Khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt đương đại (Luận án tiến sĩ - Kỳ 2) - Đoàn Thị Hạnh
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Đoàn Thị Hạnh
KHUYNH HƯỚNG HIỆN SINH
TRONG THƠ VIỆT ĐƯƠNG ĐẠI
Mã số: 9220121
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Luận án tiến sĩ Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp
Nghệ An - 2022
Maivanphan.com: 12/2022, NCS. Đoàn Thị Hạnh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ với đề tài "Khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt đương đại", dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp. Do khuôn khổ của website, chúng tôi đăng luận án thành 2 kỳ. Kỳ 1 đã đăng phần Mở đầu, Chương 1 & 2. Trong kỳ 2 này, chúng tôi đăng tiếp Chương 3 & 4 và phần Kết luận của luận án.
Chương 3
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHUYNH HƯỚNG HIỆN SINH TRONG THƠ VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ NỘI DUNG BIỂU HIỆN
3.1. Ý thức biểu đạt cái tôi theo hướng hiện
sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.1.1. Ý thức biểu đạt cái tôi theo hướng hiện sinh
trong thơ ca nói chung
Trong
triết học, cái tôi được hiểu là cái tôi ý thức bao hàm trong đó những đặc tính
để phân biệt tôi với những người khác. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
cái tôi từ thời cổ đại. Hoàng Thị Huế dẫn giải tiếng Latinh cổ đại là persona, tiếng
Latinh trung cổ là personalitas. Nghĩa gốc của từ này là mặt nạ, được dùng để chỉ vẻ bề ngoài của một cá nhân. Còn Carl
Gustav dùng thuật ngữ personna để chỉ cái
tôi được biết đến của một cá nhân. “Tuy nhiên personna bao gồm rất nhiều
nghĩa, cả đặc điểm bên trong và những phẩm chất cá nhân cũng như diện mạo bên
ngoài của người ấy. Vì thế Boethius đã đưa ra một định nghĩa kinh điển “Con
người là một thực thể riêng lẻ có một bản chất dựa trên lý trí” [64].
Cái tôi
trong thơ luôn có sự vận động. Xét về mặt xã hội và mặt đời sống, cái tôi vừa
là chủ thể vừa là đối tượng. Khi nghiên cứu về đời sống và văn học, không thể
bỏ qua vấn đề cái tôi - con người. Trong văn học Việt Nam, các nhà nghiên cứu
cho rằng đại từ “tôi” đã cần vài thế kỷ để phôi thai. Và Truyện Kiều được xem là một cái mốc quan trọng trong sự hình thành
cái “ tôi”,… Đoàn Cẩm Thi trong bài “Hành trình cái “tôi”s trong văn Việt” cho
rằng “Ở Việt Nam chữ “tôi” đầu tiên xuất hiện vào khoảng cuối thế kỉ XVI đầu
thế kỷ XVII. Đến những năm 1804-1807, trong Truyện
Kiều, “tôi” được Nguyễn Du để cho Kiều xưng hô với Hoạn Thư “Rằng tôi chút
phận đàn bà” thì chính Nguyễn Du đã chứng tỏ một tư tưởng hiện đại. Mang cái
nhìn đồng cảm với các nhân vật nữ, tác phẩm của ông có thể coi là có một bước
tiến mới trong sự hình thành khái niệm cái tôi cá nhân tại Việt Nam” [143]. Cng
theo Đoàn Cẩm Thi, từ thế kỉ XVIII - XIX sự phát triển của Thiên Chúa giáo tại
Việt Nam dựa trên mối quan hệ trực tiếp giữa con người và Chúa trời đã góp phần
ít nhiều vào sự vươn dậy của ý thức cái tôi cá nhân. Kế đến là cái tôi chỉ mối
quan hệ giữa cá nhân và thế giới xuất hiện trong truyện Thầy Lazzaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản và tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách. Đoàn
Cẩm Thi nhấn mạnh tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Quản “có thể coi là tiểu thuyết
Việt Nam đầu tiên theo nghĩa hiện đại”. Tố Tâm “là
tác phẩm viết bằng thể loại “thư” đầu tiên để cho cái “tôi” nội tâm mâu thuẫn nhất, thầm kín nhất của
nhân vật nữ được bộc lộ”. Cái tôi dấy lên mạnh mẽ trong Thơ mới và đó là cái
tôi cô đơn. Nhà phê bình Hoài Thanh đã nói “Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng
càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong
trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta
đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng
rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận” [140,
tr. 46]. Nỗi buồn trong thơ mới là nỗi buồn của những con người giàu khát vọng
nhưng sống trong cảnh nước mất nhà tan nên phải chịu cảnh tôi đòi tủi nhục. Nỗi
buồn vì mất phương hướng “không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”. Nỗi buồn vì
cuộc sống ngưng đọng mất hết ý nghĩa. Cái tôi cô đơn tìm vào tôn giáo, thiên
nhiên, cõi mơ, cõi thực. Cái tôi trong Thơ mới là cái tôi ý thức cá nhân, cá
thể, cái tôi ý thức cao nhất về sự tồn tại của bản thân mình trong thế giới
khách quan.
Thời kỳ
sau Thơ mới, thời kỳ cách mạng cái tôi gắn với cái ta. Đó là cái tôi lãng mạn Cách mạng. Cái tôi sử thi, nhân danh
cộng đồng, dân tộc, nhân dân. Chế Lan Viên từng viết “Khi đứng riêng ta thấy mình xấu hổ”. Cái ta khiến cho thơ hướng về
cái tôi vì cộng đồng, vì sự xả thân, sự cống hiến mà gác lại những tình cảm
riêng tư. Cái ta cùng nhịp đập vì lý tưởng cách mạng. “Cùng đổ mồ hôi/ Cùng sôi giọt máu/ Ta sống với cuộc đời chiến đấu/ Của
triệu người yêu dấu gian lao”. Cái tôi trong thơ ca cách mạng thường hướng
tới cái chung, cái cao cả, sự kiện lịch sử, số phận toàn dân, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Cái tôi kết tinh sức mạnh cộng đồng. Cái tôi công dân ý thức
được mình là một phần của sự vận động lịch sử. Con người sống chủ yếu cho hiện
tại và tương lai. Vận mệnh dân tộc đã thống nhất muôn người như một: “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có cùng
khuôn mặt/ Nụ cười tiễn đưa con nghìn bà mẹ như nhau” (Chế Lan Viên).
