hơn trong việc tiếp thu các luồng tưtưởng, học thuyết mới nhưng với phê bình sinh thái vẫn còn nhiều dè dặt. Năm 2012, khi viết bài Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân Đỗ Văn Hiểu đã lí giải hiện tượng này. Theo nhà nghiên cứu, nguyên nhân khiến phê bình sinh thái chưa thể phát triển mạnh ở Việt Nam là bởi nó mang sự cách tân về tư tưởng nòng cốt, chuyển đổi từ tưtưởng “nhân loại trung tâm luận” sang lấy “sinh thái trung tâm luận” làm nền tảng. Phê bình sinh thái mang sứ mệnh mới là “nhìn nhận lại văn hóa nhân loại”. Nó có nguyên tắc mĩ học riêng, xác lập đối tượng và phạm vi nghiên cứu riêng [13].


Những dẫn nhập về phê bình sinh thái được giới thiệu ở Việt Nam chủ yếu là qua các bài dịch của Hải Ngọc như Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học, Đỗ Văn Hiểu dịch bài Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển phần 1, phần 2 từ bản tiếng Trung: Phê bình sinh thái Âu Mĩ, Nxb Học Lâm, 2008, và Phê bình sinh thái: Phát triển và nguồn gốc, trong Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung quốc và thế giới, Nxb Đại học công Thương Triết Giang, 2010, Giáo sư Trần Đình Sử có bài Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay. Ở bài viết của mình, GS Trần Đình Sử hướng tới quan niệm vận dụng tư tưởng sinh thái để xem xét mối quan hệ giữa văn học và môi trường văn hóa, tinh thần xã hội [43]. Cùng quan điểm với giáo GS Trần Đình Sử, PGS.TS Trần Lê Bảo cũng có bài viết Bàn về văn hóa sinh thái văn chương. Ông nhấn mạnh “nghiên cứu sinh thái văn chương cần có cái nhìn toàn diện và tổng thể cả về sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội, lẫn sinh thái vật chất và sinh thái tinh thần. Đó là những yếu tố quan trọng trong quá trình nghiên cứu sinh thái văn chương” [51, tr.67].


Những bài viết trên là nguồn tư liệu quan trọng cho giới nghiên cứu Việt Nam vận dụng lí thuyết của phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học. Bài tạp chí Thiên nhiên – Nguồn cảm hứng bất tận của văn chương phương Đông [28] của Trần Thị Ánh Nguyệt cho rằng: Thiên nhiên có một địa vị trung tâm trong tâm thức của người phương Đông từ xưa đến nay. Điều đó thể hiện ở tình yêu tha thiết với thiên nhiên trên mọi chủ đề. Nếu như văn học phương Tây luôn coi tự nhiên là nền cảnh để làm nổi bật con người thì trong văn học phương Đông, thiên nhiên là biểu tượng cơ bản để biểu hiện tâm hồn. Đó cũng là nơi mà con người vơi bớt những buồn phiền, hệ lụy của thế sự nhiêu khê. Văn học hiện đại phương Đông sau một giai đoạn phần nào bỏ rơi thiên nhiên đã quay trở lại với vấn đề thời sự - cần bảo vệ sinh thái, sống cân bằng với tự nhiên mới có được hạnh phúc và yên ổn. Bài tạp chí Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn phê bình sinh thái [27] của Trần Thị Ánh Nguyệt có viết: Theo Cheryll Glotfelty, phê bình sinh thái, nói một cách đơn giản nhất, là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên. Nó phản biện lại các lí thuyết khoa học nhân văn lấy “con người làm trung tâm” trước đó, để đề xuất cách nhìn nhận, tiếp cận “trái đất làm trung tâm”. Bài viết này muốn từ tư tưởng cốt lõi đó để “đọc” truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Từ góc nhìn ấy, nhà văn đã đặt ra một cách trực diện những vấn đề môi trường và số phận của con người trong thời đại khủng hoảng môi sinh. Đồng thời tác giả cũng đề xuất một cách lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên để tìm cho ra câu trả lời cho những khủng hoảng của con người thời hiện đại và đề xuất một thái độ sống gần gũi tự nhiên để được chia sẻ và thanh thản. Từ những bài viết mang tính khám phá, khai mở như Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa của PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp đến những nghiên cứu chuyên sâu như Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt hay Rừng khô, suối cạn, biển độc…và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy,… phê bình sinh thái đã trở thành một hướng tiếp cận tác phẩm văn học mới mẻ, hấp dẫn và lí thú. Cuối năm 2017, ấn phẩm Phê bình sinh thái là gì? do Hoàng Tố Mai chủ biên, Đặng Thị Thái Hà, Lê Quốc Hiếu, Phạm Phương Chi,... dịch và tổng thuật những bài viết về phê bình sinh thái của các học giả quốc tế nơi khởi nguyên phê bình sinh thái như Phê bình sinh thái trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu (Kate Rigby), Những môi trường sinh thái, những mơ hồ về môi trường và các nền văn học (Karen Laura Thornber),… Và Viện văn học chủ trì hội thảo khoa học quốc tế mang tên Phê bình sinh thái: Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu cùng với đó kỉ yếu của hội thảo được in ấn với hơn một ngàn trang sách của hàng trăm tham luận của các học giả trong và ngoài nước thì phê bình sinh thái thực sự đã trở nên quen thuộc đối với ngành nghiên cứu, lí luận và phê bình văn học ở Việt Nam. Phê bình sinh thái cũng đến gần hơn với độc giả quan tâm tới văn học nước nhà.


2.2. Những nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn


2.2.1. Nghiên cứu chung về sáng tác của Mai Văn Phấn


Mai Văn Phấn là gương mặt đã dần trở nên quen thuộc với bạn đọc yêu thơ đương đại Việt Nam và thế giới. Tên tuổi của ông được ghi nhận qua những giải thưởng văn học có giá trị cả ở trong nước và quốc tế, như: giải thưởng “Cuộc thi thơ” tuần báo Người Hà Nội năm 1994, giải thưởng “Cuộc thi thơ” tuần báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) năm 1995, giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 (cho tập thơ “Bầu trời không mái che”), giải thưởng văn học Cikada Thụy Điển năm 2017. Ở Việt Nam, Mai Văn Phấn đã xuất bản 15 tập thơ, một cuốn sách, phê bình – tiểu luận. Ông có 14 tập thơ xuất bản ở nước ngoài. Thơ ông đã được dịch ra 24 thứ tiếng trên thế giới, xuất hiện trên hơn 50 tuyển tập thơ và tạp chí quốc tế. Có thể nói, với bút lực ấy Mai Văn Phấn đã tạo dựng cho mình một phong cách mới mẻ, đa dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp. Thơ ông đang thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả cùng các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.


Đầu tiên phải kể đến là chuyên luận Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác của Ngô Hương Giang, Nguyễn Thanh Tâm. Tác phẩm chính là sự phát triển một khoa nhân học vi mô từ hướng tiếp cận văn hóa và văn học thông qua một trường hợp cụ thể là Mai Văn Phấn và thơ của ông. Qua đó, tác phẩm làm hiện lên một cách sống động gia tài thơ cũng nhưngười thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại.


Trong bài viết Mai Văn Phấn – những chặng đường sáng tạo thơ, PGS. TS. Đào Duy Hiệp đánh giá Mai Văn Phấn là nhà thơ đã đạt được quá trình chinh phục, khám phá sáng tạo, cách tân thơ ca bằng việc để lại cột mốc đáng ghi nhớ trong suốt ba mươi năm kiên trì, miệt mài và không có điểm dừng [11]. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên viết trong bài Thơ là ngôi lời cũng có nhận định khái quát về thơ ca của Mai Văn Phấn nhưsau: Mai Văn Phấn ngay từ đầu đã muốn tạo nên sự mới khác trong sự nghiệp sáng tác của mình. Sự mới khác ấy được thể hiện lần đầu và khá rõ ràng là trong việc cách tân những câu thơ lục bát. Những câu thơ lục bát truyền thống được cách tân đã báo hiệu một Mai Văn Phấn đầy bản lĩnh, đầy sức khám phá và khá là chững chạc trong việc cách tân, sáng tạo. Mai Văn Phấn đã từng bước thể hiện sự mãnh liệt, nhẫn nại, quyết tâm trong việc khai sơn, mở lối vào “ngõ ngách tâm hồn mình và những thế trận, ma trận chữ” [26].


Tác giả Nguyễn Thanh Tâm nhận định về Mai Văn Phấn trong Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che rằng Mai Văn Phấn có sức quyến luyến người đọc bằng cấu trúc ngôn từ thơ, sự biểu hiện của hình ảnh, ngôn từ chứ không phải bằng sự mượt mà, du dương của vần điệu. Tác giả Nguyễn Thanh Tâm gọi đó là “những lập thể của ký ức và tưởng tượng” [44].


Ngoài ra, một số những tài liệu nhưbài tạp chí Mai Văn Phấn, kết thúc cho một khởi đầu của Inrasara, Mai Văn Phấn và khúc biến tấu Hôm sau của Đặng Văn Sinh, Lộ trình thơ Mai Văn Phấn của Dương Kiều Minh, và Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn của Nguyễn Thị Thùy Trang… cũng đã đi tìm hiểu về lộ trình thơ và đặc trưng thơ của Mai Văn Phấn.

 

Trong Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn, nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Ngọc Thiện đã khẳng định rằng thơ Mai Văn Phấn đã có sự phân biệt với những sáng tác của thế hệ đi trước. Thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn mạnh về việc tổ chức ý tưởng và ngôn từ, sự tổ chức ấy khá là chặt chẽ, không bị dàn trải theo trục tuyến tính mà là sản phẩm của những “cơn xoáy của miền cảm xúc ám ảnh”, dòng tâm tư tranh biện. Ở đó có sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ, giữa đương đại và tương lai giữa các mặt đối lập, chồng lấn... Thơ văn xuôi Mai Văn Phấn gần với biểu hiện của dòng thơ ca tượng trưng, biểu tượng. Nguyễn Ngọc Thiện còn cho rằng thơ Mai Văn Phấn bộc lộ tham vọng của nhà thơ đi tìm kiếm quyền lực tối thượng để tạo ra một cấu trúc văn bản mới lạ, sử dụng mọi cách sáng tạo ngay từ câu từ, con chữ. Mai Văn Phấn sử dụng khá nhuần nhuyễn những đặc điểm nghệ thuật của thơ ca truyền thống, tượng trưng, siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn ẩn chứa tiềm tàng những năng lực của sự gợi mở, khơi gợi sự tri âm, đồng điệu, đồng cảm của người đọc [45].


Bài viết Cách tân, như là đẩy thơ vượt qua tai họa của nhà thơ Thi Hoàng có đoạn nhận xét về thơ cách tân của Mai Văn Phấn rất đáng chú ý.


