Khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt đương đại (Luận án tiến sĩ - Kỳ 2) - Đoàn Thị Hạnh
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Đoàn Thị Hạnh
KHUYNH HƯỚNG HIỆN SINH
TRONG THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
Mã số: 9220121
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Luận án tiến sĩ Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp
Nghệ An - 2022
Maivanphan.com: 12/2022, NCS. Đoàn Thị Hạnh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài "Khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt đương đại", dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp. Do khuôn khổ của website, chúng tôi đăng luận án thành 2 kỳ. Kỳ 1 đã đăng phần Mở đầu, Chương 1 & 2. Trong kỳ 2 này, chúng tôi đăng tiếp Chương 3 & 4 và phần Kết luận của luận án.
Chương 3
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHUYNH HƯỚNG HIỆN SINH TRONG THƠ VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ NỘI DUNG BIỂU HIỆN
3.1. Ý thức biểu đạt cái tôi theo hướng hiện
sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.1.1. Ý thức biểu đạt cái tôi theo hướng hiện sinh
trong thơ ca nói chung
Trong
triết học, cái tôi được hiểu là cái tôi ý thức bao hàm trong đó những đặc tính
để phân biệt tôi với những người khác. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
cái tôi từ thời cổ đại. Hoàng Thị Huế dẫn giải tiếng Latinh cổ đại là persona, tiếng
Latinh trung cổ là personalitas. Nghĩa gốc của từ này là mặt nạ, được dùng để chỉ vẻ bề ngoài của một cá nhân. Còn Carl
Gustav dùng thuật ngữ personna để chỉ cái
tôi được biết đến của một cá nhân. “Tuy nhiên personna bao gồm rất nhiều
nghĩa, cả đặc điểm bên trong và những phẩm chất cá nhân cũng như diện mạo bên
ngoài của người ấy. Vì thế Boethius đã đưa ra một định nghĩa kinh điển “Con
người là một thực thể riêng lẻ có một bản chất dựa trên lý trí” [64].
Cái tôi
trong thơ luôn có sự vận động. Xét về mặt xã hội và mặt đời sống, cái tôi vừa
là chủ thể vừa là đối tượng. Khi nghiên cứu về đời sống và văn học, không thể
bỏ qua vấn đề cái tôi - con người. Trong văn học Việt Nam, các nhà nghiên cứu
cho rằng đại từ “tôi” đã cần vài thế kỷ để phôi thai. Và Truyện Kiều được xem là một cái mốc quan trọng trong sự hình thành
cái “ tôi”,… Đoàn Cẩm Thi trong bài “Hành trình cái “tôi”s trong văn Việt” cho
rằng “Ở Việt Nam chữ “tôi” đầu tiên xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XVI đầu
thế kỷ XVII. Đến những năm 1804-1807, trong Truyện
Kiều, “tôi” được Nguyễn Du để cho Kiều xưng hô với Hoạn Thư “Rằng tôi chút
phận đàn bà” thì chính Nguyễn Du đã chứng tỏ một tư tưởng hiện đại. Mang cái
nhìn đồng cảm với các nhân vật nữ, tác phẩm của ông có thể coi là có một bước
tiến mới trong sự hình thành khái niệm cái tôi cá nhân tại Việt Nam” [143]. Cng
theo Đoàn Cẩm Thi, từ thế kỉ XVIII - XIX sự phát triển của Thiên Chúa giáo tại
Việt Nam dựa trên mối quan hệ trực tiếp giữa con người và Chúa trời đã góp phần
ít nhiều vào sự vươn dậy của ý thức cái tôi cá nhân. Kế đến là cái tôi chỉ mối
quan hệ giữa cá nhân và thế giới xuất hiện trong truyện Thầy Lazzaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản và tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách. Đoàn
Cẩm Thi nhấn mạnh tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Quản “có thể coi là tiểu thuyết
Việt Nam đầu tiên theo nghĩa hiện đại”. Tố Tâm “là
tác phẩm viết bằng thể loại “thư” đầu tiên để cho cái “tôi” nội tâm mâu thuẫn nhất, thầm kín nhất của
nhân vật nữ được bộc lộ”. Cái tôi dấy lên mạnh mẽ trong Thơ mới và đó là cái
tôi cô đơn. Nhà phê bình Hoài Thanh đã nói “Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng
càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta
đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng
rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận” [140,
tr. 46]. Nỗi buồn trong thơ mới là nỗi buồn của những con người giàu khát vọng
nhưng sống trong cảnh nước mất nhà tan nên phải chịu cảnh tôi đòi tủi nhục. Nỗi
buồn vì mất phương hướng “không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”. Nỗi buồn vì
cuộc sống ngưng đọng mất hết ý nghĩa. Cái tôi cô đơn tìm vào tôn giáo, thiên
nhiên, cõi mơ, cõi thực. Cái tôi trong Thơ mới là cái tôi ý thức cá nhân, cá
thể, cái tôi ý thức cao nhất về sự tồn tại của bản thân mình trong thế giới
khách quan.
Thời kỳ
sau Thơ mới, thời kỳ cách mạng cái tôi gắn với cái ta. Đó là cái tôi lãng mạn Cách mạng. Cái tôi sử thi, nhân danh
cộng đồng, dân tộc, nhân dân. Chế Lan Viên từng viết “Khi đứng riêng ta thấy mình xấu hổ”. Cái ta khiến cho thơ hướng về
cái tôi vì cộng đồng, vì sự xả thân, sự cống hiến mà gác lại những tình cảm
riêng tư. Cái ta cùng nhịp đập vì lý tưởng cách mạng. “Cùng đổ mồ hôi/ Cùng sôi giọt máu/ Ta sống với cuộc đời chiến đấu/ Của
triệu người yêu dấu gian lao”. Cái tôi trong thơ ca cách mạng thường hướng
tới cái chung, cái cao cả, sự kiện lịch sử, số phận toàn dân, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Cái tôi kết tinh sức mạnh cộng đồng. Cái tôi công dân ý thức
được mình là một phần của sự vận động lịch sử. Con người sống chủ yếu cho hiện
tại và tương lai. Vận mệnh dân tộc đã thống nhất muôn người như một: “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có cùng
khuôn mặt/ Nụ cười tiễn đưa con nghìn bà mẹ như nhau” (Chế Lan Viên).
Trước
thời kì Đổi mới (1986), cái tôi trong sáng tác văn chương gắn với cái ta. Cái tôi hòa vào cái ta chung. Bởi vì khi
quyền lợi quốc gia không còn thì không nghĩ về quyền lợi cái tôi. Điều này cũng
là lẽ hiển nhiên phải chấp nhận. “Khi Tổ
quốc cần/ Ta biết sống xa nhau” (Trà
Hoa Nữ - Quách Lan Anh). Con người sống với sứ mệnh cái ta chung của dân
tộc: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm...
Đông sang Tây không phải đường thực. Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo”
(Phạm Tiến Duật). Nhà thơ Tế Hanh khẳng định cái ta chung “Chúng ta sống với bốn nghìn năm lịch sử/ Biết đời ta không phải của
riêng ta”. Cái tôi sử thi, cái tôi cách mạng khiến con người quên cả cái tôi riêng
tư. Tình cảm riêng tư hòa vào cái ta chung: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt/ Như mẹ như cha như vợ như
chồng/ Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết/ Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông” (Chế
Lan Viên). Trong khói lửa chiến tranh, cái tôi chưa nghĩ cho riêng mình - “Cái
tinh tế cỏ hoa tạm thời không nghĩ đến”. Cái tôi say mê lý tưởng, tự hào về dân
tộc - “Như khí phách Trần Lê/ Như oai vũ
Quang Trung” (Bài ca xuân 68 - Tố
Hữu). Thơ ca giành tất cả sự quan tâm cho cái ta của cộng đồng, dân tộc do vậy
cái tôi đời tư thế sự bị lãng quên. Một thời kỳ dài ngay cả nỗi buồn đau cũng
phải giấu, để sống cho cái ta cộng đồng dân tộc.
Sau năm
1986 là thời kỳ Đổi mới, hoàn cảnh xã hội có nhiều điều khác biệt so với thời
chiến tranh. Điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải xác lập vị thế của mình sao cho
thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Sự thay đổi của cơ chế thị trường, sự tiến
bộ của khoa học kĩ thuật, sự bùng nổ thông tin trong thế giới hiện đại đã tạo
nên một “thế giới phẳng” có ảnh hưởng tác động đến cách tư duy, cách cảm, cách
nghĩ của con người trong thời đại mới. Đổi mới, cách tân là con đường tất yếu
của thơ ca Việt Nam nếu nó muốn tìm được nơi trú ngụ vững vàng trong sự đổi
thay của xã hội. “Có thể nói, chưa
bao giờ, cách tân lại trở thành ý thức tự giác, một nhu cầu khẩn thiết, một cao
trào phổ biến, rộng rãi như giai đoạn này” [150, tr. 33].
Sự thay
đổi trong tư duy, cách cảm, cách nghĩ đã tạo nên sự thay đổi trong quan niệm
thẩm mĩ về con người về cái tôi trong văn học va thơ ca. Sự vận động của cái
tôi cá nhân được xem là nền tảng thẩm mĩ, là thước đo cho sự phát triển của xã
hội, của dân tộc. Đoàn Cẩm Thi cho rằng “mở đầu cho thời kì Đổi mới, nhà văn có
nhiều công phu nhất là Nguyễn Huy Thiệp. Qua tác phẩm Tướng về hưu đã xây dựng một cái
“tôi” không đơn giản chút nào, không cá tính, không chân lí,
phi-anh-hùng, bình thường, thậm chí tầm thường của thời hậu chiến”. Trong thơ
Việt Nam đương đại, từ vị trí những nghệ sĩ ngợi ca đất nước, nhân dân bằng cái
nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây, các nhà thơ phải chuyển sang cái
nhìn phi sử thi. Nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca Việt Nam
sau năm 1975 là “cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh cá nhân” [37, tr. 59]. Vai
trò sáng tạo của người nghệ sĩ được coi trọng, được “cởi trói” thì cái tôi càng
bùng nổ thể hiện sự thay đổi của xã hội và tư duy của người cầm bút. Cái tôi
trong thơ ca sau 1986 không còn là cái tôi cá nhân, cái tôi sử thi mà là cái
tôi bản thể. Chu Văn Sơn quả quyết “Nếu cái tôi trong thơ mới là cái tôi cá
thể, cái tôi trong thơ Cách mạng là cái tôi tập thể - đoàn thể thì cái tôi của
thơ Đương đại là cái tôi bản thể. Cái tôi bản thể soi mình vào mọi người” [Dẫn
theo, 167, tr. 47]. Chu Văn Sơn cũng lí giải rõ cái tôi trong Thơ mới thường soi mình vào tập thể cảm thấy mọi trạng thái cảm xúc “nhất nhất đều tương
thuộc bầy đàn” thiên về hướng ngoại. Cái tôi trong thơ đương đại là cái tôi
hướng nội, hướng vào nội tâm để tìm hiểu chính mình. Cái tôi bản thể trong thơ
Việt Nam đương đại là biểu hiện của “một quan niệm nhân văn mới, triết học, mỹ
học mới mẻ”. Trần Thiện Khanh khi viết “Suy nghĩ về cái tôi và cái mới trong
văn học” đã cho rằng: Cái mới đích thực luôn luôn biểu hiện cái tôi văn hóa,
một cái tôi sáng tạo cụ thể”. Cái tôi là thước đo đúng đắn nhất mọi giá trị văn
học. Trong thơ Việt Nam đương đại “cái tôi được xem là nhân vật chính và là
trung tâm phát và truyền cảm xúc” [64]. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hội
nhập, toàn cầu hóa với nền khoa học kĩ thuật phát triển, con người là những cá
nhân cô đơn, đánh mất mình nhưng đồng thời cũng là con người dám vượt lên chính
mình để khẳng định nhân vị, bản ngã của mình.
Dấu ấn
chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện trong tác phẩm của nhiều nhà thơ Việt Nam đương
đại. Khuynh hướng hiện sinh không thể hiện trong toàn bộ sáng tác của thơ đương
đại cũng như trong toàn bộ tác phẩm của một nhà thơ mà trong từng bài hoặc một
nhóm bài. Có tác giả biểu hiện trên các phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh, có
tác giả thể hiện nỗi ưu tư cá nhân trước cuộc sống. Có khi chủ nghĩa hiện sinh
xuất hiện trong một nhóm tác giả với những biểu hiện phong phú. Luận án khảo
sát những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh qua tác phẩm tiêu biểu của các tác
giả hoặc một nhóm tác giả từ đó có cái nhìn chung về khuynh hướng hiện sinh
trong thơ ca Việt đương đại.
3.1.2. Biểu đạt cái tôi hiện sinh - xu hướng
phổ biến trong thơ Việt Nam đương đại
Cái tôi
là một phạm trù triết học chỉ chủ thể nhận thức trong hoạt động xã hội. Lịch sử
phát triển của thơ ca trữ tình Việt Nam là lịch sử phát triển, vận động của cái
tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình là khái niệm chỉ đặc điểm tư duy nghệ thuật của
nhà thơ có sự hài hòa giữa lí trí và cảm xúc. Hegel không ít lần nhấn mạnh
“trong thơ có sự biểu hiện của chủ thể”. Cái tôi trong thơ trung đại là cái tôi
vô ngã. Cái tôi trong thơ lãng mạn là cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi của thơ
ca cách mạng là cái tôi sử thi, cái tôi hòa vào cái ta chung. Cái tôi trong thơ
đương đại là cái tôi bản thể. Trần Mạnh Tiến nhấn mạnh cái tôi trữ tình trong
thơ thời kỳ đổi mới phong phú đa dạng hơn cái tôi trữ tình trong trào lưu Thơ
mới. Có thể nói cái tôi trữ tình trong thơ thời kỳ đổi mới là cái tôi trữ tình
muôn điệu. Chịu ảnh hưởng, tác động của hoàn cảnh xã hội thơ Việt Nam đương đại
có sự thay đổi về tư duy về quan niệm thẩm mĩ. Từ đây các nhà thơ có tư duy mới
về vai trò, vị trí của con người trong cuộc sống. Chu Văn Sơn đã cho rằng cái
tôi cá thể trong thơ mới thường đi tìm mình trong thế giới. Còn cái tôi bản thể
đi tìm thế giới trong mình. Đối tượng phản ánh của thơ đương đại là cái bên
trong chủ thể sáng tạo. Cái tôi bên trong được đề cao có vị trí đẹp nhất, quan
trọng và đáng ngưỡng mộ nhất.
Các nhà
thơ đương đại hướng đến khai thác con người bản thể mang nỗi đau không được là
chính mình, nỗi đau sống trong xã hội phi lý, các giá trị bị đảo lộn. Đó là cái
tôi mang sự giằng xé chính mình khi Thanh Tâm Tuyền gào lên “Tôi thèm giết tôi” không phải là ý nghĩ
tiêu cực mà thể hiện niềm khao khát sống, thậm chí khao khát sống hồn nhiên như
trẻ thơ “Tâm hồn anh vừa sống lại thành
trẻ thơ/ trong sạch như một lần sự thật” (bài “Phục sinh”, trong Thanh Tâm
Tuyền, Tôi không còn cô độc).
Cái tôi
bản thể sau những giằng xé ẩn ức bộc lộ khát khao đi tìm lại chính mình. Tác giả Hoàng Hưng đã viết: “Đốt đuốc từ ngữ/ Thơ tìm giúp mặt thơ ơi/
Mình đi tìm mặt mình, đi tìm mặt mình, đi tìm mặt/ Ta đổi mặt người ta khát mặt
ta” (Người đi tìm mặt - Hoàng
Hưng). Khát khao tìm lại chính mình đã mất, đã bị lưu lạc đã trở thành nỗi ám
ảnh trong cái tôi bản thể. Tiếng gào thét của các chủ thể sáng tạo đã cho thấy
khát khao riết róng và đến mức đáng thương khi con người bị đánh mất mình. Nỗi
khao khát tìm thấy chính mình có khi đi vào cả trong giấc mơ “Đêm qua /Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ thành chim/ Tôi mơ thành
giấc mơ” (Đề tặng một giấc mơ -
Lâm Thị Mĩ Dạ). Cái tôi của chính mình trở thành khát vọng sống mãnh liệt sau
một thời gian dài bị hoàn cảnh xã hội làm cho lãng quên. Sau chiến tranh, con
người nhìn lại chính mình và muốn khẳng định vị trí làm người đích thực. Vi
Thùy Linh thú nhận “Tôi không bao giờ hóa
trang để nhập vai người khác” chỉ muốn “tôi là tôi/ Một bản thể đầy mâu thuẫn”. Con người trong mối
tổng hòa các mối quan hệ xã hội với những mặt mâu thuẫn vừa đối lập vừa thống
nhất nhưng luôn khát khao được khẳng định mình.
Cái tôi
bản thể gắn mình với những ẩn ức, âu lo trăn trở, về kiếp người. Đó là cái tôi
lo lắng về những sự bất thường, những tai ương trong cuộc đời của xã hội khiến
họ hoài nghi, bất an. Nguyễn Quang Thiều được xem là nhà thơ đầu tiên bằng
những nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình đã xác lập một giọng điệu
mới trong thơ Việt. Inrasara cho rằng Nguyễn Quang Thiều vừa xuất hiện đã xác
lập được một giọng thơ riêng. Với phong cách “sáng tạo độc đáo, đậm màu sắc ma
mị”, tác phẩm của ông có sức lan tỏa rộng rãi. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhấn mạnh
“Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra một trường thẩm mỹ cho riêng mình, khước từ mọi
ước lệ, khước từ mọi véo von nhễ nhại, khước từ mọi du dương quen cũ, Nguyễn
Quang Thiều huy động tối đa những ngẫu nhiên”. Mặc dù có nhiều ý kiến trái
chiều về hành trình lao động nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều song càng ngày
ông càng khẳng định được vị thế và chỗ đứng trong lòng bao độc giả và trở thành
hiện tượng được các nhà nghiên cứu quan tâm, đón nhận. Từ khởi nguồn là vùng
quê hương sông Đáy với những cảm xúc sâu nặng về Bà, về Mẹ, về quê cha đất tổ,
về con người vùng quê ông, Nguyễn Quang Thiều đã có cái nhìn triết lí, suy tư
về cõi người, kiếp người: “Nhưng đời tôi
phải chăng đã gặp những lọc lừa/ Nên tôi sợ và tôi nghi ngờ/ Rằng ý nghĩ tôi sẽ
mắc vào tơ nhện” (Ám ảnh - Nguyễn
Quang Thiều). Khi đi sâu vào thế giới nội tâm
bên trong con người, các nhà thơ đưa vào trong thơ các vùng mờ của tiềm
thức, những miền vô thức mờ ảo. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều hình dung về một cõi
xa xăm: Với những câu thơ tôi viết dở
nhọc nhằn.../ Những câu thơ đỏ hỏn cỗi già.../ Nếu không thấy tôi trở về mặt
đất/ Hãy đến đường chân trời run rẩy nhịp thời gian (Đêm gần). Tác giả hình dung tương lai trở về từ cõi chết. Đường
chân trời là con đường không giới hạn, mông lung hư ảo. Con đường hòa nhập run
rẩy cùng nhịp bước thời gian là con đường của sự suy nghiệm về sự hư vô. Con
người vừa lo âu trước thời gian nhưng cũng dám chấp nhận quy luật hữu hạn mà
lại như không nguôi khát vọng đi vào chốn vĩnh cửu của sự sống. Khai thác
khuynh hướng tâm linh “tạo ra một không
gian rộng lớn đánh thức phần cảm nhận sâu thẳm ở mỗi con người về cái hữu hạn
và cái vô hạn, về cái thường nhật và cõi vĩnh hằng của cuộc đời” [146]. Với
khuynh hướng khai thác đời sống tâm linh, nhà thơ tìm vào những miền khuất
trong thế giới tinh thần. Với xu hướng này người nghệ sĩ “nỗ lực đào sâu vào cái tôi ẩn giấu, cố gắng phát hiện chiều sâu tâm
linh của con người” [37, tr. 68]. Tác giả Nguyễn Quang Thiều thể hiện khát
khao đổi mới vươn xa: Con đường/ con
đường/ con đường/ Dắt ta về hồ nước cũ... Ra đi từ hồ nước cũ/ Con đường/ con
đường/ con đường” (Lễ tạ). Con
đường ra đi và con đường trở về. Con người khát vọng được ra đi trên mọi nẻo
đường thời tuổi trẻ nhưng lại khát khao được trở về với cội nguồn, với lối cũ
để cảm nhận được giá trị thực sự của cuộc sống. Nhà thơ thừa nhận nỗi cô đơn
giấu kín trong lòng: “Cô đơn theo con
lặng lẽ lớn dần”…
Các nhà
thơ đương đại tập trung tìm hiểu cấu trúc cái tôi trong quan hệ với chính nó.
Chẳng hạn Hoàng Hưng viết: Mặt ga đêm/
Miệng mở ngủ/ Giật thức/ Mắt kinh hoàng/ Người bốn phương chạy đổi chỗ/ Em đi
về đâu em có đi cùng anh/ Em có một
cái mặt không?/ Ta soi nhau mà tìm (Người
đi tìm mặt). Với cấu trúc thơ đề cao lối viết tự động, siêu thực, tác giả
diễn tả khát khao đi tìm mặt tức
chính là tìm dấu ấn cái tôi riêng với những nỗi niềm ẩn giấu, lẩn khuất. Con
người khi ý thức được nhân vị thì càng nhận ra sâu sắc rằng tất cả kiếp người
là vô nghĩa lý. Có rồi không, còn rồi mất, không có gì là bất biến, vĩnh hằng.
Vì vậy, thi nhân mơ hồ đặt câu hỏi “Em có cái mặt không?”. Ta cũng có thể hiểu câu hỏi của nhà thơ ấy là
hỏi em có còn là chính em không? Đặt trong văn cảnh cả bài thơ, độc giả cũng có
quyền hiểu rằng chủ thể trữ tình đang
nói “Em cũng chính là tôi, chúng ta bị đặt vào tình thế xuất hiện ngẫu nhiên và
mất đi ngẫu nhiên”. Đi tìm mặt chính là đi tìm cái tôi bị đánh mất hay cái tôi
trôi lạc. Khi biểu hiện cái tôi tâm linh, các nhà thơ tập trung tìm hiểu mối
quan hệ với chính nó.
Cùng
với khuynh hướng viết về vùng mờ tâm linh, thơ Việt Nam đương đại còn là khuynh
hướng viết về cái tôi gắn với cái ta cộng đồng, quốc gia: Cảm hứng sử thi vẫn
được tiếp nối. Nhưng hiện thực về chiến tranh trong thơ Việt Nam đương đại là
hiện thực trở về từ kí ức. Các nhà thơ không tái hiện hiện thực mà ngẫm nghĩ về
thế thái nhân tình qua sự biến động của lịch sử. Hình ảnh đất nước được nhìn từ nhiều góc độ. Đất nước anh hùng
nhưng cũng là đất nước của những đau thương mất mát. Các nhà thơ nhìn đất nước,
chiến tranh một cách tỉnh táo, lạnh lùng hơn không thiên về ngợi ca một chiều.
Chẳng hạn “Cái đất nước có dáng hình tiên
múa/ Lại có hình ngọn lửa lúc cuồng phong” (Trần Mạnh Hảo). Không còn giọng
thơ ca ngợi một chiều, đất nước hiện lên vừa mềm mại, thướt tha nhưng cũng rất
rắn rỏi hiên ngang. Thế hệ hôm nay nghĩ về trách nhiệm bổn phận với Tổ quốc
cũng chính là để sống tốt trong hiện tại “Người
chết sẽ chẳng bằng lòng nếu chúng tôi quá đau thương/ Chúng tôi sống thay cho
người đã chết (Những sự vật còn sống -
Xuân Quỳnh). Nghĩ về người đã hi sinh không chỉ biết khóc than, bế tắc mà tỉnh
táo nhận ra bổn phận của người đang sống. Chúng tôi “sống thay” cho người đã
chết, sống theo nghĩa sống tốt với chính mình, sống trong thế giới biết ơn với
người đời, với cuộc sống rộng lớn …Không còn là những mĩ từ, sáo ngữ, con người
hiện sinh sống cho thực tại. Hoàn thành bổn phận làm người đó là một thiên
chức. Không đợi đến làm được gì cao cả, siêu phàm mà chỉ làm tròn bổn phận của
con người bình thường đã là biết sống và dám
sống.
Biểu
đạt cái tôi trong thơ ca đương đại có nhiều hướng. Đó là cái tôi cảm xúc, cái
tôi lý giải phi lý, cái tôi đa chiều kích, không dựa vào một chuẩn mực nào. Tác
giả Vi Thùy Linh là một hiện tượng thơ đã gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi
với những quan niệm trái chiều. Có nhóm những người gọi Vi Thùy Linh là “một
hiện tượng thơ mới” là “thơ trẻ thứ thiệt” như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy
Kha, Hoàng Hưng, Tô Hoàng, Phạm Xuân Nguyên… Nhóm người đối lập không coi Vi
Thùy Linh là thơ như Nguyễn Thanh Sơn, Hoàng Xuân Tuyền, Trần Mạnh Hảo… Về sau,
Vi Thùy Linh đã khẳng định được vị trí
của mình. Thơ Vi Thùy Linh luôn đề cao cái tôi bản thể, sự khác biệt, thể hiện
quan điểm độc lập quả quyết: Qua mọi nẻo
đường.../ Ruổi mãi ruổi mãi theo những câu kinh/ Tới vùng sa mạc ánh nhũ mặt
trời xanh (Song mã). Qua thơ, Vi
Thuỳ Linh không chỉ biểu hiện niềm vui hoan lạc mà còn có cả nỗi cô đơn: “Quay lung về em, Anh đi/ Để lại em cánh đồng
hạn/ Nứt nẻ và nhợt nhạt/ Những - vết
- chai”… Cô đơn vì bị lãng quên, cô đơn vì không bao giờ thỏa mãn với hạnh
phúc của con người: “Trong giấc mơ/ Tìm
mãi kiếm tìm/ Một vầng trăng không bao giờ khuyết/ Một mùa trăng lênh đênh…
Hình như/ Có nỗi buồn nghiêng/ Nơi bóng tối òa vỡ” (Không đề). Càng cô đơn càng khao khát được đồng cảm sẻ chia: “Em ngắt vài cọng gió/ Thả lên dấu thời gian/
Vừng ơi- em niệm chú/ Uớc mơ về xênh xang” (Giao cảm)… Càng ý thức được về sự hiện hữu của cái tôi bản thể càng
khao khát được sống và chiến thắng tuổi tác qua sự trôi chảy nghiệt ngã của
thời gian. “Ta lo âu một ngày/ Bàn tay
nhăn nheo những sợi tóc bạc ngã gục/ Những sợi tóc không thể mọc thêm không bao
giờ đen được nữa/ Màu trắng run lên” (Lặng
lẽ).
Con
người với khát vọng rong ruổi dù nhọc nhằn khổ ải như tự đầy ải mình nhưng là để tìm đến được vùng đất rực sáng
và màu xanh hy vọng. Nguyễn Thị Hồng Ngát
thừa nhận: “Nước mắt đã thôi không chảy/
Và nỗi buồn cũng chẳng thể buồn hơn”.
Cũng có khi là những chiêm nghiệm về chính cuộc sống của con người trong thơ Tuyết Nga: “Khát vọng rủi ro khát vọng chẳng thành tên/ Cuộc sống ngẫu nhiên/ Đời người may rủi/ Bị dẫn dắt để bất ngờ lầm
lỗi/ Vinh quang ngắn ngủi đến nhường kia”.
Thơ
Việt Nam đương đại cũng có chỗ để giãi bày nỗi niềm hồ nghi trong tình yêu,
tình người trong cuộc sống: “Em hiểu lắm tình yêu thường nông nổi/ Thương nhau rồi có thể sẽ là không/
Nên em lặng im yêu vụng thương thầm/ Yêu một phía hy vọng là vĩnh viễn”
(Phan Thị Thanh Nhàn). Phan Huyền Thư khẳng định cần đi tìm cho mình một hướng
đi riêng trong buổi giao mùa. Cách diễn đạt với những vùng mờ nhập nhòa giữa
thực và ảo. Thực chất cái tôi muốn tạo lập con đường riêng, muốn khẳng định cái
tôi trong mọi nẻo đường vốn phức tạp của cuộc sống: Tự dắt mình men theo mùa hạ/ Tìm một lối đi thu (Men theo mùa hạ Phan Huyền Thư).
Như
vậy, có thể nói, biểu đạt cái tôi hiện sinh là xu hướng phổ biến trong thơ Việt Nam đương đại. Tùy mỗi cá tính
sáng tạo mà cách biểu đạt này khác nhau, và sự đa dạng ấy đã làm nên sự phong
phú, nhiều màu sắc của thơ ca hiện sinh. Cái tôi trong thơ hiện sinh đã đem lại
cho người đọc những thể nghiệm độc đáo, và đặc biệt, giúp họ nhìn thấy được
những bí ẩn trong tâm hồn mình.
3.1.3. Các
dạng thái của cái tôi hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.1.3.1.
Cái tôi bản thể và cái tôi tha hóa
Chủ nghĩa hiện sinh gắn với vấn đề con người bản thể. Hiện sinh là gắn với cái gì của con người trong thực tại với khát vọng vươn lên khỏi thực tại để sống với âu lo và bất an khôn nguôi. Chủ nghĩa hiện sinh quan tâm đến con người sống động cụ thể: “Người hiện sinh muốn coi tính chủ thể như là nguồn cội duy nhất, là kho tàng đầu tiên và cuối cùng mà mỗi cá nhân có thể khai thác” [127, tr 247]. Chủ nghĩa hiện sinh quan niệm chỉ ở con người và chỉ ở con người thôi hiện sinh có trước chứ không phải là bản chất có trước. Từ khi sinh ra con người chưa là gì hết, nó tự do lựa chọn để tạo nên bản chất của chính nó. Trước 1975, nhà thơ Chế Lan Viên đã đặt những câu hỏi “Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình/ Ta là ai? Khi xoay chiều ngọn bấc”.
Những câu hỏi xoáy vào cái tôi bản thể mong muốn được
khẳng định vị thế của mình. Lưu Quang Vũ cũng từng bộc bạch nỗi cô đơn, bất lực trước cuộc đời: Có những lúc tâm hồn tôi rách nát/ Như một chiếc lá khô/ Như một chồng gạch vụn (Có những lúc - Lưu Quang Vũ). Con người cảm thấy bất an, ám ảnh, đổ vỡ trước thực tại khắc nghiệt. Sau 1975, các nhà thơ nói nhiều về nỗi buồn nhân sinh,
về những cảm nhận của cái tôi trước
thực tại khắc nghiệt. Có khi đó là nỗi buồn vì sụp đổ thần tượng… Nguyễn Trọng Tạo thất vọng than kêu “Chúa chỉ bằng đất đá”. Chúa đã chết, con người không tìm được bất cứ một chỗ dựa nào ngoài chính bản thân mình. Đó là một luận điểm quan trọng của Hiện sinh luận. Có khi là nỗi buồn về sự mưu sinh không ngại gắn liền với những trắc ẩn riêng tư về tình yêu đôi lứa. Lâm Thị Mĩ Dạ đã viết “Em chết trong nỗi buồn/ Chết như
từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng”. Nỗi buồn tưởng như chết là nỗi buồn của sự bế tắc. Nỗi buồn đeo đẳng con người
như một cái án chung thân, cái án lưu đày.
Sau năm
1986, xã hội Việt Nam phát triển trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa của thời
đại của xã hội kỹ trị. Chịu sự tác động của cơ chế thị trường, con người sống
trong sự bất an, dễ rơi vào trạng thái hoang mang, cô đơn. Và đây được xem là
một trong những điều kiện để chủ nghĩa hiện sinh trở lại trong hàng loạt sáng
tác cả văn xuôi và thơ. Cao Thị Hồng đã thống kê cho thấy có các tác giả tác
phẩm ngay từ nhan đề đã hiển hiện tinh thần
hiện sinh - Khát, Đồng tử (Vi Thùy Linh);
Những kỉ niệm tưởng tượng (Trương Đăng Dung); Màu, Mùi
(Hoàng Vũ Thuật); Nằm nghiêng, Rỗng ngực (Phan Huyền Thư), Lô Lô (Ly Hoàng Ly), Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ (Đinh
Thị Thu Vân), Người đàn bà qua hai mùa
tóc (Ánh Hồng); Giọng nói mơ hồ, Tháo đáy, Chất trụ, Vỉa từ, Ổ thiên đường (Nguyễn Hữu Hồng Minh) …
[62].
Thơ ca
đi tìm cái tôi gắn với con người. Con người hạnh phúc hay khổ đau, vui, buồn.
Con người với nhiều cung bậc trạng thái phong phú phức tạp. Đó là một quy luật,
vì nhà thơ chân chính nào khi cầm bút cũng ý thức được mục đích sáng tác đề cập nhiều về những vấn đề của hiện sinh.
Thậm chí có nhiều tác giả xoáy sâu vào câu hỏi cật vấn sự tồn tại của mình.
Phan Huyền Thư viết: “Tỉnh dậy thôi/ Trở
về mình” (Lãng mạn giải lao -
Phan Huyền Thư). Trở về tìm lại chính mình là một đòi hỏi bức thiết của người
nghệ sĩ nói riêng và con người nói chung.
Cái tôi
bản thể gắn với bản chất của con người. Đối với triết học hiện sinh, vấn đề
quan tâm hàng đầu là cái hữu thể, sự tồn tại của cái bản thể: “phải bắt đầu từ
hữu thể, đi trong hữu thể và tất cả cho hữu thể” [28, tr. 95]. Vì vậy, khi tìm
hiểu bản thể thì trước hết và tất yếu phải lấy hiện hữu của con người làm môi
trường tìm hiểu. Nguyễn Tiến Dũng nhấn mạnh: “Theo các nhà hiện sinh, bản chất
không phải là bản chất phổ quát thuộc về giống người mà là bản chất cụ thể làm
cho ta trở thành một con người nhất định thuộc về ta chúng không có ở bất cứ
ai” [28, tr. 99]. Theo các nhà hiện sinh, tồn tại có trước bản chất. Con người
sinh ra chưa là ai, chỉ khi con người biết sống và hành động thì khi đó mới
phân biệt đó là con người như thế nào. Hoàng Thị Huế cho rằng:“Thơ ca nói chung, thơ Việt Nam đương
đại nói riêng dao động giữa hai hấp lực: vô thức cá nhân đầy ẩn ức và tiếng gọi
thẳm sâu của vô thức tập thể, biểu hiện trong những giằng co giữa thực tại và
mơ ước, bản ngã và siêu ngã, dục lạc và thăng hoa” Ý thức về cái tôi bản thể
được bắt đầu từ ý thức về bi kịch đánh mất cá tính. Tác giả Nguyễn Hữu Hoàng
Linh từng viết: tôi chưa từng đi lạc/ nên
chẳng ai tìm thấy tôi/ có phải trong bóng tối/ tôi đã hóa đêm rồi (Chìm).