Trước
thời kì Đổi mới (1986), cái tôi trong sáng tác văn chương gắn với cái ta. Cái tôi hòa vào cái ta chung. Bởi vì khi
quyền lợi quốc gia không còn thì không nghĩ về quyền lợi cái tôi. Điều này cũng
là lẽ hiển nhiên phải chấp nhận. “Khi Tổ
quốc cần/ Ta biết sống xa nhau” (Trà
Hoa Nữ - Quách Lan Anh). Con người sống với sứ mệnh cái ta chung của dân
tộc: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm...
Đông sang Tây không phải đường thực. Đường chuyển đạn và đường chuyển gạo”
(Phạm Tiến Duật). Nhà thơ Tế Hanh khẳng định cái ta chung “Chúng ta sống với bốn nghìn năm lịch sử/ Biết đời ta không phải của
riêng ta”. Cái tôi sử thi, cái tôi cách mạng khiến con người quên cả cái tôi riêng
tư. Tình cảm riêng tư hòa vào cái ta chung: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt/ Như mẹ như cha như vợ như
chồng/ Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết/ Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông” (Chế
Lan Viên). Trong khói lửa chiến tranh, cái tôi chưa nghĩ cho riêng mình - “Cái
tinh tế cỏ hoa tạm thời không nghĩ đến”. Cái tôi say mê lý tưởng, tự hào về dân
tộc - “Như khí phách Trần Lê/ Như oai vũ
Quang Trung” (Bài ca xuân 68 - Tố
Hữu). Thơ ca giành tất cả sự quan tâm cho cái ta của cộng đồng, dân tộc do vậy
cái tôi đời tư thế sự bị lãng quên. Một thời kỳ dài ngay cả nỗi buồn đau cũng
phải giấu, để sống cho cái ta cộng đồng dân tộc.
Sau năm
1986 là thời kỳ Đổi mới, hoàn cảnh xã hội có nhiều điều khác biệt so với thời
chiến tranh. Điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải xác lập vị thế của mình sao cho
thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Sự thay đổi của cơ chế thị trường, sự tiến
bộ của khoa học kĩ thuật, sự bùng nổ thông tin trong thế giới hiện đại đã tạo
nên một “thế giới phẳng” có ảnh hưởng tác động đến cách tư duy, cách cảm, cách
nghĩ của con người trong thời đại mới. Đổi mới, cách tân là con đường tất yếu
của thơ ca Việt Nam nếu nó muốn tìm được nơi trú ngụ vững vàng trong sự đổi
thay của xã hội. “Có thể nói, chưa
bao giờ, cách tân lại trở thành ý thức tự giác, một nhu cầu khẩn thiết, một cao
trào phổ biến, rộng rãi như giai đoạn này” [150, tr. 33].
Sự thay
đổi trong tư duy, cách cảm, cách nghĩ đã tạo nên sự thay đổi trong quan niệm
thẩm mĩ về con người về cái tôi trong văn học va thơ ca. Sự vận động của cái
tôi cá nhân được xem là nền tảng thẩm mĩ, là thước đo cho sự phát triển của xã
hội, của dân tộc. Đoàn Cẩm Thi cho rằng “mở đầu cho thời kì Đổi mới, nhà văn có
nhiều công phu nhất là Nguyễn Huy Thiệp. Qua tác phẩm Tướng về hưu đã xây dựng một cái
“tôi” không đơn giản chút nào, không cá tính, không chân lí,
phi-anh-hùng, bình thường, thậm chí tầm thường của thời hậu chiến”. Trong thơ
Việt Nam đương đại, từ vị trí những nghệ sĩ ngợi ca đất nước, nhân dân bằng cái
nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây, các nhà thơ phải chuyển sang cái
nhìn phi sử thi. Nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca Việt Nam
sau năm 1975 là “cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh cá nhân” [37, tr. 59]. Vai
trò sáng tạo của người nghệ sĩ được coi trọng, được “cởi trói” thì cái tôi càng
bùng nổ thể hiện sự thay đổi của xã hội và tư duy của người cầm bút. Cái tôi
trong thơ ca sau 1986 không còn là cái tôi cá nhân, cái tôi sử thi mà là cái
tôi bản thể. Chu Văn Sơn quả quyết “Nếu cái tôi trong thơ mới là cái tôi cá
thể, cái tôi trong thơ Cách mạng là cái tôi tập thể - đoàn thể thì cái tôi của
thơ Đương đại là cái tôi bản thể. Cái tôi bản thể soi mình vào mọi người” [Dẫn
theo, 167, tr. 47]. Chu Văn Sơn cũng lí giải rõ cái tôi trong Thơ mới thường soi mình vào tập thể cảm thấy mọi trạng thái cảm xúc “nhất nhất đều tương
thuộc bầy đàn” thiên về hướng ngoại. Cái tôi trong thơ đương đại là cái tôi
hướng nội, hướng vào nội tâm để tìm hiểu chính mình. Cái tôi bản thể trong thơ
Việt Nam đương đại là biểu hiện của “một quan niệm nhân văn mới, triết học, mỹ
học mới mẻ”. Trần Thiện Khanh khi viết “Suy nghĩ về cái tôi và cái mới trong
văn học” đã cho rằng: Cái mới đích thực luôn luôn biểu hiện cái tôi văn hóa,
một cái tôi sáng tạo cụ thể”. Cái tôi là thước đo đúng đắn nhất mọi giá trị văn
học. Trong thơ Việt Nam đương đại “cái tôi được xem là nhân vật chính và là
trung tâm phát và truyền cảm xúc” [64]. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hội
nhập, toàn cầu hóa với nền khoa học kĩ thuật phát triển, con người là những cá
nhân cô đơn, đánh mất mình nhưng đồng thời cũng là con người dám vượt lên chính
mình để khẳng định nhân vị, bản ngã của mình.
Dấu ấn
chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện trong tác phẩm của nhiều nhà thơ Việt Nam đương
đại. Khuynh hướng hiện sinh không thể hiện trong toàn bộ sáng tác của thơ đương
đại cũng như trong toàn bộ tác phẩm của một nhà thơ mà trong từng bài hoặc một
nhóm bài. Có tác giả biểu hiện trên các phạm trù của chủ nghĩa hiện sinh, có
tác giả thể hiện nỗi ưu tư cá nhân trước cuộc sống. Có khi chủ nghĩa hiện sinh
xuất hiện trong một nhóm tác giả với những biểu hiện phong phú. Luận án khảo
sát những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh qua tác phẩm tiêu biểu của các tác
giả hoặc một nhóm tác giả từ đó có cái nhìn chung về khuynh hướng hiện sinh
trong thơ ca Việt đương đại.