Nhà thơ Mai Văn Phấn đã thành công khi sử dụng sự mạo hiểm trong việc cách tân thơ ca, bỏ qua những khó khăn, chông gai, sự đơn độc. Thơ cách tân của Mai Văn Phấn xông xáo đi vào những con đường ít người đi, mạnh dạn thể nghiệm những cách mà ít người thể nghiệm. Điểm mạnh của việc cách tân thơ ca của Mai Văn Phấn là ông đã vận dụng tối đa những đặc điểm về nội dung và hình thức của thơ ca để nâng tầm người đọc và tìm ra thi pháp của bản thân [14].


Viết bài Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, PGS. TS. Hồ Thế Hà đã đưa ra nhận định về thơ Mai Văn Phấn là một hiện tượng độc đáo của thơ ca đương đại Việt Nam. Mai Văn Phấn luôn ý thức cách tân thi ca trong từng bài thơ ông sáng tác. Thơ của ông muốn đi tới hướng phủ định chính mình trong mỗi lần sáng tác để cho những sáng tác của mình luôn mới mẻ. Thơ Mai Văn Phấn luôn tạo sinh ý nghĩa, điều đó làm cho thế giới thơ ông luôn vận động và không ngừng đổi thay[9].


Trong Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ hậu – hiện – đại nhà thơ Nguyễn Việt Chiến từng chỉ rõ Mai Văn Phấn chính là một nhà thơ đang thường xuyên tự đổi mới thơ mình, phá vỡ các lối mòn để thể nghiệm và thực nghiệm những khám phá, sáng tạo mới mẻ. Nguyễn Việt Chiến khái quát con đường sáng tác của Mai Văn Phấn như sau “Từ trữ tình cổ điển, anh bay thẳng một mạch vào hậu hiện đại rồi từ đó lao vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ cách tân” [2].


Cuốn sách Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công [20] của Đình Kính đây là cuốn sách không chỉ giới thiệu về cuộc đời, phong cách của hai nhà thơ đương đại là Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn mà còn đi đối chiếu so sánh phong cách thơ ca của hai nhà thơ này. Từ đó, tác giả Đình Kính đưa ra những nhận xét rất xác thực và sắc sảo về diện mạo thơ ca của hai nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam đương đại. Hơn nữa, tác giả Đình Kính cũng nhận xét, đánh giá sự thành công của hai nhà thơ và tìm ra nguyên nhân để lý giải sự thành công đó.

Bài viết Mai Văn Phấn với Hôm sau & và đột nhiên gió thổi [39] của Vĩnh Phúc là lời giới thiệu với độc giả hai tập thơ của Mai Văn Phấn đó là Hôm sau, và đột nhiên gió thổi. Ở đây, tác giả Vĩnh Phúc vừa thể hiện sự cảm thụ về nội dung, nghệ thuật của hai tác phẩm để đưa ra các lời gợi dẫn độc giả vừa thể hiện sự đúc kết của bản thân về đặc điểm phong cách thơ ca của tác giả Mai Văn Phấn.


Nhìn chung, về sự nghiệp, phong cách, đặc điểm thơ Mai Văn Phấn đều đã được các học giả, học viên, bạn đọc tìm hiểu, nghiên cứu từ nhiều phương diện. Các tác giả đã chỉ ra những thành công chủ yếu về các phương diện nội dung, nghệ thuật và đặc biệt là sự cách tân mới mẻ của ngòi bút Mai Văn Phấn. Tuy nhiên, nếu tiếp cận tác phẩm của Mai Văn Phấn từ góc nhìn lý thuyết phê bình mới, sẽ có được cái nhìn khách quan và toàn diện hơn.


2.2.2. Về chủ đề sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn


Tiếp cận và nghiên cứu về thơ của Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách có hệ thống và chuyên sâu. Tuy còn ít ỏi nhưng vấn đề về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sáng tác của Mai Văn Phấn đã được một số tác giả đề cập tới trong một số bài nghiên cứu, khảo sát về thơ của ông. Khi tìm hiểu về Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn PGS.TS Lê Hồ Quang đã nhận ra rằng “những hình tượng như mùa màng, đất đai, cánh đồng, sự gieo trồng, sinh nở,… - chúng có một sức hút lạ thường với nhà thơ, cho dù ông hoàn toàn không phải kiểu tác giả “chân quê” thường thấy. Không đơn thuần là biểu trưng của nền văn minh lúa nước hay những giá trị văn hóa cổ truyền, với Mai Văn Phấn, chúng tượng trưng cho sự sống phồn thực, bất tận, vĩnh hằng của thế giới” [40]. Đây thực sự là một phát hiện có ý nghĩa.


Nhã Thuyên trong tham luận Khí quyển thơ – sinh thái của Mai VănPh ấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn tại hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” nhận định: “Không khó nhận ra mối quan hệ mật thiết giữa thơ và sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn, không khó cảm nhận Mai Văn Phấn là nhà thơ – tình nhân đích thực của thiên nhiên nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh là, ở mỗi nhà thơ, mỗi thế hệ thơ, mỗi truyền thống thơ ca, mỗi thời đại, mối quan hệ giữa con người và môi trường sinh thái lại có những nét khác biệt cần khám phá. Chính bởi thế, việc tiếp cận từ góc độ phê bình sinh thái ở trường hợp thơ Mai Văn Phấn, không phải chỉ là một mối quan tâm về không gian nhưmột yếu tố nổi trội của thơ anh, mà còn là một cách tra vấn mối quan hệ giữa thơ ca và tự nhiên tưởng nhưyên ổn trong truyền thống thơ Việt Nam và thơ phương Đông” [48].


Phạm Xuân Nguyên thì khám phá ra trong thơ Mai Văn Phấn có hai hình tượng chứa đựng nhiều cảm xúc, đó là “Ban mai và ngọn lửa”. “Thơ Mai Văn Phấn nhiều những ban mai. Cái nguyên sơ, trong trẻo của buổi ban ngày, khi bóng đêm qua ánh sáng tới, mang ý nghĩa khải thị, hồi sinh. Cảm hứng thơ Mai Văn Phấn đi từ ban mai đến những sự nở sinh, phát triển, đến sự hòa đồng, hài hòa của vũ trụ thiên nhiên con người. Nỗi khát ban mai là nỗi khát thường trực trong thơ anh”. Nguyễn Việt Chiến gọi Mai Văn Phấn là Người tụng ca thiên nhiên bằng tình yêu mật rót. Trong cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, “thiên nhiên hiện hữu trong thơ Mai Văn Phấn với những giác độ huyền ảo và sinh động của một đời sống ngôn ngữ giàu hình tượng lập thể, luôn khơi gợi vẻ đẹp thuần khiết của nhục cảm và thân xác trong một thế giới mê hoặc tình yêu được hiến dâng và sáng tạo” [3].


PGS.TS Đào Duy Hiệp trong Mai Văn Phấn – những chặng đường sáng tạo thơ phát hiện thấy thơ Mai Văn Phấn có những “ẩn dụ ám ảnh” về cỏ và nước. Còn Nguyễn Tham Thiện Kế thì tuyển và giới thiệu Mai Văn Phấn và 101 câu thơ về cỏ. Văn Giá trong Thơ sinh ra để nói niềm hy vọng của con người khẳng định: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định”. “Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ Mai Văn Phấn, có ba hình ảnh cô đọng nhất, chụm nhất, nên trở thành tiêu biểu nhất: Đất đai, Ánh sáng và Người tình (được gọi là “em”). Cả ba hình ảnh này đều nằm trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động của chúng” [6].

 

Nhìn chung, vấn đề sinh thái trong sáng tác của Mai Văn Phấn chỉ được đề cập khá sơ lược trong một số nghiên cứu, tham luận. Theo khảo sát của chúng tôi, chưa có một nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu vấn đề trên một cách có hệ thống và toàn diện. Thực tế, có một nguồn mạch sinh thái khi âm thầm, khi lặng lẽ chảy trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là điều trăn trở của ông từ khi viết Giọt nắng, Gọi xanh,... Điều này tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu: Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái.


3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu


3.1. Mục đích nghiên cứu


Nghiên cứu đề tài Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái chúng tôi hướng đến những mục đích sau:


- Khám phá những đặc sắc của thơ Mai Văn Phấn từ một phương pháp tiếp cận mới mẻ - phê bình sinh thái.


- Chỉ ra những cái mới và đóng góp của Mai Văn Phấn trong dòng văn học sinh thái.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:


- Làm sáng tỏ các khái niệm lí luận liên quan về phê bình sinh thái và thực tế nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai Văn Phấn.


- Làm rõ mối quan hệ giữa môi trường sinh thái và con người trong thơ Mai Văn Phấn.


- Giải mã các kí hiệu sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn văn hóa, tôn giáo để lí giải nguồn gốc, nguyên nhân của tưtưởng sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn.

 

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu


4.1. Đối tượng nghiên cứu


Luận văn tập trung tìm hiểu, phân tích và làm sáng tỏ những đóng góp của thơ trữ tình Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lí thuyết phê bình sinh thái qua việc nghiên cứu hình tượng thiên nhiên, mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người trong thơ của Mai Văn Phấn.


4.2. Phạm vi nghiên cứu


- Tìm hiểu các tài liệu về phê bình sinh thái.


- Mai Văn Phấn là một cây bút tài năng đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn Việt Nam đương đại cũng nhưtrong lòng công chúng yêu thơ. Ông được ghi nhận trên cả hai mảng thơ trữ tình và thơ văn xuôi. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát thơ trữ tình của Mai Văn Phấn. Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể là nội dung, nghệ thuật thể hiện vấn đề sinh thái trong những sáng tác của Mai Văn Phấn, cụ thể là trong những tập thơ đã xuất bản của Mai Văn Phấn.


Bên cạnh đó, luận văn còn tham khảo, nghiên cứu thêm các tài liệu văn học về con người, sự nghiệp, phong cách của Mai Văn Phấn, đặc điểm thơ Mai Văn Phấn.


Hơn nữa, những tài liệu có tính học thuật chuyên sâu về phê bình sinh thái, những bài báo, tạp chí, phỏng vấn… những tài liệu được kể đến ở phần Lịch sử nghiên cứu vấn đề cũng góp phần định hình phạm vi nghiên cứu của luận văn.


5. Phương pháp nghiên cứu


Luận văn “Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái” sử dụng nhiều phương pháp để thực hiện mục tiêu nghiên cứu đặt ra, trong đó có thể kể đến những phương pháp nghiên cứu chính như sau:

 

Phương pháp loại hình học: Nghiên cứu thơ của Mai Văn Phấn, chúng tôi căn cứ những đặc trưng cơ bản của lí thuyết phê bình sinh thái để chỉ ra những đặc điểm chung của thơ ông, đồng thời làm rõ những nét riêng, độc đáo.


Phương pháp hệ thống: Những bài thơ của Mai Văn Phấn là sự thể hiện của lối suy tưởng, cảm xúc định hình phong cách của tác giả. Tư tưởng và phong cách của tác giả sẽ được thể hiện qua hầu hết những chi tiết về nội dung cũng nhưcấu tứ của tác phẩm. Vì vậy, rõ ràng là trong một tác phẩm, những đặc trưng về tưduy nghệ thuật của tác giả có thể sẽ không tập trung vào một phần nào nhất định mà thường là biểu hiện qua tất cả các phần và tạo nên một hệ thống. Phương pháp hệ thống được sử dụng nhằm tập hợp những yếu tố tương đồng của những chi tiết nhưngôn ngữ, nhân vật, hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật, cấu trúc... để đưa ra những kết luận về đặc điểm của tác phẩm.