Nhân
vật trữ tình lo sợ mình bị lạc vào đám đông, lẫn vào đêm tối. Bài thơ không
viết hoa đầu dòng thơ, giọng điệu bình thản nhưng ngậm ngùi nghẹn ngào. Đây là
cách nói hình ảnh để khẳng định cái tôi luôn thực hiện đúng theo những quy định
đã trở thành mòn sáo. Nhưng chính trong những khuôn khổ đó sẽ chẳng ai nhìn
thấy, phát hiện ra được cái tôi với những nét riêng biệt. Sợ đánh mất mình, con
người không còn muốn tự đóng khung trong một cái tôi nhỏ bé, họ muốn đi tìm
mình, tìm dấu ấn cá nhân của khuôn mặt mình. Tác giả Hoàng Hưng viết bài Người đi tìm mặt: Đêm xuống rồi/ Ta lẻn/ Đi tìm mặt mình/ Đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình
đi tìm mặt mình/ Mặt họ no đủ quá/ Họ vui dễ thế kia/ Người ơi người đời ta
biết có/ Mấy ngày vui/ Đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình/ Mặt ga
đêm/ Em đi về đâu em có đi cùng anh/ Em có một cái mặt không/ Anh biết ngày mai
em trở về điếc đặc. Nhẫn nhục ăn làm/Tàu rúc còi tàu đi tìm chi/ Tìm mặt mình đi
tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi/ Mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi
tìm/ Đốt đuốc lên/ Cho ta đi tìm/ Đốt đuốc lang thang/ Bàn chân bụi đất/ Đốt
đuốc tốc độ/ Mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt (Người đi tìm mặt - 1973).
Khát
khao đi tìm mặt mình được láy đi láy
lại bằng cụm từ “đi tìm mặt mình”
nhấn mạnh về ước vọng cháy bỏng và niềm tin xác quyết đi tìm lại chính mình
trong đêm tối của dòng đời. Tác giả trần tình những suy tư trăn trở về cái tôi
bản thể con người. Trong dòng đời của con người có được mấy ngày vui? Câu hỏi
đầy lo âu khắc khoải đẫm màu sắc hiện sinh. Con người hiện sinh thường nhìn
cuộc đời góc độ thực tế, không tô hồng cuộc sống, bởi con người hiện sinh quan
niệm con người từ khi sinh ra đã không có quyền lựa chọn. Con người sinh ra một
cách ngẫu nhiên và không chắc chắn được về tương lai của mình, con người luôn
âu lo, bi quan và cô đơn. Tác giả đưa ra những hình ảnh chứa đựng sự đối lập
tương phản giữa các sự vật trong cuộc sống. Những cử động của con người hòa lẫn
trong âm thanh hỗn tạp của cốc thìa, cà phê và sữa. Con người vẫn tồn tại chảy trôi theo sự vận động thường
ngày của lẽ sinh tồn. Con người trong xã hội hiện đại đang bị cuốn trôi theo
những âm thanh hỗn tạp kia. Tác giả lặp toàn phần câu thơ “đi tìm mặt mình” đến ba lần. Cần phải đi tìm lại chính mình sau
những niềm vui nhất thời! Đến khổ thơ thứ 3 tác giả lại gióng lên những câu hỏi
nhức nhối. Trong màn đêm của giấc ngủ khi tỉnh, thức em đi về đâu? Em có khuôn
mặt không? Liệu rằng em có đi cùng anh không, cùng dòng suy nghĩ hay em trở nên
“điếc đặc” có nghĩa là em đánh mất chính em. Em hay là con người bị chìm lẫn
vào công việc thường nhật trong kiếp mưu sinh. Xót xa khi con người từng ngày
đánh mất mình nên cần phải đánh thức họ “đi
tìm mặt mình”, điệp khúc vang lên đầy ám ảnh… Cái tôi rơi vào trạng thái
thảng thốt lo lắng đi tìm chính mình trong hoang mang âu lo. Càng trăn trở âu
lo con người càng khao khát đi tìm mình. Cuộc đời con người theo chủ nghĩa hiện
sinh là hữu hạn, là phi lý. Con người luôn muốn vượt lên chính mình để chứng tỏ
nhân vị, in dấu vân tay của cái tôi mình trong cuộc đời. Do vậy, để được tự do,
con người luôn vươn lên và chấp nhận cô đơn, âu lo. Âm điệu cuối bài thơ là lời
giục giã “đi thôi đi thôi”. Không tìm được mặt mình ta tạc vào đêm tối. Con người
vùng vẫy, vươn lên để khẳng định nhân vị của mình là một khát vọng nhân bản.
Con
người cố gắng đeo bám vào cuộc sống rộng lớn có khi chấp nhận sự đày đọa khổ đau vì muốn khẳng định nhân vị
và vươn tới tự do cho chính mình. Để vươn tới tự do con người càng khát khao
được sống đúng là mình. Đây được xem “là một
nhu cầu, một mong muốn khẩn thiết”. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết bài thơ Tự họa, tự vẽ chân dung mình để khắc dấu
bản thể: vẽ tôi mực rượu giấy trời/ nửa
say nửa tỉnh nửa cười nửa đau/ vẽ tôi thơ viết nửa câu/ nửa câu ma quỷ đêm sâu
gọi về (Tự họa). Tác giả đã thực
hiện bức tự họa chân dung mình và đó là một cách để nhà thơ khẳng định vị thế
của cái tôi. Trong tứ thơ này, chân dung nhân vật tôi được nhìn dưới nhiều góc
độ. Đó là cái tôi nửa tỉnh nửa say trong
men rượu đời thường. Đó là cái tôi nghệ sĩ trong
cảm xúc thăng hoa của thơ ca với một tâm hồn nghệ thuật. Đó là chân dung của
một bản thể người với mọi ưu nhược điểm, vừa tốt vừa xấu, vừa cao thượng vừa
thấp hèn. Cái tôi được soi chiếu với nhiều góc độ với mọi chiều kích cả trong
đời thực, cả trong nội tâm, vừa nghiêm túc vừa bi hài. Cái tôi dù ở góc độ nào
cũng không tự thỏa mãn mà luôn hướng về phía hư hao không trọn vẹn, luôn cảm
thấy chênh vênh và thiếu khuyết, thậm chí lẻ loi và đơn độc.
Cuộc
sống càng hiện đại, càng toàn cầu hóa mạnh mẽ, con người càng có nguy cơ đánh
mất mình. Cái tôi trong thơ đương đại mang cảm quan của con người hiện đại, nỗ
lực tìm kiếm, gìn giữ bản ngã trong một thế giới đầy bất an, phi lí. Tác giả tìm
thấy bóng dáng của người khác trong thơ mình. Cái tôi trong thơ đương đại có
nhiều tập thơ đã thể hiện ý thức về cái
tôi bản thể ngay nơi nhan đề thi phẩm. Chẳng hạn Lê Minh Quốc có bài Tôi vẽ mặt tôi. Đinh Thị Thu Vân với bài
thơ Tôi gọi tôi. Hoàng Hưng với nhan
đề Tôi đi tìm mặt. Qua thơ các tác
giả nêu những câu hỏi khắc khoải về cái tôi hiện hữu, cái tôi trăn trở về chính
mình. Lâm Thị Mỹ Dạ đặt câu hỏi “Sao ta là người/ quằn quại chứng nhân chính mình quằn quại”. Con người
được sinh ra một cách ngẫu nhiên, không tự quyết được số phận mình. Câu hỏi đặt
ra là Ta là ai? Ta đến đây để làm gì
và trở thành ai? Đặt câu hỏi đi tìm nguồn gốc tại sao ta lại sinh ra là con
người? Con người - hai tiếng ấy từ khi xuất hiện cho đến khi biến mất phải tự
chịu trách nhiệm về chính mình chứ không ai khác. Không ai sống thay cuộc đời
của họ. Nhà triết học Descartes đã nâng “cái
tôi” thành trung tâm của triết học. Tôi
chỉ có thể tìm ra thế giới “tự thân”
khi tôi thấu hiểu được nó thể hiện
trong suy nghĩ của tôi như thế nào.
Hoàng Thị Huế nhấn mạnh rằng Immanuel Kant đã đặt ra những câu hỏi lớn của nhân loại: Tôi có thể biết gì? Tôi nên làm gì? Tôi có thể hy vọng gì? Con người là gì… Những câu hỏi xoay quanh vấn đề
trung tâm - Con người có thể biết gì về
chính mình? Những câu hỏi về hạnh phúc, tự do, tình yêu... nêu bật sự tái
thức nhận hiện thế. Cũng như câu hỏi về Chúa và ý nghĩa của tương lai. Với thi
nhân, tôi tìm tôi trong sự viết - sáng tạo, và đó là một cách để khám phá đào
sâu bản thể. Hay trong Khắc thạch, Phan
Huyền Thư viết: “Áp má lên vách đá/ Tiếng
cựa mình tuyệt vọng của tôi/ Sáng mai thức dậy/ Con bọ-gậy-đổ-vỡ của tôi đã
thành/ muỗi/ bay đi”. Nhân vật tôi còn tìm tôi trong tình yêu, bởi trong
hành vi yêu thương, hiến dâng, cho, nhận… con người tìm thấy mình. Tình yêu đối
mặt với bất hạnh, con người trở về với nỗi cô đơn: “Người con gái có đôi mắt buồn/ Đi lang thang trong chiều mùa hạ/ Nỗi cô
đơn lây sang cả đá” (Thúy Nga).
Các nhà
thơ trẻ hôm nay đã thẳng thắn nhận ra một thời kỳ dài con người không sống đúng
là mình. Nhà thơ Trương Nam Hương nhận xét: “Đã có một thời nỗi đau ta phải giấu/ Trang báo ta cầm chỉ đọc những
niềm vui”. Phạm Xuân Hạ cũng khẳng định “Thơ viết ra in bóng dáng của mình” [Dẫn theo [150, tr. 89]. Trong
thơ ca đương đại Việt Nam, có nhiều tác giả đã thể hiện rõ ý thức về cái tôi
bản thể. Lâm Thị Mỹ Dạ trong Đề tặng một
giấc mơ đã biểu đạt giấc mơ mình trở thành chính mình - “Đêm qua/ Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ thành
chim/ Tôi mơ thành giấc mơ”. Đó là sự khắc khoải phân vân: “Sao không là hai/ Mà quỳnh chỉ một”. Con
người cũng như bông quỳnh lẻ loi cô đơn khai mở một thoáng giữa đêm sâu.
Cùng
với cái tôi bản thể là cái tôi tha hóa. Tha hóa hiểu theo nghĩa thay đổi, biến
đổi. Cái tôi không còn của ngày xưa nữa. Con người khi còn là cái tự nó chỉ
sống như một sinh vật, sống thừa ra. Các nhà hiện sinh cho rằng điều đó có nguyên nhân từ sự tha hóa. Tha hóa là
đánh mất mình để hóa thành “kẻ khác”. Sự tha hóa ấy có hai hình thức: Tha hóa
do lối sống thụ động, tôn thờ một hình mẫu lý tưởng kể cả thần tượng là Thượng
đế. Tha hóa vì chỉ sống dựa theo người khác, không khẳng định được nhân vị
mình. Nghĩa là con người bị lệ thuộc vào tha nhân và bị vong thân. Thơ ca đương
đại đi tìm cái tôi đã mất, cái tôi cái bản thể khi sinh ra là thiện lương nhưng
trong quá trình sống nó đã bị biến đổi. Con người luôn nỗ lực để khẳng định
nhân vị tự do độc đáo.
Tác giả
Lê Minh Quốc có hẳn hai bài thơ mang tựa đề Tôi
vẽ mặt tôi và Vẽ tôi. Đây là khát
khao của nhà thơ được tự họa mặt tôi với những mặt trái, với những sự thật trần
trụi. Đó là khuôn mặt đã chảy qua dòng sông hay dòng đời mỏi mệt khô cằn. Đó là khuôn mặt tự trào mình như một đứa trẻ ngây ngô,
một vai hề mua vui trong vở chèo tuồng cổ. Đó là chân dung của
khuôn mặt người với những bon chen cúi luồn như tôm giữa dòng đời bon chen sát
phạt. Đó là hình hài của một đấng người mà phải gồng mình lên đến kiệt sức bật
máu trải qua kiếp người để tồn tại. Thậm chí tác giả còn nhìn thấy khuôn mặt
người đáng ghê, đáng buồn nôn khi phải đua chen danh vọng với những thất bại
đắng cay trên đường công danh vốn trơn trượt và chông gai. Cuối bài thơ là mong
muốn được “chọc hai con mắt cho mù mới
vui” để khỏi phải nhìn thấy những điều chướng tai gai mắt. Nhân vật tôi
hiểu rằng cuộc đời con người là phù du. Tại sao con người cứ mãi vô minh tăm
tối không nhận ra mình đã sống mà chẳng khác gì một thứ đồ vật. Bài thơ có ý
nghĩa phản tỉnh con người.
Thực
ra, cái tôi bản ngã chính là cái tôi đơn nhất (cốt lõi một nhân cách) nhưng bởi
vì cá nhân là một hiện sinh tự nhìn mình và tìm mình nơi tha nhân nên trong thơ
theo khuynh hướng hiện sinh ta sẽ bắt gặp cái tôi tha hóa. Từ “tha hóa” ở đây
lẽ dĩ nhiên là từ dùng của hiện sinh luận chứ không phải là từ dùng nghĩa từ
điển phổ thông. Đó cũng chính là cách hiểu dẫn theo diễn giải tác giả bài viết
“Chủ nghĩa hiện sinh - Sự hình thành, diện mạo và ảnh hưởng”: “Sự ra đời của
chủ nghĩa hiện sinh là hiện tượng xã hội tất yếu phù hợp với xu hướng phát
triển tâm lý thời đại chống lại bản thể luận và nhận thức luận trong siêu hình
học truyền thống, theo đó các triết gia mải mê tìm kiếm nguồn gốc vũ trụ, lý
giải quá trình nhận thức mà bỏ quên thân phận và kiếp sống con người, không lý
giải mối quan hệ phụ thuộc giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và tất yếu. Tuy
khoa học kỹ thuật có mặt để giảm nhẹ sức lao động, nhưng rồi chẳng mấy chốc máy
móc đã ép con người theo guồng quay và trở thành nô lệ của nó. Trong cuộc sống
hiện đại, để tồn tại con người nhiều lúc phải tự đánh mất mình, bị đổi ngôi từ
“nhân vị” thành “đại từ”, từ “chủ thể” thành “đối tượng”, từ “tôi” thành “nó”.
Chung quy là buộc phải tha hóa đúng như nhận định của triết gia Friedrich
Nitschez: “Con người đã chết” (Ta đã biết câu nổi tiếng của F.Nietzsche “Thượng
Đế đã chết” - “Gott ist tot”, trong tác phẩm Zarathustra đã nói như thế.. Chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là sự
đáp trả tư tưởng tư biện trừu tượng triết học Hegel trong quá trình đi tìm các
khái niệm phổ biến mà không quan tâm đến đời sống hiện thực của con người và
chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển đã lý tưởng hóa tình yêu và cuộc sống,
dẫn dắt con người ngày càng xa rời hiện thực” [142]. Cái tôi bản ngã đơn nhất
là cái tôi đi tìm nét riêng của mình, nét độc đáo không giống người khác, không
lặp lại người khác. Khát khao làm mới mình, thay đổi và vượt lên chính mình là
một khát khao mang tính hiện sinh. Con người không tự bằng lòng với hiện tại mà
luôn muốn vươn lên, vượt qua chính
mình. Con người không chấp nhận những cái tẻ nhạt khuôn mẫu mà luôn muốn vươn
đến những cái mới lạ. Cùng với Vi Thùy Linh, tác giả Ly Hoàng Ly cũng khao khát
được là chính mình một cách riết ráo: Cắt
đêm ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu đêm lại bằng tóc/ Tóc thưa dần thưa dần/ Những đường
rãnh trắng hếu đưa ta đi hết đêm này đến đêm khác/ Cho đến khi đầu trọc/
Cắt ta ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu ta
bằng hết đêm này đến đêm khác/ Cho
đến khi trắng hếu đêm (Cắt). Khát
khao được là chính mình trong mọi khoảnh khắc thời gian. Đó có thể xem
là một tiếng gọi mà suốt đời con người đi tìm, cho dù cuộc sống có nghiệt
ngã. Cái tôi đa ngã phức điệu là cái tôi
nhiều bản ngã, nhiều trạng thái. Có thể cái tôi là thiên thần có thể cái tôi là ác quỷ. Cái tôi mang trong mình nhiều trạng thái “rồng phượng lẫn rắn rết”
(Nguyễn Minh Châu).
3.1.3.2.
Cái tôi hiện hữu, hằng tồn và cái tôi hư vô,
bất định
Cái tôi
hiện hữu hằng tồn có nghĩa là mình cảm nhận, đọc được chính mình trong tấm
gương thi ca. Cái tôi hư vô bất định luôn có cảm giác lo âu bất an trước cuộc
đời hữu hạn. Con người với bản chất cô đơn vì tự mình làm nên mình, không có
chỗ dựa về lí trí, tự lần mò tìm đường đi cho mình vì vậy luôn lo âu. Lo âu vì
sự hư vô, không thể lí giải dược. Con người là một hữu thể cô đơn, một thế giới
đóng kín nhưng lại phải mang một trách nhiệm nặng nề đối với bản thân. Cô đơn
được triết học hiện sinh xem là định mệnh là nghiệp dĩ của con người. Cô đơn
bủa vây con người khắp mọi chiều không gian. Cô đơn từ khi còn nhỏ bé, cô đơn
trong lớp học, trong trang sách cả ngoài đường phố xôn xao. Con người bị đè
nặng bởi một khối cô đơn và phải mang theo nó, sống chung với nó không thể dứt
bỏ được mà chỉ chấp nhận nó.
Con
người hiện sinh quan niệm cuộc đời là hư vô. Con người sinh ra rồi mất đi,
không có gì là vĩnh cửu. Bi kịch buồn nhất của con người là người ta chết chỉ
có một mình. Con người sinh ra rồi khi chết, chỉ có một mình tự đảm nhiệm cái
chết, không ai làm thay, chết thay, chính điều đó khiến con người luôn âu lo,
suy tư. Cũng như sự sống, cái chết là một phần của cuộc đời con người. Có khi
các tác giả hình dung mình đang sống với cái chết. Nguyễn Quang Thiều hình dung
mình đã chết “Tôi đã chết một cái chết
khoảnh khắc/ Tôi thấy xác tôi như sương vương trên cỏ dại”. Không né tránh
bi kịch của đời người, các tác giả đứng từ điểm nhìn của cái chết cái vô thường
để có cái nhìn rộng hơn, bao quát hơn về cuộc sống trong hiện tại. Phan Huyền
Thư cáo phó mình như đã chết “Tôi muốn tự
mình lồng ảnh vào khung/ Đóng vào khung/ Tìm nơi treo trang trọng/ Như đã qua
đời” (Cáo phó). Khi ý thức được
cuộc đời hư vô con người sẽ hiểu được cần sống và làm gì trước cuộc sống. Tuy
nhiên, chết với thi nhân không phải là sự chấm dứt. Đó là sự tiên cảm về lẽ tồn
vong của con người giữa trời và đất, giữa bóng tối và ánh sáng. Điều này được
Mai Văn Phấn thể hiện trong bài thơ Giấc
mơ vô tận: “Gió mùa về/ Làm khăn
trắng quấn nơi gốc sú/ Trên đỉnh trời linh cữu nhấp nhô”. Nguyễn Quang
Thiều lí giải về ẩn số của đời người: “Thế
giới còn lại của loài người là một chiếc ghế vuông/ Con thú rên rỉ bám vào bến
bờ ước lệ sự sống”. Cuộc đời rút cục là một thứ trò chơi của con tạo “Chiếc quan tài dâng lên mãi/ Dâng lên đám
mây ngũ sắc/ Con đường người chảy thấu qua ngôn ngữ chúng tôi/ Hồi sức những âm
tiết đơn, sinh sôi đa bào/Mang ý nghĩa mới tiếng gọi tái sinh mãi tiếng vọng/
Ngôn ngữ náu mình trong chúng tôi/ Ngôn ngữ ánh sáng minh chứng chúng tôi/ Ngôn
ngữ ánh sáng minh chứng con cháu chúng tôi”. Khi đặt ra giả thiết mình đã
chết thì ta dễ hình dung hơn được ý nghĩa cuộc đời là gì. Cái còn lại là những
gì mà chỉ có ngôn ngữ mới chứng nghiệm được. Phải chăng đó là cái nhìn xuyên
qua thời gian, không gian vời vợi siêu thực để hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa nhân
sinh của con người?
3.2.
Cảm nhận về con người theo hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.2.1. Một vài
giới thuyết
Nhận
thức về con người trong thơ Việt Nam đương đại là nhận thức con người với nhiều
cung bậc trạng thái. Đó là con người tự hào, con người lo âu, bất an. Trong
thời đại toàn cầu hóa con người có điều kiện sống cho bản thân mình và suy ngẫm
nhiều hơn về chính mình. Nhiều tác giả thơ Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm của
mình về con người trong thời đại mới. Con người với những trăn trở về chính bản
thể với mọi buồn vui, yêu ghét, kiêu hãnh, tự tin và âu lo, buồn chán, thất
vọng... Tác giả Lê Khánh Mai khát khao tìm về bản thể mình: “Tôi xương thịt hôm nay, ngày sau cát bụi/
cát bụi nhỏ nhoi khiêng vác linh hồn/ vẫn khao khát được chở che, cứu rỗi/ và
trên phiến ngực trần của đá/ tôi ước ao là một mảnh xương sườn” (Ngày sau). Con người luôn ám ảnh bởi cái
chết, sự hao mòn, bất định. Cuộc đời hữu hạn như là một cái án treo lơ lửng
khiến con người bị dồn đuổi bởi nỗi lo âu. Con người luôn âu lo phản tỉnh và
tra vấn chính mình: Đôi khi ngẩn ra/ Mặt
như hóa thạch/ Làm đá/ Có yên không? (Lâm Thị Mĩ Dạ). Khi suy tư về kiếp
người ngắn ngủi con người giật mình “ngẩn mặt ra” bởi sự phi lý của cuộc sống.
Phi lý vì con người ta sinh ra con người ta lại mất đi. Trong kiếp sống con
người nhọc nhằn trải qua bao giông tố, buồn đau thế rồi tất cả trở thành phù
du, hư hao. Ngẫm nghĩ như vậy khiến nhân vật trữ tình không khỏi bàng hoàng,
hoảng hốt. Sự phi lý luôn là câu hỏi chưa có lời đáp của con người do vậy suốt cả cuộc đời con người vẫn chìm đắm trong sự ưu tư. Con người luôn tự hỏi mình những câu hỏi mang nỗi niềm
day dứt về thân phận. Càng ngẫm nghĩ suy tư về kiếp người càng cảm nhận sâu sắc
nỗi cô đơn bản thể về kiếp sống phù du - Sao
tim tôi hững hờ/ Sao tôi không xúc động/ Sao tôi không vấn vương/ Tôi cứ bơ vơ
mãi/Giữa cuộc đời mến thương (Tạ lỗi -
Phan Thị Thanh Nhàn). Đó là cách nhìn nhận theo hướng con người cần gắn với
những cái gì thuộc về con người, thuộc về chính nó trong đời sống thực tiễn.
Khi đề
cập đến con người cá nhân, cá thể nhiều tác giả đề cập đến cái tôi của mình một
cách tự tin đầy khao khát. Đó là lời tự bạch của Xuân Quỳnh “Em trở về đúng nghĩa trái tim em/ Là máu thịt
đời thường ai chả có”. Con người máu thịt với mọi vui buồn, tốt xấu. Đó là
con người trong đời thực trần trụi mà ai cũng trải qua chứ không phải con người
của hình ảnh, con người chức phận. Tác giả Phùng Khắc Bắc quả quyết: “Ta phải là ta cả phần xác lẫn phần hồn”
(Con chó đá). Hà Phương khẳng định: “Tôi không thể đứng trong dàn đồng ca/ hào
hứng buồn vui theo nhịp tay nhạc trưởng”. Trở về với cái tôi cá nhân trước
tiên là được sống đúng là mình, trung thực với những cảm xúc của mình [150, tr. 90].
3.2.2. Con
người sinh thể với mọi nhu cầu và khát vọng sống trần thế
Con
người sinh thể trần thế là con người với những nhu cầu thiết yếu như được ăn,
ngủ, nghỉ, đau khổ, vui, buồn, con người bản năng. Thơ ca đương đại chuyển
hướng quan tâm đến con người đời tư thế sự. Con người không chỉ sống vì trách
nhiệm bổn phận mà là sống với con người với mọi nhu cầu đời thường. Con người với những mặt mâu thuẫn đối lập và thống
nhất. Con người đẹp - xấu - vui - buồn - yêu - ghét - thấp hèn - cao thượng...
Trong tác phẩm các nhà thơ luôn đề cập đến những khao khát, ước mơ của con
người. Đó là khát khao được tự do, khát khao dấn thân, sẵn sang đưa mình vào
một lĩnh vực, một thử thách nào đó của cuộc sống. Vi Thuỳ Linh đề nghị “Hãy
vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu”, “Em giải phóng em trong thế giới tâm
hồn”. Con người hiện đại khi ý thức được về thân phận sẽ không chấp nhận đầu
hàng, bất lực “Đập nát đơn điệu, khuôn khổ của cũ kỹ, nhàm chán và cam chịu/ Em
tự làm mất đối xứng- bằng em”(Vi Thuỳ Linh)..Trong triết học hiện sinh, vấn đề
bản năng, tính dục được xem là một giá trị gắn liền với sự sống của loài người.
Bản năng tính dục là một cách để con người chống lại sự phi lí, chống lại nhịp
điệu khô cứng của cuộc sống như lời một triết gia: “Để đời sống con người không
hoàn toàn buồn thảm. Thượng đế đã cho nó dục tính nhiều hơn lí trí”. Chủ nghĩa
hiện sinh đề cao vai trò tính dục. Đó được xem là một biến thể con người tìm kiếm tự do, thoát khỏi sự
cô đơn và khẳng định nhân vị. Thơ ca hiện sinh quan tâm đến con người bản thể,
con người hiện tồn, con người trong thực tại, vì vậy, đối tượng mà thơ ca hướng
đến là con người bản năng. Chính từ vấn đề tính dục, con người bộc lộ rõ nhất
tính bản năng, qua đó cho thấy tính “tự ngã” tức là khẳng định ý thức cá nhân
mãnh liệt nhất, rõ nét nhất. Con người trong triết học hiện sinh tìm đến tính
dục để được sống đúng là chính mình. Chủ nghĩa hiện sinh quan tâm lí giải những
khao khát nhục cảm của con người mang tính nhân văn. Đây được xem là một phần
của sự sống. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của tính dục trong
đời sống con người. Nietzsche cho rằng: “Thiên tài là ở bản năng. Lòng tốt cũng
thế. Không có hành vi nào hoàn thiện hơn bản năng”. Freud cũng khẳng định bản
năng tính dục “là nguồn gốc cho mọi công trình sáng tạo vĩ đại”. Freud là người
đề xướng khái niệm tính dục. Khái niệm này chỉ một phạm vi rất rộng không chỉ
giới hạn ở hoạt động giao cấu mà hướng đến chỉ các hành vi đem lại khoái cảm
nhục dục nói chung. Vấn đề tính dục chưa được đề cập nhiều trong văn chương cổ. Đến văn học hiện đại, “bản năng tính
dục được nhìn nhận một cách đa diện, được thể hiện phức tạp hơn nhiều”. Tình
dục gắn với tình yêu, gắn với sự nổi
loạn, dấn thân, gắn với sự giải tỏa
tâm lý và giải thoát sự cô đơn bất lực, gắn với tự do và hưởng thụ thân xác. Thơ ca đương đại
đã đề cập đến vấn đề này một cách bạo
liệt nhưng cũng rất tinh tế mà F. Engels quan niệm là “nhục cảm lành mạnh”.
Sau năm
1986, đất nước đã có sự thay đổi về hoàn cảnh lịch sử xã hội khiến cho nhận
thức, tư duy và cảm quan thẩm mĩ của con người cũng thay đổi. Con người sau một
chặng đường dài hi sinh vì sự sống còn của quốc gia dân tộc, giờ đây họ có thời
gian nhìn nhận lại chính mình và đi sâu quan tâm cuộc sống đời tư của con người
nhiều hơn. Trong lĩnh vực tình yêu, tính dục cũng có những cái nhìn và quan điểm
đầy mới mẻ hiện đại. Trên thi đàn Việt
Nam đã xuất hiện hàng loạt những cây bút trẻ mà tư tưởng của họ có sự tiếp cận
nhanh chóng sâu sắc chủ nghĩa hiện sinh từ phương Tây khiến quan niệm về tính
dục của họ cũng thay đổi... Sau năm 1954 tại miền Nam, rồi sau năm 1975 tại
miền Bắc, với sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh, cách nhìn nhận của các nhà
hiện sinh về vấn đề tính dục đã tạo nên một góc nhìn mới mẻ. Cùng với sự ảnh
hưởng của phân tâm học của Freud, các tên tuổi như M. Ponty, G. Maccelt và J.P
Sartre đề cao vấn đề thân xác. Thân xác con người cần được trân trọng bởi “Khả
năng tính dục không còn chính là sự sụp đổ, hoang phế bản thể” [58, tr. 87].
Khi con người ý thức được mình là một nhân vị độc đáo, tự do thì họ càng muốn
vượt thoát khỏi nỗi cô đơn ưu tư để khẳng định mình. Con người bất chấp mọi rào cản để khẳng định
chiều sâu bí ẩn phức tạp của cái tôi bản thể. Điều này không
chỉ được đề cập nhiều
trong văn xuôi Việt Nam mà còn được thể hiện một cách sinh động trong thơ ca đương đại.
Ở thơ
ca đương đại, đi cùng khát vọng dân chủ là khát vọng giải phóng con người cá
nhân, khát vọng được “cởi trói phần bản năng tính dục”. Theo luận giải của
Hoàng Thị Huế: Freud trong Ba tiểu luận
về lý thuyết tính dục đã cho rằng “Tình yêu tự căn bản là một hiện tượng
tính dục”. Tình yêu được giải thích như là khả năng bị cuốn hút đến những phần,
những mặt của giới tính đối lập - tức là người phóng chiếu những đặc điểm tự
ngã nội tại của riêng chúng ta. Chính vì vậy, hành vi yêu thương, trông nhớ,
chờ đợi, tôn sùng người yêu là biểu hiện những phần đối lập về giới tính, trong
mỗi con người, phần nam trong nữ và nữ trong nam của mỗi cá nhân. Con người
sống thật với chính mình, tiết lộ mình thường chỉ trong cảm giác phóng chiếu
lên ai đó đặc điểm tự ngã của bản thân. Chính vì vậy trong tính dục, với sự hâm
mộ sùng bái người yêu, thi nhân khẳng định giá trị tuyệt đối của người mình yêu
và qua đó của cả chính bản thân mình: “Trong tình yêu, hữu tính được hiểu và
được thực hiện chân chính, bản thể nhận được sự nhập thân đến cùng, đến đích,
vào trong đời sống cá thể của con người” [58].
Trong
thơ đương đại Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt là sau Đổi mới (1986), cùng với
sự thay đổi tư duy và quan niệm thẩm mĩ, đặc biệt là quan niệm mới mẻ về cái
tôi bản thể, thơ ca đã nói nhiều đến những bản năng thầm kín, khát vọng về tính
dục. Thời kỳ đầu, Dư Thị Hoàn là tác giả gây cho độc giả một cái nhìn khác lạ
về tình yêu thân xác. Dư Thị Hoàn lí giải sự tan vỡ trong tình yêu có khi bắt
nguồn từ những lí do liên quan đến ý thức về phái tính, ý thức về khát khao
tính dục bị lãng quên bởi sự vô tình, vô tâm của người mình yêu: Mọi chuyện rồi sẽ qua đi qua đi/ Chúng mình
sẽ thành vợ thành chồng/ Nếu không có một lần/ Một lần như đêm nay/ Sau phút
giây êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài lại khuy áo ngực cho em (Tan vỡ - Dư Thị Hoàn). Khi bài thơ ra
đời đã gây ngạc nhiên với nhiều ý kiến trái chiều của dư luận. Hoặc khi nhóm
thơ Ngựa trời trình làng với những vần thơ gây sốc đã có biết bao ý kiến phê
phán thẳng thừng. Những vần thơ về sự thật trần trụi của con người là điều khó
chấp nhận với dư luận. Các nhà thơ cũng chia thành nhiều luồng, nhiều quan điểm
trái chiều...Trong thơ Mai Văn Phấn, người đọc bắt gặp ngồn ngộn những hình ảnh
thơ diễn tả vẻ đẹp phì nhiêu gợi sự sinh nở, hóa sinh dưới cái nhìn của tính
giao. Đó là hình ảnh Đất đai tượng trưng cho người đàn ông, nhất thể hóa với
người đàn ông: “Đất đai - người đàn ông nằm ngủ (...) Trên ngực còn vương tro than của mùa đốt đồng” (Sau mùa gặt). Có khi là giấc mơ của người đàn ông: “Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/ Anh cựa
mình nồng nàn tươi xốp” (Bài ca buổi
sớm). Đất là biểu tượng cho sự sinh sôi với vẻ đẹp phồn thực. Đất đai gắn
với sự đơm hoa kết trái của tình yêu: “Bây
giờ là mùa xuân/ Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa/ Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra
Thủy/Đất rùng mình/Sông chảy/Ngàn vạn đọt mầm từ thân thể nở bung” (Anh anh em em). Tính phồn thực và nhục
cảm tính giao trong nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn đã được thể hiện một cách tự
nhiên. Bài thơ Dấu vết bình minh: “Căng mọng một bầu trời sắc dục ái ân: Da
thịt anh rộn ràng mang dấu chân em/ Làm những móng tay trên đất càng vang vọng/
Mỗi đốt xương muốn rời ra ngân lên bộ hơi/ Ngỡ có đôi môi trên đỉnh đầu đang thổi”.