3.1.2. Biểu đạt cái tôi hiện sinh - xu hướng
phổ biến trong thơ Việt Nam đương đại
Cái tôi
là một phạm trù triết học chỉ chủ thể nhận thức trong hoạt động xã hội. Lịch sử
phát triển của thơ ca trữ tình Việt Nam là lịch sử phát triển, vận động của cái
tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình là khái niệm chỉ đặc điểm tư duy nghệ thuật của
nhà thơ có sự hài hòa giữa lí trí và cảm xúc. Hegel không ít lần nhấn mạnh
“trong thơ có sự biểu hiện của chủ thể”. Cái tôi trong thơ trung đại là cái tôi
vô ngã. Cái tôi trong thơ lãng mạn là cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi của thơ
ca cách mạng là cái tôi sử thi, cái tôi hòa vào cái ta chung. Cái tôi trong thơ
đương đại là cái tôi bản thể. Trần Mạnh Tiến nhấn mạnh cái tôi trữ tình trong
thơ thời kỳ đổi mới phong phú đa dạng hơn cái tôi trữ tình trong trào lưu Thơ
mới. Có thể nói cái tôi trữ tình trong thơ thời kỳ đổi mới là cái tôi trữ tình
muôn điệu. Chịu ảnh hưởng, tác động của hoàn cảnh xã hội thơ Việt Nam đương đại
có sự thay đổi về tư duy về quan niệm thẩm mĩ. Từ đây các nhà thơ có tư duy mới
về vai trò, vị trí của con người trong cuộc sống. Chu Văn Sơn đã cho rằng cái
tôi cá thể trong thơ mới thường đi tìm mình trong thế giới. Còn cái tôi bản thể
đi tìm thế giới trong mình. Đối tượng phản ánh của thơ đương đại là cái bên
trong chủ thể sáng tạo. Cái tôi bên trong được đề cao có vị trí đẹp nhất, quan
trọng và đáng ngưỡng mộ nhất.
Các nhà
thơ đương đại hướng đến khai thác con người bản thể mang nỗi đau không được là
chính mình, nỗi đau sống trong xã hội phi lý, các giá trị bị đảo lộn. Đó là cái
tôi mang sự giằng xé chính mình khi Thanh Tâm Tuyền gào lên “Tôi thèm giết tôi” không phải là ý nghĩ
tiêu cực mà thể hiện niềm khao khát sống, thậm chí khao khát sống hồn nhiên như
trẻ thơ “Tâm hồn anh vừa sống lại thành
trẻ thơ/ trong sạch như một lần sự thật” (bài “Phục sinh”, trong Thanh Tâm
Tuyền, Tôi không còn cô độc).
Cái tôi
bản thể sau những giằng xé ẩn ức bộc lộ khát khao đi tìm lại chính mình. Tác giả Hoàng Hưng đã viết: “Đốt đuốc từ ngữ/ Thơ tìm giúp mặt thơ ơi/
Mình đi tìm mặt mình, đi tìm mặt mình, đi tìm mặt/ Ta đổi mặt người ta khát mặt
ta” (Người đi tìm mặt - Hoàng
Hưng). Khát khao tìm lại chính mình đã mất, đã bị lưu lạc đã trở thành nỗi ám
ảnh trong cái tôi bản thể. Tiếng gào thét của các chủ thể sáng tạo đã cho thấy
khát khao riết róng và đến mức đáng thương khi con người bị đánh mất mình. Nỗi
khao khát tìm thấy chính mình có khi đi vào cả trong giấc mơ “Đêm qua /Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ thành chim/ Tôi mơ thành
giấc mơ” (Đề tặng một giấc mơ -
Lâm Thị Mĩ Dạ). Cái tôi của chính mình trở thành khát vọng sống mãnh liệt sau
một thời gian dài bị hoàn cảnh xã hội làm cho lãng quên. Sau chiến tranh, con
người nhìn lại chính mình và muốn khẳng định vị trí làm người đích thực. Vi
Thùy Linh thú nhận “Tôi không bao giờ hóa
trang để nhập vai người khác” chỉ muốn “tôi là tôi/ Một bản thể đầy mâu thuẫn”. Con người trong mối
tổng hòa các mối quan hệ xã hội với những mặt mâu thuẫn vừa đối lập vừa thống
nhất nhưng luôn khát khao được khẳng định mình.
Cái tôi
bản thể gắn mình với những ẩn ức, âu lo trăn trở, về kiếp người. Đó là cái tôi
lo lắng về những sự bất thường, những tai ương trong cuộc đời của xã hội khiến
họ hoài nghi, bất an. Nguyễn Quang Thiều được xem là nhà thơ đầu tiên bằng
những nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình đã xác lập một giọng điệu
mới trong thơ Việt. Inrasara cho rằng Nguyễn Quang Thiều vừa xuất hiện đã xác
lập được một giọng thơ riêng. Với phong cách “sáng tạo độc đáo, đậm màu sắc ma
mị”, tác phẩm của ông có sức lan tỏa rộng rãi. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhấn mạnh
“Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra một trường thẩm mỹ cho riêng mình, khước từ mọi
ước lệ, khước từ mọi véo von nhễ nhại, khước từ mọi du dương quen cũ, Nguyễn
Quang Thiều huy động tối đa những ngẫu nhiên”. Mặc dù có nhiều ý kiến trái
chiều về hành trình lao động nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều song càng ngày
ông càng khẳng định được vị thế và chỗ đứng trong lòng bao độc giả và trở thành
hiện tượng được các nhà nghiên cứu quan tâm, đón nhận. Từ khởi nguồn là vùng
quê hương sông Đáy với những cảm xúc sâu nặng về Bà, về Mẹ, về quê cha đất tổ,
về con người vùng quê ông, Nguyễn Quang Thiều đã có cái nhìn triết lí, suy tư
về cõi người, kiếp người: “Nhưng đời tôi