Phương pháp thi pháp học: Nội dung, ý nghĩa của các sáng tác thơ Mai Văn Phấn được thể hiện thông qua tưtưởng sinh thái mang nghĩa. Chúng tôi tiếp cận thơ của Mai Văn Phấn dựa trên các dấu hiệu hình thức độc đáo của phê bình sinh thái, từ đó khám phá ý nghĩa bên trong, tưtưởng sinh thái ẩn sau mỗi hình thức (quan niệm về con người – tự nhiên, tự nhiên – văn học). Nhận diện khuynh hướng thơ sinh thái bên cạnh khuynh hướng văn xuôi sinh thái đã được các nhà nghiên cứu khẳng định.


Phương pháp liên ngành: Chúng tôi dùng phương pháp này để liên kết văn học với lí thuyết phê bình sinh thái nghĩa là sinh thái học nhân văn, từ đó đáp ứng nhu cầu giải quyết vấn đề của thực tiễn văn học, vấn đề sinh thái hiện nay.


Phương pháp văn hóa học: Chúng tôi đặt các sáng tác thơ ca của Mai Văn Phấn trong nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái liên hệ với văn hóa, tôn giáo nhằm hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của các tác phẩm và lí giải nguồn gốc hình thành của lí thuyết phê bình sinh thái, phân tích biểu hiện và thông điệp toát lên từ lí thuyết phê bình sinh thái qua các tập thơ của Mai Văn Phấn.

 

Phương pháp thống kê: Tác giả luận văn dùng phương pháp thống kê để khảo sát định lượng những chi tiết về nội dung cũng nhưhình thức thể hiện trong những tác phẩm của Mai Văn Phấn. Việc thống kê những chi tiết như vậy giúp cho tác giả luận văn nhận diện được đặc điểm mang tính hệ thống trong tưtưởng cũng nhưnghệ thuật của đối tượng nghiên cứu.


6. Giả thuyết khoa học


6.1. Về phương diện khoa học


Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ trữ tình của Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lí thuyết phê bình sinh thái, do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp thêm một nét vẽ, một mảng màu trong bức tranh đang dần hoàn thiện về thơ Mai Văn Phấn. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đem đến một diễn giải mới về thơ của tác giả Mai Văn Phấn, chỉ ra những đóng góp đặc biệt của ông ở mảng văn học sinh thái.


6.2. Về phương diện thực tiễn


Do tính cấp thiết và giá trị nhân văn sâu rộng, vấn đề môi sinh đã trở thành một nội dung trong chương trình dạy học tích hợp ở nhà trường phổ thông. Mặc dù thơ Mai Văn Phấn chưa được đưa vào chương trình Ngữ văn của cấp học này nhưng đề tài nghiên cứu phần nào xác lập một hướng tiếp cận các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn của nhà trường phổ thông từ cái nhìn sinh thái. Đề tài góp phần nâng cao nhận thức của con người, nhất là thế hệ trẻ về trách nhiệm bảo vệ môi trường sinh thái, giáo dục lối ứng xử nhân văn với môi trường sống xung quanh.


7. Cấu trúc luận văn


Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể là:

 

Chương 1. Khái lược về phê bình sinh thái và hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai Văn Phấn


Chương 2. Sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn qua các biểu tượng cơ bản


Chương 3. Sự hài hòa giữa con người và tự nhiên: sự thức tỉnh của đạo đức sinh thái

 

 

 

 


Ch
ương 1

KHÁI LƯỢC VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NHÀ THƠ MAI VĂN PHẤN

 


1.1. Khái lược về phê bình sinh thái


1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái


Phê bình sinh thái là một thuật ngữ không mới trên văn đàn thế giới, nhưng có lẽ còn mới trên văn đàn Việt Nam. Nhà phê bình William Rueckert đánh giá “sinh thái học (như là một khoa học, như một quy tắc, như cơ sở cho tầm nhìn của con người) thích đáng nhất đối với hiện tại và tương lai của thế giới” [41]. Nhà phê bình sinh thái hàng đầu Cheryll Glotfelty: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên… Phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học” [12]. Theo Vương Nặc, “Văn học sinh thái là loại văn học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái làm cơ sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất để khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái” [41].

 

Theo những quan điểm đó, phê bình sinh thái là một sự kết hợp giữa văn học và khoa học tự nhiên, những vấn đề nhân văn, nghệ thuật với những vấn đề vật lí, sinh học, địa lý. Phê bình sinh thái “tiếp cận trái đất làm trung tâm để nghiên cứu văn học”, và “nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường vật lí” [8]. Serpil Oppermann nhận định rằng, “phê bình sinh thái chủ yếu tập trung vào cách văn học tương tác và tham gia vào toàn bộ sinh quyển”. Điều đó có nghĩa là nhà phê bình sinh thái dùng việc phân tích văn học để thẩm định lại những hành xử xuất phát từ văn hóa, tư tưởng, phong tục tập quán trong quá trình phát triển của nhân loại đã ảnh hưởng đến tự nhiên như thế nào, đẩy môi trường vào tình trạng tồi tệ ra sao? Phê bình sinh thái còn cần thiết phải “làm lộ ra một cách có tính lịch sử văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến sinh thái địa cầu” [7]. Có như vậy, phê bình sinh thái mới tác động đến nhận thức của con người, thay đổi cách nhìn và ứng xử của chúng ta đối với giới tự nhiên, tất cả vì một môi trường thân thiện, xanh sạch. Nhiều nước trên thế giới như Anh, Mỹ, Úc, Nhật Bản, Trung Quốc... đã đón nhận lý thuyết này rất nhiệt tình vì tính nhân văn của nó. Một trong những chủ trương của phê bình sinh thái là: “tiến hành đọc lại các tác phẩm trong quá khứ, tìm ra ý nghĩa sinh thái tiềm ẩn trong đó, tất nhiên, cũng bao hàm việc chỉ ra những hạn chế của nó trong tương quan với chỉnh thể sinh thái. Như vậy, sẽ góp phần bổ sung cho những khuyết thiếu trong lịch sử nghiên cứu văn học nhân loại” [13].

 

Về ý nghĩa của phê bình sinh thái, Vương Nhạc Xuyên đánh giá cao khả năng riêng của các tác phẩm văn học sinh thái trong việc giải quyết các tai nạn toàn cầu: “Theo tôi, cái gọi là văn học sinh thái chủ yếu là chỉ những tác phẩm mẫn cảm góp phần phơi bày nguy cơ sinh thái thế giới hiện đại, phê phán quan điểm giá trị chủ nghĩa nhân loại trung tâm, phản tỉnh đối với nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ sinh thái. Văn học sinh thái không coi con người là trung tâm của thế giới tự nhiên, cũng phản đối coi lợi ích của con người là thước đo tuyệt đối phán đoán giá trị tự nhiên” [52].

 

Về một số đặc trưng tiêu biểu của phê bình sinh thái, Grey Garrard trong Phê bình sinh thái (thuật ngữ phê bình mới) (Ecocriticism (The New Critical Idiom) đề cập đến diễn ngôn chủ yếu của phê bình sinh thái từ tám phương diện như: ô nhiễm, nơi chốn, điền viên, hoang dã, tận thế, cư trú, động vật, trái đất. Greg Garrad cho rằng: “Vấn đề môi trường không chỉ cần phân tích từ góc độ khoa học, mà còn cần phân tích từ góc độ văn hóa” [8]. Sứ mệnh của phê bình sinh thái là nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, khoa học, phương thức sống và phương thức sản xuất, mô hình phát triển xã hội của con người đã ảnh hưởng như thế nào đến hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên, đã dẫn đến nguy cơ sinh thái như thế nào. Từ đây có thể thấy, phê bình sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu mang đậm tinh thần phê phán văn hóa. Phê bình sinh thái muốn hướng đến cải cách văn hóa tư tưởng, thúc đẩy cách mạng phương thức sống, phương thức sản xuất, mô hình phát triển, xây dựng văn minh sinh thái. Tuy nhiên, bất kì phương pháp nghiên cứu nào cũng đều có những quy tắc và chuẩn mực nhất định. Để khám phá văn chương qua góc nhìn phê bình sinh thái, trước hết cần phải định giá “lối viết tự nhiên” theo bộ chuẩn quy tắc mà Lawrence Buell đã khảo sát và cung cấp. Theo đó, một tác phẩm được cho là viết theo định hướng môi trường sẽ mang những nội dung chính như sau:

 

“1. Môi trường phi nhân không còn chỉ được nhìn đơn thuần như là một thứ công cụ làm khung nền cho sự xuất hiện của con người, ngược lại, sự hiện diện của nó cho thấy lịch sử nhân loại bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với lịch sử tự nhiên […]

 

2. Mức độ quan tâm của con người đối với môi trường là một phần thuộc giá trị đạo đức của mỗi văn bản. […]

 

3. Theo một nghĩa nào đó, môi trường được nhìn thấy như một quá trình, chứ không phải là một hằng số bất biến hay ít nhất, được cho là một thông

điệp ẩn giấu đằng sau tác phẩm. […]” [19].

 

Bộ chuẩn quy tắc này đã trở thành thước đo giá trị của tác phẩm văn học sinh thái.

 

1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái

 

1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái

 

Phê bình sinh thái (ecocritisim) còn được gọi bởi những cái tên khác như “phê bình (văn hóa) xanh” (green (cultural) studies), “thi pháp sinh thái” (ecopoetics) hay “phê bình văn học môi trường” (environmental literary criticism). Tên gọi phê bình sinh thái do Wiliam Rueckert sử dụng vào năm 1978 trong khảo luận “Văn học và sinh thái học: một thử nghiệm mới trong phê bình sinh thái” (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocritism).

 

Nói đến nguồn gốc tư tưởng của phê bình sinh thái, có thể nhắc đến những sự phản biện của phê bình sinh thái với những lối nhận thức, hay tư tưởng vốn có. Nhận thức về văn hóa sinh thái sau đây đã trở thành khuynh hướng phổ biến trong những năm đầu thế kỉ XXI: “Rất nhiều người phương Tây ngày nay nhận thức được hạn chế (biduan) của phương thức sinh tồn “thục mạng sản xuất, thục mạng tiêu dùng”, trong giai cấp trung tư sản lặng lẽ dấy lên “cuộc sống giản đơn” - chuyển nhà về nông thôn, tự đóng nhà gỗ, không sử dụng quá nhiều máy điện, kiếm “thu nhập” có hạn, ra sức hưởng thụ không khí, ánh nắng trong đại tự nhiên. Các nhà xã hội học cho rằng: “cuộc sống giản đơn quay trở về với cái thuần phác chân chất, về với tự nhiên, “ít chính là nhiều” (less is more), trong thế kỉ XXI phải trở thành không khí phổ biến. Có lẽ cuộc sống giản đơn, tiêu dùng giản đơn cũng chính là cuộc sống mộc mạc cuối đời của Tolstoi có thể sẽ lại thể hiện sức hấp dẫn của tinh thần” [52]. Thêm vào đó, phê bình sinh thái phê bình thư tưởng con người là trung tâm vũ trụ của văn hóa phương Tây. “Phê bình sinh thái ảnh hưởng từ tư tưởng sinh thái học bề sâu (Deep ecology), một triết lí sinh thái và môi trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo vật, mọi sinh vật trong hệ thống khong có loài nào ở thế ưu trội. Tư tưởng này bác bỏ quan niệm “con người là trung tâm” bám rễ sâu trong văn hóa phương Tây” [27].