Vi Thùy
Linh được xem là thi sĩ ái quyền. Với cách viết mạnh mẽ táo bạo, sử dụng từ ngữ
đầy cá tính, thơ của Vi Thùy Linh với những “trận bạo động chữ” (Văn Giá) đã
tạo nên một cái nhìn mới mẻ, thoát ra khỏi những khuôn phép chật hẹp để hướng
đến tình yêu thân xác. Đó là một quan niệm tình yêu mới mẻ lành mạnh, mang tâm
thức hiện sinh đầy nhân bản. Những câu thơ diễn tả khát khao tình yêu cháy bỏng
cuồng nhiệt: Hãy ghì chặt em, hãy hôn em,
vượt qua khắc nghiệt/ Chỉ có đôi mắt anh, đôi mắt anh có lửa/ Chỉ có đôi mắt
anh, đôi môi anh cháy ở môi em (Ở lại).
Nhịp điệu bài thơ nhanh gấp, người phụ nữ mong tìm đến tình yêu để khẳng định
sự tồn tại sự hiện hữu của cái tôi bản thể. Tình yêu như một ốc đảo để cái tôi
ngự trị và trú ẩn để tự thấy được ý nghĩa đích thực của sự sống con người. Đây
không đơn thuần là tình yêu lãng mạn đắm say mà vượt lên cảm xúc cuồng nhiệt là
một tấm lòng khát sống, khát khao được khẳng định sự hiện hữu của mình. Vi Thùy
Linh là người muốn đập vỡ những rào cản, muốn nổi loạn thể hiện tuyên ngôn về
tình yêu, về nữ quyền trong bài Anh sẽ ru
em ngủ: “Khu vườn vắng lại chỉ còn
anh và em/ Khởi đầu phản xạ thiêng liêng/ Những cặp chân khóa chặt nhau khước
từ chân lí”.../i Thùy Linh thể hiện lối viết mạnh bạo mà thi vị tạo nên thế
mạnh sở trường riêng: “Màu cho búp hôn
thụ phấn thân người”. Tác giả thường đề cập khát khao về thân xác một cách
táo bạo mãnh liệt không che giấu. Đại từ Anh
viết hoa trở thành tiếng gọi quen thuộc trong thơ Vi Thùy Linh. Anh chính là tình yêu - là cơ sở hình thành cảm hứng sáng tạo
trong thơ của tác giả. Trong thơ Vi Thùy Linh, tình yêu thiên về chiếm hữu
trong mọi chiều kích để khẳng định sự hiện hữu trong đời sống đích thực. Tác
giả tự thú nhận “Ngày anh đến mùa tình
lên/ Yên lặng mở những ngón tay chìa khóa/ Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo/ Eo chờ đợi vuốt ve, thất bão”.
Có khi tác giả tự họa thân thể mình trong cảm xúc
tình yêu và trong khát khao dục tính trần thế một cách chân thực. “Cơ căng tia mặt trời/ Ngước mắt nhận nguồn
sinh khí/ Nhịp nhàng muốt song/ Soi thần thái từng mili hình vóc/ Này đứng lên/
Vươn tay dan tay/ Như một cây vĩ cầm/ Đêm Nude/ Vili violin trắng… (Vi Thùy
Linh). Vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ được nhìn với cái nhìn tôn vinh một sức sống
rạo rực đầy men say thấm quyện trong sự soi chiếu của thiên nhiên vũ trụ để trở
nên đẹp, khỏe khoắn, lành mạnh. Vi Thùy Linh hướng ngòi bút khám phá nhìn tính
dục dưới cái nhìn mang giá trị văn hóa
tạo nên những sự mới lạ. Tác giả thường đề cập khát khao về thân xác một
cách táo bạo mãnh liệt không che giấu: “Hãy
siết em cắn em hằn lên dấu vết/ Hãy nhập vào em, hãy khóa và đánh mất chìa khóa
trong em/ Môi em trong anh còn bầm/ Chúng ta vẫn giấu hàm răng trong tiếng cười
mang nỗi đau tuyệt dịu” (Lá thư và ổ khóa).
Khát
vọng của cái tôi nhục cảm được thể hiện riết ráo, thôi thúc khi Vi Thùy Linh
viết: “Cái lưỡi mềm của anh nơi gan bàn
chân em/ Làm thế giới hóa lỏng”. Như vậy, sự đòi hỏi bạo liệt riết ráo
trong tình yêu là biểu hiện cho niềm “khát” được sống, được thoát ra khỏi cảm
giác âu lo và cô đơn, bế tắc trong những suy nghĩ mông lung về sự hữu hạn của
kiếp người. Con người trong thơ đương đại của các tác giả nữ chịu sự chi phối
rất mạnh mẽ của đời sống cá nhân, đề cao cái tôi cá nhân, vì vậy, đó còn là
tiếng nói của việc giải phóng phụ nữ, là biểu hiện của nữ quyền. Từ ngữ, nhạc
điệu thơ Vi Thùy Linh mạnh mẽ, nổi loạn. Khát khao tình yêu được nhìn từ góc độ
nhục cảm, gợi về hạnh phúc từ những mái ấm gia đình. Tác giả khai thác triệt để
những phần thân thể và những hoạt động giao hoan tính dục như tay, mắt, ngực,
môi, da, lưng, máu: Anh hạ trời xuống/
Anh nâng đất lên/Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên/ Trên lưng Anh, bơi mải miết
ngón ngón em dài trắng/ Môi em trườn đêm căng/ Duỗi chân dài, em nối những ranh
giới, những núi đồi sóng biển/ Nhịp nhịp qua cầu đùi muốt/ Vào lúc Anh lên em
lên Anh/ Thụ tạo giấc mơ ấp ủ/ Em đạt khát khao làm Mẹ (Nơi ánh sáng). Mặc dù miêu tả tính dục
vốn từ lâu bị xem là cấm kị nhưng các nhà nghiên cứu đã cho rằng thơ Vi Thùy
Linh không rơi vào trần tục thô thiển mà vẫn giữ được sự chừng mực, vừa đủ bộc
lộ tất cả những mê đắm, vừa đủ tỉnh táo giữ được cái đẹp của thơ ca trong cái
đẹp của cuộc sống tươi xanh để tạo nên những giá trị mới cho thơ tình. Vi Thùy
Linh tự tin khẳng định mình có khả năng thay máu cho thơ - bằng cách đưa vào
thơ lời thẳng thắn mạnh bạo về sex, về tính dục đẹp.
Đằng
sau sự mạnh mẽ bộc bạch tâm can vì tình yêu trong đời thực và trong thơ chính
là tiếng thét cuồng điên vì nỗi đau trước cuộc đời đầy trắc trở, đầy âu lo, bất
an. Với những khát khao cháy bỏng thể hiện ý thức về quyền sống của người phụ
nữ trong Đêm là của chúng mình, tác
giả Ly Hoàng Ly thể hiện: “Đêm là của
chúng mình/ Sao nỡ ngủ hở anh”. Tác giả Ly Hoàng Ly dừng lại cảm nhận vẻ
đẹp thân xác một cách tự nhiên, chân thành: Chầm
chậm, mở một chiếc nút áo/ Soi vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo/ Soi
vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo/ Mở mãi, muốn mở mãi/ Mà bầu ngực vẫn
trắng, không đêm/ Mở mãi, muốn mở mãi/ Bầu ngực này căng/ Soi vào gương/ Bất
lực và khóc/ Trong vô vàn những giọt nước mắt/ Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực
trắng (Mở nút đêm). Ý thơ không chỉ dừng lại cảm xúc về thân xác mà còn
hướng đến những ẩn ức giằng xé trong đáy lòng nhân vật trữ tình khi đặt từng cử
chỉ động tác của thân thể người phụ nữ với vẻ đẹp phồn thực bên cạnh tiếng khóc
đầy bất lực che giấu nỗi buồn, nỗi lo
âu suy tư trước sự hư hao mong manh của kiếp người. Tác giả nói chuyện thân xác
nhưng hướng đến nhu cầu về đời sống tinh thần tìm kiếm những giá trị sống đích
thực. Tính nhục cảm không làm tầm thường, không dẫn dắt người đọc vào thế giới
bản năng mà đầy chất người. Tính nhục cảm thân xác hòa quyện với những khát
vọng mang tính bản thể của con người khi nó trở thành nguồn năng lượng sống bền
lâu cho con người. Khi con người mệt mỏi kiệt sức vì những sóng gió va đập bên
ngoài cuộc sống mưu sinh, chỉ có tình yêu mới là bến đỗ và là nguồn sống vực
con người tồn tại.
Ly
Hoàng Ly được xem là nhà thơ trẻ đầu tiên tham gia trình diễn thơ. Ly Hoàng Ly
vừa là nhà thơ, vừa là hoạ sĩ, nghệ sĩ của nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn. Thế mạnh trong thơ Ly Hoàng Ly là
đã tạo ra một thế giới thơ đầy mâu thuẫn giữa các màu đối lập hư đen- trắng và
độc một nỗi buồn, nỗi cô đơn. Điều đó thể hiện rõ trong tình yêu. Tác giả cho
rằng, nếu một ngày con người không còn niềm vui trong tình yêu, tình người thì
cuộc sống của con người cũng trở nên vô vị, vô nghĩa. Tình yêu còn là nguồn
động lực sống để con người tìm kiếm những đam mê, nỗ lực cống hiến trong đời
thực. Trong bài thơ Nhớ, tác giả Ly
Hoàng Ly viết: “Vai anh rộng để em thèm
bé nhỏ/ Mơ một ngày yên ngủ giữa vòng tay/ Một ngày thôi lơi lỏng áo quên cài”.
Bày tỏ tình yêu mãnh liệt với người mình yêu cũng là một biểu hiện sống hết
mình trong mối liên hệ gắn bó với tha nhân để tránh rơi vào tình trạng cô đơn,
lẻ loi và bị vong thân... Thực chất phía sau khát khao thân xác là một tầng vỉa
ngầm bên trong đó chính là khát khao sống mạnh mẽ dâng trào của con người hiện
sinh. Khi Phạm Thị Ngọc Liên cất lên những xúc cảm mạnh mẽ trong tình yêu, để
bộc lộ quan niệm về tình yêu mang nặng tư tưởng nữ quyền: “Lặn ngụp trong thơ/ Tắm gội mối
tình mình/ Hừng hực trong tôi/ Cháy bỏng ngôn từ/ Không hề giấu mặt/ Phải trả
nỗi đau bằng tiếng thét” (Khỏa thân
tím). Những câu thơ đầu là âm điệu cảm xúc đầy đắm say mãnh liệt. Nhân vật
trữ tình khát khao được hòa trộn gắn kết trong tình yêu trần thế cuồng nhiệt.
Câu thơ cuối giúp người đọc nhận ra đằng sau thái độ vồ vập khát khao hòa quyện
chiếm hữu là nỗi đau, là ẩn ức muốn nổi loạn gào thét để vơi bớt nỗi cô đơn.
Cái màu sắc nhục cảm trong tình yêu không chỉ dừng lại ở khát khao thỏa mãn bản
năng mà thực ra là muốn hướng đến lý giải và giải thoát khỏi sự tù túng vô
nghĩa của cuộc sống không có sinh khí không có nhựa sống. Người đọc bắt gặp
trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên hình ảnh một người phụ nữ tôn thờ một tình yêu
mãnh liệt cuồng say: “...Cháy bỏng những
khát khao lặng im/ tôi tìm thấy tôi một nửa/ Yêu tôi như chưa bao giờ/ Tôi dâng
tặng linh hồn tôi/ Nửa khát khao còn lại/ Và nửa trăng mệt mỏi cúi đầu”.
Lời thơ là sự tự thú nhận về quan niệm tìm đến tình yêu là để tìm thấy chính
mình như Xuân Quỳnh đã viết “Sông không
hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”.
So với
các nhà thơ trẻ thế hệ trước, các tác giả nữ trong thơ Việt đương đại có tiếng
nói mạnh mẽ hơn về tình yêu. Thông qua ngôn từ, họ thể hiện những cung bậc tình
yêu thân xác một cách “táo bạo, thẳng
thắn”. Tình yêu trong thơ họ mang một
đặc điểm mới là tình yêu khao khát được dâng hiến. Các tác giả không né tránh mà dám
bộc lộ những khát khao
chân thật. Đường Hải Yến: “Gọi tên anh
cho yên ổn bản thân mình” (Em). Tác giả Phương
Lan “Buông tay/ Hình
như cơn say/ Đang trễ nải trườn lên
đỉnh ngực/ Khai mở vực triền trắng
ngây hoa cúc/ Hoa nở sự sống mặn mùi biển
nóng ấm/ Em đáp lại âm âm tiếng gọi từng cơn
run rẩy bật tung mình”
(Những mảnh ghép của ngày).
Nếu như
người phụ nữ trong văn học trung đại chỉ sống theo bổn phận, cam chịu nhẫn nhục
thì trong thơ đương đại người phụ nữ khát khao được sống đúng là chính mình.
Tính dục gắn với những khát khao được yêu thương, quan tâm, chia sẻ. Phạm Thị
Ngọc Liên là nhà thơ đã khẳng định được vị trí của mình trải qua trên 15 năm sáng
tác. Đoàn Thị Xiêm nhận xét khái quát rằng chị đã đem đến cho thơ Việt Nam một
cơn gió lạ với tập thơ đầu tiên “Những vầng trăng chỉ mọc một mình”. Bài thơ
gợi nỗi ám ảnh về nỗi cô đơn, sự mòn mỏi hao khuyết của con người. Tập thơ cuối
của chị “Thức đến cùng và mơ” (2004) gồm 99 bài và là tập thơ được tặng thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam. Thơ Phạm Thị Ngọc Liên bây giờ khác lắm. Giọng thơ ấy
trầm lắng lại, như đang đến gần sự tĩnh lặng, như đang muốn được bình tâm”.
Người đọc tìm thấy trong tác phẩm của nhà thơ cái tôi tình nhân với nỗi buồn, nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Có khi tác giả Phạm Thị
Ngọc Liên biểu đạt cảm xúc mãnh liệt trào dâng: “Ta thèm khỏa thân dưới nắng/ Thèm ngủ yên trên cát/ Có vòng tay người
tình như chiếc lưới/ Võng ta vào giấc mộng trăm năm” (Biển trăm năm). Các thi nhân đi tìm chính mình ở bề sâu thẳm. Sau
tình yêu mạnh mẽ táo bạo đầy dâng hiến, các nhà thơ trẻ còn đề cập đến những
nỗi niềm cay đắng. Phạm Thị Ngọc Liên nói về những đắng cay phải chịu đựng
trong tình yêu: “Ôi nước mắt đắng cay đau
như rượu ấy/ Em uống một mình/ Riêng lẻ một mình say”.
Đến với
thời kỳ sau chiến tranh, con người trở về cuộc sống đời thường có điều kiện
quan tâm nhiều hơn đời sống thể xác và tinh thần. Văn học hiện sinh đề cập
nhiều đến vấn đề tính dục. Đó là hệ quả của những chủ đề nhân vị và tự do. Vấn
đề dục tính trở thành một chủ đề quan trọng của chủ nghĩa hiện sinh. Tính dục
là cội nguồn của đời sống, là khởi điểm của sự tồn tại. Con người sau chiến
tranh cảm thấy hoang mang bi quan về các giá trị bị đảo lộn trong cuộc sống, họ
tìm đến tính dục là để giải tỏa những ẩn ức, những chấn thương tinh thần. Thông
qua tính dục, con người hiện đại bày tỏ sự cô đơn, sự hoang mang âu lo trước
cuộc đời. Đồng thời qua tính dục, con người hiện đại khẳng định được nhân vị,
bản ngã trước sự bất an, phi lý của cuộc đ ời. “Tính dục được xem là phương tiện để chuyển tải tình cảnh cô đơn bất lực
cũng như nỗ lực níu giữ bản ngã đang dần bị tha hóa của con người hiện đại”
[58, tr. 89].
Tìm đến
tình yêu để tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Bởi chủ nghĩa hiện sinh quan
niệm nói đến tình yêu là nói đến tính nam tính nữ. Con người tìm đến tình yêu
là để khẳng định giới tính và biểu hiện tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.
Có phải vì thế nên Phan Huyền Thư viết: “Ngủ
vùi trong anh/ Nhịp tim còn lảnh lót/ Đòi gỡ/ Đòi buộc/ Đòi tỉnh dậy/ Đòi/ Do
dự/ Miên man” (Do dự). Động từ
“đòi” lặp lại có tính chất nhấn mạnh vào khát khao được tìm một chỗ dựa bình
yên trong thân xác của tình yêu. Có khi Phan Huyền Thư chia sẻ nỗi lòng và niềm
khát sống một cách mạnh mẽ: “Cá chép của
em/ Bơi theo dấu anh sông biền biệt/ Vượt Vũ Môn không hóa rồng/ Hóa lộn chồng/
Lộn kiếp (Hai mươi ba tháng chạp -
Phan Huyền Thư). Tác giả muốn dệt nỗi nhớ bằng một tấm chăn có thể đắp lên
người ủ hơi ấm ngay cả trong lúc nghỉ ngơi: “Thiếu phụ chong đèn/ Khâu đợi chờ thành tấm chăn”. Tác giả đưa
người đọc vào sự suy tư, suy tưởng giữa thật và rỗng, giữa tồn tại và hư vô.
Cuộc đời con người là vô thường. Chớp mắt là cuộc đời đã hết. Vì vậy con người
chạy đua với thời gian để giành lấy sự sống trong từng khoảnh khắc. Làm thơ là
một cách để thấy mình tồn tại.
Đoàn
Thị Lam Luyến là một cây bút nữ xuất sắc. Thơ chị mang sắc thái vừa mạnh mẽ vừa
đầy nữ tính trước cuộc sống đời thường. Nhà thơ đã xác lập được một phong cách
riêng “sự nhào nặn giữa yếu tố thơ trữ tình, thơ triết luận có lúc đến xót xa
oan nghiệt vẫn khiến người đọc ham sống vượt lên giữ tự do về mình, cho thân
nhân, chính là nét đẹp có sức rung động của thơ Đoàn Thị Lam Luyến” [68]. Nhà
thơ luôn hướng đến tình yêu chân thật: “Trái
tim em kiêu hãnh trước bao người/ Bỗng run rẩy bên anh rồi hóa ra giọt lệ/ Bay
mất áo tàng hình lại nguyện là đôi trẻ/ Trong ngỡ ngàng hai đứa hôn nhau” (Hai người cô đơn).
Đằng
sau lớp vỏ ngôn từ có vẻ mạnh bạo, có vẻ lạ lẫm, tân kỳ thực chất là một tầng
vỉa ẩn ngầm trong đó chính là khát khao sống mạnh mẽ dâng trào của con người
hiện sinh. Người tình, người yêu được cảm nhận dưới góc nhìn của sự tinh khôi,
trong sáng, có sức mạnh cứu rỗi con người thoát ra khỏi những giông tố cuộc
đời. Đến với tình yêu không chỉ vì dục tính, con người có đủ kiêu hãnh để rời
xa dục vọng thân xác mà tìm đến tình người đầy tính nhân văn. Biểu hiện dục
tính còn là triết lý về nhân sinh. Qua thơ chị người đọc nhận ra triết lý về
quy luật cuộc sống hợp rồi tan, cuộc đời ngắn ngủi. Muốn cuộc sống vĩnh cửu chỉ
còn cách là sống và yêu chân thực hết mình trong tình yêu, vượt lên mọi thực
tại đầy mâu thuẫn để khám phá, để sống trọn vẹn mọi chiều kích của tình yêu và
dục tính.
Với Cát
Du, khát vọng nhục cảm đầy chất hiện sinh đưa người đọc vào cảm xúc thăng hoa:
“Mắt em anh ánh/ Môi em nồng nồng/ Vòng
tay âm ấm/ Vẫn còn đâu đây”. Cảm giác được sống cùng tình yêu thân xác là
cảm giác được bình yên. Nhờ tình yêu nên được sống là chính mình. Tuy nhiên
đằng sau cảm xúc đầy hân hoan kia lại là nỗi ưu tư: “Thế mà người đã xa khơi/ Người mang vòng tay của em đi đâu/ Bỏ mặc em
trong cõi người giá lạnh này/ Hãy siết em lần nữa/ Siết em lần nữa đi nào/ Siết”
(Hãy siết em lần nữa). Lời khẩn cầu “Hãy siết em lần nữa” chính là nỗi khát
khao tìm được chỗ trú ẩn an toàn, vững chãi sau những giông bão cuộc đời. Bên
cạnh đó, Cát Du còn tỏ bày nỗi đau của phận người như một quy luật trong bài Cát: “Không có nỗi đau sao được/ Em không tin đâu/ Không tin”. Triết lí
của Cát Du mang tính hiện sinh khi cho rằng cuộc đời không thể không có nỗi
đau. Nỗi đau được xem là định mệnh, là một tất
yếu của con người. Niềm vui, hạnh phúc thường qua mau để lại cho con
người sự ưu tư chơi vơi đầy lo lắng hoảng hốt. Tác giả cho rằng không tin,
không dám tin cuộc đời không có nỗi đau thương. Cuộc đời vui ít buồn nhiều.
Tình yêu trong thơ Cát Du gắn với sự tận hiến: “Chỉ vòng ôm là thực/ Siết chặt là thực/ Giẫy giụa là thực/ Rơi tõm
vào/ Cơn cuồng nhiệt yêu” (Ám ảnh màu
chi). Cùng với Cát Du tình yêu trong thơ Ly Hoàng Ly gắn với sự tận hiến một cách tự nguyện chứ không phải là
đòi hỏi nữ quyền.
Con
người tìm đến tình yêu để được khẳng định mình và được sống thật với cảm xúc
của mình đó là biểu hiện mới mẻ trong thơ ca đương đại mang sắc thái hiện sinh.
Chỉ khi con người biết sống đúng với bản thể và nhân vị độc đáo thì mới dám cởi
bỏ lớp áo giả dối và dám dấn thân để khẳng định cái quyền tự do tuyệt đối,
quyền tự lựa chọn cách thể hiện mình. Khác với kiểu tình yêu ép buộc và chiếm
hữu, tình yêu đích thực gắn với dục tính và tận hiến.
Trong
thơ các tác phẩm thơ Việt Nam đương đại, người phụ nữ thể hiện niềm khát khao được sống đúng là chính
mình. Đó không chỉ là tiếng nói đòi nữ quyền mà thời trung đại nữ sĩ Hồ Xuân
Hương, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm hay Nguyễn Gia Thiều đã lên tiếng. Thời kỳ
Đổi mới có thể xem là thời điểm mà các tác giả thơ nữ có điều kiện để hiện thực
hóa khát khao đã được đặt ra trong lịch sử văn học và thơ ca. Ngoài tiếng nói
của nữ quyền luận thì đó là những khát khao vươn lên cuộc sống tự do đầy nhân
bản của con người mang tính nhân loại, mang tính hiện sinh. Trần Hoài Anh
(2015) cũng nhấn mạnh mặt tích cực của khát vọng nhục cảm hiện sinh “không dẫn dụ người đọc vào những thèm khát bản năng” mà là sự chưng
cất cho những khát vọng tinh khiết
từ thực thể phần CON và
phần NGƯỜI của nhân loại [11]. Chính quan niệm này sẽ phủ nhận những quan niệm ấu trĩ và cực
đoan của thời kì dài trong
văn học. Đó là quan niệm quy kết vấn đề đồi
trụy mà văn học thường được cảnh
cáo phải né tránh. Trái lại nó
góp phần
tiếp nối tâm thức “văn
hóa phồn thực” trong mạch nguồn văn hóa dân tộc.
Xét về
nội dung của những tác phẩm thơ ca đương đại, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra nét
mới so với thơ ca thời kì trước thể hiện tập trung sự biểu đạt ở cái tôi. Nếu trước
đây cái tôi cái cá thể của mỗi người thường bị chìm khuất trong cái ta thì lúc
này biểu đạt cái tôi đã nổi lên như một yêu cầu bức thiết của đời sống cá thể.
Khao khát nhục cảm thân xác trong thơ Việt Nam đương đại là một biểu hiện mang
tâm thức hiện sinh nổi bật. Đằng sau sự giải thoát cho sự cấm kị dục tính trong
xã hội cũ, sự giải thoát những ẩn ức, những chấn thương về tinh thần, vấn đề
dục tính là biểu hiện cho sự thức tỉnh của con người cá nhân và là biểu hiện
cho sự tiếp nối văn hóa phồn thực trong văn học dân gian. Vấn đề tính dục trong
quan niệm của văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng là
một vấn đề ít được đề cập. Đây là một vấn đề
đòi hỏi người nghệ sĩ phải giữ được ranh giới giữa vẻ đẹp thân xác với những rung
cảm mang tính nhân bản nhân văn để tránh sa vào dung tục tầm thường. Thơ Việt
Nam đương đại đã cho thấy sự thay đổi trong tư duy nhận thức và quan niệm thẩm
mĩ tạo nên tiếng nói mới mẻ hiện đại cho nền thơ ca.
Như
vậy, có thể nói rằng qua thơ Việt đương đại, người đọc đã nhận ra dấu ấn của sự
cách tân về tư duy, về cảm xúc và quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ đương đại.
Đặc biệt là dấu ấn hiện sinh trong việc bày tỏ cảm xúc trong tình yêu mang đậm
yếu tố dục tính. Các tác giả cho thấy tính dục có những sự đổi thay theo từng
thời kì lịch sử. Vượt qua những rào cản cấm kị, những khuôn vàng thước ngọc của
nho giáo phong kiến, tình dục trong thơ Việt đương đại phản chiếu sự đổi thay
của thời gian. Các tác giả đề cập đến tình yêu thân xác, tình yêu dục tính
nhưng cũng đồng thời cho thấy những khát khao thân xác trong tình yêu cuồng
nhiệt đắm say là để tìm đến khẳng định nhân vị tự do và giải thoát khỏi những
ẩn ức, những chấn thương tinh thần trong thời kì hiện đại. Đây là một vấn đề
đòi hỏi người nghệ sĩ phải giữ được ranh giới giữa cái vẻ đẹp thân xác với
những rung cảm mang tính nhân bản nhân văn để tránh sa vào dung tục tầm thường
góp phần mở ra một cái nhìn mở của con người về vấn đề vốn từ lâu bị lảng
tránh. Thơ Việt Nam đương đại đã cho thấy sự thay đổi trong tư duy nhận thức và
quan niệm thẩm mĩ tạo nên tiếng nói mới mẻ hiện đại trong nền thơ ca Việt Nam
đương đại đáng được trân trọng.
3.2.3.
Con người khát khao tự do, dấn thân và những giới hạn, bất khả
Những
giới hạn bất khả tri nghĩa là con người có nhiều giới hạn. không thể nào vượt
qua được. Sống trong đời con người luôn ám ảnh bởi giới hạn sinh- lão-bệnh-tử.
Con người luôn phải đối diện với cái chết, sự già nua, Mặc dù con người ý thức
rất mãnh liệt về sự sống và ý nghĩa của đời sống cùng nỗ lực vươn lên không
ngừng nhưng cũng không thể thay đổi được những giới hạn đó. Con người chỉ biết
ngậm ngùi chấp nhận “rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi”. Vì phải chịu sự chi
phối của những quy luật mà tạo hoá đã sinh ra do vậy con người đành phải chấp
nhận những quy luật đó. Chủ nghĩa hiện sinh là triết học về tự do. Tự do theo
quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh là tự do lựa chọn. Hiện sinh không phải tự
nhiên mà có mà là do sự lựa chọn của con người để có được hiện sinh. Con người
ý thức được sự phi lý, buồn nôn trước đời sống đầy bất an, luôn đối mặt với sự
hư vô, nỗi cô đơn và cái chết. Con người buộc phải lựa chọn tự do bằng cách
nhập thế, dấn thân. Con người có một phẩm chất là không chịu chấp nhận bị vùi
lấp trong cuộc sống vô nghĩa mà luôn khao khát vươn lên. Muốn vượt thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường, con người chấp nhận dấn thân đối mặt với những bất an, những
rào cản hay những rủi ro, thất bại. Chỉ có dám dấn thân và chấp nhận nhập thế
thì con người mới khẳng định được nhân vị độc đáo của mình. Chủ nghĩa hiện sinh
chỉ cho con người thấy rõ hơn cuộc sống là một thảm kịch với những cái bi đát,
phi lý, buồn nôn. Con người sống trong thế giới bất khả tri. Bởi vì con người
không lý giải được vì sao mình xuất hiện trong vũ trụ và vì sao mình biến mất.
Con người không tự quyết được cuộc đời mình, không lường trước được những bất
an vì cuộc đời luôn mơ hồ, bấp bênh. Nhưng con người là một nhân vị độc đáo tự
do, luôn muốn khẳng định mình. Muốn vậy, con người luôn phải nỗ lực dấn thân,
kiếm tìm, lựa chọn cho mình lối vượt thoát khỏi thực tại bi đát. Đối với nhà
văn, viết là để phủ định xã hội xấu xa bất công hướng đến xã hội tốt đẹp hơn.
Thơ Việt Nam đương đại cho thấy các tác giả thực hiện trên những mức độ khác
nhau những cuộc dấn thân nổi loạn của con người trên nhiều phương diện. Để nổi
loạn, con người tìm đến tình yêu bày tỏ khát khao được sống một cách mãnh liệt.
Cái tôi
trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên còn là cái tôi chiêm nghiệm, triết lí. Nhà thơ
quan niệm cuộc đời là hư vô, là hành trình phân định ranh giới giữa cái sống và
cái chết rất mong manh. Tác giả cho rằng: “Khoảnh
khắc giữa sự sống và cái chết là một màn /sương lướt về phái trước là cõi khác/
một thế giới trừng phạt và phán xét/ khen thưởng và đãi đằng/ bước về phía sau là cuộc sống/ chẳng khác gì nhau (Mây trắng)…
Phạm
Thị Ngọc Liên quan niệm cuộc đời đầy nỗi buồn “Giọt lệ đã khô trong con tim nhức nhối/ nỗi buồn sầu hơn đại dương” (Tự khúc 2). Để vượt thoát nỗi buồn, con
người dấn thân trong tình yêu và tìm về với bản thể của chính mình...Trong bài
thơ Em sẽ yêu anh như tháng Giêng,
cái tôi đã sống với thái độ dấn thân mãnh liệt. Thời gian tháng Giêng trong thơ của Phạm Thị Ngọc Liên
trở nên có hồn như một sinh thể. Tháng Giêng dài như sông, đầy hoa lá chim
muông cây cỏ. Người phụ nữ hiện đại dám bày tỏ tình cảm cảm xúc một cách quả
quyết, chân thành. Đây là điều mới mẻ so với quan niệm truyền thống. Dấn thân
trong tình yêu là một cách để người phụ nữ chứng tỏ khát vọng được yêu, khát
vọng được hiểu và cả thiên tính nữ đầy nhân bản. Tư tưởng nổi loạn là một
truyền thống trong văn hóa phương Tây. Tư tưởng đó bám vào đời sống xã hội ở
miền Nam Việt Nam khi con người phải hứng chịu những vết thương của chiến
tranh. Chính điều này đã thôi thúc họ phản kháng, nổi loạn để bảo toàn cuộc
sống an yên từ bên trong. Đặc biệt, trong thơ đương đại xuất hiện hàng loạt
phong cách thơ nữ đã nổi loạn khi không né tránh vấn đề dục tính và thể hiện ý thức
về nữ quyền luận rất rõ. Đó là Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phạm Thi Ngọc
Liên, Lâm Thị Mỹ Dạ, Cát Du. Không chỉ
khẳng định quyền tự do luyến ái, các tác giả còn công khai thẳng thắn đòi quyền
tự chủ trong đời sống cá nhân. Có khi để dấn thân
nổi loạn, con người lại ưu tư về kiếp người ngắn ngủi, phi lý. Lưu Quang Vũ tự
hỏi cái gì đang đợi con người khi tiếng đồng hồ cứ tích tắc. Nghe từng sự vận
động của thời gian, nhà thơ khẳng định đó là tiếng động khủng khiếp nhất và đặt
ra bao câu hỏi về sự sống con người. Khi hiểu ra quy luật hữu hạn của đời
người, nhà thơ cảm thấy âu lo và đầy suy tư: “Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc/ Hai tiếng động nhỏ bé kia/ Hơn mọi ầm
ào gầm thét/ Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người” (Cho Quỳnh những ngày xa). Tiếng tích tắc
của đồng hồ như lời nhắc nhở con người về sự trôi đi của đời người. Suy tư
trước sự trôi chảy của thời gian, thi nhân đặt câu hỏi cái gì đang đợi con
người phía trước. Đó chính là sự kết thúc bi đát của cuộc sống hữu hạn. Ý thức
về sự bi đát của đời người tạo nên bước chuyển trong ý thức để con người sẵn
sàng dấn thân nổi loạn vượt ra khỏi cuộc sống tẻ nhạt vô thường. Con người hiện
sinh khi nhận thức được cái nhân vị của mình họ không chịu để cuộc sống trôi
qua vô vị mà luôn muốn thay đổi tự làm mới mình: “Đoạn tuyệt ngày hôm qua/ đầu giường sằng sặc giấc mơ mới/ đông cứng nỗi
buồn/ ngọ nguậy trong đầu con mọt nghiến răng/ thèm ý mới” (Mưa - Phan Huyền Thư).
Như
vậy, con người với khát khao tự do, dấn thân và những giới hạn, bất khả là một
biểu hiện độc đáo của khuynh hướng hiện sinh trong thơ đương đại. Khát vọng tự
do, dấn thân của con người, rõ ràng, luôn là khát vọng nhân bản.
3.2.4.
Con người thân phận với những buồn đau, âu lo về số kiếp, sự cô đơn và cái chết
Chủ
nghĩa hiện sinh quan niệm đời sống là một thảm kịch bi đát buồn nôn. Nhưng con
người là một chủ thể, một nhân vị độc đáo luôn nỗ lực dấn thân nổi loạn vượt
thoát để tìm kiếm chính mình. Con người muốn tự lí giải cho chính bản thân
mình, muốn chứng minh hiện sinh thì phải dấn thân mình vào những cuộc tìm kiếm
bằng suy tư hoặc bằng hành động. Đời sống con người trước chiến tranh đổ vỡ phi
lí tạo nên những dư chấn, sự bất an về tinh thần khiến con người bị tha hóa.
Đời sống mỏi mòn, tù túng, tẻ nhạt, khiến con người cảm thấy bi quan và mong
tìm một lối giải thoát để tìm được ý nghĩa của cuộc sống buộc họ phải dấn thân,
hành động.
Tính
phi lý là một khái niệm chủ yếu của học thuyết hiện sinh chủ nghĩa. Với Sartre,
nó được nâng lên thành một khái niệm bao trùm và thấm nhuần mọi khái niệm khác.