phải chăng đã gặp những lọc lừa/ Nên tôi sợ và tôi nghi ngờ/ Rằng ý nghĩ tôi sẽ
mắc vào tơ nhện” (Ám ảnh - Nguyễn
Quang Thiều). Khi đi sâu vào thế giới nội tâm
bên trong con người, các nhà thơ đưa vào trong thơ các vùng mờ của tiềm
thức, những miền vô thức mờ ảo. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều hình dung về một cõi
xa xăm: Với những câu thơ tôi viết dở
nhọc nhằn.../ Những câu thơ đỏ hỏn cỗi già.../ Nếu không thấy tôi trở về mặt
đất/ Hãy đến đường chân trời run rẩy nhịp thời gian (Đêm gần). Tác giả hình dung tương lai trở về từ cõi chết. Đường
chân trời là con đường không giới hạn, mông lung hư ảo. Con đường hòa nhập run
rẩy cùng nhịp bước thời gian là con đường của sự suy nghiệm về sự hư vô. Con
người vừa lo âu trước thời gian nhưng cũng dám chấp nhận quy luật hữu hạn mà
lại như không nguôi khát vọng đi vào chốn vĩnh cửu của sự sống. Khai thác
khuynh hướng tâm linh “tạo ra một không
gian rộng lớn đánh thức phần cảm nhận sâu thẳm ở mỗi con người về cái hữu hạn
và cái vô hạn, về cái thường nhật và cõi vĩnh hằng của cuộc đời” [146]. Với
khuynh hướng khai thác đời sống tâm linh, nhà thơ tìm vào những miền khuất
trong thế giới tinh thần. Với xu hướng này người nghệ sĩ “nỗ lực đào sâu vào cái tôi ẩn giấu, cố gắng phát hiện chiều sâu tâm
linh của con người” [37, tr. 68]. Tác giả Nguyễn Quang Thiều thể hiện khát
khao đổi mới vươn xa: Con đường/ con
đường/ con đường/ Dắt ta về hồ nước cũ... Ra đi từ hồ nước cũ/ Con đường/ con
đường/ con đường” (Lễ tạ). Con
đường ra đi và con đường trở về. Con người khát vọng được ra đi trên mọi nẻo
đường thời tuổi trẻ nhưng lại khát khao được trở về với cội nguồn, với lối cũ
để cảm nhận được giá trị thực sự của cuộc sống. Nhà thơ thừa nhận nỗi cô đơn
giấu kín trong lòng: “Cô đơn theo con
lặng lẽ lớn dần”…
Các nhà
thơ đương đại tập trung tìm hiểu cấu trúc cái tôi trong quan hệ với chính nó.
Chẳng hạn Hoàng Hưng viết: Mặt ga đêm/
Miệng mở ngủ/ Giật thức/ Mắt kinh hoàng/ Người bốn phương chạy đổi chỗ/ Em đi
về đâu em có đi cùng anh/ Em có một
cái mặt không?/ Ta soi nhau mà tìm (Người
đi tìm mặt). Với cấu trúc thơ đề cao lối viết tự động, siêu thực, tác giả
diễn tả khát khao đi tìm mặt tức
chính là tìm dấu ấn cái tôi riêng với những nỗi niềm ẩn giấu, lẩn khuất. Con
người khi ý thức được nhân vị thì càng nhận ra sâu sắc rằng tất cả kiếp người
là vô nghĩa lý. Có rồi không, còn rồi mất, không có gì là bất biến, vĩnh hằng.
Vì vậy, thi nhân mơ hồ đặt câu hỏi “Em có cái mặt không?”. Ta cũng có thể hiểu câu hỏi của nhà thơ ấy là
hỏi em có còn là chính em không? Đặt trong văn cảnh cả bài thơ, độc giả cũng có
quyền hiểu rằng chủ thể trữ tình đang
nói “Em cũng chính là tôi, chúng ta bị đặt vào tình thế xuất hiện ngẫu nhiên và
mất đi ngẫu nhiên”. Đi tìm mặt chính là đi tìm cái tôi bị đánh mất hay cái tôi
trôi lạc. Khi biểu hiện cái tôi tâm linh, các nhà thơ tập trung tìm hiểu mối
quan hệ với chính nó.
Cùng
với khuynh hướng viết về vùng mờ tâm linh, thơ Việt Nam đương đại còn là khuynh
hướng viết về cái tôi gắn với cái ta cộng đồng, quốc gia: Cảm hứng sử thi vẫn
được tiếp nối. Nhưng hiện thực về chiến tranh trong thơ Việt Nam đương đại là
hiện thực trở về từ kí ức. Các nhà thơ không tái hiện hiện thực mà ngẫm nghĩ về
thế thái nhân tình qua sự biến động của lịch sử. Hình ảnh đất nước được nhìn từ nhiều góc độ. Đất nước anh hùng
nhưng cũng là đất nước của những đau thương mất mát. Các nhà thơ nhìn đất nước,
chiến tranh một cách tỉnh táo, lạnh lùng hơn không thiên về ngợi ca một chiều.
Chẳng hạn “Cái đất nước có dáng hình tiên
múa/ Lại có hình ngọn lửa lúc cuồng phong” (Trần Mạnh Hảo). Không còn giọng
thơ ca ngợi một chiều, đất nước hiện lên vừa mềm mại, thướt tha nhưng cũng rất
rắn rỏi hiên ngang. Thế hệ hôm nay nghĩ về trách nhiệm bổn phận với Tổ quốc
cũng chính là để sống tốt trong hiện tại “Người
chết sẽ chẳng bằng lòng nếu chúng tôi quá đau thương/ Chúng tôi sống thay cho
người đã chết (Những sự vật còn sống -
Xuân Quỳnh). Nghĩ về người đã hi sinh không chỉ biết khóc than, bế tắc mà tỉnh
táo nhận ra bổn phận của người đang sống. Chúng tôi “sống thay” cho người đã
chết, sống theo nghĩa sống tốt với chính mình, sống trong thế giới biết ơn với
người đời, với cuộc sống rộng lớn …Không còn là những mĩ từ, sáo ngữ, con người
hiện sinh sống cho thực tại. Hoàn thành bổn phận làm người đó là một thiên
chức. Không đợi đến làm được gì cao cả, siêu phàm mà chỉ làm tròn bổn phận của
con người bình thường đã là biết sống và dám
sống.