 

Từ đó, cội nguồn của phê bình sinh thái có thể kể đến là hai luồng tư tưởng tiến bộ của cả phương Tây lẫn phương Đông như sau: Một là tư tưởng chỉnh thể sinh thái của văn hóa phương Tây. “Tư tưởng hạt nhân của phê bình sinh thái là Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (ecological holism), có quan niệm hài hòa, tương hỗ, hệ thống của sinh thái học, từ tư tưởng sinh thái của Engels, Darwin, từ triết học sinh thái của Heidergger, từ triết học sinh thái chỉnh thể luận đương đại...” [13]. “Tư tưởng hạt nhân của chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái là coi lợi ích của chỉnh thể của hệ thống sinh thái là giá trị cao nhất; lấy sự có ích hay không có ích đối với việc bảo vệ, duy trì hoàn chỉnh, hài hòa, ổn định, cân bằng sinh hệ thống sinh thái làm thước đo, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kĩ thuật cũng như phương thức sống của nhân loại” [13]. Hai là tư tưởng thiên nhân hợp nhất của văn hóa phương Đông. “Thiên nhân hợp nhất” – tư tưởng Chu Dịch đã trở thành tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn chương phương Đông” [28]. Lão Tử cho rằng con người gắn chặt với tự nhiên là bộ phận không tách rời tự nhiên, đều do Đạo sinh ra, là biểu hiện của Đạo, do vậy trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một. Tự nhiên có trước con người, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, con người theo quy luật của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ. Bởi vậy người phương Đông thường lựa chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để được thanh thản, đủ đầy. Các anh hùng trong sử thi Ấn Độ (Ramayana, Mahabharata) trước khi lên ngai vàng đều có những chuyến hành hương về với tự nhiên. Trước khi giác ngộ, Phật Tổ đã trải qua nhiều kiếp sống không chỉ là con người, thần linh mà còn là chim chóc, muôn thú để có thể hiểu về cuộc đời của muôn loài bình thường, với đủ loại quan hệ thế tục. Nhà vua Trần Nhân Tông khi đã hoàn thành nhiệm vụ thế sự đã xuất gia vào núi sâu để trong sạch hóa, để giác ngộ thành Phật Hoàng.

 

Phê bình sinh thái còn lấy thẩm mỹ sinh thái làm nguyên tắc mỹ học riêng. Mỹ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là con người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ mang tính tự nhiên, không phải là sự trừu tượng hóa trên cơ sở kinh nghiệm thẩm mỹ cụ thể. Trong thẩm mỹ sinh thái không tồn tại quan hệ chủ thể - khách thể, con người cảm nhận tự nhiên, thiết lập quan hệ chủ thể tương giao với đối tượng thẩm mỹ. Thẩm mỹ sinh thái còn đề cao nguyên tắc dung nhập. Đó là nguyên tắc cho phép các yếu tố tưởng chừng như vốn dĩ tách biệt lại có thể dung hòa, đan xen vào nhau, hòa vào nhau làm một. Quên đi bản ngã để cảm nhận tự nhiên chính là một phương thức của thẩm mỹ sinh thái.

 

1.1.2.2. Sự phát triển của phê bình sinh thái

 

Trên thế giới, tuy chưa thành phong trào thống nhất nhưng phê bình sinh thái bắt đầu xuất hiện vào những năm 1960 và 1970 cùng với các tác phẩm của các nhà phê bình sinh thái. Tác phẩm Bi kịch của sự sống sót (The Comedy of Survial, 1974) của Joseph Mecker đã đưa ra một vấn đề mà sau này trở thành nòng cốt của triết học phê bình sinh thái và môi trường, trong đó có luận điểm cuộc khủng hoảng môi sinh chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống văn hóa phương Tây vốn chia tách văn hóa ra khỏi tự nhiên và dành cho văn hóa thế ưu trội; thuyết loài người là trung tâm (anthropocentrism) đã tồn tại một cách lâu bền trong văn hóa phương Tây mà bỏ qua lợi ích của môi trường.

 

Từ năm 1985, phê bình sinh thái bắt đầu trở thành phong trào mạnh mẽ, thống nhất. Phong trào này được định hướng bởi người tiên phong là Cheryll Glotfelty cùng cộng sự là Harold Fromm. Họ đã chung tay biên tập tác phẩm có tên là Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, 1996). Cheryll Glotfelty đã sáng lập ra Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (the Association for the Study of Literature and Environment – ASLE) năm 1992. Và ASLE đã có một tờ báo riêng là Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường (Interdisciplinary Studies in Literature and Environment – ISLE) năm 1993. Hội trưởng đầu tiên của ASLE là Scott Slovic. Là một trong những người có nhiều thành tựu nghiên cứu về phê bình sinh thái, Scott Slovic bắt đầu tiếp cận phê bình sinh thái năm 1989. Đến năm 1992, ông xuất bản chuyên luận Tìm kiếm ý thức sinh thái trong sách viết về tự nhiên (Seeking Awareness on America Nature writing), ảnh hưởng rất lớn ở Mĩ. Trong cuốn sách này, ông nghiên cứu các nhà văn sinh thái nổi tiếng như Annie, Edward, Abbey, Wedell Bery, Bary Lopez. Ông chú ý đến những sách viết về tự nhiên và nguyên nhân tâm lí của văn học sinh thái, đồng thời cũng quan tâm đến cơ chế bên trong của giao lưu giữa con người và tự nhiên.

 

Từ những cơ sở đầu tiên về nhân sự, tổ chức và tư tưởng như vậy, phê bình sinh thái dần trở thành một khuynh hướng có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn học hiện nay của thế giới.

 

1.1.3. Phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại

 

Có thể không còn gì xa lạ trong nền văn học đương đại thế giới, nhưng ở Việt Nam phê bình sinh thái là một trong những thuật ngữ và hiện tượng mới mẻ. “Ở Việt Nam, một điều lạ lùng là sau đổi mới, giới nghiên cứu văn học khá cởi mở trong việc tiếp thu, giới thiệu các lí thuyết văn học phương Tây hiện đương đại, nhưng lại rất thận trọng đối với phê bình sinh thái” [13].

 

Trong đời sống văn học thực tế, những nhà văn nhà thơ Việt Nam hiện đại chưa thực sự có một ý thức rõ ràng trong việc khai thác yếu tố thiên nhiên, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để đưa vào những tác phẩm văn học theo đúng tinh thần của phê bình sinh thái. “Văn học Việt Nam sau năm 1975 mải mê với hiện thực cõi nhân sinh với những đề tài thời sự: phơi bày những mặt trái của hiện thực, phê phán xã hội, tính dục... khiến cho tinh thần sinh thái văn học có nguy cơ xuống dốc. Dường như “ít có bóng cây cỏ trên đường đi của lũ nhân vật” (Cây Hà Nội Nguyễn Tuân). Con người đã bỏ rơi thiên nhiên. Sự thiếu văn tự nhiên khiến cho môi trường văn học trở nên khô khan, ngột ngạt bởi những toan tính, lừa lọc, xảo trá của đời sống cuống quýt, vội vã. Nghệ thuật phải thông qua miêu tả mối quan hệ giữa con người và tự nhiên để tạo nên sức hút, sức sống” [27].

 

Tuy nhiên, văn học Việt Nam hiện đại vẫn có những tác phẩm có khuynh hướng phê bình sinh thái như Sống mãi với cây xanh (Nguyễn Minh Châu); Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Cánh đồng bất tận, Khói trời lộng lẫy, Nước như nước mắt (Nguyễn Ngọc Tư), Thập giá giữa rừng sâu (Nguyễn Khắc Phê), Chuyến đi sắn cuối cùng (Sương Nguyệt Minh)... đã có ý tưởng sinh thái và đã rung lên những hồi chuông về sự khủng hoảng môi trường, những nỗi đau, niềm tuyệt vọng trước cái mong manh của sự cân bằng tạo hóa và cắt nghĩa căn nguyên của những thảm họa sinh thái.

 

1.2. Hành trình sáng tạo của nhà thơ Mai Văn Phấn

 

1.2.1. Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thi ca Việt Nam đương đại

 

Văn học đương đại Việt Nam nói chung và thi ca Việt Nam đương đại nói riêng có diện mạo chưa hoàn chỉnh, song cũng đã có những đường nét khuynh hướng định hình. Thơ Việt Nam sau năm 1975 có tính đa dạng, phong phú của đối tượng, của sự nở rộ phong cách sáng tác của những nhà thơ khiến cho sự nhìn nhận đánh giá phải vừa có tính bao quát vừa có tính cụ thể. Rõ ràng là sự xuất hiện và định danh của rất nhiều những nhà thơ hiện đại đã làm nên khuôn mặt của thơ ca đương đại Việt Nam, nhưng cũng chính do vậy mà diện mạo ấy vẫn chưa hoàn thiện, bởi còn sự vận động và thay đổi. Sự sắp xếp, đánh giá các tác giả, tác phẩm vào một khuynh hướng nhất định luôn ẩn chứa sự khiên cưỡng. Bởi vậy mọi sự xác lập khuynh hướng sáng tác cho các tác giả chỉ là mang tính tương đối. Nhiều nghiên cứu, thẩm định văn học, thơ ca cho rằng nền thơ ca đương đại Việt Nam đương có ba khuynh hướng cơ bản. Một là khuynh hướng bảo tồn các giá trị cơ bản của thơ ca truyền thống. Khuynh hướng thơ ca này bảo tồn các giá trị truyền thống về hình thức thơ ca như các thể thơ, các hình ảnh thường dùng, những ngôn ngữ giản dị, thân thuộc... trên cơ sở đó bảo tồn và truyền tải những nội dung thông điệp mang tính bất biến của đời sống tình cảm con người. Hầu hết các nhà thơ đi theo khuynh hướng này là các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Có thể kể đến những tên tuổi lớn ấy như là Xuân Quỳnh, Đoàn Thị Lam Luyến, Phan Thị Thanh Nhàn, Trần Nhuận Minh, Lê Thị Mây, Diệp Minh Tuyền, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Ý Nhi, Vũ Quần Phương, Trương Nam Hương, Lê Đình Cánh, Vũ Thị Khương, Huy Trụ, Vân Long, Chu Thị Thơm,… Hai là khuynh hướng cách tân khám phá. Khuynh hướng này lại có thể chia ra thành hai chi lưu: cách tân nội dung thể tài và cách tân hình thức thể loại. Cách tân nội dung thể tài biểu hiện rõ nhất trong việc các thi sĩ đương đại tìm kiếm một nguồn sống mới, khai thác sâu hơn vào những tầng vỉa của đời sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức khuất chìm trong vùng tối của bản năng sống, bản năng người, như là ý thức phản tư, tâm linh, tính dục, nữ quyền, ngoại vi, bên lề, bề trái, thiểu số,… Đó là thơ của Phạm Thị Ngọc Liên, Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Dạ Thảo Phương, Phan Huyền Thư, Lynh Bacardi, Khương Hà, Thanh Xuân, Nguyệt Phạm, Phương Lan, Vi Thuỳ Linh,… Cách tân về hình thức ngôn ngữ thơ dựa trên tư duy đồng nhất thơ và chữ, làm thơ là làm chữ (Trần Dần). Âm, hình, tự dạng, màu sắc, cách thức bày bố, thể hiện chữ được triệt để khai thác, vượt qua những lớp nghĩa tự vị, tiêu dùng để phát sinh năng lượng thi tính mới. Các nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ này là Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Đoàn Văn Chúc, Từ Huy... Ba là khuynh hướng song hành giữa sự bảo tồn truyền thống và các tân thơ ca Việt. “Sự cách tân trên cơ sở kế thừa và phát huy các ưu thế của truyền thống thơ trữ tình Việt Nam có thể thấy hiện rõ trong những sáng tác của Trương Đăng Dung, những dự cảm giai đoạn đầu hay sự trở về mới mẻ của Mai Văn Phấn thời gian gần đây, cách làm mới lục bát của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Văn Công Hùng, Đinh Nam Khương, Nguyễn Việt Chiến, Miên Di, Nguyễn Thế Hoàng Linh…” [7].