Bản thân hiện sinh là cái vô thường. Sartre quan niệm vô thường có nghĩa là sự
vắng mặt của lí do tồn tại, tức là cái phi lý chủ yếu nhất. Phi lý là không thể
giải thích được sự tồn tại của thế giới và hiện sinh. Con người tự nhiên sinh
ra, sinh ra một cách ngẫu nhiên không có sự lựa chọn. Nói như Sartre “Con người bị vứt vào thế giới”. Vì thế
muốn hiện sinh, anh ta phải tự lựa chọn. Muốn tự do, anh ta phải vươn lên. Sự
tự do ấy là một khả năng phi lý tính. Vì phải vươn lên để có được tự do nên con
người luôn âu lo và suy tư. Theo Sartre, thế giới con người là một thế giới xô
bồ, hỗn độn, phi lí tính, thế giới không có quy luật, lý trí và ý chí của con
người bất lực trước thế giới ấy. Sự thay đổi trong tư duy muốn có sự đổi thay,
muốn lột xác thơ ca để tìm sự bứt phá
mạnh mẽ. Đó là hành trình đổi mới để khẳng định ý thức bản thể hiện sinh của
thơ ca đương đại “Những cái lưỡi để phát
nổ, những đơn âm đã bắt đầu rướn chạy” (Độc
thoại - Nguyễn Quang Thiều). Có khi tác giả dùng cách diễn đạt như lời nói
hàng ngày nhưng vẫn biểu đạt được những suy tư âu lo của con người: “Tôi để biết tôi là ai phải về với biển sâu -
lòng mẹ - ngủ yên - là chốn tận cùng thế giới, những ẩn dụ cho cõi vô thức
trong mỗi con người”. Cái tôi sáng tạo của nhà thơ cảm nhận thế giới bằng “cái tai rộng lớn của cô đơn”, những âm
vang từ cuộc đời khúc xạ qua lăng kính trải nghiệm của nhà thơ “làm rung những vòm cây và những ngọn đồi”
(Nhà thơ - Nguyễn Quang Thiều), hay “Thu mình trên ghế/ Vẽ bầu trời/ Không có chỗ
cho mây” (Tôi - Mai Văn Phấn).
Cảm
thức về sự phi lý, sự bất ổn của tồn tại hiện tồn trống rỗng vô nghĩa được
Nguyễn Quang Thiều biểu đạt qua bài thơ Nhịp
điệu châu thổ mới: “Nếu được đốt sớm
hơn mọi thế kỷ trước/ Những vết rạn dương gian chầm chậm tràn tràn đầy/... /
Như tan chảy qua những kẽ tay kí ức, và hơn thế/ Như hơi thở bất tận ẩm ướt và
nóng hổi phủ trên Châu Thổ” (Nhịp
điệu châu thổ mới - Nguyễn Quang Thiều). Thế giới loài người đầy những vết
rạn, đầy những chấn thương, phi lý. Nếu được đốt sớm hơn mọi thế kỷ trước nghĩa
là nếu được nhận thức sớm hơn thì con người sẽ sớm cảm nhận được ý nghĩa sự ấm
áp của cuộc sống. Trong tác phẩm Bài hát,
Nguyễn Quang Thiều cũng viết: “Những ngôi
mộ tổ tiên hắt sáng gọi tôi về/ Tôi khép đôi cánh xác xơ ngày cúng giỗ/ Ngắm
những dòng sông sáp nến chảy chan hòa/ Tổ tiên giơ lên trời xanh chứng minh thơ
bằng đá/ Cổ xưa hoang hoang trên mỗi cánh chuồn chuồn” (Bài hát). Những câu thơ là lời truy vấn
bức thiết về sự tồn tại của con người mang màu sắc hiệm sinh triết lí. Dòng hoài niệm từ những
suy ngẫm về kiếp người vọng về từ tổ tiên nguồn cội. Lấy cảm hứng từ ngày cúng giỗ, tác giả ngẫm nghĩ về tổ tiên như đangđược gặp lại tổ tiên mình. Một dòng
suy tư về kiếp người như trỗi dậy vừa nhớ nhung hoài niệm, vừa trĩu nặng nỗi âu
lo. Tổ tiên hòa nhập vào trời xanh khắc dấu vào thơ vào trong lòng hậu thế như
khắc vào đá …Ở đây có sự gắn kết, tiếp nối giũa tổ tiên và cá thể, giữa quá khứ
và hiện tại, giữa còn và mất khiến con người trăn trở suy tư.
Triết
học hiện sinh quan niệm cuộc đời con người là hư vô. Thức nhận hư vô là một đặc
điểm riêng của thuyết hiện sinh. Con người luôn luôn đi tìm bản thân nó mà
không bao giờ đạt được mục đích. Vì vậy cuộc sống của con người là một mâu
thuẫn không thể giải quyết. Cái đặc trưng của hiện thực con người là ý thức.
Hiện sinh là tồn tại có ý thức mà ý thức ấy không gì khác là hư vô. Theo
Sartre, con người luôn luôn tồn tại khoảng trống trong bản thân mình. Khoảng
trống hư vô nó là phi lý, không nguyên nhân, không trách nhiệm. Từ đó khái niệm
hư vô giải thích sự đau khổ của con người. Các nhà thơ đương đại đã có quá
trình sáng tạo mở rộng hình thức câu thơ để có thể ôm chứa được hiện thực đời
sống và đời tư của con người với muôn chiều kích, ý thức, vô thức, tiềm thức...
phản ánh con người hiện đại sống trong sự truy vấn và phản tỉnh mang nỗi buồn,
nỗi cô đơn bản thể.
Chiến
tranh đã kết thúc nhưng những tàn dư của nó để lại hệ quả vô cùng nặng nề. Đặc
biệt là sự đổ vỡ, mất niềm tin vào cuộc sống của con người. Từ cái tôi sử thi,
thơ ca Việt Nam đã chuyển hướng truy tìm cái tôi bản thể bên trong con người.
Đó là con người phổ quát. Thơ đi sâu vào phản ánh thế giới riêng tư của con người
cá nhân. Cái tôi trong thơ Vệt Nam là cái tôi phổ quát, cái tôi thân phận. Đó
là con người được đặt trong tương quan với cảm thức về thời gian. nỗi buồn và
cái chết. Cái tôi trong thơ Việt Nam đương đại gắn với nỗi khắc khoải về phận
người. Cái tôi hoài nghi bi quan trước cuộc sống đầy vô thường. Cái tôi bản thể
tra vấn truy lùng chính bản thân mình. Trong mỹ cảm của thơ đương đại, cái tôi
bản thể là đẹp nhất, đáng để bàn luận, để ngưỡng vọng. Không gian gắn với con
người bản thể là không gian riêng tư, không gan bị xé vụn, không gian hoài
niệm, không gian bên trong. Điều này được thể hiện rõ trong thơ Nguyễn Quang
Thiều. Tập thơ Sự mất ngủ của lửa của
ông đã đánh dấu hành trình cách tân thơ đương đại. Cái tôi bản thể đã in đậm
dấu ấn trong các bài thơ Ngôi nhà 17
tuổi, Sự mất ngủ của lửa, Những người đàn bà gánh nước sông, Nhịp điệu châu thổ
mới, Bài ca những con chim đêm, Cây ánh sáng... Con người luôn đối mặt với
nỗi cô đơn từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi. Có những nỗi cô đơn thầm lặng
hiển thị qua bề ngoài thô kệch cằn cỗi. Con người càng vất vả cô đơn càng khát
khao được sống, không kêu ca tuyệt vọng. Con người luôn xem cô đơn âu lo là một tất yếu,
cần vượt thoát điều đó để khẳng định nhân vị một cách mạnh mẽ và dũng cảm. Phát
hiện và đề cập đến những nỗi đau thầm lặng và trân trọng niềm khát vọng sống
mãnh liệt ấy chính là thiên chức và tài năng phẩm hạnh của người nghệ sĩ. Từ
tiếng vọng nội tâm sâu thẳm, Nguyễn Quang Thiều đã cho người đọc nhận rõ một
cảm nhận bản thể người nhuốm màu hiện sinh ở thơ ca đương đại. Với khuynh hướng
hiện sinh, thơ ca quan tâm hơn đến số phận tâm tư của con người trong những
cảnh ngộ cụ thể, giúp con người tự
hiểu mình, tự thoát ra ngoài những giới hạn khắc nghiệt của sự đơn điệu, vô
nghĩa để đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Con người âu lo cô đơn về số kiếp, sự
phi lý là một biểu hiện mang tính hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại. Không
gian trong thơ Nguyễn Quang Thiều gắn
với không gian Làng Chùa, Sông Đáy. Không gian ấy gợi nhắc về quê hương tổ tiên
nhưng cũng giúp nhà thơ có cái nhìn sâu xa về thân phận con người nói chung.
Trong bài thơ Lễ tạ nhà thơ tìm về
cái tôi bản thể từ con đường: Con đường/
Dắt ta về hồ nước cũ. Con người trong xã hội hiện đại vẫn luôn cảm thấy cô
đơn. Sau những cọ xát với cuộc sống muôn màu muôn vẻ, con người tìm về chốn
bình yên để được che chở, đó chính là nơi mình đã ra đi và nay lại trở về. Nơi
ấy là quê hương, là nguồn cội. Qua thơ Nguyễn Quang Thiều, người đọc nhận ra sự
gắn kết, hòa trộn trong nỗi lòng sâu thẳm của nhà thơ đó chính là những kỉ niệm
về quê hương, xứ sở. Ông từng tâm sự: “Thơ ca là thế giới tự do của mình. Ở đó
tôi được tự do làm con giun bò qua khu mồ của dòng họ, làm con chim tung bay
trên bầu trời riêng”: Tôi hát, tôi hát
bài ca về cố hương tôi/ Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm/ Một
mai đây tôi sẽ nằm trong đó/ Kiếp này tôi là người/ Kiếp sau phải là vật/ Tôi
xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ/Để canh giữ nỗi buồn- báu vật cố hương tôi.
Khi nghĩ về quê hương, nguồn cội cũng chính là khi nhà thơ ý thức một cách sâu
sắc về nỗi buồn, nỗi cô đơn bản thể. Con người sống rồi chết, cuối con đường
lại trở về hòa lẫn trong lòng đất thẳm sâu quyện vào hơi thở của quê hương,
nguồn cội. Đó phải chăng là những trăn trở, suy tư của nhà thơ về quy luật đau
thương của kiếp người. Không gian Làng Chùa của Nguyễn Quang Thiều không đơn
thuần là không gian quê hương xứ sở mà đó còn là không gian của người sống,
người chết, của cõi dương, cõi âm. Không gian khiến nhà thơ tìm về để đối diện
với thế giới nội tâm, nơi để hoài niệm, để sám hối, để thanh lọc tâm hồn. Với
giọng suy tư đầy triết lí, tác giả nghĩ về cố hương của mình bằng sự suy tư từ
hiện tại về quá khứ cội nguồn và cả tương lai phía trước tạo nên dòng liên
tưởng trầm tư. Con người sinh ra gắn bó với quê hương, khi già đi lại trở về với nơi chôn nhau cắt rốn. Dù bươn chải khắp mọi không
gian nhưng cuối cùng vẫn trở về với cố hương mang theo nỗi buồn vĩnh cửu của
kiếp người ngắn ngủi. Ý thơ nói về nỗi buồn nhưng không bi lụy mà làm sáng lên
một chân lý của cuộc sống. Với nội dung đề tài tác phẩm quan tâm đến mảng đời
tư thế sự, tác giả Nguyễn Quang Thiều bày tỏ sự quan tâm đến số phận con người
khi đất nước đã nguội tắt ngọn lửa chiến tranh. Cuộc sống sau chiến tranh vẫn
luôn đặt ra bao vấn đề liên quan tới vận mệnh con người. Cho dù nền khoa học kĩ
thuật và công nghệ phát triển hiện đại nhưng con người vẫn không thoát khỏi
những lo âu cô đơn, bởi theo chủ nghĩa hiện sinh đó là một đặc tính cố hữu của
con người.
Cùng
với Nguyễn Quang Thiều, cần nói đến nhà thơ Mai Văn Phấn, người được cho là có
sức sáng tạo thơ ca dồi dào. “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và
sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo” [Dẫn theo
102, tr. 13]. Theo thống kê của Phạm Thị Trịnh: “Tính đến năm 2009, ở Việt Nam,
Mai Văn Phấn đã xuất bản 16 tập thơ và một cuốn sách phê bình, tiểu luận, 17
cuốn xuất bản ở nước ngoài. Thơ của ông đã được dịch ra 27 thứ tiếng, xuất hiện
trong hơn 50 tuyển tập thơ và tạp chí quốc tế. Năm 2014, 3 tập thơ song ngữ của
ông lọt vào top 10 tập thơ châu Á bán chạy nhất trên mạng Amazon” [158, tr 67].
Thơ ông là sự hòa trộn của tình yêu quê hương, gia đình, thời đại với vốn hiểu
biết nhiều luồng văn hóa và sự tiếp nhận hòa quyện tư tưởng Thiên chúa giáo,
Phật giáo và triết học hiện đại. Ông từng tâm niệm: “Tiếng thở dài bay đi trong
lớp bụi thời gian, ta sửng sốt thấy hồn vía tổ tiên trong nét hoa văn đình
làng, trống đồng, ngọn tháp… Những thân phận khóc cười đêm ngày làm kén ở hồn
ta”. Nỗi cô đơn trong tương quan với không gian trong thơ Mai Văn Phấn gắn với
không gian trần thế, không gian riêng tư, không gian của tình yêu đôi lứa. Tình
yêu trong thơ Mai Văn Phấn là sự hòa trộn giữa tâm hồn và thể xác. Đó là không
gian nhỏ lẻ, rời rạc nhưng chứa đựng những góc ẩn sâu của đời sống nội tâm con
người. Trong bài Cấu trúc tạm thời,
tác giả viết: Những thửa ruộng, nóc nhà,
bóng cây, mái tóc. Chuyển động lặng im, vụn rời không quy luật.../Ta chạy qua
những ô cửa lấp lóa/ Ngã bảy ngã ba nờm nợp bóng người/ Nơi công cộng tiếng hỏi
chào vồn vã. Đây là những không gian rất đỗi bình thường nhưng có ý nghĩa
chứa đựng nhiều suy nghĩ của con người. Đó là không gian con người luôn hướng
về khi phải đối mặt với nhiều vấp váp, mệt mỏi chán chường trong cuộc sống. Có
khi những không gian nhỏ lẻ, rời rạc lại cho thấy được những giá trị sống đích
thực mà con người hiện đại muốn truy tìm: Úp
mặt vào bóng tối lùm cây/ Gió đang chạy trên lưng mình những bước chân đô thị/Bóng tối dẫn tôi về ngôi nhà của mẹ/
Ngôi nhà như chiếc bánh không nhân. Con người luôn đối mặt với những
mâu thuẫn khi khát khao được sống trong sự ồn ào náo nhiệt của thị thành, nhưng
cũng chính trong sự ồn ào lại muốn tìm về sự tĩnh lặng an nhiên. Tuổi thơ hồn
nhiên, được sống đúng là chính mình như quầng sáng luôn khiến con người tiếc
nuối: Nhặt được đồng xu gỉ cuối sân/ Ngỡ
chạm phải tay mình thời thơ ấu. Không gian trong thơ Mai Văn Phấn còn là
không gian bên trong, không gian tiềm thức, vô thức. Nhà thơ đào sâu vào chính
cái tôi bản thể với nhiều cung bậc cảm xúc, suy nghĩ. Chính điều này tạo nên
chất thơ, nét riêng trong thơ Mai Văn Phấn. Khi đánh giá thơ Mai Văn Phấn, Phạm
Quang Hưng nhận định: “Thế giới nghệ thuật mang tên Mai Văn Phấn xem ra như nổi
trội hẳn lên trong tầng tầng lớp lớp những người cùng thời (Không gian và hành trình thơ Mai Văn Phấn).
Tác giả Mai Văn Phấn là người đã giành một không gian chính yếu cho nỗi buồn,
nỗi cô đơn của con người trước cuộc sống đầy những mâu thuẫn, những xung đột và
cả những cảm giác mơ hồ, hư vô trong thơ mình. Nguyễn Thị Bích Phụng trong bài
viết Cảm thức hiện sinh trong tập thơ Hoa
giấu mặt của Mai Văn Phấn đã nhận xét
thơ Mai Văn Phấn thường dẫn con người vào thế giới hiện sinh đặc sắc: “Thơ Mai
Văn Phấn thường mang nội hàm những xung đột - xung khắc giữa cá thể và những
điều kiện hiện tồn, cả kí ức và những linh giác, những tâm trạng âu lo trong
mọi chuyển động của vạn hữu, mơ hồ, hư vô và bất định. Thơ Mai Văn Phấn dẫn người đọc lẩn khuất vào thế giới hiện
sinh cô độc đa tạp trong Hoa giấu mặt. Thời gian và không gian nghệ thuật trong
Hoa giấu mặt là tiểu vũ trụ biệt lập
mang trạng thái tĩnh tại của Thiền, mong manh đến từng sát-na làm nên những cảm
thức hiện sinh” [114].
Không
chỉ là nỗi cô đơn trong không gian, cái tôi trong thơ Việt Nam đương đại còn cho thấy nỗi cô đơn trong thời
gian. Quan niệm thời gian trong thơ đương đại là cái tôi bản thể không thấy
thời gian trôi. Nỗi lo sợ thời gian trôi một đi không trở lại đã có từ thời xa xưa. Khi Baudelaire thốt
lên: “Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! Thời gian
ăn cuộc đời”. Xuân Diệu sau này cũng chịu ảnh hưởng khi khẳng định thời
gian là tuyến tính “còn trời đất nhưng
chẳng còn tôi mãi”. Đời người ngắn ngủi, mỗi ngày qua là mỗi ngày tiệm cận
hơn giới hạn kiếp người. Nỗi lo sợ thời gian chảy trôi luôn là nỗi lo sợ ám ảnh
khi cuộc đời con người là hữu hạn.
Trương
Đăng Dung với tập thơ Những kỉ niệm tưởng
tượng đã gây hiệu ứng mạnh mẽ trên thi đàn thơ Việt Nam. Giải thưởng của
Hội Nhà văn Hà Nội (2001) đã ghi nhận sự đóng góp của Trương Đăng Dung trên địa
hạt thơ và lý luận văn chương. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học hiện sinh
từ phương Tây, quan niệm về thời gian trong thơ ông mang tâm thức hiện sinh rõ
rệt. Đó là một nỗi ám ảnh trở đi trở lại trong thơ ông. Ông quan niệm thời gian
đến rồi đi lặng lẽ, vô tình, lạnh lùng, tàn nhẫn: Anh không thấy thời gian trôi/ Thời gian ở trong máu, không lời/ Ân
mình trong khóe mắt làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết nên
mặt đất thành lời/ về kiếp người ngán ngủi (Anh không thấy thời gian trôi). Thời gian trong thơ Trương Đăng
Dung là “tiếng rít từ thẳm sâu lòng người”. Thời gian gắn với những trăn trở
suy niệm về nỗi buồn của kiếp người ngắn ngủi. Trong thơ ông, người đọc cảm nhận nỗi âu lo đến sợ hãi trước sự
nghiệt ngã của thời gian: Sợ thời gian
rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ (Vật chứng). Thời gian trôi đi biến mọi
thứ trở thành vô nghĩa. Vạn vật luôn vận động, chỉ còn lại cuộc đời con người
là hữu hạn, một đi không trở lại. Vì vậy, con số một trăm năm hay một nghìn năm
cũng đều mang trong nó sự cô đơn, âu lo, đầy bi kịch. Tác giả thừa nhận chua
chát: Rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi.
Đây được xem như một tổng kết đầy khái
quát, triết lí của Trương Đăng Dung. Nhà văn Tô Hoài cũng từng nói “dù anh
nghiêm túc hay anh cớt nhả cũng sẽ đem đến đáp số của một đời người”. Chủ nghĩa
hiện sinh khẳng định con người không lí giải được mình tự nhiên sinh ra rồi tự
nhiên mất đi. Con người sinh ra để rồi chết. Khi ý thức được sâu sắc điều đó,
con người luôn sống trong âu lo, băn khoăn, tiếc nuối. Trương Đăng Dung nhìn
vạn vật vần xoay dưới lăng kính của thời gian, từ đó đưa đến cái nhìn đầy triết
lý trước cuộc đời. Và vì nhìn cuộc đời luôn chảy trôi để kết thúc, do vậy, con
người càng ý thức sâu sắc về giá trị của từng ngày sống.
Có lẽ
vậy cho nên nhà thơ sống với đời nhiều trăn trở, khắc khoải suy tư, sống tinh
tế, vị tha, nhân văn. Đỗ Lai Thúy gọi thơ Trương Đăng Dung là thơ -Thời gian. Và cũng chính Đỗ Lai Thúy đã nhận định: “Trương Đăng Dung là nhà
thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí
mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc
đời” [100]. Ông khẳng định: “Không nói thơ Trương Đăng Dung là thơ triết học,
chỉ nói thơ anh có tư tưởng triết học” [151, tr. 289]. Ông đã nhận ra đặc điểm
thơ Trương Đăng Dung xoay quanh những tư tưởng hiện tượng luận.
Những kỉ niệm tưởng tượng của
Trương Đăng Dung bộc lộ ý thức của tác giả về thời gian, tình yêu và cái chết.
Đó là nỗi bất an của con người trước thực tại đầy phi lí. Đóng góp mới mẻ của
Trương Đăng Dung cho thơ Việt đương đại là ở cảm nhận mới về thời gian bên
trong: “Thôi em đừng khóc/Rồi sẽ qua đi
kiếp người ngắn ngủi/ Một ngày kia hết mọi buồn vui/ Chui xuống cỏ ta sẽ nằm
dưới cỏ/ Bàn tay ta bất động dưới đất dày/ Bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy”.
Tác giả cảm nhận thời gian bên trong của cái hữu hạn đời người. Vì đời là hữu
hạn vậy nên những vật lộn toan tính buồn vui chỉ là vỏ bề ngoài của hành trình
sống hướng về cái chết. Khi hiểu như vậy thì con người sẽ có một tầm nhìn sâu
rộng về cuộc sống để hình thành và nuôi dưỡng một cách sống có ý nghĩa trước
thực tại đầy phi lí. Thực tại trong quan niệm của Trương Đăng Dung là thực tại
nhuốm đầy bi kịch [37, tr. 305]. Con người sống, lao động, suy nghĩ và vươn lên
hướng về phía được - mất nhiều hơn mà không ý thức được đầy đủ về sự phi lí của
cuộc sống. Thế hệ này qua thế hệ sau lại tới và lại bắt đầu nhịp mưu sinh đầy
toan lo sấp ngửa. Ít khi con người dừng lại để hiểu cuộc đời. Con người như lũ
kiến lầm lũi nhỏ bé tồn tại trong sự phi lý. Họ không biết vì sao mình ở đây,
mình là ai, đến để làm gì? Khi con người hiểu rõ về thân phận, về giới hạn của
cuộc đời thì sẽ có cái nhìn và thái độ sống khác hơn để tìm cách mở rộng giới
hạn sự sống. Những hình ảnh mang tính biểu tượng về thời gian trong thơ Trương
Đăng Dung như dòng sông, đêm, chân trời, bức tường, ánh sáng. Nhà thơ nhận ra
những bức tường trong mọi không gian cuộc sống con người: “Có mặt khắp nơi/ Trong những lời ru đoàn tụ/ Trong những lời buồn chia
tay”. Thậm chí: “Giữa những cái bắt tay/ Có một bức tường/ …/
Giữa hai chiếc gối nằm kề nhau/ Có một bức tường” (Bức tường). Đâu đâu cũng có một bức tường ngăn cách đó là bức tường
thời gian.
Trương
Đăng Dung được xem là một trong những nhà thơ có những tác phẩm in đậm dấu ấn
hiện sinh nhất trong số các nhà thơ cùng thế hệ. Ông quan niệm: “Thơ có thể và
cần phải là một trong những hình thức biểu hiện của tư duy triết học”. Thơ của
ông lựa chọn triết học hiện sinh làm nền tảng lý luận và cũng là mục đích biểu
hiện. Trong thơ, ông coi trọng việc giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Đó là
cái tôi luôn cảm thấy cô đơn, bất an trước thực tại đời sống. Qua thơ ông,
người đọc “nhận ra những mệnh đề quen thuộc, cốt lõi của triết học hiện sinh
với niềm bi quan định mệnh sâu sắc. (Nguyễn Thanh Tâm). Chủ nghĩa hiện sinh
quan niệm con người là một chủ thể cô đơn bị sinh ra rồi chết đi. Nhưng con
người luôn phải vươn lên chính định mệnh đó: “Tôi bị sinh ra /tôi phải dấn
thân/ tôi hội đủ những điều kiện chết/ tôi không hy vọng gì”(Tự do của Nikos Kazantzakis). Trong bài
thơ Tự bạch, ông giãi bày những trăn
trở về những điều sâu thẳm bên trong nội tâm thân phận con người tồn tại trong
kiếp sống đời thường. Hoàn toàn có thể xem tác phẩm này cũng như là một “tự
bạch” của cảm quan hiện sinh trong thơ ca Trương Đăng Dung: “Tôi có tác phẩm
đầu tiên là tiếng khóc chào đời sau chín tháng ngồi im tập xếp hình dấu hỏi.
Tôi sinh ra bên một dòng sông, phía trước là cánh đồng, phía sau là biển. Làng tôi nghèo, biển nổi sóng, sóng đẩy gió, gió thổi lên trời cao.
Những ngôi sao lung linh hình hạt gạo, gieo giữa trời xa hy vọng của bao đời.
Tôi nghe đêm đêm tiếng bước chân người, tiếng trẻ khóc đòi ăn, tiếng mèo kêu ma
quái, tiếng mưa rơi da diết gọi bình minh. Bóng những người cha lặng lẽ vô
tình, như vết máu đổ dài trên vách, những người mẹ ôm bụng trào nước mắt, sung
sướng lo âu nghe nhịp đập con người: Tôi không nói được chính xác bằng lời về
những điều cảm nhận; Ngôn từ như con tắc kè hoa, có đời sống riêng và không
ngừng thay đổi; Tôi đi giữa mọi người, bên những hàng cây im lặng, lòng thầm
biết ơn thân cây nào rồi đây ngã xuống, xẻ mình ra ôm tôi về cát bụi; Tôi không
mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết
già.” Với sự hoà quyện giũa chất trí tuệ và chất trữ tình xúc cảm, nhà thơ lý
giải những phạm trù vũ trụ quan và nhân sinh quan một cách sáng tạo. Bài thơ là
sự suy ngẫm về mối tương quan giữa còn- mất, hữu hạn- vô hạn. giữa cái bình
thường và vô thường…
Trương
Đăng Dung luôn quan niệm vòng đời của tác phẩm là một quá trình. Đó là một hành
trình gian nan và có những đòi hỏi nghiệt ngã về sự trung thực và tử tế: “Làm
thơ không thể lừa dối con người. Vậy làm thế nào để không lừa dối con người?
Chỉ có làm bằng cách của thơ, thơ đích thực”. Từ tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng đến Em
là nơi anh tị nạn là một quá trình “dịch chuyển từ trạng thái bất an trước
đời sống sang trạng thái khát khao được an trú trong lòng đời sống” (Văn Giá).
Qua các tập thơ đã cho thấy sự nhất quán trong tư tưởng của tác giả. Nếu tập
thơ Những kỷ niệm tưởng tượng là nỗi
ám ảnh thời gian, những khắc khoải về phận người thì tập thơ Em là nơi anh tị nạn không chỉ ghi lại
những sự kiện của tâm hồn cá thể mà thông qua đó khơi mở những suy tư truy vấn, đối thoại về tồn tại người
và chạm đến những giá trị phổ quát. Thế giới bấp bênh, bất an, các giá trị đảo
lộn trong xã hội hiện đại khiến con người như kẻ lưu đày cần tìm nơi “tị nạn” Rồi một ngày tàu anh kiệt sức/ nằm im trên
canh đồng/ những toa tàu bỏ không/ đầy bụi/ Rồi một ngày tàu em đến/ tiếng còi
nghe như tiếng côn trùng/ những toa tàu bỏ không/ đầy ối/ Thấp thoáng bóng người/
trong cỏ (Hai chuyến tàu). Em là nơi anh tị nạn gửi gắm ý niệm
hướng về ánh sáng cứu rỗi sự cô đơn của con người. Em vừa cụ thể vừa khái quát - đó là vợ, là mẹ, là
những người thân yêu, là chốn bình an hay nơi anh giãi bày những âu lo trăn trở
về kiếp người. Các nhà nghiên cứu phê bình đều khẳng định qua thơ ông cho thấy
thường trực nỗi bất an lớn về phận người. “Trương Đăng Dung là một bất an lớn.
Nỗi bất an thi sĩ. Nỗi bất an của những trăn trở về sự tồn tại người” (Nguyễn
Đăng Điệp).
Đề cập
nỗi buồn về kiếp sống phù du, hư vô mang tâm thức hiện sinh, Lâm Thị Mĩ Dạ đã thuyết phục người đọc qua
những vần thơ cụ thể: “Bây giờ chỉ có một
mình ta/ Một mình ta với bao la một mình/ Khóc ta hạt bụi vô thường/ Mai kia
tìm chốn cội nguồn nghỉ ngơi”. Có thể nhận ra điểm chung của các nhà thơ
đương đại là sự suy tư trăn trở trước sự vô thường, tiếc nuối âu lo trước sự
trôi chảy của kiếp người. Sự âu lo dâng trào trong ánh nhìn, trong khóe mắt,
trong mọi chiều kích của thời gian không gian. Từ đó hình thành cho con người
nhân sinh quan sống sâu sắc, nhân bản, nhân văn. Thơ ca bứt phá khỏi mọi chuẩn
mực giá trị cũ để hòa nhập vào dòng chảy văn học và thơ ca nhân loại. Cái tôi
cảm thấy cô đơn, cô độc mong tìm được sự an ủi để giải thoát khỏi sự giằng xé
trong chính mình. Cái tôi gào thét van gọi sự mở lòng bởi tình yêu cho thấy bi
kịch của cái tôi mang trong mình nỗi đau không được là mình, nỗi đau giữa những
giá trị đối nghịch. Nỗi lo sợ thời gian chảy trôi luôn là nỗi lo sợ ám ảnh khi
cuộc đời con người là hữu hạn. Ý thức sự mỏng manh của kiếp người con người
hiện sinh luôn thường trực nỗi ưu tư.
Ly
Hoàng Ly diễn tả nỗi cô đơn tận cùng cảm giác khi không có người yêu, người
chồng hay một chỗ dựa để cái tôi bấu víu tránh cảm giác nhỏ bé chơi vơi trong
bài thơ Nửa đêm: “Đêm giật mình thức giấc/ Không thấy anh bên
cạnh/ Không hiểu sao lòng bàn tay đầy nước/ Đêm rót lên mình những giọt lạnh”.
Đó là nỗi cô đơn tự mình gánh vác không ai có thể hiểu hay san sẻ đượm màu sắc
hiện sinh.
Ly
Hoàng Ly dựng lên trong bài thơ có cái nhan đề “nửa Tây nửa ta” Performance trứng:
Ông ta đập trứng Lòng trắng lầy nhầy, lòng đỏ
rực cháy ly thủy tinh cáu bẩn/ Mặt trời vỡ khi ông ta nuốt lòng đỏ vào bụng/ Tự
dưng ông ta tỏa sáng Ông ta tỏa sáng một mình
Nhan đề
bài thơ với từ tiếng Anh “Performance” có ý vị phúng nhại (parody) pha trộn cả
sắc thái carnival, và đó cũng là một biểu hiện của cảm thức hiện sinh - ý vị
này cho thấy rõ ngay khi ta đọc đến bài thơ khác cũng dùng nguyên ngữ từ
“performance” nhưng cố ý kèm cùng từ cũng tiếng Anh như cố ý “phiên âm” bồi - ham bơ gơ. Bài thơ trên dẫn từ tập thơ Lô Lô của Ly Hoàng Ly, trong tập này ta
còn đọc thấy vài “performance” khác - Performance
ham bơ gơ, Performance photo. Sự
phóng chiếu cái hình ảnh “sinh hoạt phàm tục” lên tầm “sử thi” toàn cõi bỗng
khiến ta như lập tức xốn xang cái cảm giác hiện sinh điển hình “buồn nôn” (the
nausea) thực sự và cụ thể: Lòng trắng lầy nhầy, lòng đỏ rực cháy ly
thủy tinh cáu bẩn/ Mặt trời vỡ khi ông ta nuốt lòng đỏ vào bụng”. Chúng ta
không biết Ly Hoàng Ly có hàm ý “liên văn bản” gì đến tiểu thuyết Buồn nôn (La nausée) của nhà văn hiện
sinh nổi tiếng J.P. Sartre không - tiểu thuyết mà có nhà phê bình đã nhận xét
là tác giả của nó đã nhận ra được cái kinh nghiệm mà Jaspers gọi là “chuẩn bị
cho một sức bung phá mãnh liệt”… Sự thực thì rất có thể cái “ông ta” trong bài
thơ trên cũng chỉ như bao người đàn ông trong cuộc sống ngoài kia - cũng đã có
những tháng ngày sống trôi qua vô vị, buồn tẻ. Những hành động việc làm và cả ý
nghĩ đã đang gặm nhấm cuộc sống hiện sinh của con người, biến cuộc đời họ trở
nên tầm thường, vô nghĩa. Có khi nhà thơ trải lòng về nỗi cô đơn khi không còn
chỗ dựa tinh thần. khi không còn ai đón đợi, không còn ai trông mong, không còn
ai bao dung, không còn lửa của nhiệt tình sự sống “Không ai đợi tôi về sau cánh cửa/ Không nồng nàn không ấm áp bao dung/
Tôi như sống nửa đời đêm giấu lửa/ Một nửa đường đang khuất dấu bao dung/ Tôi
như sống nửa đời đem giấu lửa/ Một nửa đường đang khuất phía mông lung”. (Một nửa đường đang khuất - Đinh Thị Thu
Vân). Con người mang một nỗi lo sợ bất an vì mình sẽ bị cuộc đời bỏ quên, bị
trở thành xa lạ với đồng loại. Nỗi băn khoăn đó chính là bản thể con người đang tự truy vấn về sự
tồn tại của chính mình trong cuộc đời.
Thời
đại mới đòi hỏi con người phải xác định đúng vị thế của mình trong dòng chảy
lịch sử “được thành thực với mình, được
là mình trở thành một nhu cầu, một mong muốn khẩn thiết” [150, tr. 89]. Con
người thoát ra từ chiến tranh cảm thấy lo âu bất an trước thực tại phi lí hỗn
độn. Con người cảm thấy bị bỏ rơi lạc lõng nên luôn khát khao sự gắn kết, hòa
nhập. Khi xã hội phát triển với nền công nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại,
con người cá nhân mới không sống theo khuôn mẫu mà mỗi người là một cá thể
riêng biệt, một nhân vị. Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển và hội
nhập quốc tế, con người là những cá nhân cô đơn, đánh mất mình nhưng cũng đồng
thời vươn lên tự khẳng định chính mình. Đó là “đặc trưng cái tôi trong thơ Việt
Nam sau năm 1986” [65, tr. 37-46].