Biểu
đạt cái tôi trong thơ ca đương đại có nhiều hướng. Đó là cái tôi cảm xúc, cái
tôi lý giải phi lý, cái tôi đa chiều kích, không dựa vào một chuẩn mực nào. Tác
giả Vi Thùy Linh là một hiện tượng thơ đã gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi
với những quan niệm trái chiều. Có nhóm những người gọi Vi Thùy Linh là “một
hiện tượng thơ mới” là “thơ trẻ thứ thiệt” như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy
Kha, Hoàng Hưng, Tô Hoàng, Phạm Xuân Nguyên… Nhóm người đối lập không coi Vi
Thùy Linh là thơ như Nguyễn Thanh Sơn, Hoàng Xuân Tuyền, Trần Mạnh Hảo… Về sau,
Vi Thùy Linh đã khẳng định được vị trí
của mình. Thơ Vi Thùy Linh luôn đề cao cái tôi bản thể, sự khác biệt, thể hiện
quan điểm độc lập quả quyết: Qua mọi nẻo
đường.../ Ruổi mãi ruổi mãi theo những câu kinh/ Tới vùng sa mạc ánh nhũ mặt
trời xanh (Song mã). Qua thơ, Vi
Thuỳ Linh không chỉ biểu hiện niềm vui hoan lạc mà còn có cả nỗi cô đơn: “Quay lung về em, Anh đi/ Để lại em cánh đồng
hạn/ Nứt nẻ và nhợt nhạt/ Những - vết
- chai”… Cô đơn vì bị lãng quên, cô đơn vì không bao giờ thỏa mãn với hạnh
phúc của con người: “Trong giấc mơ/ Tìm
mãi kiếm tìm/ Một vầng trăng không bao giờ khuyết/ Một mùa trăng lênh đênh…
Hình như/ Có nỗi buồn nghiêng/ Nơi bóng tối òa vỡ” (Không đề). Càng cô đơn càng khao khát được đồng cảm sẻ chia: “Em ngắt vài cọng gió/ Thả lên dấu thời gian/
Vừng ơi- em niệm chú/ Uớc mơ về xênh xang” (Giao cảm)… Càng ý thức được về sự hiện hữu của cái tôi bản thể càng
khao khát được sống và chiến thắng tuổi tác qua sự trôi chảy nghiệt ngã của
thời gian. “Ta lo âu một ngày/ Bàn tay
nhăn nheo những sợi tóc bạc ngã gục/ Những sợi tóc không thể mọc thêm không bao
giờ đen được nữa/ Màu trắng run lên” (Lặng
lẽ).
Con
người với khát vọng rong ruổi dù nhọc nhằn khổ ải như tự đầy ải mình nhưng là để tìm đến được vùng đất rực sáng
và màu xanh hy vọng. Nguyễn Thị Hồng Ngát
thừa nhận: “Nước mắt đã thôi không chảy/
Và nỗi buồn cũng chẳng thể buồn hơn”.
Cũng có khi là những chiêm nghiệm về chính cuộc sống của con người trong thơ Tuyết Nga: “Khát vọng rủi ro khát vọng chẳng thành tên/ Cuộc sống ngẫu nhiên/ Đời người may rủi/ Bị dẫn dắt để bất ngờ lầm
lỗi/ Vinh quang ngắn ngủi đến nhường kia”.
Thơ
Việt Nam đương đại cũng có chỗ để giãi bày nỗi niềm hồ nghi trong tình yêu,
tình người trong cuộc sống: “Em hiểu lắm tình yêu thường nông nổi/ Thương nhau rồi có thể sẽ là không/
Nên em lặng im yêu vụng thương thầm/ Yêu một phía hy vọng là vĩnh viễn”
(Phan Thị Thanh Nhàn). Phan Huyền Thư khẳng định cần đi tìm cho mình một hướng
đi riêng trong buổi giao mùa. Cách diễn đạt với những vùng mờ nhập nhòa giữa
thực và ảo. Thực chất cái tôi muốn tạo lập con đường riêng, muốn khẳng định cái
tôi trong mọi nẻo đường vốn phức tạp của cuộc sống: Tự dắt mình men theo mùa hạ/ Tìm một lối đi thu (Men theo mùa hạ Phan Huyền Thư).
Như
vậy, có thể nói, biểu đạt cái tôi hiện sinh là xu hướng phổ biến trong thơ Việt Nam đương đại. Tùy mỗi cá tính
sáng tạo mà cách biểu đạt này khác nhau, và sự đa dạng ấy đã làm nên sự phong
phú, nhiều màu sắc của thơ ca hiện sinh. Cái tôi trong thơ hiện sinh đã đem lại
cho người đọc những thể nghiệm độc đáo, và đặc biệt, giúp họ nhìn thấy được
những bí ẩn trong tâm hồn mình.
3.1.3. Các
dạng thái của cái tôi hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.1.3.1.
Cái tôi bản thể và cái tôi tha hóa
Chủ nghĩa hiện sinh gắn với vấn đề con người bản thể. Hiện sinh là gắn với cái gì của con người trong thực tại với khát vọng vươn lên khỏi thực tại để sống với âu lo và bất an khôn nguôi. Chủ nghĩa hiện sinh quan tâm đến con người sống động cụ thể: “Người hiện sinh muốn coi tính chủ thể như là nguồn cội duy nhất, là kho tàng đầu tiên và cuối cùng mà mỗi cá nhân có thể khai thác” [127, tr 247]. Chủ nghĩa hiện sinh quan niệm chỉ ở con người và chỉ ở con người thôi hiện sinh có trước chứ không phải là bản chất có trước. Từ khi sinh ra con người chưa là gì hết, nó tự do lựa chọn để tạo nên bản chất của chính nó. Trước 1975, nhà thơ Chế Lan Viên đã đặt những câu hỏi “Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình/ Ta là ai? Khi xoay chiều ngọn bấc”.
Những câu hỏi xoáy vào cái tôi bản thể mong muốn được
khẳng định vị thế của mình. Lưu Quang Vũ cũng từng bộc bạch nỗi cô đơn, bất lực trước cuộc đời: Có những lúc tâm hồn tôi rách nát/ Như một chiếc lá khô/ Như một chồng gạch vụn (Có những lúc - Lưu Quang Vũ). Con người cảm thấy bất an, ám ảnh, đổ vỡ trước thực tại khắc nghiệt. Sau 1975, các nhà thơ nói nhiều về nỗi buồn nhân sinh,
về những cảm nhận của cái tôi trước
thực tại khắc nghiệt. Có khi đó là nỗi buồn vì sụp đổ thần tượng… Nguyễn Trọng Tạo thất vọng than kêu “Chúa chỉ bằng đất đá”. Chúa đã chết, con người không tìm được bất cứ một chỗ dựa nào ngoài chính bản thân mình. Đó là một luận điểm quan trọng của Hiện sinh luận. Có khi là nỗi buồn về sự mưu sinh không ngại gắn liền với những trắc ẩn riêng tư về tình yêu đôi lứa. Lâm Thị Mĩ Dạ đã viết “Em chết trong nỗi buồn/ Chết như
từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng”. Nỗi buồn tưởng như chết là nỗi buồn của sự bế tắc. Nỗi buồn đeo đẳng con người
như một cái án chung thân, cái án lưu đày.