 

Trong dòng chảy thơ ca Việt Nam đương đại ấy, Mai Văn Phấn đã định hình được tên tuổi và vị trí của mình một cách rất rõ ràng. Mai Văn Phấn là một trong số ít nhà thơ có hành trình thơ liên tục đổi mới, chiêm nghiệm, tìm tòi, khám phá, thể nghiệm trong đời sống thơ Việt Nam đương đại. Sự tự đổi mới bản thân trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện qua cả nội dung và nghệ thuật thơ. Về thể loại, Mai Văn Phấn đã thể nghiệm trên hầu hết tất cả các thể loại thơ ca truyền thống và đều đạt được những thành quả khả quan. Ngay trong việc bảo tồn các giá trị thơ ca truyền thống, Mai Văn Phấn cũng thể hiện tư duy, khát vọng cách tân rõ ràng. Có thể kể đến biểu hiện ấy qua lối thơ lục bát cách điệu (6/6/8/8) của tác giả:

 

Em lần theo bóng mây trôi

Thấm qua sóng lá vô hồi

Đằm vào anh tiếng chim đôi bất ngờ

Làm vang lên những dây tơ vừa chùng

Nhoà tan anh với mông lung

Em là giếng gió trong lòng

Nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì

Hư vô thành thật cũng vì yêu em

(Em xa)

 

Về chủ đề, thơ Mai Văn Phấn đã thể hiện được hầu hết những suy tư tình cảm phong phú, đa dạng trong đời sống của xã hội con người đương đại từ nỗi âu lo, oài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng, với các vấn đề tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hoá, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến, tha hương, trở về,… đến những cảm quan về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Về quan điểm cái đẹp, thơ Mai Văn Phấn đã khám phá cái đẹp trong nhiều không gian và các mối tương quan: cái cao cả, cái bi hài, cái khác biệt, sự tương đồng, trong thâm tâm con người, trong sự biểu hiện của tự nhiên, trong chiều sâu tư duy lịch sử, hiện tại, tương lai... Người ta đánh giá nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn mang đặc trưng của văn học tiền hiện đại và hậu hiện đại khá rõ ràng. Về tư duy nghệ thuật, thơ Mai Văn Phấn có sự rõ ràng, mạnh mẽ trong việc xác định đường lối cách tân, cảm quan thẩm mỹ, dám tiên phong và dám thể hiện bản thân.

 

So với những tác giả đương thời, thơ Mai Văn Phấn rõ ràng là một phong cách riêng không trộn lẫn. Nhịp điệu thơ Mai Văn Phấn mang phong thái sự sống, lặng lẽ, nhuần nhị hơn Nguyễn Quang Thiều, cẩn thận, lịch lãm hơn Đồng Đức Bốn, và mau lẹ, gấp rút hơn Thanh thảo, trẻ trung hơn Nguyễn Duy, nhưng sành điệu lại chưa đạt đến độ như các thi sĩ trẻ... Ở nhiều phương diện khác, Mai Văn Phấn có sự vận động nhanh hơn, rõ ràng hơn sự vận động thơ Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thị Hồng Ngát... Nghĩa là Mai Văn Phấn đã đi từ khuynh hướng truyền thống sang khuynh hướng cách tân và từ đó đang cố gắng song hành cùng hai khuynh hướng này.

 

Thơ Việt Nam sau 1975 đang lâm vào khủng hoảng. Câu chuyện đó hẳn không còn mới mẻ, nhưng dường như có ít người - thi sĩ để tâm đến sự bất ổn đó, chưa nói đến việc kháng cự hay thay đổi. Điều đáng quý nhất ở Mai Văn Phấn chính là từ sự nhạy cảm nhận ra bất ổn, khủng hoảng đến hành vi chống lại khủng hoảng diễn ra liên tục. Điều này đồng nghĩa với việc không chấp nhận một sự thoả hiệp hay ngủ yên trong tự mãn. Biểu hiện rõ nhất cho động thái này chính là Mai Văn Phấn nhận diện những bất ổn đẩy nền thơ vào khủng hoảng. Dọc hành trình thơ từ Giọt nắng (1992) đến Vừa sinh ra ở đó (2013), luôn thấy trong thơ Mai Văn Phấn những hoài nghi, âu lo, sợ hãi, hoang mang. Đó là cảm thức đầu tiên khi chạm mặt cái im lặng tù đọng, cái yên ổn đông cứng, phải hoài nghi mới đặt ra phản nghiệm.

 

1.2.2. Những chặng đường sáng tạo

 

1.2.1.1. Giai đoạn từ khởi nghiệp đến năm 1995

 

Các tác phẩm của Mai Văn Phấn ở giai đoạn này chủ yếu nằm trong hai tập thơ Giọt nắng (thơ, 1992), Gọi xanh (thơ, 1995). Tên tuổi của ông bước đầu được khẳng định bằng các giải thưởng: giải nhất văn nghệ thành phố Hải Phòng với bài thơ Thuốc đắng (1991), giải nhì của báo Người Hà Nội với bài Nghi Tàm (1994), báo Văn nghệ với chùm hai bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc Nhật kí đô thị hóa (1995).

 

Những sáng tác của Mai Văn Phấn trong giai đoạn đầu thường mang đậm ảnh hưởng của thơ ca truyền thống từ hình ảnh, nhịp điệu, thể thơ, kết cấu bài thơ… đến những ý tưởng trong thơ. Tuy nhiên, Mai Văn Phấn vẫn thể hiện sự chủ động, sáng tạo, khám phá để đem đến cho người đọc những câu thơ hay, hình ảnh độc đáo, giá trị, những ý tưởng sâu sắc, mang đậm dấu ấn tư duy riêng của nhà thơ… Trong thể thơ lục bát rất truyền thống của văn học Việt Nam, Mai Văn Phấn đã đem vào đó những cách thể hiện mới về những ý tưởng mới. Mai Văn Phấn đã đưa những ý tưởng mang tính triết học vào trong những vần thơ lục bát du dương, uyển chuyển. Đây là một điểm chúng ta cần lưu tâm về thơ của Mai Văn Phấn trong giai đoạn này và trong giai đoạn về sau nữa.

 

Thơ Mai Văn Phấn giai đoạn đầu trong hình thức của những bài thơ rất đỗi quen thuộc như thể thơ bảy chữ nhưng lại truyền tải những ý niệm mới mẻ về sự sống. Đó là sự sống tuần hoàn, trỗi dậy, quật khởi. Nhà thơ dùng chuỗi hình ảnh tán lá xanh lá rụng, con thuyền úp con thuyền lật mình để truyền tải ý niệm trên:

 

Tán lá hiện ngôi nhà bình yên

Phía sau nằm úp một con thuyền

Lá rụng khi dòng xanh tưởng cạn

Con thuyền phía ấy lật mình lên

(Chiếc lá)

 

Trong những nhịp điệu thơ lạ, những hình ảnh độc đáo và lối liên tưởng đặc sắc, thơ Mai Văn Phấn thời kỳ này có nhiều những chiêm nghiệm rất hay về cuộc sống. Đó có thể là chiêm nghiệm về tuổi thơ qua một cánh chim trời, lướt ngang qua ánh mắt nhà thơ khiến nhà thơ cảm nhận nó như một que diêm quệt lửa vào ký ức tuổi thơ của tác giả:

 

Bất chợt vệt cánh chim bay qua

Hay quanh quất bóng mình sót lại

Cánh chim tựa que diêm quệt vào ngây dại
Ngọn lửa thiên thần nào có thể bén vào tôi

(Cánh chim bay qua)

 

Cuối giai đoạn thứ nhất, thơ Mai Văn Phấn bắt đầu có sự chuyển biến. Nhà thơ như bắt đầu vào cuộc lột xác, hình thức thơ, ý tưởng thơ có bước chuyển mình đầy phóng khoáng, tự do. Trong thơ Mai Văn Phấn lúc này, những hình ảnh như trái đất, mùa thu, phù sa, mùa xuân... được đưa vào bằng một lối cảm nhận mới.

 

Thơ Mai Văn Phấn ngay từ ban đầu đã muốn truyền tải khát vọng sống, khát vọng dâng hiến, tìm tòi, sáng tạo. Đó là ý niệm thường trực trong mỗi bài thơ, nhờ vậy những bài thơ mang hình thức thơ rất truyền thống lại có thể truyền tải một thông điệp mới mẻ.

 

1.2.1.2. Giai đoạn từ 1995 đến 2000

 

Giai đoạn từ 1995 đến 2000 là giai đoạn thơ thứ hai trên lộ trình thơ Mai Văn Phấn với hai tập thơ Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường ca Người cùng thời (1999). Ở giai đoạn này, thơ Mai Văn Phấn như lột xác về nội dung, tư tưởng cũng như hình thức thể hiện, về cảm hứng và về thi pháp.