Kết
thúc chiến tranh, con người Việt Nam trở về với cuộc sống đời thường đối diện
với bao âu lo trong cuộc sống. Con người bước ra khỏi chiến tranh vẫn chưa hết
bàng hoàng và họ đặt ra những câu hỏi về sự phi lý do chiến tranh đem lại. Tác
giả Lưu Quang Vũ đặt ra những câu hỏi day dứt trước những mất mát mà chiến
tranh gây ra cho con người tạo nên sự phi lý, sự vô nghĩa: “Tuổi trẻ chúng tôi tìm gặp nhau/ đặt lại những câu hỏi/ về cuộc chiến tranh này/ về mọi giá trị trên đời/ nguồn gốc những nguyên nhân/ của chém giết và thù
hằn/ bất công và đói rét/ cần phải làm gì/ để có lí do mà hy vọng?” (Hồ sơ mùa hạ). Người lính trở về từ
chiến tranh mang theo cả sự hoài nghi về cái phi lý của cuộc đời: “Em bảo cuộc đời này thảm hại lắm xấu xa lắm/
Tất cả đều buồn cười vô nghĩa lý/ Mà khổ sở mà chết người” (Người con gái đến phòng em chiều thu).
Nỗi buồn hiện sinh được biểu hiện khá sớm trong thơ Lưu Quang Vũ. Ông nói về sự
cô đơn của kiếp người qua những câu thơ đầy nỗi buồn và nước mắt: “Gã đàn ông quầng mắt tối đen/ Trong cuốn
sách buồn/ Nói với tôi lời buồn bã: Con người chỉ là ống sậy cô đơn/ Trái đất
giữa không trung/ Như một giọt nước mắt (...) Nỗi cô đơn tuyệt vọng...” (Hoa
cẩm chướng trong mưa). Nỗi cô đơn là một chủ đề cơ bản của triết hiện sinh.
Tác giả khẳng định lại những nỗi cô đơn con người phải chịu đựng và chấp nhận
nó như một định mệnh. Đó là một yếu tính con người không thể lảng tránh hay
trốn chạy. Có khi con người cô đơn ngay khi đang ở cạnh người thân: “Sao tôi lại muốn em tin/ Khi chính tôi cũng
chẳng tin ai cả/ Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ/ Thằng bé lẻ loi
giữa lớp học ồn ào/ Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao (...)/ Tôi là người lính cô đơn ở giữa trung
đoàn/ Bao lâu rồi vẫn chỉ có thế thôi/ Nỗi cô đơn hoàn toàn cô đơn khủng khiếp/
Trước và sau trong và ngoài trang sách...” (Mấy đoạn thơ).
Quan
sát những sinh hoạt thường ngày của bao thanh niên nam nữ ở nông thôn, ở thành
phố, có lúc giật mình suy nghiệm về sự sống vô nghĩa, đáng lo âu của con người:
“thôn nữ quần Jeans giầy da/ trai làng
ngày đêm vỉa hè đợi việc/ chầu chực một tương lai đô thị hóa nông thôn” (Tôi đi trên đường đầy bụi, Thành phố của tôi
- Phan Huyền Thư). Đây là hình ảnh rất thực tế có thể bắt gặp bất cứ miền
quê nào. Ý thơ gợi sự phi lý đáng thương, đáng lo âu. Một thế hệ có đủ sức trẻ,
có tuổi thanh xuân nhưng không ước mơ hoài bão, không có công ăn việc làm,
không theo kịp vòng quay của xã hội. Tất cả dật dờ trong nhịp sống hờ hững,
nhịp sống thừa ra mà chính họ không biết làm sao thay đổi được. Những giá trị
tinh thần mang tính bản thể bị xói mòn trong xã hội hiện đại đã được các nhà
thơ đương đại đặc biệt quan tâm. Trạng thái cô đơn tạo cái nhìn bi quan âu lo
về cuộc sống đồng thời cũng có tính chất thức tỉnh con người cảm nhận được giá
trị cuộc sống để vươn lên.
Cái tôi
trong thơ ca đương đại Việt thường xuất hiện trong sự cô đơn, trống trải lặng
buồn. Cái tôi đối diện với những nỗi niềm lo lắng, hoang mang, bất an, xót xa,
bế tắc. Nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên viết: “Nỗi
buồn như chiếc bóng” luôn ám ảnh đeo bám con người. Con người cá nhân càng
thấm thía nỗi cô đơn thì lại càng khát khao vươn lên khẳng định mình như một
nhân vị, một cá thể độc đáo. Trong bài thơ Bay,
tác giả Ly Hoàng Ly đã quan sát vẻ mặt của những con người trên một chuyến bay:
Bay/ Fasten seat belt while seated/ Trên tất
cả máy bay/ Đều đọc thấy hàng chữ ấy/ Chưa đủ/ Tiếp viên sẽ nhắc đi nhắc lại/
Xin vui lòng cài thắt dây an toàn/ Thắt bụng mình vào một chiếc ghế xa lạ/ Và
lơ lửng trên trời/ Đâm đâm tầng mây/ Mọi người trên hành tinh di chuyển/ Một
cách thụ động/ Và ngớ ngẩn đần độn/ Nhớ đến giấc mơ của nhân loại/ Ước làm
chim/ Sải cánh bay (Bay).
Từ một
tình huống trong đời thực, nhà thơ đã đề cập đến những suy tư của con người và
khái quát về sự phiêu bồng của kiếp người. Con người, mong muốn được được tung
cánh tự do, chinh phục những chân trời mới lạ. Con người có khi tự thấy mình
không được tự do quyết định nhân vị mình như loài chim kia-sải cánh bay khắp
mọi miền không gian, được tự quyết lấy mọi mong muốn không còn là những cỗ máy
di động. Bài thơ không cầu kì, chỉ như lời tâm sự về một tình huống quen thuộc
trong cuộc sống nhưng đã cô đọng thành ý thơ mang tính triết lí về con người.
3.3. Quan
niệm về thời gian “tồn tại” của con người hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.3.1 Sự mong
manh, hữu hạn của kiếp người
K.
Jasper cho rằng: “Chỉ mình con người có lịch sử, nghĩa là không sống bằng di
sản sinh lý như loài vật mà còn sống bằng cả di sản tinh thần.” [79, tr. 128].
Nói cách khác, chỉ với con người, thời gian mới được ý thức. Nhưng sự ý thức về
thời gian như là một phạm trù siêu hình hay phạm trù vật lý - “chiều thứ tư của
không gian” đó là việc của các triết gia và nhà khoa học. Thi nhân biểu đạt
“tồn tại thời gian” bằng cảm quan hiện sinh. Cuộc đời trong thực tại là sự hiện
diện của cái tôi cô đơn trong thời gian. Thời gian trong Thơ mới là thời gian
tuyến tính một đi không trở lại. Con người chạy đua với thời gian vì cuộc đời
là hữu hạn. Trong thơ ca đương đại, nỗi cô đơn bản thể không thấy thời gian
trôi chỉ thấy tồn tại, thấy sự vật thay đổi. Nhà thơ Trương Đăng Dung đã thú
nhận “Anh không thấy thời gian trôi/ thời
gian ở trong máu không lời/ ẩn mình trong khóe mắt làn môi/ trong dáng em đi
nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời / về kiếp người ngắn ngủi”.
Thơ của
Trương Đăng Dung thường có sự suy tư về cõi sống và cõi chết. Con người luôn ý
thức về sự hữu hạn của cuộc đời. Sống trong hiện tại mà luôn khắc khoải với
những sự bất an, sự mất mát diễn ra trong hiện tại. Trong bài Ảo ảnh, ông viết:
“Thôi em đừng khóc/ Rồi sẽ qua đi kiếp
người ngắn ngủi/ Một ngày kia hết mọi buồn vui/ Chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới
cỏ/ Bàn tay ta bất động giữa đất dày/ Bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy”.
Thơ Trương Đăng Dung được cho là “không lạm dụng kỹ thuật tân kỳ mà đầy trắc ẩn
suy tư”. Tác giả hoài niệm tương lai ngay cả khi đang sống trong hiện tại. Ý
thức về sự hữu hạn của người, nhớ tiếc cuộc sống trong từng ngày sống và hình
dung một ngày không còn tình yêu, nỗi nhớ. Con người sẽ thôi tìm nhau trong cảm
xúc tình yêu. Hiểu được quy luật cuộc sống là luôn đổi thay, không có gì là tồn
tại mãi mãi để con người có tâm thế chấp nhận thực tại và có ý niệm về cuộc đời
một cách sâu sắc, tự tại an nhiên. Nhà thơ lặng nhìn cuộc sống và rút ra nhiều
phản biện về chính cuộc sống: “Mùa trăng
sắp lụi, răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa, sợ thời gian rình trong sợi tóc,
anh nghe ngày một gần hơn lũ quạ”. Giữa cuộc sống vô thường, từ những điều
giản dị trong cuộc sống, tác giả luôn suy tư khái quát lên thành những chiêm
nghiệm, luôn đặt ra sự truy vấn về kiếp người. Nghĩ về cha mẹ, ai cũng thường
quan tâm chữ hiếu. Chữ hiếu trong thơ Trương Đăng Dung còn là việc trăn trở về
phận người. Đó là cuộc sống tiềm ẩn nỗi cô đơn khi con người luôn đối diện quy
luật gặp gỡ, đoàn tụ để chia phôi. Con người sống trong ý niệm về quy luật sinh
- lão - bệnh - tử nên khi nào cũng thường trực nỗi âu lo. Nhìn mẹ cha già yếu,
tác giả suy tư đến cảnh ngộ cha mẹ phải lìa xa cõi tạm. Giới hạn cuộc đời đang
đến gần. Hiểu như vậy càng thấy âu lo, để tranh thủ từng phút giây giành tình
yêu thương cho cha mẹ trong mọi khoảnh khắc thời gian. Và cũng từ sự quan sát
chiêm nghiệm nhạy bén trong cuộc sống sẽ giúp con người làm chủ được bản thân
trước mọi biến đổi của cuộc sống. Trong thơ ông “Cảm thức về bước đi của thời
gian về cái chết không phải như một nỗi khiếp sợ mà để thấu rõ hơn nỗi cô đơn
bản thể, từ bi đát và phi lý mà ngộ ra cái hữu lý truy tìm” [37, tr. 304-305].
Quá
trình sáng tạo nghệ thuật được bắt đầu từ những ám ảnh của ý thức ở bề sâu,
những dự định khởi thủy, để thể hiện hành trình khám phá bản thể người của thi
nhân. Sáng tạo thơ ca là quá trình trăn trở thai nghén đốt mình trong ngọn lửa
đam mê, tìm vào những miền khuất trong cõi tinh thần, đi sâu tìm hiểu những phi
lý, huyễn hoặc của cõi người... để thức nhận về điều không thể thức nhận …Con
người cá nhân cảm thấy bế tắc trước cuộc đời do hậu quả của chiến tranh. Vì vậy
luôn day dứt nó cảm thấy uất hận vì sự cô độc trước cuộc sống đầy đau thương: “Đường tôi đi có bom và đạn/ có hận thù trên
mỗi dấu chân/ ai thả vào hồn tôi mới lớn/ những mùi xương máu ngập tang thương”
(Đi giữa chiến tranh - Phạm Cao Hoàng). Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ của Nguyễn Quang Thiều xuất phát từ
việc tiếp cận cuộc sống đời thường qua một sinh hoạt thường ngày cũng khiến nhà
thơ cất lên bao câu hỏi hoài nghi:
Người hướng dẫn: Những ngón tay người đàn bà
mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt/ Người mua: Ông già da đen Cuba đã tự vẫn/ Chủ nhân:
Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở tấm thảm ra Có một người lúc nào
cũng rét/ Đứng nhìn tấm thảm/ Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu Ở chân
tường./ Người hướng dẫn (đã bỏ nghề)/ Người mua: Hình như không phải tấm thảm
tôi đã mua/ Chủ nhân: Tôi nhìn thấy những người thân đã chết chạy nấp sau những
gốc cây sau tấm thảm (Lịch
sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ)
Nhan đề
bài thơ là một tình huống về việc mua tấm thảm. Các dòng thơ, câu thơ có khi không tuân theo một quy tắc nào.
Nhưng qua tình huống, giọng kể trung tính, Nguyễn Quang Thiều đã khái quát cuộc
đời qua các nhân vật như người hướng dẫn, ông già da đen, người đàn bà mù, con
trai của chủ nhân tấm thảm. Từ góc nhìn qua cuộc đời của bốn nhân vật, tác giả
khái quát bức tranh cuộc sống rộng lớn. Cuộc sống hiện ra với người nào cũng
đầy những điều mâu thuẫn, bất trắc. Từ tấm thảm của người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
được xem như ẩn dụ cho cái đẹp. Người bán người mua trao đổi hàng hóa tiếp tục
cuộc mưu sinh.
Qua
thời gian, con người nào cũng đối diện đầy bi kịch. Phải chăng đó là quy luật
cuộc sống, luôn đầy những mất mát khổ đau? Và con người cần phải chấp nhận quy
luật đó để vươn lên, vượt thoát khỏi giới hạn của chính mình.
3.3.2. Quá khứ
- hiện tại - tương lai và sự mịt mờ, bất khả
tri
Ý thức
được sự mong manh, hữu hạn của kiếp người, chính là con người hiện sinh đã ý
thức được sự mịt mờ, bất khả tri trước thế giới. Bất khả tri có nghĩa là con
người có nhiều giới hạn. Chẳng hạn: trước quy luật Sinh- lão-bệnh - tử, trước
cái chết, tuổi già con người phải chấp nhận, không thể thay đổi được. Con người
sinh ra rồi chết, không hiểu được tương lai. Con người hiện sinh ý thức được sự
bất lực, sự mịt mờ tăm tối không tìm được lối
thoát. Con người thoát ra từ chiến tranh cảm thấy lo âu bất an trước
thực tại phi lí hỗn độn. Con người
cảm thấy bị bỏ rơi lạc lõng nên luôn khát khao sự gắn kết, hòa nhập. Nhà thơ
Bùi Giáng tái hiện nỗi buồn đau chất chứa trong sâu thẳm bản thể người. Ông tự
nhận mình là kẻ cô đơn cô độc như một lữ khách xa lạ. Ông rong chơi xuôi ngược
bất tận trong thơ, trong tư tưởng, trong cõi tình, cõi mộng... Đi để thoát khỏi
sự ù lì nhàm chán, đi để tìm sự giao cảm với con người và cuộc sống như Nguyễn
Tuân, đi để thay đổi thực đơn - “Đi là đi
biệt từ khi chưa về”. Bùi Giáng luôn băn khoăn day dứt về thân phận dâu bể của con người. Trong thơ, ông luôn đặt
ra những mối hoài nghi: Ta từ đâu tới? Ta là ai? Thụy Khuê lí giải: “Nếu Sartre
bác bỏ tính chất định mệnh thì ở Bùi Giáng định mệnh và hiện sinh giao hưởng
với nhau”: Em chết bên bờ lúa/ Để lại bên
đường mòn/ Một dấu chân bước của/ Một bàn chân bé con/ Anh qua miền cao nguyên/ Nhìn chân trời bữa nọ/ Đêm cuồng
mưa khóc điên/ Mười năm sau xuống ruộng/ Đếm lại lúa bờ liền/ Trăng cuồng khuya trốn gió/ Máu trong mình mòn ruỗng/ Xương trong mình rã riêng (Mưa nguồn). Ý thơ, lời thơ có phần trừu tượng, nhưng người đọc có thể nhận ra ẩn đằng sau cách diễn đạt mang đậm sắc thái tượng trưng siêu thực là nỗi niềm suy tư tận đáy
sâu kiếp người với những có - không, được - mất.
Cuộc đời con người cuối cùng là những nắm xương tàn đi trong hư vô.
Những câu thơ giàu suy tưởng đưa đến cho người
đọc những suy ngẫm sâu xa về chính bản thể con người. Có khi nhà thơ còn
diễn tả cõi đời hư vô thông qua những miền không
gian đầy những sự trăn trở âu lo: Những nhịp bước trên đường còn đợi mãi/ Vọng về đâu không vọng lại
hồi âm/ Cửa réo rắt riêng một lần mãi mãi/ Gió phương trời ủ mộng giữa hoa tâm/ Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại/ Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm/ Em ngó mãi những chiều về trở lại/ Mang những gì về trong cõi trăm năm (Chiều - Mưa nguồn).
Inrasara
trở thành “một hiện tượng thơ độc đáo được độc giả yêu mến, được giới phê bình
chú ý… mỗi tập thơ ông là một cuộc hành trình nhằm nỗ lực thúc đẩy bánh xe thơ
Việt tiến về hiện đại. Sau Tháp nắng, Sinh nhật cây xương rồng và Hành hương em đến Lễ tẩy trần tháng tư là một
cuộc vượt thoát chính mình, vượt lên những đỉnh cao của chính ông trước đó,
khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng” [49, tr 33]. Nhà thơ Inrasara cảm nhận
thế giới hiện lên với bao nỗi thất vọng “Vắt đến giọt nước mắt cuối cùng// Anh khóc vào văn minh hoàng hôn” (Khởi động của khởi động). Con người sống
trong cuộc đời mà luôn cảm thấy bất an, bất trắc. Con người luôn đặt ra biết
bao câu hỏi nhưng không thể trả lời thỏa đáng được. Giữa cuộc đời bề bộn tác
giả tự hỏi sau kiếp người con người mang về những gì vào cõi trăm năm. Chính
Inrasara cũng đẫ day dứt “Tôi sẽ đi về
đâu không biết/ Có lẽ phía câm lặng số phận” (Hành trình 2001).
Tiểu kết chương 3
Điều
quan trọng nhất của văn học nói chung, thơ ca nói riêng là suy tư về thân phận
con người và lịch sử. Qua thơ ca Việt Nam đương đại, người đọc nhận ra rõ nét
những biểu hiện về các phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là cái bản thể, là
nỗi cô đơn, là sự phi lí, là vấn đề tính dục. Dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh
biểu hiện trong tác phẩm của các tác giả thơ Việt Nam đương đại với những mức
độ, cách biểu đạt khác nhau. Từ đề tài lãng mạn, đề tài sử thi, thơ đương đại
chuyển sang cảm hứng đời tư thế sự, đi sâu khám phá con người trong cuộc sống
đời thường... Vấn đề trở đi trở lại trong tác phẩm của các nhà thơ Việt Nam
đương đại là giá trị bản thể con người, là vấn đề thân phận con người hiện
sinh. Các nhà thơ quan tâm đến nỗi buồn, nỗi cô đơn, niềm day dứt khi không
được là chính mình. Con người sau chiến tranh khát khao đi tìm cái tôi đã mất,
trở về khám phá chính mình với những âu lo, bất an về thân phận trong xã hội
hiện đại. Đó là cái tôi không chấp nhận sự tầm thường, vô vị mà muốn vượt lên
chính mình, vượt lên cái phi lý, vượt lên cái chết, sự hữu hạn. Tác phẩm của
các nhà thơ đương đại đã cho thấy đặc trưng hiện sinh của con người là cô đơn,
là âu lo, hoài nghi. Con người cần phải không ngừng vươn lên để khẳng định cái
tôi bản thể. Cuộc đời con người đầy những cái phi lí. Muốn tồn tại, con người
phải dấn thân, để vươn lên phía trước. Con người sinh ra cho đến khi chết đi
luôn phải đối mặt với sự cô đơn. Tìm đến tình yêu với khát vọng tính giao để
khẳng định về giới và tìm về bản năng, suy tư về bản ngã và tự điều chỉnh để
thoát khỏi nỗi cô đơn và vươn lên về nhân phẩm... luôn là một khát khao mãnh
liệt của con người, đã được thể hiện qua nhiều tác phẩm của các nhà thơ Việt
Nam đương đại.
Các nhà
thơ Việt Nam đương đại cho thấy sự suy tư trăn trở của người nghệ sĩ về những
vấn đề thế sự nhân sinh có ý nghĩa với cuộc sống thực tiễn. Một thế hệ đông đảo
các nhà thơ đã đi tiên phong trong quá trình tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh của
phương Tây góp phần khẳng định sự vận động, phát triển của thơ Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập với thế giới.
Chương 4
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA KHUYNH HƯỚNG HIỆN
SINH TRONG THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
4.1. Bút pháp, thể thơ và cách tổ chức bài thơ
4.1.1. Sự
tương hợp giữa các nội dung hiện sinh và phương thức biểu hiện
Một tác
phẩm văn học nghệ thuật đích thực bao giờ cũng có mối quan gắn bó hệ hữu cơ
giữa hai mặt nội dung (cái được biểu đạt) và hình thức (cái biểu đạt). Nội dung
là cái được biểu đạt tồn tại bên trong hình thức biểu đạt, được tổ chức thành
chỉnh thể tác phẩm văn học. Hình thức nghệ thuật là cái biểu đạt, là phương tiện,
chất liệu, thủ pháp tổ chức nên tác
phẩm. Biêlinxki từng xác định rất đúng rằng: “Trong tác phẩm nghệ thuật, tư
tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể
xác. Nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược
lại”; “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới
mức nếu tách nó ra khỏi nội dung, có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và
ngược lại, tách nội dung khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức. Sự
thống nhất, gắn bó giữa nội dung và hình thức không phải ngẫu nhiên, tự nhiên
mà có; điều này đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi, sáng tạo. Thực tiễn sáng tác văn
học cho thấy những tác phẩm văn học có giá trị lớn thì bao giờ cũng có sự thống
nhất cao độ giữa nội dung và hình thức. Một “tác phẩm nghệ thuật đích thực bao
giờ cũng là một phát minh về hình thức và là một khám phá về nội dung” (Leonov).
Nhìn
chung thơ Việt Nam đương đại viết theo khuynh hướng hiện sinh, ở các bài thơ
của các tác giả đều có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Từng bài thơ
đều có một tổ chức kết cấu chặt chẽ giữa các yếu tố, là một chỉnh thể nghệ
thuật, có sự gắn kết, phù hợp giữa nội dung và hình thức. Nội dung của tác phẩm
không thể hiện hữu ở ngoài hình thức, cũng như hình thức không thể “tự trị” so
với nội dung. Giữa các yếu tố trong chỉnh thể cấu trúc tác phẩm có mối quan hệ
chặt chẽ. Đặc biệt, tác phẩm là một chỉnh thể sống động trong đó các yếu tố quy
định và phụ thuộc lẫn nhau và cùng cộng hưởng để thể hiện ý nghĩa của tác phẩm.
Nhà thi pháp học Yuri Lotman viết: “Việc phân tích cấu trúc xuất phát từ luận
điểm cho rằng thủ pháp nghệ thuật không phải là yếu tố vật chất của văn bản mà
là mối quan hệ” [52, tr. 166]. Một tác phẩm thơ trữ tình được cấu thành bởi
nhiều yếu tố hình thức biểu đạt, chúng cộng hưởng góp phần giúp nhà thơ bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Nói đến bài thơ
người ta nhắc đến nhan đề, là nơi
khái quát nội dung chủ yếu của bài thơ. Nhan đề cũng là nơi hàm chứa dụng ý
nghệ thuật của nhà thơ. Nhan đề được xem như chìa khóa định hướng cho người đọc
tìm hiểu tác phẩm. Khi nhà thơ viết Người
đi tìm mặt (Hoàng Hưng), nhan đề đã định hướng cho người đọc hiểu đó là
hành trình đi tìm chính mình, đi tìm cái tôi đã mất. Thơ hiện đại có sự phân
biệt giữa dòng thơ và câu thơ. Nếu dòng thơ diễn đạt trọn vẹn ý thì nó cũng là
câu thơ. Có khi vài dòng thơ mới tạo thành câu thơ. Chẳng hạn trong thơ hiện
đại biên độ dòng thơ, câu thơ linh hoạt. Có khi gần như câu văn xuôi. Một số
dòng thơ cấu tạo thành khổ thơ. Số dòng trong mỗi khổ thơ thường tương đương
tạo nên sự nhịp nhàng cân xứng, tạo nên tính nhạc điệu cho bài thơ. Bài thơ nào
cũng có tứ thơ, đây được xem như là xương sống, là giá đỡ cho bài thơ. Tứ thơ
là ý lớn bao trùm và phản chiếu cách nhìn, cách cảm nhận riêng của tác giả. Tứ thơ
có thể là hình tượng xuyên suốt bài thơ. Tứ thơ thường được nảy sinh từ một cảm
xúc hay một ấn tượng chung của tác giả về một vấn đề nào đó và hòa quyện, biến
hóa qua hình tượng đầy sáng tạo của nhà thơ... Tính chỉnh thể của tác phẩm trữ
tình không phải là phép cộng của những yếu tố riêng lẻ mà là sự cộng hưởng sinh
động của các yếu tố cho thấy sự hòa quyện giữa nội dung và hình thức biểu đạt.
Qua đó cho thấy tài năng và sức sáng tạo của tác giả. Thi hào Trung Hoa đời
Tống Lục Du từng nói “công phu thơ là ở ngoài thơ”. Đó là kết quả của quá trình
nhận thức, suy ngẫm và sự thăng hoa cảm xúc của nhà thơ trước cuộc sống con người.
4.1.2. Những
nét chính trong bút pháp, thể thơ và cách tổ chức bài thơ
Trong
văn học, bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các
phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Bút pháp
cũng tức là cách viết, lối viết. Vì trực tiếp gắn với cách viết, lối viết nên
có phần tương đồng với khái niệm phong cách, văn phong. Bút pháp có khái niệm
hẹp hơn, chỉ yếu tố của phong cách.
Để tác
phẩm dễ đi vào lòng người, mỗi nhà thơ lựa chọn cho mình một thể thơ phù hợp...
Thông qua thể thơ, người đọc phần nào nhận ra được tư tưởng tình cảm mà tác giả
đã gửi gắm qua tác phẩm. Cùng với các thể thơ quen thuộc như lục bát, song thất
lục bát, thể thơ thất ngôn thì còn có thể thơ tự do. Thể thơ tự do có số câu số
chữ không hạn chế, dài, ngắn linh hoạt. Thơ tự do cũng có nhiều cách gieo vần
như vần chân, vần liền, vần cách. Cùng với thời gian, thể thơ cũng tiếp thu
những tinh hoa của thế giới. Dòng thơ được cho là đặc điểm quan trọng nhất của
sự tổ chức ngôn ngữ thơ. Thơ tự do không có sự quy định về số chữ, nhưng thường
mỗi dòng thơ cũng không quá mười hai chữ... Dòng thơ diễn đạt trọn vẹn một ý
được gọi là câu thơ. Mỗi câu thơ là một dòng thơ, nhưng có khi hai ba dòng thơ
mới thành một câu thơ. Mỗi bài thơ là một chỉnh thể có kết cấu chặt chẽ giữa
các yếu tố. Thông qua hệ thống cấu trúc nội tại đó, nhà thơ gửi gắm tư tưởng,
tình cảm cảm xúc của mình. Mỗi một nội dung trong tác phẩm thơ trữ tình cần có
những phương thức biểu đạt thích hợp. Khi thể hiện trong tác phẩm những nội
dung hiện sinh các nhà thơ cũng sử dụng những phương thức biểu đạt thích hợp
qua đó thể hiện tư tưởng tình cảm, cách tư duy, quan niệm thẩm mĩ, tài năng và
sự sáng tạo của tác giả.
Nói đến
cách tổ chức bài thơ là nói đến bố cục - kết cấu - cấu trúc một thi phẩm. Bộ ba
các thuật ngữ mà chúng tôi trình bày dưới dạng viết liền bằng gạch nối như trên
chẳng qua ngụ ý có thể xem đó là những cấp độ của một tổ chức bài thơ nhìn từ
cấp độ bên ngoài bố cục đến cấp độ
bên trong kết cấu sâu đến lõi cấu trúc thi tứ. Phân tích các phương
diện này từ góc nhìn lí luận văn học đơn thuần có lẽ là không khó. Điều khó là
phát hiện ý nghĩa nội dung tư tưởng” của chính bản thân cái hình thức nghệ
thuật đó. Hoặc dùng cách nói của thi pháp học - đó chính là giá trị nội dung tư
tưởng của bản thân hình thức nghệ thuật.
Các nhà
thơ đương đại quan niệm đặc trưng cốt tủy của thơ không phải nằm tính năng xã
hội mà ở trong chất liệu ngôn từ. Ngôn từ không đơn giản chỉ là công cụ để diễn
nghĩa, tải ý tưởng mà còn có sức gợi, hình dung. Nhà thơ Trần Dần từng nói:
“Tôi viết tức là tôi để con chữ tự mình làm nghĩa”. Đó cũng là quan điểm của
Milan Kundera: “Nghệ thuật hiện đại là cuộc nổi loạn chống lại nguyên tắc bắt
chước hiện thực nhân danh những quy luật tự trị của nghệ thuật”. Các nhà thơ
đương đại đã tìm một kiểu ngôn ngữ cho riêng mình. Đó là kiểu ngôn ngữ giàu
chất suy nghiệm, triết luận. Chúng tôi từng đặt vấn đề khẳng định những đặc
điểm của chủ nghĩa hiện sinh nhìn từ nghệ thuật tổ chức ngôn từ, biểu hiện của
chủ nghĩa hiện sinh trên cách tổ chức một thi tác. Bài thơ Ủa, lạ nào! của nhà thơ nữ Cát Du là một dẫn chứng cụ thể.
ỦA, LẠ NÀO!
Em đang làm gì?
Soi gương
Soi gương tìm gì?
Tìm em
Em sao?
Em giống nàng Nguyệt Nga mặc đồ cổ trang và
ngồi
trên xe ngựa liếc tình với Lục Vân Tiên (là
em nghĩ thế chứ không biết có phải chàng Lục không. Vì chưa nhìn thấy bao giờ)
Lạ nào!
Ừ lạ lắm! Giống như phim vậy
Rồi sao nữa?
Rồi em chớp mắt
Lại thấy mình giống công chức mặc áo cổ cồn
và có đeo ve
công chức mặt nghiêm không hé môi cười
Lạ nào!
Em đâu có thế
Rồi sao?
Rồi em chớp mắt
Em thấy mình đang gặt hái trên cánh đồng đầy
lúa
Êm ả cò bay
Có phải em không?
Không
Hình như cố nội của em
Cố nội cười không răng, hạnh phúc
Ủa! Lạ nào!
Màn nhung khép lại
Thế em đâu rồi?
Không biết
Soi gương chỉ thấy cuộc đời
Những cuộc đời không em
Ủa! Lạ nào!
Lạ nào!
Ừ, lạ lắm!
Lạ lắm!
Nhìn bề
ngoài ta thấy bài thơ được bố cục theo lối “cuộc chuyện trò hỏi đáp”. Tiếng Em tùy văn cảnh lời có thể được hiểu
thành a) đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất - nhân vật cô gái tự xưng và b) đại từ
nhân xưng ngôi thứ hai - người đàn ông gọi cô
gái. Dĩ nhiên, khác với trần thuật (văn xuôi) tự sự, tại đây ta hoàn toàn
cũng có thể cho bài thơ trước sau chỉ đơn thuần là lời của duy nhất một chủ thể
Em phân thân hay nói đúng ra - phân
vai “tự thoại” chứ không phải độc thoại nội tâm (đây chỉ là một sự phân biệt
tương đối. Ta biết trong văn xuôi, sự trần thuật về lời như là đối tượng và sự trần thuật bằng lời tức sử dụng ngôn
ngữ như là công cụ hay sử dụng ngôn ngữ như là chất liệu ngôn từ) nhiều khi
được “gá trộn - pha ghép” rất tinh tế. Như trong tiểu thuyết dòng ý thức tình
hình lại càng phức tạp hơn nữa). Bất kể là thế nào (hình dung chủ thể lượt lời)
khi ta đọc dòng qua dòng ta cũng dần có thể nhóm các câu thơ lại thành - tạm
gọi một “đợt lời” hay một chủ đề nói chuyện (nói về một điều/chuyện nhất định…
Chuỗi các nhóm câu thơ này chính là luân chuyển các cảnh, thể hiện bố cục bài
thơ. Chúng ta thử miêu tả cụ thể về điều này:
1; Có
thể cảnh thực khởi phát cho nhưng “tưởng tượng” phiêu diêu nhuốm màu hài hước
của bài thơ không gì khác chuyện “soi gương”: Em đang làm gì ?!Soi gương/ Soi gương tìm gì?! Tìm em/ Em sao?.
2; Và
huyễn tưởng đầu tiên - một “phiên bản” hay nói đúng ra - hình bóng của giấc mơ
cái tôi của Em là “… nàng Nguyệt Nga mặc đồ cổ trang và ngồi trên
xe ngựa liếc tình với Lục Vân Tiên (là em nghĩ thế chứ không biết có phải chàng
Lục không. Vì chưa nhìn thấy bao giờ)”. Mơ mộng tình yêu lí tưởng thể hiện
với một vẻ trộn cả sự thật thà với tự trào nhưng cũng không thiếu màu sắc giễu
nhại “văn hóa chính thống cổ xưa”. Rồi dường như “hiện thực và thời đại” hơn, Em mơ là nữ công chức mặc áo cổ cồn và có đeo ve. Nhưng có vẻ như Em rốt cuộc cũng vỡ mộng công chức - làm
người nhà nước.
3; Hình ảnh về quê làm ruộng tiếp theo dường như gợi ý cách đọc hiểu như vậy
- “Rồi
em chớp mắt/ Em thấy mình đang gặt hái trên cánh đồng đầy lúa/ Êm ả cò bay/ Có
phải em không?”.
4; Nhưng gần như tức khắc tuổi già - cái chết hiện lên sau hình ảnh “cố nội” - “Có phải em không?! Không/ Hình như cố nội của em/ Cố nội cười không răng, hạnh phúc/ Ủa! Lạ nào!”. Đến đây, “sân khấu” sự phiêu diêu của cái tôi “Màn nhung khép lại”.
5; Em trở lại với cái gương soi nhưng không phải là với bâng khuâng Trang Tử giấc hồ điệp. Bài thơ kết với cảnh tượng thực sự hiện sinh: “Thế em đâu rồi? / Không biết/ Soi gương chỉ thấy cuộc đời/ Những cuộc đời không em/ Ủa! Lạ nào! / Lạ nào! / Ừ, lạ lắm! / Lạ lắm!”.