Sau năm
1986, xã hội Việt Nam phát triển trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa của thời
đại của xã hội kỹ trị. Chịu sự tác động của cơ chế thị trường, con người sống
trong sự bất an, dễ rơi vào trạng thái hoang mang, cô đơn. Và đây được xem là
một trong những điều kiện để chủ nghĩa hiện sinh trở lại trong hàng loạt sáng
tác cả văn xuôi và thơ. Cao Thị Hồng đã thống kê cho thấy có các tác giả tác
phẩm ngay từ nhan đề đã hiển hiện tinh thần
hiện sinh - Khát, Đồng tử (Vi Thùy Linh);
Những kỉ niệm tưởng tượng (Trương Đăng Dung); Màu, Mùi
(Hoàng Vũ Thuật); Nằm nghiêng, Rỗng ngực (Phan Huyền Thư), Lô Lô (Ly Hoàng Ly), Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ (Đinh
Thị Thu Vân), Người đàn bà qua hai mùa
tóc (Ánh Hồng); Giọng nói mơ hồ, Tháo đáy, Chất trụ, Vỉa từ, Ổ thiên đường (Nguyễn Hữu Hồng Minh) …
[62].
Thơ ca
đi tìm cái tôi gắn với con người. Con người hạnh phúc hay khổ đau, vui, buồn.
Con người với nhiều cung bậc trạng thái phong phú phức tạp. Đó là một quy luật,
vì nhà thơ chân chính nào khi cầm bút cũng ý thức được mục đích sáng tác đề cập nhiều về những vấn đề của hiện sinh.
Thậm chí có nhiều tác giả xoáy sâu vào câu hỏi cật vấn sự tồn tại của mình.
Phan Huyền Thư viết: “Tỉnh dậy thôi/ Trở
về mình” (Lãng mạn giải lao -
Phan Huyền Thư). Trở về tìm lại chính mình là một đòi hỏi bức thiết của người
nghệ sĩ nói riêng và con người nói chung.
Cái tôi
bản thể gắn với bản chất của con người. Đối với triết học hiện sinh, vấn đề
quan tâm hàng đầu là cái hữu thể, sự tồn tại của cái bản thể: “phải bắt đầu từ
hữu thể, đi trong hữu thể và tất cả cho hữu thể” [28, tr. 95]. Vì vậy, khi tìm
hiểu bản thể thì trước hết và tất yếu phải lấy hiện hữu của con người làm môi
trường tìm hiểu. Nguyễn Tiến Dũng nhấn mạnh: “Theo các nhà hiện sinh, bản chất
không phải là bản chất phổ quát thuộc về giống người mà là bản chất cụ thể làm
cho ta trở thành một con người nhất định thuộc về ta chúng không có ở bất cứ
ai” [28, tr. 99]. Theo các nhà hiện sinh, tồn tại có trước bản chất. Con người
sinh ra chưa là ai, chỉ khi con người biết sống và hành động thì khi đó mới
phân biệt đó là con người như thế nào. Hoàng Thị Huế cho rằng:“Thơ ca nói chung, thơ Việt Nam đương
đại nói riêng dao động giữa hai hấp lực: vô thức cá nhân đầy ẩn ức và tiếng gọi
thẳm sâu của vô thức tập thể, biểu hiện trong những giằng co giữa thực tại và
mơ ước, bản ngã và siêu ngã, dục lạc và thăng hoa” Ý thức về cái tôi bản thể
được bắt đầu từ ý thức về bi kịch đánh mất cá tính. Tác giả Nguyễn Hữu Hoàng
Linh từng viết: tôi chưa từng đi lạc/ nên
chẳng ai tìm thấy tôi/ có phải trong bóng tối/ tôi đã hóa đêm rồi (Chìm).
Nhân
vật trữ tình lo sợ mình bị lạc vào đám đông, lẫn vào đêm tối. Bài thơ không
viết hoa đầu dòng thơ, giọng điệu bình thản nhưng ngậm ngùi nghẹn ngào. Đây là
cách nói hình ảnh để khẳng định cái tôi luôn thực hiện đúng theo những quy định
đã trở thành mòn sáo. Nhưng chính trong những khuôn khổ đó sẽ chẳng ai nhìn
thấy, phát hiện ra được cái tôi với những nét riêng biệt. Sợ đánh mất mình, con
người không còn muốn tự đóng khung trong một cái tôi nhỏ bé, họ muốn đi tìm
mình, tìm dấu ấn cá nhân của khuôn mặt mình. Tác giả Hoàng Hưng viết bài Người đi tìm mặt: Đêm xuống rồi/ Ta lẻn/ Đi tìm mặt mình/ Đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình
đi tìm mặt mình/ Mặt họ no đủ quá/ Họ vui dễ thế kia/ Người ơi người đời ta
biết có/ Mấy ngày vui/ Đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình/ Mặt ga
đêm/ Em đi về đâu em có đi cùng anh/ Em có một cái mặt không/ Anh biết ngày mai
em trở về điếc đặc. Nhẫn nhục ăn làm/Tàu rúc còi tàu đi tìm chi/ Tìm mặt mình đi
tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi/ Mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi
tìm/ Đốt đuốc lên/ Cho ta đi tìm/ Đốt đuốc lang thang/ Bàn chân bụi đất/ Đốt
đuốc tốc độ/ Mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt (Người đi tìm mặt - 1973).