 

Trong giai đoạn này, trường ca Người cùng thời thể hiện rất rõ đặc trưng thơ ca của Mai Văn Phấn. Những hình thức thơ Mai Văn Phấn đã thể hiện trong thời kỳ trước hay những cách tân sáng tạo của nhà thơ trong giai đoạn này đều xuất hiện trong trường ca Người cùng thời. Trường ca này chứa đựng tất cả các hình thức thơ anh đã sáng tác trước đó, đồng thời cũng xuất hiện ở một số chương những hình thức thơ mới, những cấu trúc câu, nhịp điệu, ý tưởng khác biệt, những kết cấu mảng khối bị phá vỡ... Có những chương mà hình thức thơ là những từ nối tiếp không có dấu chấm, phảy, xuống hàng, duy nhất còn lại là những ký tự vang lên như những câu hỏi mang theo thách thức. Trường ca gồm 10 chương, chương I: Nhóm lửa, đến Chương X: Phía trước bàn chân. Phần giữa có 3 chương với tiêu đề: Cộng hưởng I, Cộng hưởng II Cộng hưởng III làm thành những trụ cột của ngôi nhà Người cùng thời. Mỗi chương của trường ca được nhà thơ triển khai theo những mạch vỉa trong không gian và thời gian được dịch chuyển biên độ rộng lớn. Những vỉa mạch nổi bật như tôi vừa nêu được nhà thơ chú tâm dùng những hình ảnh và liên tưởng khoáng đạt, ý tưởng hướng tới một tương lai khả định dựng lên một cảnh tượng mang tính hiện thực hoành tráng, lý tưởng đã khép lại trường ca này. Đây là một ý đồ mới mẻ của tác giả trong trường ca này. Trong chương cuối của trường ca, nhà thơ đã dựng lên những ý tưởng chủ đạo. Đó là tuyên ngôn nghệ thuật, là suy ngẫm về nguồn cội, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

 

Nhà thơ Lê Xuân Đố khẳng định thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này “bứt phá cách tân thi pháp với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc, bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét đẹp tiềm ẩn của tình yêu, đời sống” [20]. Cùng với ý thức cách tân thi pháp, Mai Văn Phấn khao khát nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ ông giờ đây chỉ là những Dàn ý hay Bài tập mùa xuân, hoặc những ý tưởng bất chợt “đến trong ý nghĩ”. Những câu chữ bề bộn, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man như “những ý nghĩ không sắp đặt”, “không quán tính”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Điều này được chứng minh qua các bài thơ: Mười bài tập mùa xuân, Mail cho em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số 18,…

 

1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay

 

Từ 2000 đến nay, Mai Văn Phấn đã khẳng định sức sáng tạo dồi dào qua hàng loạt tập thơ: Vách nước (2003), Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Vừa sinh ra ở đó (2013),…

 

Giai đoạn thơ thứ ba này của Mai Văn Phấn được đánh giá là giai đoạn cách tân, sáng tạo đầy tự tin của Mai Văn Phấn. Sự cách tân sáng tạo không dừng lại ở hình thức thơ, không chỉ dừng lại ở chất liệu hiện thực được đem vào thơ, không dừng lại ở những ý tưởng mới, cách suy luận mới, mà còn vươn tới sự cách tân về lối thơ, phong cách thơ. Tác giả Dương Kiều Minh nói về thơ Mai Văn Phấn trong giai đoạn thứ ba này: “Quả thật, thực hiện cuộc cách tân này của Mai Văn Phấn trong bối cảnh sáng tác thơ ca của nước ta như hiện nay, là một hành động dũng mãnh phi thường. Tôi mường tượng thấy thơ ca Mai Văn Phấn như con tuấn mã đang lao đi vun vút như tên bắn, hai bên sườn gió thổi ù ù. Phía trước là chân trời, là đồng cỏ và trời xanh vô tận. Cuộc kiếm tìm hay là sự rượt đuổi ráo riết? Số phận ư? Khát vọng ư? Và những câu hỏi cứ được sinh ra tiếp nối sau những câu thơ của Mai Văn Phấn” [23].

 

Những sáng tác của Mai Văn Phấn trong giai đoạn mới mang tính cách tân rất cao độ. Sự cách tân ấy được định hướng bởi lí trí “tỉnh táo tột cùng” như nhà thơ đã viết trong một bài thơ cùng tên. Rõ ràng, Mai Văn Phấn đã rất tự tin cách tân bởi vì ông đã có một cương lĩnh thơ ca mạch lạc, cụ thể. Sự cách tân như vậy là sự cách tân có ý thức, có mục tiêu và có lý tưởng.

 

“Chỉ khi một cánh chim hay tia sáng ngôi sao vô tình nào bỗng xuyên thủng lớp vỏ kia bí ẩn, hay hạt giống được chạm vào dịu nhẹ ngón tay của mưa xuân, mọi trật tự và quan niệm sẽ khác.” (Giải pháp)

 

Đó là một đoạn thơ mà nội dung không chỉ nói về sự tương tác và sinh trưởng của hạt giống, mà còn là một quan niệm thơ ca của Mai Văn Phấn: Khi mà tâm hồn nhà thơ giao hòa với mọi biến động dù là đơn giản nhất của tạo hóa, thiên nhiên thì thơ ca của họ sẽ là kết quả của một sự cách tân đẹp đẽ. Còn có nhiều câu thơ mà nhà thơ ẩn ý về sự cách tân có ý thức trong thơ mình như: “Từ một điểm bất kỳ tới chỗ con mèo chơi với miếng giẻ lau là đường chân trời. Mặt đất đang dần co lại. Vòm thời gian cong quá sẽ vỡ (…). Nơi mũi tên rơi, mặt đất rung lên đẩy ta tới một đích khác” (Vòng cung thời gian). Sự cách tân nghệ thuật suy cho cùng là sự cách tân về tư duy nghệ thuật, là sự đổi mới về trật tự tư duy trong đầu óc cũng như trên trang giấy: “Biết ai vừa nảy ra ý định xếp tất cả những suy tư kia thành đồ chơi” (Những ý nghĩ không sắp đặt).

 

Sự liên tưởng phóng khoáng của tưởng tượng tạo nên sức quyến rũ và ngoạn mục của hình ảnh, ngôn từ, biên giới của những không gian, thời gian thơ được nới đẩy hết kích cỡ. Thơ Mai Văn Phấn là cuộc tổng diễn tập lớn với những bài thơ phóng ra những ý tưởng, hình ảnh khoáng hoạt, cường tráng và mạnh mẽ. Sự mạnh mẽ của nội lực các câu thơ đã xé rách, lướt qua những tấm mạng vô hình của những thói quen cũ.

 

Để biểu đạt nhịp sống sôi động, phong phú, phức hợp của đời sống hiện đại, Mai Văn Phấn đã sớm khai thác có chọn lọc những hình thức nghệ thuật thi ca tiên tiến. Do vậy, đời sống phồn tạp hiện lên trong thơ anh với nhiều góc nhìn, giúp ta nhận chân sự thật đầy đủ nhất, ngoài ra còn mang giá trị tiên tri, dự báo. Hình thức thơ mới này đã tiếp cận đời sống, sự vật bằng một trực giác vô cùng mạnh mẽ. Nó trực tiếp xuyên thấu sự vật, hiện tượng để gọi ra đúng bản chất của chúng.

 

Ba chặng đường sáng tác của Mai Văn Phấn cho thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo nghệ thuật của ông. Từ chỗ nghiêng về truyền thống, chưa tạo được dấu ấn đến bứt phá mạnh mẽ và gặt hái được nhiều thành công. Qua thời gian, Mai Văn Phấn thể hiện độ chín trong ngòi bút, những nỗ lực cách tân đáng khâm phục để tạo dựng một phong cách riêng trong thơ Việt Nam đương đại.

 

1.2.3. Quan niệm nghệ thuật

 

Quan niệm về nghệ thuật được Mai Văn Phấn thể hiện trực tiếp qua các tiểu luận văn học, trả lời phỏng vấn hoặc bộc lộ gián tiếp qua các sáng tác thơ. Với ông, chức năng của thơ ca hướng con người đến với cái đẹp. Sứ mệnh cao cả của nó là cứu rỗi con người và thế giới. “Cốt cách thi sĩ” là điều quan trọng hơn cả. Theo ông, một bài thơ hay thường bất ngờ, tìm không dễ thấy. Thơ ca càng sáng tạo, càng biến ảo bao nhiêu lại càng đem lại sự chân thực bấy nhiêu. Sáng tạo thơ ca là quá trình vượt thoát khỏi cá tính, là những cuộc “vong thân”. Đó là một cuộc vượt thoát chính bản thân mình, tự phủ định những cái đã làm, phải coi cái mình đã viết là cái đã cũ thì mới mong đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật. Nhà thơ cũng kêu gọi khả năng “đồng sáng tạo” ở độc giả. Ông quan niệm, hiện thực trong thơ là một siêu hiện thực, hiện thực khách quan đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà thơ. Và cách mạng thi ca cần phải gắn liền với việc sáng tạo những hình thức mới để dung chứa một nội dung mới.

 

Mai Văn Phấn nhìn nhận và thể hiện thế giới trong trạng thái phồn sinh và hóa sinh bất định. Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới đa dạng, phong phú, đa chiều, đa lớp, đầy sức sống. “Đọc thơ Mai Văn Phấn thấy sự có mặt của rất nhiều không gian. Phấn chơi không gian. Đó là không gian cánh đồng. Không gian phố phường. Không gian dòng sông. Không gian căn phòng. Cụ thể hơn, đó là các phối cảnh với cơ man những dòng sông, cơn mưa, ban mai, bóng tối, ánh trăng, cây cối, hoa cỏ, đất đai, con đường, bầu trời, đám mây, trẻ con, người tình… Kể cả những không gian giấc mơ, không gian ảo giác đầy mộng mị, hư biến, kỳ ảo, siêu thực với những bóng người, bóng ma, nội thất, đồ vật, con vật… nhiều loại” [6]. Trong thế giới thơ đó, Mai Văn Phấn có lẽ đã thực hiện nguyên lý cơ bản của vũ trụ phương Đông, đó là thiên nhân hợp nhất, trời với người hòa làm một. Đây là một quan điểm triết học trong thơ và một cách ứng xử văn hóa của Mai Văn Phấn. Không chỉ là sự phồn vinh, thế giới thơ Mai Văn Phấn còn là sự sống sinh nở dồi dào. Nhà thơ tìm kiếm và thể hiện trạng thái, sinh nở, mang thai thậm chí làm tình của vạn vật tạo hóa, trong sự tìm kiếm thể hiện ấy, cái đẹp bao giờ cũng được nhà thơ phát hiện ra rồi nói cùng bạn đọc. Nhà thơ thường viết về ban mai, ban mai là sự khởi đầu của một ngày, khởi đầu sự sống, đánh thức và bừng tỉnh, vạn vật và con người được hoàn nguyên trong trạng thái khởi đầu, thanh khiết, tinh khôi. Đây cũng được xem là quy luật biểu hiện sự sinh sôi nảy nở trong thơ Mai Văn Phấn.

 

Sự sống trong thế giới thơ Mai Văn Phấn còn được biểu hiện ở sự hóa sinh bất định. Có lúc nhà thơ miêu tả một thế giới đang bị hủy diệt, phân rã; đôi khi nhà thơ nói về cái chết chóc của thiên nhiên, con người; nhưng điều quan trọng là trong khi nói về những thứ đó, Mai Văn Phấn muốn gửi gắm suy tư rằng tất cả sự chết chóc, sự phá hủy chỉ là sự khởi đầu của một quá trình mới, một vòng tuần hoàn mới, mà chúng ta có thể gọi là sự hóa sinh bất định.