Phân tích trên đây của chúng tôi đối với cách tổ chức bài
thơ nhằm chứng minh giá trị biểu đạt tinh thần hiện sinh của thi nhân có thể
được tổng kết lại như sau. Bài thơ thoạt đọc không gì hơn là một chuỗi hỏi đáp
có phần rời rạc. Nhưng nhìn kĩ bố cục kết cấu ta không khó phát hiện thấy chuỗi
các dòng thơ đó thực chất là một sự luân chuyển các cảnh trình chiếu kiểu xi nê
hay sân khấu (ở một nhóm những câu thơ
nhất định, ta thậm chí còn nhận rõ ý vị phỏng nhại sân khấu tuồng hay cải lương
hoặc phim cổ trang - xin chú ý câu thơ Màn
nhung khép lại). Dĩ nhiên sự phiên chuyển đảo cảnh đó chỉ trong tích tắc: Rồi em chớp mắt. Một lần nữa, sắc thái
biếm nhại triết ý “giấc mộng hồ điệp” của Trang Tử được thăng hoa lên cực đỉnh
với ý vị hiện sinh luận - đời được cảm nhận trong khoảnh khắc nơi này - lúc
này, một khoảnh khắc chứa đầy băn khoăn và hoang mang...
Ngoài
ra, có rất nhiều bài thơ có bút pháp, thể thơ và cách tổ chức bài thơ gây ấn tượng. Những thể nghiệm về hình thức luôn ẩn chứa những tư tưởng, suy nghĩ về cuộc
đời, về kiếp người của các thi sĩ đương đại, nhất là các thi sĩ theo khuynh
hướng hiện sinh.
4.2. Các sắc thái giọng điệu trữ tình hiện sinh
nổi bật
4.2.1. Giọng
điệu chán chường - sầu muộn
Giọng
điệu, theo cách hiểu thông thường, là giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ
nhất định. Giọng điệu có khi còn được hiểu như ngữ điệu: Là những biến đổi về
độ cao của giọng khi nói, khi đọc có liên quan đến tất cả một ngữ đoạn và có
thể dùng để biểu thị một số ý nghĩa bổ sung. Giọng điệu trong tác phẩm thơ nói
riêng, trong văn học nói chung, có một vai trò rất lớn đối với một trào lưu,
một trường phái, một giai đoạn văn học. Giọng điệu được xem là phương tiện cơ
bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học, là thước đo không thể thiếu để
xác định tài năng và phong cách độc đáo
của nhà văn. Giọng điệu bộc lộ thái độ tình cảm, lập trường tư tưởng đạo đức
của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định
cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng
“giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường, cách nhìn của chủ thể phát ngôn về
đối tượng được nói đến và đối tượng mà lời văn ấy hướng vào, vì thế, giọng điệu
là một thuộc tính có vẻ bề ngoài nhưng mang tính bản chất văn học” (Giọng điệu trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến).
Có nhiều kiểu giọng điệu trong thơ đương đại. Có khi là giọng điệu nhanh, gấp,
có khi giọng điệu ngọt ngào, có khi là giọng uất ức, giọng hoài nghi, giọng
triết lý, giọng buồn thương... Giọng điệu thể hiện lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò lớn lao trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. “Cái quan trọng
trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính
mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác” (I.S. Turgenev).
Giọng
điệu là một thành tố không thể thiếu được trong việc xây dựng và triển khai tư
tưởng, cảm xúc của nhà thơ. Đó là “phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học có vai
trò lớn trong việc tạo bản sắc riêng của mỗi cá nhân, một trường phái, một giai
đoạn văn học” [150, tr. 183]. M. Bakhtin cho rằng: “Giọng điệu bao giờ cũng thể
hiện thái độ lập trường của chủ thể”. Giọng điệu không chỉ là yếu tố hàng đầu
của phong cách nhà văn, là phương tiện quan trọng của tác phẩm văn học mà còn
là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm theo một
chỉnh thể.
Giọng
điệu trong thơ được xem là một hiện tượng nghệ thuật, là phương tiện biểu hiện
khả năng sáng tạo bộc lộ tài năng của tác giả. Đồng thời, giọng điệu còn là
biểu hiện của thi pháp của từng giai đoạn thơ ca nói chung trong thơ ca đương
đại nói riêng. Giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo thành phong cách nghệ thuật có
thể chi phối đến các phương diện nội dung và hình thức biểu đạt như nhịp điệu,
hình ảnh, gieo vần, dùng ngôn từ... Giọng điệu trong thơ biểu hiện phong phú và
ở nhiều cấp độ như giọng điệu một bài, một tập, hay cả chặng đường sáng tác của
nhà thơ, giọng điệu tác phẩm, giọng điệu nhà thơ, giọng điệu thời đại.
Giọng
điệu là một phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Nguyễn Đăng Điệp khẳng định:
“Với tư cách là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, giọng điệu bao giờ cũng được
tổ chức một cách công phu bởi nó là một cách nói, một phương diện bộc lộ chủ
thể tác giả nhà văn”. Giọng điệu là yếu tố riêng của quá trình sáng tạo, đi
cùng với nhạc điệu để tạo thành âm điệu cho tác phẩm văn học... Giọng điệu là
thái độ, cảm xúc của chủ thể đã được hình thức hóa ...Để tạo nên giọng điệu của
một tác phẩm người nghệ sĩ cần tổ chức ngôn từ theo một logic và hệ thống nhất
định. Qua giọng điệu thể hiện thái độ, lập trường quan điểm của chủ thể phát
ngôn về đối tượng mà nhà văn hướng tới. Trong thơ trữ tình, giọng điệu chính là
linh hồn của tác phẩm. Giọng điệu chính là điệu hồn của thi nhân, là những cung
bậc cảm xúc trữ tình được thăng hoa qua âm thanh ngôn ngữ. Giọng điệu trong thơ
in dấu ấn chủ quan của chủ thể sáng tạo. Qua giọng điệu trong thơ, người đọc
nhận ra âm hưởng của thời đại.
Giọng
điệu trong thơ Việt Nam đương đại rất đa dạng, phong phú. Sự đa dạng ấy xuất
phát từ sự đa dạng về đề tài. Sự mở rộng các đề tài trong thơ đem đến những
giọng điệu phong phú. Sự đa dạng còn xuất phát từ sự thay đổi vị thế, tâm thế
của người sáng tác. Họ không bị trói buộc bởi những khuôn mẫu mà được tự do cất
lên tiếng nói cá nhân cá thể. Ngoài ra, sự đa dạng còn bắt nguồn từ ý thức về
sự cách tân đổi mới hình thức thơ ca.
Cùng
với những thay đổi trong tư duy, quan niệm là sự thay đổi trong giọng điệu. Đó
là “một sự thay đổi về chất” của thơ ca đương đại. Cách sử dụng hình ảnh, ngôn
ngữ, nhịp điệu, các phương thức chuyển nghĩa, cách dùng từ ngữ mới lạ... cộng
hưởng tạo nên một giọng điệu đa thanh phức hợp trong thơ Việt. Thơ đương đại có
sự thay đổi trong cách thức lựa chọn và kết hợp ngôn ngữ thơ, cấu trúc cú pháp,
cách tổ chức văn bản ngôn từ... hướng đến những giới hạn mờ khuất của cá nhân
cá thể, vô thức, tiềm thức, nghịch dị, phi lý... Trong thơ Việt đương đại, nhà
thơ hướng vào thế giới nội tâm, lấy cái tôi làm chủ đạo. Sự phong phú trong
giọng điệu thơ Việt đương đại thể hiện nội dung tư tưởng hiện sinh, qua các
kiểu giọng như giọng hoài nghi, giọng chất vấn, giọng triết lí.
Giọng
điệu buồn chán thường xuất hiện qua những câu thơ được gợi cảm hứng từ
những vấn đề nhân sinh thế sự, về đời sống riêng tư của con người. Con người
bước ra từ chiến tranh cảm thấy cuộc sống vô nghĩa, cảm thấy bi quan mất phương
hướng. Giọng thơ giờ đây không còn hào sảng, sung sức mà trầm xuống, đầy trăn
trở với những âu lo băn khoăn mang màu sắc triết luận. Nỗi buồn trở thành dòng
chủ lưu của thơ sau năm 1986.
Thơ ca
biểu đạt nỗi buồn chán mang tâm thức hiện sinh trên mấy cấp độ: 1) Buồn chán
chính mình; 2) Chán người khác; 3) Buồn chán về nhân thế. Giọng điệu buồn chán
vì bị đánh mất chính mình. Giọng điệu buồn chán vì thấy mình bơ vơ lạc lõng, đáng
thương. Cuộc đời rộng lớn mà con người cảm thấy lòng lạnh lẽo. thờ ơ như bị bỏ
rơi. “Tôi ngồi nghe im lặng/ Thấy lòng
mình thờ ơ/ Ôi những lời thương mến/ Sao tim tôi hững hờ? /.../Sao tôi không
xúc động/ Sao tôi không vấn vương/ Tôi cứ bơ vơ mãi/ Giữa cuộc đời mến thương”
(Tạ lỗi - Phan Thị Thanh Nhàn). Nhà
văn Nam Cao nói “còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình” …Khi mình chán chính
mình là khi không còn niềm vui, không còn gì tha thiết ở trong cuộc sống. Nếu chẳng còn gì ao ước ở trong tôi/ Thì có nghĩa
chẳng còn gì để mất”. Tác giả Lâm Thị Mĩ Dạ cảm thấy như chết chìm trong
nỗi buồn. Đó là nỗi buồn thầm lặng len thấm trong cơ thể chỉ bản thân người đó
cảm nhận được không thể chia sẻ
cùng ai: Em chết trong nỗi buồn/
Chết như từng giọt sương/
Rơi không thành tiếng”
(Viết tặng nỗi buồn riêng)... Nỗi buồn được thể hiện qua tác phẩm các nhà thơ như: Mùa sạch (Trần
Dần), Bóng chữ (Lê Đạt),
Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng),
Sự mất ngủ của lửa, Những
người đàn bà gánh nước sông, Nhịp điệu châu thổ mới, Bài ca những
con chim đen (Nguyễn Quang
Thiều), Khát, Linh, Đồng Tử (Vi Thùy Linh), Bầu trời
không mái che (Mai Văn Phấn), Nằm nghiêng, Rỗng ngực (Phan
Thị Huyền Thư), Lô
lô (Ly Hoàng Ly), Những kỉ
niệm tưởng
tượng (Trương Đăng
Dung)...
Nỗi
buồn hiện sinh thường xuất hiện khi con người cảm thấy sợ hãi, âu lo. Đó là nỗi
buồn cố hữu không rõ nguyên nhân. Nỗi buồn xuất phát từ việc con người ý thức
giá trị cuộc sống của bản thân. Khi con người nhận thức được giá trị của cuộc
sống, giá trị về sự tồn tại của mình thì con người càng cảm thấy ưu tư. Con
người luôn hoài nghi về cuộc sống và về chính mình. Do vậy, nỗi buồn gắn với sự
suy tư, sự truy vấn trước muôn vàn câu hỏi về cuộc sống đầy phi lí. Nỗi buồn
được cho là “dấu hiệu nhận biết sự thức tỉnh ý thức của con người hiện sinh,
đưa con người tìm về chính nó” [113, tr. 37].
Giọng
điệu trong thơ ca hiện sinh thường mang âm điệu buồn, suy tư. Trong thơ Nguyễn
Quang Thiều, người đọc nhận ra từ những sự việc, từ những hình ảnh, biểu tượng,
nhà thơ thường suy tư miên man đến vô tận về những sự bất an bất trắc của con
người. Trong thơ ông, Làng Chùa, Sông Đáy không chỉ là quê hương, là cội nguồn
mà còn là không gian để nhà thơ thả hồn mình suy
tưởng về cuộc sống. Khi tác giả viết “Tôi khóc những cánh đồng rau khúc”, giọng thơ mang âm điệu buồn
chán khi chứng kiến cảnh cánh đồng rau khúc không còn được bình yên. Âm điệu
buồn đó còn biểu đạt nỗi đau cho quê hương xứ sở tạo ấn tượng sâu sắc trong
người đọc.
Giá tôi được bình yên như hạt thóc trong bồ
Tôi sẽ ngủ ngon lành để sớm mai ra ruộng mạ Bật lá mầm ngơ ngác trước bình minh
(Đêm gần sáng)
Khi
ngắm sao trời, Nguyễn Quang Thiều đã đặt ra bao câu hỏi:
Ta không thể nuôi nhau bằng những ánh sao
trời Anh nói vậy xin em đừng khóc
Những ngọn tóc em đổ xuống ngực anh Như những
rễ cây bò buồn trong sỏi đá
(Những ngôi sao)
Giọng
điệu bài thơ là giọng tâm sự, giọng kể lể trần tình chứa đựng những âu lo về
nỗi buồn len lỏi bò đi, bám vào mọi ngõ ngách của không gian cuộc sống con
người. Có khi giọng điệu bài thơ cho thấy sự bâng khuâng, suy tư: Tôi
cần có những đêm gần sáng/ Để thấy chính mình soi bóng xuống suy tư” (Đêm gần
sáng- Nguyễn Quang Thiều). Có khi
đó là giọng điệu buồn trước những mặt trái của cuộc sống: Thế giới còn lại từng đó con người/ Chúng ta tắm trong đầm lầy nhu nhược
và ngao mạn/ Bong bóng bùn mở miệng mỉa mai chúng ta (Những học sinh mới và một thầy giáo cũ - Nguyễn Quang Thiều).
Trong
thơ Mai Văn Phấn cũng bộc lộ những suy tư, nỗi buồn đến từ những điều nhỏ nhặt
trong cuộc sống: “Những thửa ruộng, nóc
nhà, bóng cây mái tóc/ Chuyển động lặng im, vụn rời không quy luật/ Ta chạy qua
những ô cửa lấp lóa/ Ngã bảy ngã ba nờm nợp bóng người/ Nơi công cộng tiếng hỏi
chào vồn vã” (Cấu trúc tạm thời).
Những
sinh hoạt đời thường cứ đều đặn diễn ra theo nhịp sống hàng ngày. Nhưng nếu con
người để ý suy nghiệm thì sẽ nhận ra trong nhịp đời thường nhật đó cũng gợi lên
bao suy tư. Những chuyện đời thường vẫn thế còn số phận con người thì luôn phải
ưu tư trăn trở vì sự tồn tại của con người luôn đối diện với hư vô. Con người không
bao giờ đứng yên trong sự tồn tại hiện tại, với cái “đang là” mà luôn vươn tới
cái “sẽ là”. Càng vươn lên, con người càng nhận ra cõi hư vô và cuộc sống là
một chuỗi những dự định không khẳng định được về tương lai sẽ như thế nào.
Chính điều đó càng khiến con người lo lắng bất an. Và càng suy tư càng buồn
càng phát hiện ra mình không có bất cứ điểm tựa nào ngoài bản thân mình và chỉ
chính mình. Con người luôn nỗ lực vươn tới cái sẽ là nhưng cũng không chắc chắn
đó là cái gì vì vậy luôn đối mặt với cái hư vô và con người luôn có cảm giác sợ
hãi, lo sợ. Hiểu như vậy, con người càng âu lo băn khoăn. Con người thường đặt
câu hỏi Ta là ai? Ta đến với cuộc sống này để làm gì? Vạn vật nó vẫn tồn tại
theo quy luật của nó còn con người không ngừng day dứt truy vấn vì luôn ẩn chứa
nỗi âu lo, buồn và bi quan về những gì
đang diễn ra trong cuộc sống con người.
Với
giọng thơ trầm buồn, nhà thơ Inrasara đã viết: Tôi đã nuôi hy vọng cuối cùng/ Vào lộ trình đem tịch mịch / Mai rồi
trôi về đâu - không biết” (Hành trình). Giọng thơ buồn chứa đựng triết lý
đậm màu hiện sinh khi con người luôn mơ hồ về tương lai. Giọng điệu góp phần
biểu hiện giá trị tác phẩm và bộc lộ tư tưởng và quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ.
Có khi Inrasara bộc lộ suy tư, suy nghiệm qua giọng trầm lắng, u buồn: Anh có hẹn/ mùa sau hái tuyệt tác trần/ ngày
đi, ngày qua - hơi thở anh hiu hắt (Ngụ ngôn viết cho mình).
Giọng
điệu buồn suy tư được nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên sử dụng khi biểu đạt nỗi buồn
riêng trong cuộc đời: Có gì phải mắc cỡ
khi nói rằng em nhớ anh/ em nói với bầu trời đầy mây/ với những chiếc lá co ro
trên cây chờ mong nắng ấm/ em nói với bờ cỏ hiền lành/ và nói với con chim cô
độc / rằng chẳng biết bây giờ anh ở đâu. (Trời thành phố đầy mây). Phạm Thị Ngọc Liên nói về những đắng cay
phải chịu đựng trong tình yêu: Đó là lời thơ được viết ra từ chính những hạnh
phúc khổ đau người đàn bà đã trải qua. Ý Nhi nhận xét thơ Phạm Thị Ngọc Liên
khi viết về tình yêu “luôn chảy như một dòng thác từ ngữ”. Đó là tiếng lòng của
người phụ nữ thấu hiểu lẽ đời, sống bao dung và giàu lòng nhân ái. “Ôi nước mắt đắng cay đau như rượu ấy/ Em
uống một mình/riêng lẻ một mình say”. Tâm trạng chán chường con người
thường tìm đến rượu “Chỉ có rượu mới phá
được thành sầu” (Khuất Nguyên). Vậy nhưng có những nỗi uồn đến rượu cũng
không làm con người vơi bớt được nỗi cô đơn. Phạm Thị Ngọc Liên với giọng điệu
buồn chán nhưng đã sáng tạo những vần thơ đầy thâm trầm triết lý về con người.
Triết lý ấy được cô đọng từ sự chân thành trước cuộc đời và trước chính mình: Tôi soi gương/ Bản cung khai tự thú/ Mặt trước mặt sau/ Đời và đời/ Tôi thấy
tôi tươi vui, thấy tôi già cỗi/ Thấy tôi chân thật, thấy tôi lọc lừa/ Tôi lẳng
lơ, tôi đứng đắn/ Tôi cuồng nhiệt, tôi lạnh băng/ Tôi độc ác dịu dàng/ Tôi ma
lanh khờ khạo/ tôi nhìn tôi không chỗ nào che dấu/ Và tôi nhìn tôi/ Bình minh
nhìn xuống đêm thâu...
Giọng
điệu buồn thương nhưng chứa đựng những khái quát về những mặt đối lập tồn tại
trong mỗi con người. Con người dám tự soi vào chính mình đó là thái độ chân
thành và cầu thị, mong muốn cái tôi bản thể được hoàn thiện. “Tên những bài thơ, tập thơ của chị viết
ra đều thể hiện những nỗi niềm cô đơn, khao khát, mơ ước, sự trăn trở lẫn nỗi
hụt hẫng, xót xa”. (Nguyễn Văn Hòa).
Chính nỗi buồn đã kết đọng trong những bài thơ đầy trắc ẩn của nhà thơ. Tác giả
đã chạm đến những cung bậc nỗi niềm sâu kín của người phụ nữ khát khao hạnh
phúc, tình yêu: Con chim sẻ đứng trên mái
ngói kia/ Muốn nói gì với mặt trời/ Lời chim thì nhỏ/ Bầu trời thì cao.../ Mối
tình anh như mái ngói đầy rêu/ Nỗi buồn đóng thành tầng/ Em dẫm vào trượt ngã/
Vết nhói đau đến lạ…Em ngã trong nỗi buồn thầm lặng/ Gìà nua/ Mệt nhoài.../ Gíá
như anh có một lần biết được/ Em muốn như con sẻ kia/ Bay đi/ Bay đi/ Dù không
đến được mặt trời. (Một mình trong chiều).Trước cuộc sống vô thường, nhà thơ
luôn nhận ra những mất mát khổ đau của người phụ nữ qua giọng điệu buồn. Người
phụ nữ buồn vì hạnh phúc luôn lệ thuộc vào người đàn ông họ đem lòng tin yêu.
Nhưng cuộc đời không thiếu những con người thiếu trách nhiệm, phũ phàng: Nếu em đừng gặp anh/ Đêm sẽ không thao thức/
Hơi thở đầy lồng ngực/ Khói rộn ràng nôn nao/ Thế mà cứ gặp nhau/ Mừng như cành
gặp lá/ Một chút gì keo sơn/ Giữ đời ta ở đó/ Một chút gì như lụa/ Buộc đời ta
vào nhau (Tại sao mình gặp nhau).
Cảm nhận nỗi buồn mênh mang trước cuộc đời bằng giọng điệu âu lo, suy tư: Sẽ có một ngày/ tôi biết/ trái tim tôi sẽ
ngừng đập/ cảm giác tôi không còn/ chiếc bóng tôi biến mất/và nỗi buồn tôi như
đại dương kia/ không còn bờ bến/ sẽ tan thành hư vô... (Nỗi buồn của chiếc
bóng). Với thể thơ tự do, hình thức thơ biến hóa linh hoạt, “cách diễn đạt
trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên vừa trực cảm vừa vô thức đã tạo cho thơ chị một
lối đi riêng và rất hiện đại.
Từ
trước năm 1986, Lưu Quang Vũ từng ghi lại tâm trạng mình trong những khoảnh
khắc thời gian trôi quá vô nghĩa. Con người buồn vì chính mình tự cảm thấy
buồn, âu lo không lí giải được. Đó là nỗi buồn xa xôi ưu tư về kiếp người phi
lý, tẻ nhạt không biết điểm đầu không biết điểm kết thúc... Con người cảm thấy
bất lực: “Có
những lúc tâm hồn tôi rách
nát/ Như một chiếc lá khô như một chồng gạch vụn/ Một tấm gương chẳng biết soi gì/ Một đáy giếng cạn không một hốc mắt đen sì/ Trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng” (Có những lúc). Đây quả thật là đỉnh cao
của nỗi buồn chán khi con người thấm thía sự cằn cỗi trước cuộc sống khi cảm
thấy mình như kẻ thừa, kẻ lạc lõng trong một thế giới rộng lớn. Hàng loạt những
hình ảnh được so sánh, được liên tưởng như “rách nát, gạch vụn, lá khô, đáy
giếng cạn, chiếc lồng” kết hợp những từ ngữ chỉ mức độ “khô, cạn, chật chội”
khiến người đọc hình dung cuộc sống thật bức bối, ngột ngạt. Sự ngột ngạt vì
thiếu sinh khí của tình người, của những chân giá trị. Thế giới hiện ra trống
rỗng, đáng sợ.
Ẩn ngữ
đậm chất hiện sinh Một đáy giếng cạn
không một hốc mắt đen sì không thể không khiến ta nhớ khổ thơ ám ảnh của
Trần Dần:
Hố mắt bạn tôi sâu như nấm huyệt Có thể chôn
một chiếc quan tài
(Bài thơ Việt Bắc)
Bài thơ
trên về sau in trong tập thơ cùng tên Bài
thơ Việt Bắc, Nxb Hội Nhà văn, 1990, tr. 44 (nguyên đề tập thơ “Ði! Ðây
Việt Bắc!” là một trường ca 13 chương sáng tác năm 1957. Chương 13 nhan đề “Hãy
đi mãi” in lần đầu trên báo Văn số 28 ngày 15/11/1957 không còn thấy trong bản
in năm 1990.
Cái
chết - sự tan biến của kí ức - trống rỗng bao trùm - những sợi chỉ hiện sinh đó
hiện hình trong những hình tượng thi ca ám ảnh các thế hệ thi nhân Việt Nam
hiện đại từ Trần Dần qua Lưu Quang Vũ “Hố
mắt … nấm huyệt” “Trời … chiếc lồng trống rỗng”. Nỗi buồn trong thơ Việt đương đại còn là
nỗi buồn vì thiếu sự chia sẻ, cảm thông của đồng loại, của người khác. Ly Hoàng
Ly viết: Sao nỗi buồn cứ thích bám vào
tóc mỗi đêm hai mươi chín sợi/ Để sáng ra ngầu trắng mắt” (Lô Lô). Nỗi buồn
vô hình nhưng bám víu bủa vây con người. Nỗi buồn khiến con người bị bóp nghẹt
sinh lực, bị tàn hại về thể chất lẫn tinh thần. Mỗi đêm đến hai chín sợi tóc
bạc. Con số ngẫu nhiên nhưng để diễn tả đêm như dài ra đằng đẵng. Đó là những
đêm trắng vì buồn vì thao thức vô vọng. Con người sống trong cuộc đời mà như
một sự đày đọa, một sự hành xác đến khổ sở. Giọng điệu buồn được tạo nên bởi sự
cộng hưởng của từ ngữ, hình ảnh. Nỗi buồn như tràn lên mọi không gian rồi quấn
chặt lấy con người, len lỏi vào tóc vào đầu tạo nỗi buồn dai giẳng, triền miên.
Đó không phải là điều hiếm thấy trong cuộc hiện sinh của con người. Con người
càng muốn vượt thoát, nỗi buồn lại cứ đeo bám không buông rời. Đó là bản chất
của cuộc sống hiện sinh. Con người phải thỏa hiệp sống chung với nó. Xem đó là
cửa ải cần vượt qua chính mình. Nỗi buồn trong thơ đương đại hướng đến việc con
người biết chấp nhận nỗi buồn, xem nỗi buồn như một án lưu đày. Vì vậy,
Inrasara khẳng định “tôi còn buồn là tôi còn sống”.
4.2.2. Giọng
hoài nghi - cật vấn
Thơ sau
năm 1986, đề tài chủ yếu là viết về đời tư thế sự. Vấn đề con người, cá tôi cá
nhân được khai thác ở mọi bình diện, mọi mối quan hệ. Thơ hôm nay trở về với
cái hữu thể, cái bản thể của chính mình từ lâu đã bị bỏ quên. Người nghệ sĩ đi
sâu khám phá đời sống nội tâm bên trong của con người đầy bí ẩn, phức tạp. Sau
chiến tranh con người biết tự nhìn
nhận lại chính bản thân mình. Và
con người cảm thấy hoài nghi, hoang mang trước những mất mát những đau thương
phải hứng chịu trong chiến tranh. Đặng Thu Thủy đã có sự dẫn dắt để khẳng định điều này: “Họ vỡ lẽ ra nhiều điều, nhận
ra nhiều ảo tưởng. “Tự ru mình bằng truyền
thuyết ấu thơ/ Ưa bám víu mãi niềm tin nguyên thủy” suốt một thời
giờ đây Bằng Việt thấy ân hận xót xa
“Tôi mất nửa đời trả giá cho truyền
thuyết” (Bánh chưng Bánh dày) [Dẫn theo 150, tr. 184].
Sự hoài
nghi là vì thực tại phi lý. Hoài nghi vì sự tồn tại của kiếp người. Cuộc sống hiện đại với đầy đủ điều
kiện vật chất nhưng các nhà hiện sinh khẳng định rằng con người ngày càng có
cảm giác cô đơn. Con người cô đơn bởi thực tiễn cuộc sống tầm thường, rạn vỡ
nhốn nháo tạo nên sự chấn thương tinh thần. Cuộc sống phi lí tầm thường tẻ nhạt
dẫn đến trạng thái hoài nghi, ù lì, bi quan. Con người sống phụ thuộc tha nhân
không còn được là chính mình. Do vậy họ có tâm trạng hoài nghi trước thực tại
đầy phi lý, trước sự vô nghĩa vô vị của cuộc sống. Để tồn tại, con người trải
qua quá trình đấu tranh tư tưởng, con người thức tỉnh để vươn lên. Giọng hoài
nghi thường được tạo nên trên cơ sở xây dựng những vấn đề đối lập. Chẳng hạn
thật và giả, thanh cao và thô tục, tốt và xấu, bề ngoài và thực chất bên trong,
giữa lý thuyết và thực tế, giữa ảo và thật... Con người bắt đầu hoài nghi về
những giá trị đã có, mà nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào gọi đó là “âm vang của một
khủng hoảng xã hội”.
Nhà thơ
Inrasara trong Chuyện tôi đã dùng
hình thức nghi vấn kích gợi ý thức phản tỉnh nơi người đọc:
Tôi đang làm gì là gì
Nhà thơ nhà nghiên cứu nhà kinh doanh hay
miếng giẻ rách.
Kiếp trước chắc chắn tôi là chim kiếp sau
làm loài ếch có lẽ kêu ồm ộp ngoài mưa
Trí
thức không hẳn trí thức
truyền thống không thật truyền thống thi ca
vắng mặt thi ca
Tôi kêu ồm ộp trong mưa thật to
Nhà thơ
đặt ra những hoài nghi trước cuộc đời về chính bản thể con người, về “thân phận con người trong guồng quay hỗn độn”
đầy những ngẫu nhiên bất trắc trước cuộc sống lơ lửng sự bất an. Chưa bao giờ
vấn đề thân phận con người lại được đặt ra ráo riết như trong thời kì hiện đại
khi con người đối mặt với nhiều sự đổ vỡ như vậy. Con người là ai là gì trước
cuộc sinh tồn? Trí thức chẳng phải là trí thức đúng nghĩa, doanh nhân chẳng
phải doanh nhân đúng nghĩa. Nhân vật trữ tình tự nhận mình như con ếch kêu ồm
ộp giữa nhiều mắt xích cuộc sống với sự đối lập nhiều thang giá trị. Khi nhìn
vào xã hội chỉ thấy con người thiếu nhân tính, khoảng cách giàu nghèo ngày càng
xa. Đằng sau sự hoài nghi đã chứa đựng sự phản tỉnh về con người, về hiện thực
đời sống xã hội.
Inrasara
viết Đứa con của đất sử dụng giọng kể
theo trật tự tuyến tính thời gian của các sự kiện diễn ra trong trường ngôn ngữ
giàu biểu cảm và đậm chất thơ: “Lớn lên/
Tôi đụng đầu vào chiến tranh/ Tôi đụng đầu với áo cơm, cơ cấu, hiện sinh, hiện
tượng/ Tôi chới với giữa dòng ngữ ngôn hoang đãng/ Rồi cuộn tròn trong thung
lũng tình yêu em”. Nhân vật trữ tình nhập vai đã tường thuật lại cuộc đời
mình theo một trình tự từ khi lớn lên. Đó là hành trình khi đứa con của núi
rừng Tháp Chàm lớn lên đã “đụng đầu”
với chiến tranh, đã phải chứng kiến cảnh quê hương đổ máu, loạn lạc mang nỗi
buồn thời đại. Rồi đứa con núi rừng bước vào chặng đời lo lắng mưu sinh vì cơm
áo. Đặc biệt khi biết cầm bút làm thơ viết văn lại đụng phải sự thay đổi bao hệ
tư tưởng, triết học. Nhân vật tôi chới
với, lúng túng không biết đi theo ngả nào. Và cuối cùng là cuộn tròn, quấn vào
cuộc sống gia đình với tình yêu, với bao lo toan đi hết một đời. Lời thơ với
giọng điệu kể đượm sắc thái buồn thương. Dù không có những từ ngữ có tính than vãn nhưng người đọc
cũng nhận ra được những chặng đường chông gai mà một con người đã trải qua
trong cuộc đời. Nhân vật trữ tình kể lại những sự kiện lớn mà đời người đã trải
với giọng lạnh lùng khách quan nhưng bên trong chứa đựng một cái nhìn bao quát
về chặng đời của con người buồn nhiều hơn vui, chủ yếu phải đối mặt với bổn
phận trách nhiệm và phải tự quyết cho số phận mình khi con người sinh ra phải
sống với tha nhân, phải lệ thuộc vào tha nhân và thế giới bên ngoài.
Giọng
điệu biểu đạt nỗi buồn chán của con người còn là do sự tác động ảnh hưởng từ
người khác, do tha nhân. Đằng sau nỗi bất an, con người vẫn luôn cần mẫn kiên
trì trỗi dậy để níu giữ bản ngã đang “suy
tàn ghê gớm” Đồng thời nhân vật trữ tình cũng chỉ ra lý do để tồn tại là
con người phải không ngừng vươn lên, không ngừng dấn thân để được sống đúng với
những khát vọng đúng đắn: “Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên/ Rồi tôi rướn mình qua khỏi hổ hang
quá khứ/ Như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống tan hoang thành phố/ Tôi tìm
lại tôi/ Tìm thấy nắng quê hương” (Đứa
con của đất - Inrasara). Nhân vật trữ tình vẫn tiếp tục giọng kể. Sau những
thăng trầm của cuộc sống, tôi ngóc đầu dậy, trườn lên, rướn lên bằng mọi nỗ lực
gồng mình như kẻ bị thương, bị vùi lấp trong đống hoang tàn của cuộc chiến đầy
khốc liệt ở Thành phố để tìm lại chính mình. Phải chăng khi rời quê hương,
quăng quật mình nơi phố xá để mưu sinh, nhân vật tôi tự thấy mình không còn là chính mình nữa giống như đang hòa lẫn
vào sự xô bồ náo nhiệt như một rô bốt không có cảm xúc, không có hơi thở nồng
nàn của quê cha đất mẹ. Bằng sự vượt thoát nổi loạn vẫy vùng mãi, nhân vật tôi
mới thoát ra khỏi sự vây hãm đáng thương để tìm về với niềm tin như ngọn nắng
ấm của sự sống chân thực của quê hương, của chính mình mà từ lâu đã bị đánh mất... Kết thúc cho lời tự
sự chính là phần cuối cuộc hành trình của nhân vật tôi. Đó là niềm vui được
sống chính là mình khi được trở về nơi chôn nhau cắt rốn: “Lại xanh trong tôi - dù rừng đã cháy/ Lại chảy trong tôi - dù song đã
chết/ Chợt hanh lại cát - chợt buồn lại ru/ Chợt duyên lại em - chợt hoang lại
tháp/ Giọng mẹ xa vời dỗ giấc thiên thu” (Đứa con của đất - Inrasara). Sau
giọng kể chuyện tưởng như dửng dưng lạnh lùng
là dòng cảm xúc dồn chứa bùng lên như cây lại xanh, như rừng lại sống, như sông lại chảy. Nhân vật tôi trở về sống trong sự ôm ấp chở che của tình quê hương Tháp
Chàm, của tình yêu với người yêu, người vợ và đặc biệt lại trở về trong
âm thanh vang vọng tiếng mẹ dỗ dành như trẻ lại tuổi thơ. Đằng sau lời kể về
cuộc đời dài dặc là chất thơ thấm quyện đưa đến cho người đọc cảm xúc thẩm mĩ về tình người,
tình quê hương xứ sở.