Khát
khao đi tìm mặt mình được láy đi láy
lại bằng cụm từ “đi tìm mặt mình”
nhấn mạnh về ước vọng cháy bỏng và niềm tin xác quyết đi tìm lại chính mình
trong đêm tối của dòng đời. Tác giả trần tình những suy tư trăn trở về cái tôi
bản thể con người. Trong dòng đời của con người có được mấy ngày vui? Câu hỏi
đầy lo âu khắc khoải đẫm màu sắc hiện sinh. Con người hiện sinh thường nhìn
cuộc đời góc độ thực tế, không tô hồng cuộc sống, bởi con người hiện sinh quan
niệm con người từ khi sinh ra đã không có quyền lựa chọn. Con người sinh ra một
cách ngẫu nhiên và không chắc chắn được về tương lai của mình, con người luôn
âu lo, bi quan và cô đơn. Tác giả đưa ra những hình ảnh chứa đựng sự đối lập
tương phản giữa các sự vật trong cuộc sống. Những cử động của con người hòa lẫn
trong âm thanh hỗn tạp của cốc thìa, cà phê và sữa. Con người vẫn tồn tại chảy trôi theo sự vận động thường
ngày của lẽ sinh tồn. Con người trong xã hội hiện đại đang bị cuốn trôi theo
những âm thanh hỗn tạp kia. Tác giả lặp toàn phần câu thơ “đi tìm mặt mình” đến ba lần. Cần phải đi tìm lại chính mình sau
những niềm vui nhất thời! Đến khổ thơ thứ 3 tác giả lại gióng lên những câu hỏi
nhức nhối. Trong màn đêm của giấc ngủ khi tỉnh, thức em đi về đâu? Em có khuôn
mặt không? Liệu rằng em có đi cùng anh không, cùng dòng suy nghĩ hay em trở nên
“điếc đặc” có nghĩa là em đánh mất chính em. Em hay là con người bị chìm lẫn
vào công việc thường nhật trong kiếp mưu sinh. Xót xa khi con người từng ngày
đánh mất mình nên cần phải đánh thức họ “đi
tìm mặt mình”, điệp khúc vang lên đầy ám ảnh… Cái tôi rơi vào trạng thái
thảng thốt lo lắng đi tìm chính mình trong hoang mang âu lo. Càng trăn trở âu
lo con người càng khao khát đi tìm mình. Cuộc đời con người theo chủ nghĩa hiện
sinh là hữu hạn, là phi lý. Con người luôn muốn vượt lên chính mình để chứng tỏ
nhân vị, in dấu vân tay của cái tôi mình trong cuộc đời. Do vậy, để được tự do,
con người luôn vươn lên và chấp nhận cô đơn, âu lo. Âm điệu cuối bài thơ là lời
giục giã “đi thôi đi thôi”. Không tìm được mặt mình ta tạc vào đêm tối. Con người
vùng vẫy, vươn lên để khẳng định nhân vị của mình là một khát vọng nhân bản.
Con
người cố gắng đeo bám vào cuộc sống rộng lớn có khi chấp nhận sự đày đọa khổ đau vì muốn khẳng định nhân vị
và vươn tới tự do cho chính mình. Để vươn tới tự do con người càng khát khao
được sống đúng là mình. Đây được xem “là một
nhu cầu, một mong muốn khẩn thiết”. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết bài thơ Tự họa, tự vẽ chân dung mình để khắc dấu
bản thể: vẽ tôi mực rượu giấy trời/ nửa
say nửa tỉnh nửa cười nửa đau/ vẽ tôi thơ viết nửa câu/ nửa câu ma quỷ đêm sâu
gọi về (Tự họa). Tác giả đã thực
hiện bức tự họa chân dung mình và đó là một cách để nhà thơ khẳng định vị thế
của cái tôi. Trong tứ thơ này, chân dung nhân vật tôi được nhìn dưới nhiều góc
độ. Đó là cái tôi nửa tỉnh nửa say trong
men rượu đời thường. Đó là cái tôi nghệ sĩ trong
cảm xúc thăng hoa của thơ ca với một tâm hồn nghệ thuật. Đó là chân dung của
một bản thể người với mọi ưu nhược điểm, vừa tốt vừa xấu, vừa cao thượng vừa
thấp hèn. Cái tôi được soi chiếu với nhiều góc độ với mọi chiều kích cả trong
đời thực, cả trong nội tâm, vừa nghiêm túc vừa bi hài. Cái tôi dù ở góc độ nào
cũng không tự thỏa mãn mà luôn hướng về phía hư hao không trọn vẹn, luôn cảm
thấy chênh vênh và thiếu khuyết, thậm chí lẻ loi và đơn độc.
Cuộc
sống càng hiện đại, càng toàn cầu hóa mạnh mẽ, con người càng có nguy cơ đánh
mất mình. Cái tôi trong thơ đương đại mang cảm quan của con người hiện đại, nỗ
lực tìm kiếm, gìn giữ bản ngã trong một thế giới đầy bất an, phi lí. Tác giả tìm
thấy bóng dáng của người khác trong thơ mình. Cái tôi trong thơ đương đại có
nhiều tập thơ đã thể hiện ý thức về cái
tôi bản thể ngay nơi nhan đề thi phẩm. Chẳng hạn Lê Minh Quốc có bài Tôi vẽ mặt tôi. Đinh Thị Thu Vân với bài
thơ Tôi gọi tôi. Hoàng Hưng với nhan
đề Tôi đi tìm mặt. Qua thơ các tác
giả nêu những câu hỏi khắc khoải về cái tôi hiện hữu, cái tôi trăn trở về chính
mình. Lâm Thị Mỹ Dạ đặt câu hỏi “Sao ta là người/ quằn quại chứng nhân chính mình quằn quại”. Con người
được sinh ra một cách ngẫu nhiên, không tự quyết được số phận mình. Câu hỏi đặt
ra là Ta là ai? Ta đến đây để làm gì
và trở thành ai? Đặt câu hỏi đi tìm nguồn gốc tại sao ta lại sinh ra là con
người? Con người - hai tiếng ấy từ khi xuất hiện cho đến khi biến mất phải tự
chịu trách nhiệm về chính mình chứ không ai khác. Không ai sống thay cuộc đời
của họ. Nhà triết học Descartes đã nâng “cái
tôi” thành trung tâm của triết học. Tôi
chỉ có thể tìm ra thế giới “tự thân”
khi tôi thấu hiểu được nó thể hiện
trong suy nghĩ của tôi như thế nào.
Hoàng Thị Huế nhấn mạnh rằng Immanuel Kant đã đặt ra những câu hỏi lớn của nhân loại: Tôi có thể biết gì? Tôi nên làm gì? Tôi có thể hy vọng gì? Con người là gì… Những câu hỏi xoay quanh vấn đề
trung tâm - Con người có thể biết gì về
chính mình? Những câu hỏi về hạnh phúc, tự do, tình yêu... nêu bật sự tái
thức nhận hiện thế. Cũng như câu hỏi về Chúa và ý nghĩa của tương lai. Với thi
nhân, tôi tìm tôi trong sự viết - sáng tạo, và đó là một cách để khám phá đào
sâu bản thể. Hay trong Khắc thạch, Phan
Huyền Thư viết: “Áp má lên vách đá/ Tiếng
cựa mình tuyệt vọng của tôi/ Sáng mai thức dậy/ Con bọ-gậy-đổ-vỡ của tôi đã
thành/ muỗi/ bay đi”. Nhân vật tôi còn tìm tôi trong tình yêu, bởi trong
hành vi yêu thương, hiến dâng, cho, nhận… con người tìm thấy mình. Tình yêu đối
mặt với bất hạnh, con người trở về với nỗi cô đơn: “Người con gái có đôi mắt buồn/ Đi lang thang trong chiều mùa hạ/ Nỗi cô
đơn lây sang cả đá” (Thúy Nga).