 

“Thơ Mai Văn Phấn khuyến dụ con người hy vọng vào sự sống bất tử nhờ lẽ hóa sinh mầu nhiệm - một nguyên lý tinh thần nằm ngoài tầm kiểm soát của lý trí/ ý chí con người” [6]. Quan niệm mỹ học này chi phối thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.

 

Có thể nói, Mai Văn Phấn là một nhà thơ luôn có ý thức đổi mới thi ca, phương pháp sáng tác. Những quan niệm về nghệ thuật cũng như nhận thức sứ mệnh của người nghệ sĩ đã phản ánh phần nào phẩm chất cũng như phong cách riêng của nhà thơ trong dòng chảy thơ đương đại.

 

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

 

Với nhiệm vụ trình bày cơ sở lý luận cho luận văn, Chương 1 tìm lời giải cho hai vấn đề chính, đó là quan niệm về phê bình sinh thái và khái quát về sự nghiệp thơ ca của Mai Văn Phấn. Phê bình sinh thái không mới trong đời sống văn học thế giới, nhưng còn xa lạ với văn học Việt Nam. Sự ra đời của phê bình sinh thái dường như là tiếng nói phê bình, phản đối hệ quả của văn hóa phương Tây về việc cho rằng con người là trung tâm của đời sống và văn học. Phê bình sinh thái muốn lật lại vấn đề không phải con người mà thiên nhiên mới chính là trung tâm của thế giới hiện tồn cũng như thế giới nghệ thuật. Phê bình sinh thái phân tích mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người trong văn học nghệ thuật từ đó mà đưa ra các đánh giá, nhận xét và định hướng. Nền tảng triết học của phê bình sinh thái là những tư tưởng tiến bộ về chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái phương Tây và tư tưởng thiên nhân hợp nhất trong văn hóa phương Đông. Trong văn học đương đại Việt Nam nói chung và thơ ca đương đại Việt Nam nói riêng, Mai Văn Phấn là một nhà thơ hiện đại. Đây là nhà thơ năng nổ, xông xáo trong tìm tòi, sáng tạo, cách tân. Thơ ông đã trải qua ba giai đoạn trong suốt những năm 1992 đến nay. Thơ ông ca ngợi sự phồn sinh và hóa sinh bất định của thế giới, từ đó nói lên tâm tư tình cảm, khát vọng và hy vọng của con người. Mai Văn Phấn đã định hình vị trí của bản thân một cách rõ ràng trong nền thi ca Việt Nam đương đại.






Chương 2

 

SINH THÁI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN QUA CÁC BIỂU TƯỢNG CƠ BẢN

 

 

2.1. Khái niệm “biểu tượng”

 

Theo Từ điển Tiếng Việt do GS Hoàng Phê chủ biên, “biểu tượng” là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt.

 

Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cũng định nghĩa “biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”.

 

Vũ Dũng trong Từ điển tâm lí học giải thích “biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai”.

 

Như vậy, có thể hiểu, trong văn học, “biểu tượng” là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa gây được ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Biểu tượng nghệ thuật được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Nó chính là sự mã hóa cảm xúc, ý tưởng của nhà văn, là một sáng tạo nghệ thuật. Biểu tượng trở thành phương tiện diễn đạt cô đọng, hàm súc, có sức khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Những tác phẩm sử dụng nhiều biểu tượng thể hiện sự chối từ cách viết trực tiếp giãi bày tâm tư tình cảm của người viết.

 

Biểu tượng nghệ thuật phản chiếu hiện thực khách quan, thể hiện khả năng cắt nghĩa đời sống từ cái nhìn văn hóa của nhà văn; kết tinh bản sắc văn hóa, suy nghĩ, quan niệm của dân tộc; mang dấu ấn của thời đại, khuynh hướng văn học một cách sâu sắc. Nhà văn có thể dùng những biểu tượng trong đời sống đặt nó vào trong một chỉnh thể mới, cấp cho nó những quan hệ mới để không những chuyển cảm xúc tư tưởng của mình vào trong nó mà còn tạo cơ hội để nó có thể mang thêm ý nghĩa. Mỗi thời đại có một khuynh hướng xây dựng biểu tượng riêng và mỗi nhà văn cũng có những hứng thú riêng trong việc xây dựng biểu tượng nghệ thuật.

 

Biểu tượng là phương thức tư duy nghệ thuật của nhà văn. Việc nghiên cứu, khám phá, giải mã biểu tượng giúp ta hiểu sâu hơn bản chất sáng tạo nghệ thuật, góp phần triển khai them hướng nghiên cứu thi pháp hình tượng, đem lại những khám phá mới mẻ và lí giải quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ.

 

2.2. Sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn qua các biểu tượng cơ bản

 

2.2.1. Hệ biểu tượng về bầu trời

 

2.2.1.1. Biểu tượng ánh sáng

 

Nếu nhà phê bình văn học Văn Giá thấy rằng trong rất nhiều thi ảnh bề bộn của thơ Mai Văn Phấn có ba hình ảnh cô đọng và tiêu biểu nhất là “Đất đai, Ánh sáng và Người tình” thì Phạm Xuân Nguyên lại phát hiện ra trong thơ Mai Văn Phấn có rất nhiều “ban mai” và “ngọn lửa”. Ánh sáng và những biến thể khác của nó như mặt trời, vầng trăng, tia nắng, ban mai, ngọn lửa xuất hiện với tần số lớn trong thơ ông: ánh sáng (355 lần), ban mai (92 lần), ngọn lửa (74 lần). Chỉ riêng trong hai tập thơ “Vừa sinh ra ở đó” và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn” biểu tượng ánh sáng xuất hiện 56 lần. Với tần số xuất hiện dày đặc như thế ánh sáng trong thơ ông biểu trưng cho điều gì? Có thể nói, Mai Văn Phấn liên tục tạo ra những cấu trúc mới cho biểu tượng vì thế mà người đọc có thể thỏa sức khám phá, giải mã những “khoảng trống” trong hệ thống biểu tượng của thơ ông và “đồng sáng tạo” với thi sĩ.

 

Biểu tượng ánh sáng trong “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” được Jean Chevalier và Alain Gheerbrant giải thích theo nghĩa gốc đại ý như sau:

 

Ánh sáng được liên hệ với bóng tối, để tượng trưng cho những giá trị bổ sung hoặc thay phiên nhau trong một quá trình biến đổi. Mai Văn Phấn viết trong thơ mình:

 

Bình minh lên chiếu sáng nửa đời

Còn nửa kia chìm vào bóng tối

(Màu xanh)

 

Bình minh mang ánh sáng chiếu nửa địa cầu và nửa địa cầu kia chìm vào bóng tối, một hiện tượng tự nhiên bất biến nhưng hai chữ “nửa đời” gợi nhiều liên tưởng. “Đời” là trái đất, cõi đời mà cũng là cuộc đời, đời người. Ánh sáng của bình minh soi chiếu tâm hồn con người. Con người trước ban mai thanh khiết mà tự nhìn nhận chính mình, đối diện với bản lai diện mục của mình. Và phải chăng không có con người hoàn hảo. Trong mỗi chúng ta đều tồn tại song song những mặt đối lập tốt – xấu, thiện – ác, thiên thần – quỷ dữ,…Phần dễ nhận diện là phần “sáng”, phần lẩn khuất là “bóng tối”. Cuộc đấu tranh giữa “ánh sáng” và “bóng tối” trong mỗi người cũng khốc liệt “một mất một còn” như cuộc giao tranh giữa bình minh và bóng tối của vũ trụ, của hai nửa địa cầu.

 

Ánh sáng là biểu hiện sự sống. Những hạt giống khi gặp ánh sáng thì vươn mình, sự sống vùng dậy. Nhà thơ nhân cách hóa những hạt giống dưới ánh sáng như con người gặp được nguồn sống:

 

Những hạt giống vừa chạm vào ánh sáng

Chợt hiện bao điều chẳng thấy trong mơ

(Tự thú trước cánh đồng)

 

Đó chính là sức mạnh diệu kì, sức mạnh của sự sống sinh sôi. “Chạm” là giao thoa. Ánh sáng vừa vô hình lại vừa hữu hình, chỉ có thể nhìn thấy mà không thể chạm vào. Mai Văn Phấn viết “những hạt giống vừa chạm vào ánh sáng” là nhà thơ đã nắm bắt được cái khoảnh khắc sự sống nảy nở khi đụng chạm vào nguồn sống của mình. Chỉ một giây phút ngắn ngủi ấy thôi đã đánh thức bao điều kì diệu, điều trong mơ cũng chưa hề thấy. “Sự sống chẳng bao giờ chán nản” và ánh sáng là nguồn lực lan truyền sự sống, gieo mầm sống cho tất cả những hạt giống trên đời.

 

Ánh sáng và biến thể của nó là ánh nắng thường tạo thành những hình ảnh đứt quãng và xa xôi trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là “ánh sáng xa”, ánh sáng đi qua ngón tay, ánh sáng ngột đi qua lỗ thông hơi, rồi ánh sáng đặc tả khuôn mặt, pha lê ánh sáng, ánh sáng xanh,…

 

Ánh nắng, mặt trời trong cảm quan nhà thơ thật là sống động. Mặt trời với bộ dạng run rẩy “trong vạt áo hồng của đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà” [32]. Mặt trời chiếu sáng mỗi ngày, hiện tượng tự nhiên quen thuộc đến mức khiến con người thờ ơ, vậy mà, cái nhìn thi sĩ làm hiện lên một khung cảnh quá ư quyến rũ. Đất đai được khoác bộ áo hồng, ánh nắng quyến luyến những tấm rèm cửa, hốc cây, mặt ao long lánh. Những sự vật vô tri được gieo sự sống bởi ánh mặt trời.

 

Thời điểm mặt trời mọc, ban mai thức giấc vạn vật cũng xinh tươi dưới ánh sáng tinh khôi của một ngày mới bắt đầu. Ở đó “Có giọt sương đêm qua đang cựa mình thăng hoa dưới ánh mặt trời”. “Giọt sương” bé nhỏ, tầm thường, dưới ánh mặt trời cũng cựa quậy, thăng hoa. Sinh thái tự nhiên trong thơ Mai Văn Phấn không có sự vật nào là vô nghĩa. Chúng đều chứa trong mình sự sống, sự sống ở giai đoạn phát triển, nảy sinh.

 

Chính vì mặt trời là biểu tượng của khởi đầu, cho nên nhà thơ liên tưởng hình ảnh mặt trời với bào thai:

 

Co quắp con ngủ trong gió lạnh

Mơ thành bào thai

Cuống nhau nối mặt trời

(Cửa Mẫu)

 

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù đớn đau, dù thảm khốc, chỉ cần hướng tới ánh sáng, hướng tới mặt trời thì một mầm sống lại được hoài thai. Hình ảnh “cuống nhau nối mặt trời” là một hình ảnh giàu ý nghĩa, đẹp kì vĩ. “Mặt trời” bất diệt, vĩnh hằng. “Cuống nhau” để nuôi sống bào thai. “Cuống nhau nối mặt trời” là sự sống vĩnh cửu, trường tồn.