Sự hoài
nghi về hiện thực cuộc sống nhân vị đã được nhà thơ Lưu Quang Vũ bày tỏ sự trăn
trở về bản thể mình qua những câu hỏi đầy suy tư: “Ta là ai? Ta đến để làm gì... Ta đến làm gì ta sẽ đi tới đâu?” (Bài hát trong một cuốn phim cũ). Những
câu hỏi là sự tự vấn lòng mình về sự tồn sinh của cái tôi bản thể trước hiện
hữu, trước hư vô. Nhà thơ suy nghiệm về cuộc đời và nhận ra sự trống rỗng cũng
như sự phi lý của con người: “Không có
làng quê nào để từ bỏ/ Không có thành phố nào để đi đến/ Không có vật quý nào
để mất/ Không thư ai để chờ/Không hòn đảo nào để phát hiện/ Không thành quách
nào để chiếm lĩnh/ Không vị thần nào để tin/ Không quỷ ma nào để sợ/ Không
thuộc bài hát nào để tự hát lên/ Không có góc tối nào để một mình giấu mặt/
Không người con gái nào để thương yêu/ Không người đàn ông nào để trọng/ Không
có kẻ thù nào để ác?/ Không có tội lỗi nào để phạm/ Không có cả một nỗi buồn để
khóc/ Cũng chẳng có chiến lũy nào để chết/ Chúng ta làm gì cho hết buổi chiều
nay?” (Không - Lưu Quang Vũ). Bài
thơ sử dụng đến 15 từ “không” tạo ra
một cách diễn đạt mới lạ. Ẩn chứa sau những điều “không” có là sự hoài nghi, sự tra vấn về hiện hữu cuộc sống của con
người. Có khi con người rơi vào khoảng không mông lung của sự trống rỗng, con
người trở nên cô đơn không tìm được một sợi dây gắn kết với cuộc đời. Đó là một
cái tôi tuyệt vọng sầu buồn trước cuộc sống. Câu hỏi cuối cùng “Chúng ta làm gì cho hết buổi chiều nay?”
ám ảnh và làm day dứt lòng người. Đối diện với chính mình bằng những câu hỏi
tra vấn về cuộc sống xung quanh. Có khi nhà thơ cảm nhận những sự mong manh của
kiếp người: “Mưa cướp đi ánh sáng của
ngày/ Đường chập choạng trăm mối lo khó gỡ/ Thức chẳng yên dở dang giấc ngủ/
Hạnh phúc con người mong manh mưa sa” (Anh
chỉ sợ rồi trời sẽ mưa - Lưu
Quang Vũ). Ý thơ đượm nỗi âu lo mang tính hiện sinh. Con người luôn ám ảnh bởi
những nỗi sợ vô hình. Sợ vì không chắc chắn được về thực tại và tương lai: “Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ Thương vườn cũ
gẫy cành và rụng trái/ Áo em ướt để anh buồn rồi khóc mãi/ Ngày mai chúng mình
sẽ ra sao em ơi?” (Anh chỉ sợ rồi
trời sẽ mưa - Lưu Quang Vũ). Luôn thường trực nỗi âu lo vì cuộc đời phi lý
của con người, Lưu Quang Vũ lý giải về
nỗi buồn về thân phận hư hao mỏng manh của con người: “Ôi nếu phải tan thành bụi cát/ Thành hư vô, không khí trời, không ánh
sáng/ Chỉ rỗng không câm lặng, vô hình” (Bài hát ấy vẫn còn là dang dở - Lưu Quang Vũ). Lưu Quang Vũ luôn
suy tư về kiếp người phi lý vô thường: “Khi
cánh cửa cuối cùng khép lại/ Chẳng còn gì ngoài cõi hư vô? Cha thương yêu những
dòng sông không ngừng chảy” (Buổi
chiều ấy). Cuộc sống luôn đổi thay, tất cả những gì đang tồn tại sẽ trở
thành quá khứ: “Ai biết ngày mai sẽ có
những gì/ Người đổi thay năm tháng cũng qua đi/ Giữa thế giới mong manh và biến
đổi” (Và anh tồn tại). Cuộc sống
đang diễn ra hàng ngày với bao bộn bề đời thường hòa lẫn trong cái tầm thường
thậm chí buồn nôn, phi lý: “Quán cà phê chạng vạng khói bay/ Mùi khói cũ cay xè con mắt/ Ngồi quanh bàn
giờ bao người lạ khác/ Cãi ồn ào
những chuyện làm ăn/ Chỉ anh điên vẫn đứng sững ngoài đường/ Thân tiều
tụy ôm mặt cười lặng lẽ” (Quán cà phê ngoại ô). Cuộc sống bộn bề,
người với người trở nên xa lạ. Con người bị cuốn vào vòng xoáy cơm áo gạo tiền đâu đâu
cũng bàn tính chuyện làm ăn, toan tính bận bịu. Đối lập với cuộc
sống ồn ào chỉ có người điên, người không bình thường, không hiểu biết gì thì ôm mặt cười ngu ngơ lặng lẽ.Nguyễn
Trọng Tạo bộc lộ sự hoài nghi về thần tượng, lòng tốt “Khi đang đắm yêu có tin được bao giờ/ Rồi một ngày người ta yêu đổi dạ/
Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ/ Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn.” (Tản mạn thời tôi sống - Nguyễn Trọng
Tạo). Con người đầy sự hoài nghi về chính những điều mình hằng tin tưởng. Trong bài thơ Những đối
lập, Vi Thùy Linh đặt câu hỏi cật vấn: Hỡi những dòng sông/ Tại sao nước mặn chiếm ba phần tư trái đất/ Tại
sao con người lại ít cười hơn khóc (Những
đối lập). Câu hỏi muôn đời được đặt ra và cuộc sống vẫn tuần hoàn những mặt
đối lập ấy. Con người khó tìm được câu trả lời thỏa đáng. Và chỉ biết sống,
biết chấp nhận quy luật mà con người phải đối
mặt.
Giọng
điệu hoài nghi - cật vấn biểu lộ tập trung nhất, thường trực nhất cảm niệm hiện
sinh về “phù ảnh” của kiếp người xuất hiện nổi bật ở thơ Cát Du. Tần suất dày
đặc của câu ngữ điệu hỏi trong thơ nhà thơ nữ này thậm chí cho phép ta xem đó
như là một dấu hiệu thi pháp phong cách thơ nổi trội. Hiện hữu trong thơ Cát Du
là giọng điệu hoài nghi. Hoài nghi ngay cả khi đối diện với chính mình: Em đang làm
gì?/ Soi gương/ Soi gương làm gì?! Tìm em/ Em sao? (Ủa lạ nào). Luôn trở đi trở lại câu hỏi
mang tâm thức hiện sinh tồn tại hay không tồn tại, trở thành nỗi ám ảnh trong
sự suy tư hoài nghi của con người. Không có cái gì là vĩnh cửu, chính bản thân
mình cũng có lúc cảm thấy lạc lõng xa lạ
với chính mình: Em ngắm anh mỗi ngày/ Mà
sao bỗng lạ? / Những tế bào yêu của ngày hôm qua đã chết/ Cuốn đi nụ hôn nồng
của em/ Đôi môi mới của ngày hôm nay lạnh lùng thờ ơ quá thể/ Em nhìn thấy
người đàn bà hệt em/ Trong mắt anh lạ lẫm/ Em của ngày qua đâu rồi? / Đâu rồi
anh? /Anh của ngày qua đâu rồi? (Lạ hoắc).
Cát Du
có một thi tác nhan đề là một lời cảm thán - Ủa, lạ nào!Về mặt kết cấu có thể hình dung văn bản bài thơ lan trải
như là một cuộc đối thoại hoặc cũng có thể là một phân thân độc thoại chỉ của
một cái tôi trữ tình Em. Tùy vào cách
đọc mà ta có thể chọn lấy một cách xác định kết cấu này… Điều quan trọng là dù
đọc theo cách nào thì vẫn nổi bật lên một tâm tư hoang mang biến ảo bất định
của chính cái chủ thể lung linh sắc màu hiện sinh. Chủ thể này ngơ ngác giữa
cảm thán “Lạ nào!” và băn khoăn “Rồi sao?”. Bài thơ không dài, nhưng luận
phiên sáu câu hỏi - “Em đang làm gì ?/
Soi gương tìm gì?/ Em sao?/ Rồi sao nữa?/ Rồi sao?/ Có phải em không?/ Thế em
đâu rồi?”. Đó là không kể đến một câu hỏi khác không độc lập thành một hàng thơ, nó là câu hỏi “hòa lồng” vào câu trần thuật -
trần thuật về một cảm nhận cũng đầy sắc thái hiện sinh nhuốm chút hài hước phúng
dụ: Em giống nàng Nguyệt Nga mặc đồ cổ
trang và ngồi trên xe ngựa liếc tình với Lục Vân Tiên (là em nghĩ thế chứ không
biết có phải chàng Lục không. Vì chưa nhìn thấy bao giờ). Con người có
những khoảnh khắc tự thấy mình như lạc lõng, bị bỏ rơi. Những khi cô đơn con
người trở nên hoài nghi những cái tưởng chừng như có trật tự và giá trị trong
cuộc sống. Khi rơi vào trạng thái cô đơn, con người cảm nhận thấm thía sự trống
rỗng sự phi lí và hoài nghi về cuộc sống. Ngữ điệu truy vấn bộc lộ cảm thức
hoài nghi thảng thốt trước tồn tại hiện sinh biến ảo phù động của con người
vang động cả bài thơ Nhìn - một thi
tác cách tân của Cát Du:
Em ở đâu?
Em ở đâu?
Em ngồi trong hốc mắt
Em ngồi trong hốc mắt làm gì?
Em làm gì?
Em nhìn
Em nhìn gì?
Nhìn em
Em thấy gì?
Chả thấy
Sáng trưng em chả thấy!
(Nhìn)
Sự kết
hợp thực và ảo đưa đến những băn khoăn, những câu hỏi về chính con người. Có
khi tưởng như mỗi người tự hiểu chính mình nhưng thực ra mỗi con người là một
tiểu vũ trụ đầy bí ẩn phức tạp. Chính mình là một bản thể nhưng mình cũng không
cắt nghĩa, lí giải được những phần bí ẩn sâu thẳm của chính mình do vậy suốt
cuộc đời vẫn lơ lửng những câu hỏi hoài nghi về chính bản thể người.
Giọng
hoài nghi cũng được thể hiện rõ trong thơ Vi Thùy Linh khi viết về tình yêu.
Sau những vần thơ tưởng như mạnh mẽ, cuồng nhiệt, người đọc nhận ra những lo
sợ, yếu đuối của người phụ nữ trong tình yêu: Em cứ tìm Anh/ Cứ thế mãi sao/ Em lo âu, những con thuyền tim không
vượt nhịp dồn dập/ Có khi nào anh lí giải / Bí - mật - của - em (Em - bí
mật). Băn khoăn, hoài nghi vốn là một đặc tính trong tình yêu. Xuân Diệu cũng
từng nói “Có thể nào qua vạn lý trường
thành/ Hai vũ trụ chứa đầy bí mật”, Vi Thùy Linh luôn thường trực những câu
hỏi: Đêm mùa đông năm trước/ Em đã đi tìm
Anh/ Có phải tại mùa đông/ Hay Anh là giá lạnh? (Anh còn cho em). Có khi nhà thơ tự vấn chính mình: Em/ Người sống hết mình từ tế bào nhỏ nhất/
Người đã yêu dữ dội/ từ sức mạnh của phái yếu/ Lại khóc vì sắp khô nước mắt?
(Những câu thơ mang vị mặn). Giọng hoài nghi xuất hiện trở đi trở lại trong
thơ Vi Thùy Linh: Cuối tháng/ Chóng mặt/ Qúa nhiều gió thổi/ Em bắt đầu nghi ngại sức mạnh của chính mình.
(Em - bí mật). Người phụ nữ
khát khao đi tìm hạnh phúc, nhưng có khi đã thừa nhận sự thất vọng vì cuộc đời
không phải là cổ tích: Em ướm chân mình,
định uống nước trong một dấu chân, như cổ tích.../ Mà chỉ toàn dấu chân phụ nữ (Chân dung).
Hoài
nghi - cật vấn là một đặc điểm của con người trong thời kì hiện đại. Bởi vì xã
hội với trình độ khoa học kĩ thuật càng phát triển, con người bị chi phối bởi
cơ chế thị trường lạnh lùng. Trong xã hội ấy, mọi giá trị bị đảo lộn con người
càng trở nên lí trí tỉnh táo, hoài nghi.
4.2.3. Giọng
triết lý - tư biện
Triết lí là những quan niệm chung, thuyết
lí của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Sức hấp dẫn của một tác
phẩm thi ca là sự hòa trộn giữa trí tuệ và cảm xúc, giữa hình thức và nội dung.
Biểu hiện trong
trí tuệ và cảm xúc của người nghệ sĩ được chung đúc từ những suy tư và hoài nghi về sự hiện hữu từ đó tạo nên những tác phẩm thơ giàu chất triết lý. Tính
triết lý của ngôn ngữ thơ được thăng hoa từ những
cảm xúc và suy nghĩ trên cái nền của
đời sống hiện thực mà chủ thể sáng tạo đã trải nghiệm hoặc khám phá. Một người nghệ sĩ sáng tạo mang tính triết lý là người có quan
niệm và sự đánh giá đối tượng bằng lý tính được hòa điệu trong cảm xúc trữ tình.
Nhà thơ
thường thao thức và không ngừng khám phá, thức nhận thực tại và chính mình. Nhà
văn nhà thơ lớn còn được gọi là nhà tư tưởng, thể hiện cách cảm thụ riêng về
thế giới. Họ đóng vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp trình bày vai trò sứ mệnh
của thi ca trong cuộc sống. Để thực hiện thiên chức đó, người nghệ sĩ tìm đến
nhiều cách diễn đạt khác nhau trong đó có ngôn từ mang màu sắc triết lý. Qua
một số bài thơ của Trương Đăng Dung, ta thấy thơ ông giàu tính triết lý. Nhà
thơ muốn dẫn người đọc nhận thức một quy luật muôn thuở của con người là nỗi cô
đơn. Cô đơn trở thành bản tính cố hữu của con người. Xã hội phi lý đầy toan
tính, các giá trị bị đảo lộn do vậy con người cảm thấy khó hòa nhập. Có nghĩa
là nó đã hiện sinh từ khi hiện hữu về thân xác. Con người chỉ thực sự hiện sinh
khi ý thức được mình sống để làm gì, con người biết tự phản tỉnh chính mình.
Ngay khi còn là đứa trẻ thì con người đã biết suy tư, trăn ntrở hoài nghi về nguồn gốc sao mình sinh ra, vì sao mình
ở đây chứ không phải nơi khác. Trương Đăng Dung cho rằng con người “bị sinh ra”
bị ném vào cuộc đời. Ông dẫn ý thơ của nhà thơ Hy Lạp Nikos Kazntzakis: “Tôi bị sinh ra/ Tôi phải dấn thân/ Tôi hội
đủ những điều kiện chết/ Tôi không hi vọng gì” (Tự do). Và rồi kẻ người đó
sau này nghĩ lại “Tôi có tác phẩm
đầu tiên là tiếng khóc chờ đợi sau chín tháng ngồi im tập xếp hình dấu hỏi”
(Tự bạch).
Trương
Đăng Dung có cách diễn đạt đơn giản nhưng đậm chất triết lí sâu sắc. Ông luôn
nêu lên những phản tỉnh mang tâm thức hiện sinh. Con người đang tồn tại nhưng
đã trăn trở về tương lai: “Bây giờ con ở
đây/ Từng tán lá xanh đang lặng lẽ nép trong vườn/ Bàn chân con chưa để dấu
muôn nơi/ Những cánh hoa tay còn chưa chạm tới/ Trong mắt con trời xanh yên ả/
Những đám mây như gấu trắng bồng bềnh/ Bây giờ con ở đây/ Khi những cánh rừng
già châu Phi chết cóng giữa mùa đông/ Khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay
về xứ nóng/ Kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu/ Hôm nay con học đi/ Ông hàng
xóm chống gậy ra vuờn lê từng bước nặng nề/ Hôm nay con học nói/ Bà hàng xóm
thều thào với chồng về một miền quê thời tuổi trẻ/ Mai ngày con lớn lên/ Bố
không biết những điều con sẽ nghĩ/ Bố không biết những con voi còn chết cóng
phía trời xa/ Bố không biết những đàn chim còn bay về xứ nóng/ Bố chỉ mong trái
tim con đừng bao giờ lạc lõng/ Trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con”.
Tác giả nói với con hay đang nói với đồng loại? Bây giờ con được sinh ra trong
sự vui mừng chào đón của người già chống gậy, của mọi người thân quen. Khi con
còn bé thơ thì bao người đã đến mùa thu của đời để hoài niệm và để lo toan tuổi
già. Hiện tại con sống trong cuộc sống yên bình, bàn chân chưa nếm trải mọi khổ
đau nhọc nhằn. Cuộc sống tràn đầy hoa lá cỏ cây thơ mộng. Con được sống trong
thế giới yên bình mà ở các châu lục có người còn phải chịu đói rét, bão tố, hạn
hán, khủng bố,... Người bố không biết ngày mai cuộc sống của con sẽ thuận lợi
hay khó khăn nhọc nhằn. Dù có sao chăng nữa chỉ mong trái tim con đừng lạc lõng,
đừng thờ ơ lạnh nhạt trong thời đại con sống. Thông điệp ở đây là lời nhắn nhủ
thể hiện sự băn khoăn âu lo cho thế hệ trẻ sau này sẽ sống sao cho đầy đủ ý
nghĩa. Không cầu mong những điều lớn lao, chỉ mong con người đừng trở nên lạc
lõng, đừng trở nên xa lạ, vô cảm lạnh lùng trước đồng loại. Đó là nỗi băn khoăn
mang tâm thức hiện sinh được thể hiện qua giọng điệu ngôn ngữ nói một cách mộc
mạc giản dị mà chứa đựng sự trăn trở, lo nghĩ về thế hệ tương lai. Tác giả như
có cái nhìn xuyên suốt thời gian, không gian để bày tỏ sự suy tư về cuộc sống.
Trong
bài thơ Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn
Quang Thiều cũng trăn trở băn khoăn trĩu nặng với những câu hỏi cật vấn Ta là
ai? Nhân loại là ai?
Sông Đáy ơi! chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi
Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò một ngày sông vắng nước
Tôi chi gặp những bẹ ngô trắng trên bãi
Tôi nhớ áo em tuột rơi trên bến kín một trăng xưa.
Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi…chiều nay tôi trở lại
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng.
(Sông Đáy)
Giọng
điệu xót xa buồn thương khi nghĩ về quê hương. Nơi ấy là cả thế giới kỉ niệm
gắn với tuổi thơ được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Khi trưởng
thành, nghĩ về quê hương với những hoài niệm về những gian khổ đã đi qua và
hình ảnh mẹ hiện lên già “như cát trên bờ”. Cát đã có tự bao giờ, mãi ngàn năm
cát vẫn vậy còn mẹ tôi già rồi sẽ mất đi vĩnh viễn. Nghĩ vậy tôi muốn vốc cát
ôm vào mặt ôm vào lòng những năm tháng đã trở thành quá khứ. Và cát từ mặt tôi
chảy xuống ròng ròng hòa lẫn trong nước mắt nghẹn ngào cho dòng đời hữu hạn và
đầy âu lo ưu tư. Con người không thể trốn chạy khỏi nỗi buồn, nỗi cô đơn vĩnh
viễn. Càng suy tư về dòng đời càng thấy buồn thương mặn chát không thể vơi bớt
không thể san sẻ hết con người đành ôm nỗi buồn lặn dấu vào thẳm sâu nỗi lòng
mình. Đó là nỗi buồn khi con người nhận ra những sự mất mát từ những giá trị
cuộc sống mà luôn ở ngoài tầm với con người không thể làm chủ hay kiểm soát.
Có thể
nói, nhờ ngôn từ triết lý đã giúp các nhà thơ khám phá, nhận thức cuộc sống
hiện sinh một cách cô đọng nhưng có hàm nghĩa sâu xa. Trên nền tảng là cảm xúc
của người nghệ sĩ trước cuộc đời, ngôn từ mang tính triết lý đưa đến cho con
người cách nhìn cuộc sống trong chiều sâu của những suy nghiệm sâu sắc.
4.3. Ngôn
ngữ và nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ
4.3.1. Ngôn
ngữ mang đậm màu sắc hiện sinh
Ngôn
ngữ là chất liệu đầu tiên “là yếu tố thứ nhất của văn học” (M. Gorky). F.de.
Saussure từng quan niệm ngôn ngữ như một kí hiệu. R. Jakobson thì quan niệm thơ
là ngôn ngữ tự lấy nó làm đối tượng. Thơ là một ngôn ngữ có giá trị tự thân.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra làm thơ tức là làm ngôn ngữ “ngôn ngữ là ngôi nhà
của hữu thể”.
Khi bàn
về “Ngôn từ trong thơ Việt đương đại”, Trần Ngọc Hiếu đã có những đánh giá xác
đáng. Theo ông, các nhà thơ Việt Nam đương đại đã có sự bứt phá, cách tân trong
hình thức biểu hiện để bắt nhịp với xu thế phát triển của thời đại. Với tâm niệm
mong muốn đưa thơ trở về với bản thể thuần khiết của thơ, các nhà thơ tiên
phong trong quá trình cách tân thơ hiện đại như Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường,
Hoàng Hưng đã có quan niệm “đặc trưng cốt tủy của thơ không phải nằm ở những
tính năng xã hội của nó mà nằm trong chất liệu ngôn từ”. Chữ hay ngôn từ có vai
trò quyết định làm nên tài năng, phong cách của nhà thơ như E. Jabes khẳng định
“Chữ bầu lên nhà thơ”. Tác giả Trần Dần cho rằng “Làm thơ tức là làm tiếng
Việt”. Nhà thơ được xem là kẻ “phu chữ”. Nhà thơ Lê Đạt giới thuyết “Chữ” bao
gồm phần âm thanh và ý nghĩa cùng đảm nhận hai chưc năng “biểu thị” và “hình
dung.”
Ngôn
ngữ thơ không chỉ thể hiện chức năng thông báo, cung cấp thông tin như ngôn ngữ
bình thường. Ngôn ngữ thơ thường nhằm mục đích truyền cảm, biểu hiện một nội
dung nghệ thuật nhất định. Thơ đương đại xem ngôn từ không đơn giản chỉ là
phương tiện chuyển tải nội dung mà xem ngôn từ là đối tượng sáng tạo. Nghĩa
trong thơ theo quan niệm của các nhà thơ đương đại, nó không mang tính chủ định,
nó được tạo sinh từ sự cộng hưởng của những thành tố của chữ và nghĩa các con
chữ cũng như mối tương tác giữa nhà thơ- bài thơ- người đọc (ý của Trần Ngọc
Hiếu). Ngôn ngữ trong thơ thường được cách điệu hóa. Ngôn ngữ thơ khác ngôn từ
văn xuôi, nó thường có tính nhảy vọt, gián đoạn, tạo nên những khoảng lặng chứa
đựng nhiều ý nghĩa. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ có tính phức hợp tạo nên nhiều
cách hiểu và đưa người đọc vào những cuộc tìm tòi bất tận đầy hấp dẫn. Lê Thị
Thanh Tâm cho rằng những tên tuổi làm nên thần thái, đường nét của cuộc nổi
loạn sang trọng về ngôn ngữ thơ Việt đương đại là Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình
Hưng, Hoàng Cầm, Dương Tường. Và tác giả cũng không quên kể đến những tác giả
mắc duyên nợ cách tân ngôn ngữ thơ Việt đương đại như Lưu Quang Vũ, Thanh Thảo,
Nguyễn Lương Ngọc, Ý Nhi, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều, Phùng Khắc Bắc,
Inrasara, Thi Hoàng, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh. Dựa trên nội dung cũng như cách
biểu đạt chúng tôi nhận thấy những biểu hiện của ngôn ngữ trong thơ Việt Nam
đương đại trên các phương diện sau đây.
Các nhà
thơ Việt Nam đương đại có sự cách tân táo bạo trong sử dụng ngôn ngữ mang tâm
thức hiện sinh. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từ tập thơ Ngôi nhà mười bảy tuổi đến Sự mất ngủ của lửa, Những người đàn bà gánh
nước sông đã cho thấy hành trình của sự sáng tạo, cách tân ngôn ngữ. Đó là
ngôn ngữ thơ giàu sức gợi đem lại cho người đọc ấn tượng về sự mới mẻ, tinh
khôi. Đằng sau ngôn ngữ trong trẻo, tác
giả dẫn người đọc vào hồi ức hoài niệm. Quá khứ luôn là quầng sáng trong trẻo với
bao tiếc nuối. Ngôi nhà không khép của
bao giờ/ Khi tôi đến em vừa đi khỏi/ Mái tóc em gió thổi/ Về đến ngôi nhà khe
khẽ má mưa bay/ Tôi tựa vào cánh cửa gọi tên em/ Em làm sao nghe nổi/ Em mải mê
trên con đường đầy nắng/ Bỏ lại ngôi nhà 17 tuổi thơ ngây” (Ngôi nhà mười
bảy tuổi). Đến tập thơ Sự mất ngủ của
lửa, nhà thơ sử dụng một ngôn ngữ mới, một cách diễn đạt mới: Bóng tối đêm gần sang như một con mèo nhung
khổng lồ bước đi/ uyển chuyển/ Cái đuôi mềm của nó chạm vào tôi là tôi tỉnh
giấc/ Tôi cựa mình như búp non mở lá/ Ý nghĩ mỉm cười trong vắt trước ban mai.”
(Ban mai)... Sức sáng tạo ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Quang Thiều càng in đậm dấu
ấn trong lòng người đọc qua tập thơ Những
người đàn bà gánh nước sông: “Để hiểu
được ý thơ cần có sự vận dụng nhiều góc nhìn từ hiện thực, tâm linh, siêu thực
cùng một trí tưởng tượng phong phú: Tôi đã đánh mất tôi một nửa/ Tôi tự sinh
cho tôi thêm một nửa/ Nửa nào có máu và nửa nào mất máu/ Hai bàn tay tôi hai
chiếc thià mạ bạc nham nhở/ Đang múc từng thìa trăng/ Tôi đói chưa bao giờ đói
hơn/ Tôi khát chưa bao giờ khát hơn/ Tôi khóc/ Những rễ cây chộp lấy tôi và
nghiền tôi thành nước/ Tôi lao theo những thớ cây vùn vụt lên cành” (Dưới trăng và một bậc cửa). Không thể
cảm nhận ý thơ theo trật tự ngôn ngữ thông thường. Sự mới lạ qua một loạt từ
ngữ tưởng chừng đối nghịch nhau như trăng, máu, đêm, đói, khát, khóc, leo lên
cây. Một cách biểu đạt lạ hóa chứa đựng trong đó một cái nhìn mới, đa chiều về
hiện thực. Ngôn ngữ giàu chất biểu
tượng, vừa mơ hồ vừa đa nghĩa luôn tạo sức hấp dẫn, bí ẩn cho thơ ca. Khát vọng
vươn tới cái đẹp phải trải qua những thăng trầm, những gian nan thử thách đầy
máu, bóng đêm. Vậy nhưng con người vẫn luôn hướng đến những cây xanh ngoài bậc
cửa để nuôi hy vọng về tương lai phía trước. Ngôn ngữ đối nghịch lại chứa đựng
những suy nghiệm sâu sắc trước cuộc đời.
Đó là
ngôn ngữ mạnh mẽ, sôi trào trong thơ Vi Thùy Linh mà Văn Giá gọi là “những trận
bạo động chữ”. Ngôn từ biểu đạt tình yêu trong thơ Linh được ví như hỏa diệm
sơn của chữ nghĩa. Để minh chứng điều đó tác giả dẫn một loạt từ ngữ được sử
dụng trong bài Người dệt tầm gai với
những từ ngữ như “cuồng điên, ào tung, nấc, nồng nàn, trĩu nặng, đè lên, đâm,
trầy xước, thấm xót, rớm máu, cài then, tiếng khóc...” Ở bài thơ Venise in ViLi, với những từ ngữ như
“thượng đẳng, đại lộ, ngần ngần ánh sáng, chớp, hưng phấn hoa, cuồng nhiệt, vũ
điệu, sốt hoàng hôn, rên nóng. Tưới,
cường năng, dồn kết, bạt ngàn, đắm đuối, ngập dòng dòng, liếm, vang, lộng, mê
đắm, vít lưng trời, ghì bao la, tan chảy, ngùn ngụt, bão cuốn hết, đày đọa,
giày vị.”.
Inrasara
quan niệm nhà thơ là người cư trú, ẩn náu trong ngôi nhà ngôn ngữ dân tộc và
cũng là người tạo cho mình một trường ngôn ngữ biểu đạt riêng: “Nhà thơ là
người cư trú trong ngôn ngữ dân tộc, canh giữ ngôn ngữ dân tộc và đồng thời làm
giàu có ngôn ngữ dân tộc bằng cách tạo dựng cho mình một ngôi nhà ngôn ngữ
riêng”. Inrasara viết: “Khép một cõi đất,
mở một chân trời/ thơ chập chững ngày mới/ bập bẹ lời tinh khôi/ Tôi đốt lên
hàng đống chữ/ dưới tàn tro bươi lấy vài lời’’ (Những ý tưởng không mùa). Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình lao
động nghiệt ngã. Mayakovsky từng cho rằng để có một ngôn từ, nhà văn phải mất
hàng tấn quặng ngôn từ. Lao động nghệ thuật đòi hỏi người nghệ sĩ âm thầm, nhẫn
nại. Họ như con tằm rút ruột nhả tơ.
Tác
phẩm của Mai Văn Phấn giai đoạn sau năm 2000 đã cho thấy nét mới lạ, sang tạo
trong ngôn ngữ và cách diễn đạt. Với sự hòa trộn chất tượng trưng, siêu thực
đưa đến những vần thơ lạ. “Đọc thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này người đọc khó có
thể lấy kinh nghiệm cá nhân để lý giải mà phải lấy cái bản thể, tự ngã để cảm
nhận, giải mã thơ” [44]. Chẳng hạn: “Bông
hồng sớm nay mình anh thấy/ Tiếng chim hót tỉnh giấc/ Tạ ơn con đường dẫn anh
đi/ Mây trên cao/ Lá cây rơi/ Là những gì chưa hiện hữu” (Hình đám cỏ - Mặt trời không có mái che).
Mai Văn
Phấn sử dụng lối thơ vắt dòng để diễn tả những truy vấn bức thiết về ý nghĩa
hiện tồn của con người, truy vấn về bản thể con người:
Pha
xong ấm trà
Quay
ra
Ông
khách không còn ở đó
Gọi
điện thoại
Người
nhà bảo ông mất đã bảy năm
Nhầm
lẫn
Nhà
mình
Mọi
sự đảo lộn
Không
nhớ bức chân dung hạ xuống bao giờ
Đâu
rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót?
Bộ
ấm chén giả cổ ai cho?
Ghé
sang hàng xóm
Thử
hỏi mấy loại thực phẩm
Loại
tăng giá
Loại
còn giữ giá.
Trong
nhà
Trà
vẫn nóng
Đẩy
chén nước về phía ông khách đã ngồi.
Luồng
tử khí cao chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt
Chốc
lại cúi gập.
(Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ)
Ngôn
ngữ thơ như lời tự sự quen thuộc, bình dị nhưng chứa đựng những ý nghĩa thâm
sâu về cuộc sống, sự tồn tại người. Cuộc sống đầy những bất trắc vô thường.
Những khoảnh khắc hôm nay ngày mai đã không lặp lại. Nhịp điệu cuộc sống đời
thường gặp gỡ trò chuyện bên ấm nước chén trà chuyện vui chuyện buồn, người lạ
người quen cũng thoáng qua và trở thành quá khứ. Cái còn lại là những ngậm ngùi
suy tư về lẽ đời.
Thơ Ly
Hoàng Ly vượt qua lối tư duy thông thường, có sự cộng hưởng của hội họa, xếp
đặt, trình diễn tạo nên ngôn ngữ chứa đựng nhiều âm vang phức hợp. Chẳng hạn
khi tác giả viết:
... Những người đàn bà khô queo
Vì đi lại nhiều
Quẩn quanh bức tranh khổ vuông do người khác
vẽ
Đi được đến đâu
Khi xác đã bệt lại bởi những nhát mầu
Cầm chiếc bay
Cạo xác từng người đàn bà ra khỏi tranh
Thấy mình cũng rời ra từng mảnh
Không đau đớn.
(Người trong tranh)
Người
đọc không thể hiểu, lý giải bài thơ theo cách thông thường, đã cũ. Cần nhìn
nhận bài thơ dưới cái nhìn của ngôn ngữ hội họa, trình diễn, nghệ thuật thị
giác. Lê Thị Thanh Tâm qua bài viết “Ngôn ngữ thơ Việt Nam đương đại (nhìn từ
giá trị nghệ thuật thị giác trong thơ Ly Hoàng
Ly” đã cho rằng thơ Ly (không mấy khác những công trình nghệ thuật thị giác của
chị) đều có một “người nói” ú ớ bên trong lồng vào một “người câm” có bản ngã,
kiểu người lạ ấy... là một “nhân vị” nào đó lấp lửng giữa người sáng tạo và
người tiếp nhận. Ly Hoàng Ly hình dung cuộc sống là một ổ trứng, con người và
vạn vật là những kí sinh trùng:
Những ổ trứng của cuộc đời hãy bung ra cùng
một lúc
Toàn bộ quả đất này là một ổ trứng nóng
Con người và thú vật là kí sinh trùng sinh
sôi và dịch chuyển đến chóng mặt
(Tôi muốn)
Biểu
tượng trứng tượng trưng cho sức sống rạo rực của vũ trụ. Từ sức sống ấy sẽ tạo
nên sự sinh sôi, sự sinh thành cho vạn vật.
Tóm
lại, ngôn ngữ mang đậm màu sắc hiện sinh đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt, những
ấn tượng ban đầu khó quên cho khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại.
4.3.2. Nghệ
thuật tổ chức ngôn từ biểu tượng hàm ý hiện
sinh
Ngôn từ
biểu tượng là nơi chứa đựng những ý nghĩ ẩn kín khái quát về cuộc sống. Ngôn
ngữ thơ Việt đương đại giàu tính biểu tượng. Biểu tượng là hình thức của nhận
thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau
khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt. Ngôn từ của một tác phẩm văn
học là ngôn từ tự nhiên đã được nhà văn tổ chức theo quy luật nghệ thuật. Đó là
ngôn từ của chủ thể hình tượng, chủ thể tư tưởng thẩm mĩ có tầm khái quát, có ý
nghĩa đại diện cho tư tưởng tình cảm, tâm trạng... của một tầng lớp giai cấp,
của một thế hệ nào đó... Tính biểu tượng của ngôn từ thể hiện ở hệ thống hình
ảnh biểu tượng được nhà văn sử dụng trong quá trình sáng tạo. Tính biểu tượng
của ngôn từ biểu hiện qua cách sử dụng các biện pháp tu từ giàu tính biểu
đạt. Và cao hơn tính biểu tượng của ngôn từ nằm sâu trong bản
chất hình tượng của sáng tác.
Ngôn từ mang tính
biểu tượng là ngôn từ giàu hình ảnh. Hình ảnh trong ngôn từ biểu tượng được tổ chức theo một cách đặc biệt có tính chuyển nghĩa. Ngôn từ mang tính biểu tượng thể hiện
sự sáng tạo về nghĩa của
nhà văn. Từ nghĩa
đen nó chuyển thành
nghĩa tượng trưng, có hàm ý sâu xa tùy vào sự tiếp nhận của người đọc.
Nguyễn
Quang Thiều được đánh giá là nhà thơ sử dụng ngôn ngữ đậm đặc những hình ảnh
biểu tượng. Đó là một cơn mơ, một cánh
đồng, một dòng sông, ánh sáng, lửa… xuất hiện dày đặc trong thơ ông. Biểu
tượng “cánh đồng” trong thơ Nguyễn Quang Thiều mang nhiều ý nghĩa. Đó là hình
ảnh tượng trưng cho không gian bao la rộng lớn của nền văn minh lúa nước theo
quan niệm của người phương Đông. Cánh đồng tượng trưng cho sự phát triển sinh
sôi. Cánh đồng là biểu tượng cho một miền đất của tuổi trẻ và hạnh phúc. Hình
ảnh cánh đồng xuất hiện đậm đặc trong thơ ông. Theo thống kê của luận văn Thạc
sĩ Biểu tượng trong thơ Nguyễn Quang
Thiều, Vũ Văn Sĩ thống kê có: “7 lần trong tập Sự mất ngủ của lửa, 39 lần trong tập Những người đàn bà gánh nước sông, 25 lần trong tập Nhịp điệu châu thổ mới, 26 lần trong Bài ca những con chim đêm, 21 lần trong
tập Cây ánh sáng - Cánh đồng chính là quê
hương là nơi nhà thơ có một tình cảm chân thành, bền lâu. Cánh đồng với
những không gian trải rộng, với mùi vị đất đai rơm rạ, với những mùa màng bội
thu hay những năm mất mùa. Cánh đồng ám ảnh trong lòng nhà thơ về thân phận
những kiếp người với những nhọc nhằn lo toan vất vả. Nhưng cánh đồng chính là
nơi nhà thơ được sống thật, hít thở dư vị cuộc sống thật nhất và thơ mộng nhất
với mọi vui buồn, ước mơ, hoài niệm. Cánh đồng chính là quê cha đất tổ, là bến
đợi đón con người trở về sau bao bon chen, đố kị vàng thau lẫn lộn để được đối
diện với lòng mình để tự sám hối và để sống chừng mực hơn.
Có một ngày không gieo, gặt
Tôi trốn những lo âu về lại cánh đồng
Đất nâu sẫm hắt lên rười rượi
Mùa huênh hoang ngây ngất đáy chiều
(Cánh đồng)
Ngôn
ngữ với biểu tượng cánh đồng có khi trở thành nơi để nhà thơ tự trăn trở, trao
gửi những suy tư về thân phận con người:
Giá tôi được bình yên như hạt thóc trong bồ/
Tôi sẽ ngủ ngon lành để sớm ra ruộng mạ/ Bật lá mầm ngơ ngác trước bình minh
(Đêm gần sáng)
Trò
chuyện với cánh đồng, gửi niềm ao ước, con người khát khao được sống, được vươn
lên để khẳng định nhân vị một cách hồn nhiên, phóng khoáng như cánh đồng, như
ruộng mạ bật lên những mầm xanh của sự sống trong trẻo, an lành. Có khi ngôn
ngữ mang tính biểu tượng trong thơ Nguyễn Quang Thiều là cặp biểu tượng đối lập
giữa ánh sáng và bóng tối. Đó là ánh sáng của lửa, của những vì sao, ánh sáng
của mặt trăng, mặt trời. Ánh sáng của lửa và mặt trời tượng trưng cho sự “tinh
sạch, hồi sinh, thánh thiện” có sức mạnh xua tan “mọi nỗi hoang mang lo sợ”:
Biểu
tượng trong thơ đương đại cho thấy tài năng, phong cách, cá tính cùng tư tưởng
của nhà thơ mang dấu ấn hiện sinh đậm nét. Cũng sử dụng biểu tượng “lửa”,
Nguyễn Quang Thiều dùng để chỉ cội nguồn văn hóa. Ánh sáng của “lửa” của ngọn
đèn đã gắn bó với con người từ nhỏ. Chính đó là biểu tượng gieo vào kí ức đứa
trẻ về cội nguồn, về quê hương xứ sở. Tôi
hát bài hát về cố hương tôi/ Trong ánh sáng đèn dầu/ Ngọn đèn đó ông bà tôi để
lại/ Đẹp và buồn hơn tất cả những ngọn đèn/ Thủa tôi vừa sinh ra/ Mẹ đã đặt
ngọn đèn trước mặt tôi/ Để tôi nhìn mặt đèn mà biết buồn, biết yêu và biết khóc
(Bài hát về cố hương). Ngọn đèn,
ánh lửa đã sớm tác động vào trí nhớ của đứa trẻ nỗi buồn về tổ tiên, về cội
nguồn. Con người sớm biết suy tư về cõi người đó là biểu hiện cái nhìn hiện
sinh. Phải chăng chúng ta sống hôm nay, ngồi trước ánh lửa và bóng đèn nó gợi nhắc cho chúng ta về bao kiếp người đã đi qua? Ánh lửa đã xuất hiện từ xa xưa, nó đồng hành cùng
cuộc sống của con người. Đến lúc già thậm
chí mất đi nhưng ánh lửa, ánh sáng vẫn tồn tại như nhân chứng ngàn đời
về sự sống hữu hạn của kiếp người. Ánh sáng ngọn đèn, ánh sáng của lửa vừa gắn
với cuộc sống thực tại nhưng cũng vừa gợi nhắc con người về quá khứ về cội
nguồn. Chính điều này giúp nhà thơ
biểu đạt một cách sâu sắc sinh động tư tưởng mang màu sắc hiện sinh về lẽ sống
cho con người. Ngôn ngữ mang tính biểu tượng tạo sự hàm súc và có sức biểu đạt
cao có tác dụng tác động mạnh mẽ vào trí tưởng tượng của người đọc.
Không
chỉ có ánh sáng, thơ Nguyễn Quang Thiều còn nói đến bóng tối. Đó là bóng tối
của những dục vọng thấp hèn, của dối lừa, phản trắc: “Đêm gần sáng tôi nghe rất rõ/ Hạnh phúc thương đau rung tê tái tim
mình/ Tôi đã sống những đêm gần sáng/ Một chút lạnh cuối đêm, một chút ấm sang
ngày/ Nuối tiếc vầng trăng đi, mong mặt trời buổi sớm/ Tôi như cỏ trong vườn
cần hai khoảng thời gian” (Đêm gần
sáng).
Chọn
khoảnh khắc đêm gần sáng, đó là khi bóng đêm sắp tan, bình minh sắp tới. Khoảnh
khắc giao thời này khiến cho nhà thơ có nhiều suy tư về kiếp người. Dùng ngôn
ngữ biểu tượng giúp cho cách diễn đạt trở nên tinh tế và chuyển tải được nhiều
ý nghĩa cũng như bộc lộ chiều sâu nội tâm, tư tưởng của nhà thơ một cách hàm
súc, cô đọng.
Nổi bật
trong thơ Trương Đăng Dung là ngôn từ gắn với những biểu tượng như ánh trăng,
chiếc lá, cây, cỏ, con quạ... Ngôn ngữ biểu tượng trong thơ Nguyễn Quang Thiều
gắn với cánh đồng, dòng sông, cây, ánh sáng, bóng tối, lửa, người đàn bà...
Ngôn
ngữ biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn gắn với dòng sông, bầu trời, đất, nước,
lửa, ánh sáng, bóng tối... Ngôn ngữ biểu tượng trong thơ Vi Thùy Linh gắn với
lửa, người dệt tầm gai, độc mã, song mã, ánh sáng, bông hoa... Ngôn ngữ thơ
Phạm Thị Ngọc Liên gắn với biểu tượng ánh trăng và trái tim...
Trong
thơ Trương Đăng Dung, thấy xuất hiện khá nhiều các hình ảnh/ biểu tượng như vầng trăng, lá, sương khói … Chẳng hạn
trong bài thơ Có thể của tập thơ cùng
tên, tác giả viết:
Có thể em
vẫn nhớ những vầng trăng thức
trắng lá rơi thảng thốt trước thềm/ Có thể
em vẫn nhớ một bóng hình, giọng nói đã
tan trong
sương khói những kiếp người (Có thể).
Thông
qua hàng loạt ngôn từ mang tính biểu tượng, ý thơ trở nên mơ hồ, lạ hóa… nhưng
chứa đựng hàm ý sâu sắc. Vầng trăng,
chiếc lá, sương khói tạo sự cộng hưởng giúp người đọc hình dung về quy luật
tuần hoàn của tự nhiên đối lập với sự hư hao mong manh của kiếp người. Trăng,
gió muôn đời vẫn vận động, vẫn tồn tại chỉ có kiếp người thì không vĩnh viễn.
Khi dùng một loạt hình ảnh thuộc về vũ trụ tác giả gợi lên trong nhận thức của
người đọc về những suy tư trăn trở của nhà thơ trước cuộc đời. Bằng ngôn từ
biểu tượng đưa đến cho người đọc một chiều sâu triết lí về cuộc sống. Không thể
cái gì tồn tại vĩnh cửu mà luôn vận động tàn lụi, kết thúc. Những gì đang tồn
tại hôm nay thực ra là đang dần biến mất. Vì vậy có khi nhà thơ cần lưu giữ
những vật chứng để khẳng định sự tồn tại của con người trong thực tại.
Ngôn
ngữ với biểu tượng “đất” xuất hiện nhiều trong thơ Mai Văn Phấn. Theo khảo sát
của Nguyễn Thị Yến (Luận văn thạc sĩ), trong số 100 bài thơ của ông đã có tới
42 bài nói về Đất. Đất là phù sa, sự
bồi đắp, sinh sôi. Đất còn là biểu tượng gợi nhắc con người về nơi chôn nhau
cắt rốn và là nơi con người lại trở về tái sinh theo quan niệm Kinh Thánh “thân
cát bụi lại trở về cát bụi” đậm màu sắc triết lí hiện sinh. Đất là căn nhà “hộ sinh” đón con người
khi sinh ra. Đất là nơi ươm trồng cái
đẹp “Tôi trồng hoa nơi cỗi cằn đất không”.
Với cái nhìn mang tính chất suy tưởng, Đất trở thành biểu tượng gắn bó hòa
quyện với sự sống và kết thúc của cuộc đời con người vì thế chúng luôn gợi cảm
xúc mạnh mẽ cho người tiếp nhận.
Thơ
Phạm Thị Ngọc Liên có sự xuất hiện dày đặc biểu tượng trăng và trái tim. Theo
thống kê của Võ Thị Thanh Huyền (Luận văn thạc sĩ) có 71 lần xuất hiện từ
trăng, 143 lần xuất hiện từ trái tim. Số lần xuất hiện từ trăng trong bài thơ
có 34/187, từ trái tim có 100/187. Với tần số xuất hiện khá dày đặc biểu tượng
trăng và trái tim gắn với rất nhiều ý nghĩa khác nhau. Vầng trăng là nơi gửi
gắm tâm trạng, số phận, mảnh đời, nỗi niềm u uẩn của nhân vật trữ tình.
Với tư duy hình ảnh khi viết về tình yêu, Vi Thùy
Linh dùng ngôn từ mang biểu tượng thuộc về vũ trụ như ánh sáng, mặt trời, cầu
vồng, bình minh, ánh nắng, lửa tạo nên một thế giới đầy sức sống. Những biểu
tượng thường được tác giả đặt cạnh nhau và có mối quan hệ với nhau cùng bổ sung
tạo nên lối tư duy mà tác giả Hồ Tiểu
Ngọc trong công trình luận án tiến sĩ Thơ
nữ Việt Nam 1986- 2015 nhìn từ lý thuyết giới cho là “đa phức, nhiều chiều,
lối tư duy của thơ hiện đại”.
Ánh
sáng trong thơ Vi Thùy Linh mang tính biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu. Giá chúng mình mãi mãi ở bên nhau/ Anh chớp
mắt đổ một trời ánh sáng/ Những ước vọng thành cỏ đời xanh mướt/ Đi hết ánh
nhìn mình hóa đá trong nhau (Tự tình).
Và đó cũng là biểu tượng cho sức sống, lòng yêu đời của con người trong thực
tại. Ở đây có sự đồng nhất ánh sáng của nhân vật trữ tình “Anh” và ánh sáng vật
lý khách quan. Anh đại diện cho khởi
nguồn tình người có sức mạnh như nguồn sáng nguồn ấm sưởi ấm cho Em khỏi sự cô đơn âu lo của kiếp người.
Ánh mắt anh chớp như “đổ một trời ánh
sáng” đó là ánh sáng như nguyên khí trời đất vũ trụ đã sinh tạo ra con
người vì vậy tình yêu với Vi Thùy Linh nằm ở chiều sâu của sự chiêm nghiệm.
Trước thực tại mong manh của kiếp người, con người hiện sinh không tự bằng lòng
thụ động mà muốn nổi loạn, muốn dấn thân để khẳng định mở rộng giới hạn cuộc
sống. Vi Thùy Linh sử dụng biểu tượng “độc mã”, “song mã” đầy ấn tượng về sự
mạnh mẽ để biểu đạt khao khát được đi, được chạy, được phi qua giới hạn thời
gian. “Độc mã/ Vượt trước gió/ Cuốn ánh
sáng ràn rạt/ Đêm không ngủ…” (Độc mã). Độc mã một mình một ngựa tự bay,
phi qua mọi không gian. Có khi Vi Thuỳ Linh mong muốn vượt ra mọi rào cản để
khẳng định chính mình: “Cha mẹ định quàng
dây cương vào tôi/ “Hãy để con tự đi/ Độc mã!” (Tôi). Hãy để cho con người
tự làm chủ những trải nghiệm đó là cách để anh ta khẳng định sự hiện hữu của
chính mình. Vi Thùy Linh có khi muốn làm Song mã: “Qua mọi nẻo đường/ Ruổi mãi ruổi mãi theo những câu kinh/ Tới vùng sa
mạc ánh nhũ mặt trời xanh/ Cùng cái tham sân si đầu thai kiếp khác” (Song
mã). Biểu tượng Lửa được dùng chỉ sự bùng cháy trong tình yêu đã trở thành quen
thuộc trong thơ Vi Thùy Linh: Anh – nguồn
em/ Hãy đến đi/ Cho đêm ngày cháy bùng bão lửa! (Gọi nguồn).
Nhân
vật em khi đến với tình yêu được bùng cháy thăng hoa như ánh lửa. Nhưng khi thiếu vắng
tình yêu cũng như ngọn lửa hiu hắt lụi tàn, nguội lạnh. Dùng biểu tượng lửa tăng
sức biểu đạt mạnh mẽ, ấn tượng. Anh đi rồi em như lửa héo/ Vây bủa em, lửa của
người khác/ Nước mắt làm rơi những nụ-cười -một- nửa của em
(Điều anh không biết).
Cái
chết là một tất yếu của con người. Từng có nhiều quan niệm về cái chết. Tôn
giáo quan niệm cái chết không phải là hết, là kết thúc hay mất đi mà là sự khởi
đầu cho sự sống mới. “Khoa học thì xem cái chết là kết thúc sự sống. Triết học
thì xem cái chết là một dữ kiện để suy nghiệm về sự sống còn, triết học hiện
sinh thì quan tâm đến vấn đề tôi chết, cái chết mang tính riêng tư nhất của con
người” [114, tr. 71]. Con người sinh ra là để chết. Cái chết rình rập ngay cả khi đang sống. Cái
chết là một vấn đề được nhiều lĩnh vực quan tâm trong đó
có triết học hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh coi cái chết đến từ chính bản thân
con người và đến từ thực thể bên ngoài chủ thể.
Chết do chính mình là khi con người chỉ
tồn tại như cây cỏ mà không vươn tới
được tự do. Con người tồn tại trong
tình trạng ù lì, đông cứng, bất động
của chủ thể khiến cho nó không còn là chính mình và dẫn đến cái chết. Con người dần đánh mất chính mình ngay cả khi
đang sống.
Heidegger
quan niệm sống là hành trình đi đến cõi chết “cái chết là đích cuối cùng của sự
sống”. Do vậy, khi sống con người luôn bị ám ảnh bởi cái chết. Cái chết là khi
con người tự đánh mất giá trị sống của mình, sống mà chỉ còn như là một sự tồn
tại. Mặt khác con người luôn sống với người khác tức là tha nhân, lệ thuộc vào
tha nhân. “Có một cái không bao giờ thay đổi đó là việc thiết yếu con người
phải sống trong vũ trụ, sống ở đó với tha nhân và sống ở đó để rồi chết đi”
[Dẫn theo 113, tr. 39]. Khi con người sống lệ thuộc vào người khác, anh ta cũng
bị đánh mất tính chủ thể của chính mình. Cuộc sống của anh ta cũng dần trở nên
mờ nhạt, vô nghĩa. Tha nhân là địa ngục. Cái chết đến từ bên trong lẫn bên
ngoài. Theo Sartre, cái chết đến khi con người trút bỏ trách nhiệm làm nên chính
mình. Nhưng con người vẫn phải sống. Cái chết xuất hiện ngay cả khi con người
đang tồn tại đang sống, nó được xem là “một thực thể suy tàn”. Thông qua ngôn
ngữ biểu tượng, về cái chết các nhà thơ đã diễn tả được hành trình sự sống bất
an trước cái chết. Và cũng chỉ ra cách để con người thích ứng với quy luật đầy
bi kịch của cái chết.
Các nhà
thơ đương đại khi nói về cái chết thường dùng ngôn ngữ mang tính biểu tượng con quạ. Nhà thơ xuất phát từ sự suy tư
trăn trở về thân phận con người, về sự phi lí của cõi nhân sinh. Trong quan
niệm dân gian Việt Nam, con quạ là hình ảnh gợi điềm báo về cái chết, hình ảnh
đi liền với cái chết. Tác giả Mai Văn Phấn đã viết: “Bổ nhào từ đỉnh cao/ Bằng đôi cánh sắc/ Lấy tâm điểm xác chết/ Chém
toác bầu không/ Gió hấp tấp không chịu băng bó/ Móc từ hốc mắt/ những nhãn
quan/ Di ảnh là vật chứng/ Mổ vào lưỡi/ và kéo dài/ Phơi dưới trời bài học khẩu
ngữ/ Bóc từng mảng thịt/ Tháo rời tứ chi/ Sổ tung lục phủ ngũ tạng”. Con
quạ là điềm báo về cái chết, về xác thân nhưng còn là điềm báo cho sự tàn lụi,
băng hoại của những giá trị sống. Trương Đăng Dung sử dụng ngôn ngữ biểu tượng con quạ để chỉ sự ảm đạm và chết chóc.
Tuy nhiên, trong thơ Trương Đăng Dung cái chết không gây sự bi quan tuyệt vọng
mà cho thấy con người quan tâm đến cuộc sống hiện tại nhằm chống lại cái chết
định mệnh …Dưới cái nhìn của các triết gia hiện sinh thì cái chết không gây nên
sự bi quan, chán nản. Con người cần xác định đó là một phần quan trọng trong
cuộc sống. Để có cuộc sống xứng đáng như một nhân vị tự do thì con người cần
xác định được thái độ của mình đối với cái chết. Sáng tạo và tư tưởng tư duy
thơ Trương Đăng Dung cũng đã ít nhiều cho thấy chiều sâu triết lý đó.
Xem cái
chết là một phần của cuộc sống đưa đến cho nhà thơ tâm thế tự tại với cái nhìn
nhẹ nhõm, bình thản. Trước cuộc sống chảy trôi, nhà thơ suy nghiệm con người
như những đứa trẻ biết già. Đi giữa thiên nhiên, giữa hàng cây lòng thầm cảm ơn
thân cây nào sẽ ôm người đi về cát bụi: “Tôi
đi giữa mọi người, bên những hàng cây im lặng, lòng thầm biết ơn thân cây nào
rồi đây ngã xuống xẻ mình ra ôm tôi vào cát bụi”. Câu hỏi bâng quơ, mới lạ nhưng mang sức nặng của sự suy tưởng. Những
thân cây tồn tại tự bao giờ đâu chỉ vô
tri vô giác, đâu chỉ là sự vật mà chính nó là một sinh thể sẽ ngã xuống, ôm con
người đi vào cõi cát bụi. Một cái nhìn chiêm nghiệm
suy tư về cái chết với những câu hỏi mang tâm thức hiện sinh. Thân cây đã
được dùng như một biểu tượng mang tính
thẩm mĩ gợi lên trong suy tưởng của
người đọc về vòng tuần hoàn của kiếp người.
Biểu
tượng trong thơ nói chung và thơ Việt Nam đương đại mang cảm thức hiện sinh nói
riêng được xem như phương thức tư duy đặc thù để tạo nên tính thơ, tính nghệ
thuật trong tác phẩm. Thông qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu tính biểu tượng đã
tạo ra sắc thái và phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Với cách sử dụng
ngôn ngữ giàu tính biểu tượng cho thấy khả năng sáng tạo và kết tinh những tìm
tòi trong tư duy và bút pháp nghệ thuật của nhà thơ Việt Nam đương đại.
Tiểu kết chương 4
Thơ ca
luôn vận động theo nhịp bước của thời đại. Mỗi khi lịch sử xã hội thay đổi thì
thơ ca cũng có sự vận động, phản chiếu bóng dáng của thời đại. Thơ Việt đương
đại đã có một bước phát triển về chất. Nỗ lực của nhà thơ luôn là yếu tố cốt
lõi để bắt nhịp với thời đại. Trên cơ sở cấu trúc của một tác phẩm thơ trữ
tình, thơ Việt Nam đương đại đã tiếp thu và đổi mới cách dùng ngôn ngữ, cách
biểu đạt từ xu hướng mới của thơ ca thế giới góp phần tạo nên những thi phẩm cá
giá trị và góp phần khẳng định diện mạo mới của thơ ca dân tộc.
Những
phương diện đổi mới cách tân này đã cho thấy sự tìm tòi sáng tạo của các nhà
thơ Việt Nam đương đại. Đổi mới thơ ca là đổi mới về tư duy, về cách cảm, cách
nhìn của nhà thơ, đồng thời là quá trình đổi mới hình thức thơ. Trong quá trình
thể hiện khuynh hướng hiện sinh, các nhà thơ đương đại đã có những sự cách tân
đột phá không chỉ ở tư duy mà còn ở hình thức thể hiện. Thơ Việt đương đại đa
dạng về phong cách, về giọng điệu, về ngôn ngữ để thích ứng với những thay đổi
của thời đại để bắt nhịp với thi ca của thế giới.
Với
những đặc điểm nghệ thuật như giọng điệu - giọng buồn chán, giọng hoài nghi,
giọng triết lí, ngôn ngữ - ngôn ngữ giàu biểu tượng, hàm ý hiện sinh xuất hiện
với tần suất cao, người đọc có thể thấy được nét mới lạ và sức sáng tạo đáng
trân trọng ở các nhà thơ đương đại.
Để cảm
nhận thơ đương đại, người đọc không chỉ cần kinh nghiệm bản thân mà còn cần có
sự vận dụng của nhiều nguồn tri thức, không chỉ cảm nhận theo trật tự thông
thường mà cần đến góc nhìn của thơ tâm linh, thơ tượng trưng siêu thực cùng trí
tưởng tượng phong phú để nắm bắt hàm ý biểu đạt sâu xa và đầy ẩn ý đượm màu
hiện sinh của các tác phẩm.
Thơ
hiện sinh trong các trường hợp thơ âm thanh, thơ hình họa đòi hỏi tư thế đọc
kết hợp cả nghe lẫn nhìn. Nghe để cảm độ vang của từng âm từ -âm chữ, hòa mình
vào nhịp điệu được tổ chức bởi âm - tiếng của câu từ bài thơ. Nhìn để phát huy
hiệu quả thẩm mỹ từ bản thân hình thái tri giác thị giác lời trên trang in. Cái
gọi là hình thức thơ cụ thể (concrete poetry) chính là chỉ sự tồn tại của chính
thi bản và cũng là một sự tồn tại hiện sinh (sinh tồn ở đó) của thơ - không
phải thứ thơ cho diễn giải đọc lời
hiểu nghĩa truyền thống mà là thơ để nhà thơ “tìm thấy lại giác quan”, để sống
“…biết cảm giác sâu đậm hơn” - những điều cơ bản của hiện sinh luận
KẾT
LUẬN
1. Chủ
nghĩa hiện sinh là một trào lưu triết học xuất hiện ở phương Tây từ sau đại
chiến thế giới lần thứ nhất và chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đây là một
trào lưu tư tưởng ngay từ khi xuất hiện đã gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên càng
ngày nó càng được khẳng định vị thế và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống và
văn học của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chủ nghĩa hiện sinh
quan tâm đến con người trong thực tại, chú ý đến con người ở nét bản chất là
tính chủ thể bên trong. Nhà hiện sinh quan niệm hiện sinh của nhân vị đó mới
chính là lĩnh vực của triết học. Vấn đề nhân vị được xem là vấn đề trung tâm,
các vấn đề còn lại đều xuất phát từ đấy, bổ
sung và làm cho nó cụ thể hơn. Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện ở miền Nam
Việt Nam vào những năm 1950 - 1960, phát triển mạnh vào giai đoạn 1954 - 1975.
Sau đó, nó rơi vào sự trầm lắng và gần như biến mất. Từ cuối những năm 1980,
chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện trở lại và bám rễ sâu vào đời sống văn học, thơ
ca cũng như đời sống thực tiễn. Thơ Việt Nam hiện đại (ngay từ Thơ mới 1932 – 1945) vốn đã có tinh thần
hiện sinh, khi bắt gặp ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh (những năm năm mươi
của thế kỷ XX và từ khoảng 1980 đến nay) càng có điều kiện để tiếp tục phát triển.
2. Sau
năm 1986, với điều kiện lịch sử xã hội mới từ sau nghị quyết Đại hội VI của
Đảng, nền văn học Việt Nam nói chung và thơ Việt Nam nói riêng có sự đổi mới
mạnh mẽ về tư duy và quan niệm thẩm mĩ. Các thế hệ nhà thơ, đặc biệt thế hệ nhà
thơ trưởng thành sau năm 1986 có sự cách tân đổi mới theo nhiều khuynh hướng
trong đó có khuynh hướng hiện sinh.
Thơ
Việt Nam đương đại có sự chuyển hướng từ đề tài lãng mạn, đề tài sử thi sang đề
tài đời tư thế sự, đi sâu khám phá đời sống nội tâm của con người. Điều này là
cơ sở để thơ Việt Nam đương đại bắt nhịp với tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa
hiện sinh đó là quan tâm đến nhân vị, bản thể người. Tác phẩm của các nhà thơ
Việt Nam tiêu biểu của thơ đương đại từ sau 1986 đã cho thấy những biểu hiện về
sự vận động cái tôi hiện sinh. Sự vận động của cái tôi cá nhân được xem là nền
tảng thẩm mĩ, là thước đo cho sự phát triển của xã hội, của dân tộc. Đó là cái
tôi bản thể gắn với những âu lo trăn trở về kiếp người với sự hoài nghi, bất
an. Khi đi sâu vào thế giới nội tâm bên trong con người, các nhà thơ khai thác
vùng mờ của tiềm thức, những miền vô thức mờ ảo, tìm vào những miền khuất trong
thế giới tinh thần con người. Ý thức về cái tôi ở giai đoạn văn học nào cũng
được đề cập nhưng trong thơ ca đương đại ý thức đó càng được quan tâm một cách sâu sắc. Đặc biệt các
nhà thơ quan tâm đến những nội dung gắn với thân phận con người trong đời sống thực tiễn tạo nên sự ảnh hưởng mạnh mẽ
đến độc giả tiếp nhận. Những chủ đề cơ bản như cái tôi bản thể, cô đơn, buồn nôn, phi lý, dục tính, dấn thân, nổi loạn... in dấu ấn đậm nét trong tác phẩm của các nhà thơ Việt
Nam đương đại. Cái tôi hiện sinh được khám phá với những đặc điểm như: cái tôi bản thể; cái tôi tha hóa; cái tôi khao
khát tự do, dấn than; cái tôi với những buồn đau âu lo về số kiếp; cái tôi ý thức về sự mong manh hữu hạn của
kiếp người; cái tôi suy tư về quá khứ,
hiện tại, tương lại mịt mờ, bất khả tri. Đó là những chủ đề được các nhà thơ Việt Nam đương đại đề cập trong
tác phẩm với những mức độ đậm, nhạt khác nhau.
Với sự
xuất hiện đông đảo của đội ngũ sáng tác có sự tương đồng, gặp gỡ về tư tưởng,
tư duy và quan niệm thẩm mĩ, các tác giả đã góp phần khẳng định sự tồn tại của
khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại. Sự xuất hiện hàng loạt tác
giả thơ có tác phẩm mang đậm dấu ấn hiện sinh tiêu biểu như Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Trương Đăng Dung, Inrasara, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Đoàn Thị
Lam Luyến, Cát Du, Phan Huyền Thư... đã tạo nên một không khí sôi động góp phần
vào quá trình cách tân, đổi mới thơ ca.
3. Không
chỉ tiếp thu, đổi mới về nội dung sáng tác, thơ Việt Nam đương đại còn đổi mới
về nghệ thuật trong việc thể hiện tinh thần hiện sinh. Mỗi bài thơ trữ tình đều
có một tổ chức kết cấu chặt chẽ. Mỗi bài thơ trữ tình là một chỉnh thể nghệ
thuật. Luận án đề cập đến đặc điểm của chủ nghĩa hiện sinh nhìn từ nghệ thuật
ngôn từ. Ngôn từ trong thơ Việt Nam đương đại mang màu sắc hiện sinh. Ngôn từ
không chỉ thể hiện chức năng thông báo, cung cấp thông tin như ngôn ngữ bình
thường. Ngôn ngữ thơ thường nhằm mục đích truyền cảm, biểu hiện một nội dung
nghệ thuật nhất định. Chính vì vậy ngôn từ thơ thường được cách điệu hóa. Thơ
là nơi nhà thơ ẩn náu, cư trú để kí thác thế giới nội tâm của con người. Ngôn
từ trong thơ Việt Nam đương đại mang tính biểu tượng, là nơi chứa đựng những ý
nghĩ ẩn kín, khái quát về cuộc sống. Tính biểu tượng của ngôn từ thể hiện ở hệ
thống hình ảnh, biểu tượng được nhà
văn sử dụng trong quá trình sáng tạo.
Cùng
với sự thay đổi về ngôn ngữ là sự thay đổi về giọng điệu. Giọng điệu được xem
là phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học, là thước đo
không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của nhà văn. Giọng
điệu trong thơ Việt Nam đương đại rất phong phú. Sự phong phú trong giọng điệu
thơ Việt Nam đương đại thể hiện nội dung tư tưởng hiện sinh qua các kiểu giọng
như giọng hoài nghi, giọng chất vấn, giọng triết lý. Khi con người bước ra khỏi
chiến tranh cảm thấy cuộc sống vô nghĩa, bi quan, mất phương hướng, sự buồn chán thể hiện rõ trong giọng
điệu thơ. Sau chiến tranh, con người biết tự nhìn nhận lại chính mình, con
người tự đặt ra bao câu hỏi hoài nghi, cật vấn về thực tại phi lí. Trong bối
cảnh thời đại mới, các nhà thơ không ngừng khám phá, thức nhận thực tại và
chính mình. Để bày tỏ vai trò thiên chức của thi ca trong cuộc sống, người nghệ
sĩ tìm đến nhiều cách diễn đạt khác nhau trong đó có giọng điệu ngôn từ mang
màu sắc triết lí. Giọng triết lí giúp nhà thơ khám phá, nhận thức cuộc sống
hiện sinh một cách cô đọng có hàm nghĩa sâu xa. Giọng triết lý tư biện góp phần
tạo nên sự cách tân, thể hiện ý thức tiếp nhận, sáng tạo tinh hoa văn học thế
giới của các tác giả thơ Việt Nam đương đại.
4. Bên
cạnh sự cổ súy những nhà thơ tiên phong trong quá trình tiếp nhận sự ảnh hưởng
của luồng tư tưởng mới mẻ như chủ nghĩa hiện sinh từ phương Tây, vẫn còn nhiều
ý kiến quay lưng hoặc phủ nhận, phê phán bài xích nặng nề. Bên cạnh những thành
tựu đáng trân trọng của thế hệ các nhà thơ Việt Nam đương đại vẫn còn những
biểu hiện về sự bất cập, quá đà, nhầm lẫn trong quan niệm đổi mới đòi hỏi các
nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm, tìm hiểu.
Trong
bất cứ thời đại nào thì vấn đề thân phận con người vẫn luôn cần được quan tâm
hàng đầu, “Con người là và sẽ là tối cao (Tagore). Do vậy, văn học nói chung,
thơ nói riêng vẫn không ngừng tìm kiếm, khám phá chiều sâu của bản thể người để
góp phần khẳng định vai trò của nhân vị. Chính điều này đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần thiết đào sâu vào
khuynh hướng hiện sinh để nghiên cứu, góp phần khẳng định, phát hiện những vấn
đề đang còn bỏ ngỏ nhằm giúp cho độc giả nâng cao nhận thức về chính bản thân
con người trong muôn kiếp nhân sinh có giá trị nhân bản, nhân văn.
5. Dựa vào các
kết quả nghiên cứu
thực tiễn thơ Việt Nam đương đại, chúng tôi khẳng định
có một khuynh hướng hiện sinh
trong thơ Việt Nam đương đại. Và đó cũng chính là
đóng góp mà các nhà thơ đương
đại tạo nên thành tựu
trong quá trình đổi mới nền thơ ca dân tộc trong bối cảnh tiếp thu, sáng tạo những thành tựu của văn học thế giới.
Các
khuynh hướng văn học giữ vai trò quan trọng trong lịch sử văn học. Có thể xem
lịch sử văn học dưới dạng khái quát như lịch sử các khuynh hướng, bởi vì chúng
đánh dấu tiến trình chiếm lĩnh thế giới bằng ngôn từ nghệ thuật, đánh dấu sự
tiến bộ trong văn học. Chúng tôi không dám công nhiên tuyên bố khuynh hướng
hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại là “đánh dấu sự tiến bộ trong văn học”,
nhưng hoàn toàn chắc rằng nó là một hiện tượng văn học đáng chú ý, giữ một vài
trò quan trọng trong lịch sử thơ ca nước nhà và lịch sử thơ ca nhân loại.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ
(Do lỗi kỹ thuật, chúng tôi sẽ đăng chi tiết mục này sau)
Tác phẩm của Graziano Locatelli