 

Mặt trời, ban mai là những hình ảnh cùng trường nghĩa: “Mặt trời bên kia bức tường. Vòm cây, tổ chim hơi thở ban mai”. Ánh sáng mặt trời là chất liệu sự sống của thực vật, loài cây vươn lên đón lấy ánh nắng mặt trời để “vươn thẳng tán cây quang hợp mặt trời”. Mặt trời còn giao hòa với những yếu tố tự nhiên khác:

 

Ngâm trong nước mặt trời không còn nóng Vỡ òa bọt sóng lân tinh

(Hình đám cỏ - Nhịp VII)

 

hay:

 

Anh nhào lộn giữa gió và nước

tôm cá và mặt trời

rong rêu và mây trắng

ký ức và mộng tưởng

(Hình đám cỏ - Nhịp VIII)

 

Đọc thơ Mai Văn Phấn, độc giả sẽ gặp rất nhiều những ban mai. Theo thống kê của chúng tôi, trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn”, ban mai cùng những đồng vị của nó như hừng đông, nắng sớm, nắng mới, rạng đông, bình minh, sớm mai, buổi sớm,… xuất hiện 92 lần trong tổng số 356 bài thơ của tuyển tập thơ này. Ban mai – cái nguyên sơ, trong trẻo khởi đầu một ngày mang ý nghĩa hồi sinh và có mặt trong suốt hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn. Không chỉ xuất hiện trong những bài thơ lẻ, ban mai còn trở thành nỗi khao khát mang ý nghĩa tâm linh. Mai Văn Phấn có một tập thơ với nhan đề “Cầu nguyện ban mai”. Lời nguyện cầu vào lúc ban mai hay lời nguyện cầu cho cõi thế nhân này lúc nào cũng tươi đẹp như mỗi ban mai, đó là ước nguyện thường trực của nhà thơ. Bởi khi ban mai xuất hiện cũng là lúc bóng đêm bị chôn vùi, vạn vật được tái sinh trong một sức sống mới, tiếp tục hoài thai: “Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm / Lấy đi những hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi những mùa vàng, rạo rực hiến dâng” (Tự thú trước cánh đồng).

 

Ban mai trong thơ Mai Văn Phấn trước hết là hình ảnh của sự khôi nguyên, tinh khiết của buổi đầu tiên mang ý nghĩa sinh sôi, luân hồi:

 

Mắt bừng ra lúc rạng đông

Chân trời hổn hển phập phồng ngón chân

(Kinh cầu ban mai)

 

Và:

 

Cầm tay gió dắt vào đêm

Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta niệm chắc ban mai lại về

(Qua hoàng hôn)

 

Ban mai xuất hiện cũng là lúc cái thiện thắng thế, khao khát được thực hiện, sự sống mạnh mẽ lại trỗi dậy, bóng đêm, cái chết bị chôn vùi, xóa nhòa: “Tất cả đã thức dậy khuấy loãng những u mê cho rõ khuôn mặt mình để chờ đón ban mai. Vầng mặt trời vừa tìm được lối ra khỏi đêm tối. Đàn sao mộng du thôi không phát sáng, hoảng hốt theo nhau trút lại màn đêm sũng ướt ao tù. Bầu trời cánh đồng tơi ra và cây cối nghẹn ngào tiếng ban mai ngấm vào mạch đất, ngấm vào ngực ta làm tế bào vụt mới tinh sương với đợt sóng ùa về bồi đắp. Đám mây mỡ màu phồn thực trôi đi, mục ra cho kịp thời vụ /.../ Giờ những bàn tay tự do thức dậy, biết cộng lực cho nhau khi bình minh đang đến tái sinh” (Người cùng thời – Chương VI).

 

Trong tâm thức của nhà thơ, ban mai của ngày mới còn gắn liền với niềm hạnh phúc của mỗi con người. Tình cha con được sưởi ấm bởi ánh sáng ban mai tinh khôi, màu nhiệm: “Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay qua...

 

Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi” (Lúc mặt trời mọc)

 

Nơi mọi người hướng về để thể hiện niềm hy vọng, tình yêu và hạnh phúc là mặt trời buổi ban mai:

 

Những mặt người chờ đợi dưới hừng đông

Nỗi đau sáng lên soi niềm vui dung dị

Không gian, thời gian mách bảo bình minh

Tiếng cười nói ân tình rạng rỡ

(Người cùng thời – Chương V)

 

Trải qua đêm dài tăm tối, giây phút “những mặt người chờ đợi dưới hừng đông” đã gói trọn tất cả những khát khao thầm kín. Trong khổ đau vẫn ánh lên niềm vui dung dị, niềm hạnh phúc đời thường. Hạnh phúc ấy chỉ có được dưới ánh sáng của buổi bình minh. Giữa nhịp sống hiện đại hối hả, xô bồ này, mối quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên lỏng lẻo, vậy mà mặt trời soi sáng mách bảo nhân loại nói tiếng nói “ân tình”.

 

Hình ảnh ban maiánh sáng luôn song hành. Đó cũng là biểu hiện của sự sống muôn màu, muôn sắc. Chỉ có thể dưới ánh sáng mặt trời mới có một cuộc sống tươi đẹp và sinh động đến vậy. Không chỉ con người, những sự vật tưởng như vô tri cũng khao khát ban mai, cũng muốn chan hòa trong nắng mới, hít hà hơi ấm của bình minh:

 

Động rộn sương đêm

Cỏ cây, nắng mới

Núi cao

Chim chóc bay qua tảng đá xù xì

Sông cuộn xiết con cá động dục lóe sáng mặt nước
Mặt trời bên kia bức tường

Vòm cây, tổ chim hơi thở ban mai

(Hình đám cỏ - Nhịp I)

 

Hình ảnh ban maiánh sáng mặt trời trong thơ Mai Văn Phấn cũng có tác dụng khơi nguồn sáng tạo cho nhân loại:

 

Và ban mai đến

Lũ trẻ ùa ra từ chiếc bình kia

Hân hoan chạy tới bến xưa

Vẽ hình hài thế kỷ sau trên mặt cát bây giờ

(Người cùng thời – Chương IX)

 

Mai Văn Phấn đã truyền cảm hứng cho thế hệ mai sau. Nối quá khứ với hiện tại và tương, “tới bến xưa” “vẽ hình hài thế kỉ sau” ngay từ giây phút này. Hành động ấy cũng chỉ có thể thực hiện dưới ban mai. Ban mai, rạng đông có thể là thời điểm kêu gọi con người hành động, phấn đấu, khám phá:

 

Rạng đông hình lưỡi hái

Phát quang rừng cỏ đêm

Những đám mây hoang dại

rủ chúng ta đi tìm

(Người cùng thời – Chương I)

 

Có lẽ vì vậy mà nhà thơ Mai Văn Phấn rất vui sướng tự ví mình là hậu duệ của ban mai, người ca ngợi ban mai. Mỗi ban mai là mỗi lần nhà thơ thấy ông cũng như đất nước, quê hương ông dường như trẻ lại, trưởng thành lại: “Giờ Tổ quốc cùng tôi mỗi buổi sớm lại tưng bừng tái hiện, mang khuôn mặt mình thời mọc tóc thay răng” (Người cùng thời – Chương III)

 

Như vậy, hình ảnh ban mai là hình ảnh chứa đựng nỗi khát vọng vô bờ của tác giả, nỗi khao khát thường trực trong lòng ông. Ánh sáng ban mai là sự sống, là hy vọng, hạnh phúc, sự may mắn và là hiện sinh của sự sinh sôi, nảy nở, luân hồi, tái sinh. Hơn nữa, ánh sáng ban mai còn là nguồn mạch của sự sống, của sự sáng tạo vô bờ bến.

 

Ánh sáng ngủ yên là cách nói minh họa cho màn đêm buông xuống, nhân vật trữ tình cho rằng đó là sự hồi sinh sau một ngày:

 

Ánh sáng đã ngủ yên

Ta đang hồi sinh

Trong vòng tay của đêm

(Nghi lễ cuối cùng)

 

Ánh sáng nhiều khi cũng thoát thai trở thành cõi hư ảo trong tâm tưởng siêu thoát của nhân vật trữ tình trong thơ:

 

Chạm bờ ánh sáng

Anh quỳ xuống

Em hiện thân trong chiếc áo thiên thần

(Nghi lễ cuối cùng)

Có thể nói, hiếm có nhà thơ nào tôn vinh, tôn thờ ánh sáng như Mai Văn Phấn. Trong thơ ông, ánh sáng không đơn thuần là phạm trù đối lập với bóng tối, ánh sáng đã trở thành biểu tượng của tâm linh, của niềm tin vào những gì sáng láng, tốt lành. Như vậy, biểu tượng ánh sáng với hình tượng mặt trời (cùng những hình ảnh tương đồng như ban mai, bình minh, ánh nắng) mang ý nghĩa của hành động gieo sự sống, hi vọng, hơi ấm, sự sinh sôi.

 

Ánh trăng cũng là một bình diện sinh thái trong thơ Mai Văn Phấn. Ánh trăng được nhà thơ cảm nhận là “thoáng long lanh cứu rỗi bao con người”. Trong quan niệm chung của con người mọi thời đại, trăng tượng trưng cho cái đẹp. “Thoáng long lanh cứu rỗi bao con người” khiến ta liên tưởng đến câu danh ngôn “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Vẻ đẹp của trăng là vẻ đẹp trong trẻo, long lanh, vẻ đẹp làm dịu mát tâm hồn con người, hướng thiện.

 

Ánh trăng hòa vào lời hát của đôi lứa: “mầm hạt li ti chồi trong đất ẩm ong về làm mật theo nhau rù rì mặt trăng”. Mặt trăng cũng như “tuần tháng mật” trong thơ Xuân Diệu. Dưới ánh trăng, mầm hạt li ti đâm chồi nảy lộc trong làn đất ẩm, ong về làm mật. Cũng trong cảm thức gần gũi với biểu tượng mặt trời, mặt trăng (ánh trăng) cũng là ngọn nguồn của sự sống.

 

Trăng trong thơ Mai Văn Phấn được cảm nhận như những giọt trăng:

 

Nơi ấy một dòng kênh

Bóng con thuyền nhỏ qua cầu

Bờ đá nằm im nghe mồ hôi lạ

Giọt giọt trăng khuya

(Mùa trăng I)

 

Không giống với ông hoàng của thơ tình Việt Nam hiện đại cảm nhận ánh trăng trong “Long lanh tiếng sỏi vang vang hận / Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người”, Mai Văn Phấn hình dung trăng khuya đọng lại “giọt giọt”. Cũng không phải giọt vàng long lánh trên thuyền trăng, sông trăng như thi sĩ họ Hàn “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay?” mà giọt trăng trong thơ Mai Văn Phấn là giọt “mồ hôi lạ”. Một liên tưởng hết sức thú vị. Trăng trong thơ Mai Văn Phấn mang ý nghĩa biểu tượng cho sự trong trẻo