Các nhà
thơ trẻ hôm nay đã thẳng thắn nhận ra một thời kỳ dài con người không sống đúng
là mình. Nhà thơ Trương Nam Hương nhận xét: “Đã có một thời nỗi đau ta phải giấu/ Trang báo ta cầm chỉ đọc những
niềm vui”. Phạm Xuân Hạ cũng khẳng định “Thơ viết ra in bóng dáng của mình” [Dẫn theo [150, tr. 89]. Trong
thơ ca đương đại Việt Nam, có nhiều tác giả đã thể hiện rõ ý thức về cái tôi
bản thể. Lâm Thị Mỹ Dạ trong Đề tặng một
giấc mơ đã biểu đạt giấc mơ mình trở thành chính mình - “Đêm qua/ Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ thành
chim/ Tôi mơ thành giấc mơ”. Đó là sự khắc khoải phân vân: “Sao không là hai/ Mà quỳnh chỉ một”. Con
người cũng như bông quỳnh lẻ loi cô đơn khai mở một thoáng giữa đêm sâu.
Cùng
với cái tôi bản thể là cái tôi tha hóa. Tha hóa hiểu theo nghĩa thay đổi, biến
đổi. Cái tôi không còn của ngày xưa nữa. Con người khi còn là cái tự nó chỉ
sống như một sinh vật, sống thừa ra. Các nhà hiện sinh cho rằng điều đó có nguyên nhân từ sự tha hóa. Tha hóa là
đánh mất mình để hóa thành “kẻ khác”. Sự tha hóa ấy có hai hình thức: Tha hóa
do lối sống thụ động, tôn thờ một hình mẫu lý tưởng kể cả thần tượng là Thượng
đế. Tha hóa vì chỉ sống dựa theo người khác, không khẳng định được nhân vị
mình. Nghĩa là con người bị lệ thuộc vào tha nhân và bị vong thân. Thơ ca đương
đại đi tìm cái tôi đã mất, cái tôi cái bản thể khi sinh ra là thiện lương nhưng
trong quá trình sống nó đã bị biến đổi. Con người luôn nỗ lực để khẳng định
nhân vị tự do độc đáo.
Tác giả
Lê Minh Quốc có hẳn hai bài thơ mang tựa đề Tôi
vẽ mặt tôi và Vẽ tôi. Đây là khát
khao của nhà thơ được tự họa mặt tôi với những mặt trái, với những sự thật trần
trụi. Đó là khuôn mặt đã chảy qua dòng sông hay dòng đời mỏi mệt khô cằn. Đó là khuôn mặt tự trào mình như một đứa trẻ ngây ngô,
một vai hề mua vui trong vở chèo tuồng cổ. Đó là chân dung của
khuôn mặt người với những bon chen cúi luồn như tôm giữa dòng đời bon chen sát
phạt. Đó là hình hài của một đấng người mà phải gồng mình lên đến kiệt sức bật
máu trải qua kiếp người để tồn tại. Thậm chí tác giả còn nhìn thấy khuôn mặt
người đáng ghê, đáng buồn nôn khi phải đua chen danh vọng với những thất bại
đắng cay trên đường công danh vốn trơn trượt và chông gai. Cuối bài thơ là mong
muốn được “chọc hai con mắt cho mù mới
vui” để khỏi phải nhìn thấy những điều chướng tai gai mắt. Nhân vật tôi
hiểu rằng cuộc đời con người là phù du. Tại sao con người cứ mãi vô minh tăm
tối không nhận ra mình đã sống mà chẳng khác gì một thứ đồ vật. Bài thơ có ý
nghĩa phản tỉnh con người.
Thực
ra, cái tôi bản ngã chính là cái tôi đơn nhất (cốt lõi một nhân cách) nhưng bởi
vì cá nhân là một hiện sinh tự nhìn mình và tìm mình nơi tha nhân nên trong thơ
theo khuynh hướng hiện sinh ta sẽ bắt gặp cái tôi tha hóa. Từ “tha hóa” ở đây
lẽ dĩ nhiên là từ dùng của hiện sinh luận chứ không phải là từ dùng nghĩa từ
điển phổ thông. Đó cũng chính là cách hiểu dẫn theo diễn giải tác giả bài viết
“Chủ nghĩa hiện sinh - Sự hình thành, diện mạo và ảnh hưởng”: “Sự ra đời của
chủ nghĩa hiện sinh là hiện tượng xã hội tất yếu phù hợp với xu hướng phát
triển tâm lý thời đại chống lại bản thể luận và nhận thức luận trong siêu hình
học truyền thống, theo đó các triết gia mải mê tìm kiếm nguồn gốc vũ trụ, lý
giải quá trình nhận thức mà bỏ quên thân phận và kiếp sống con người, không lý
giải mối quan hệ phụ thuộc giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và tất yếu. Tuy
khoa học kỹ thuật có mặt để giảm nhẹ sức lao động, nhưng rồi chẳng mấy chốc máy
móc đã ép con người theo guồng quay và trở thành nô lệ của nó. Trong cuộc sống
hiện đại, để tồn tại con người nhiều lúc phải tự đánh mất mình, bị đổi ngôi từ
“nhân vị” thành “đại từ”, từ “chủ thể” thành “đối tượng”, từ “tôi” thành “nó”.
Chung quy là buộc phải tha hóa đúng như nhận định của triết gia Friedrich
Nitschez: “Con người đã chết” (Ta đã biết câu nổi tiếng của F.Nietzsche “Thượng
Đế đã chết” - “Gott ist tot”, trong tác phẩm Zarathustra đã nói như thế.. Chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là sự
đáp trả tư tưởng tư biện trừu tượng triết học Hegel trong quá trình đi tìm các
khái niệm phổ biến mà không quan tâm đến đời sống hiện thực của con người và
chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển đã lý tưởng hóa tình yêu và cuộc sống,
dẫn dắt con người ngày càng xa rời hiện thực” [142]. Cái tôi bản ngã đơn nhất
là cái tôi đi tìm nét riêng của mình, nét độc đáo không giống người khác, không
lặp lại người khác. Khát khao làm mới mình, thay đổi và vượt lên chính mình là
một khát khao mang tính hiện sinh. Con người không tự bằng lòng với hiện tại mà
luôn muốn vươn lên, vượt qua chính
mình. Con người không chấp nhận những cái tẻ nhạt khuôn mẫu mà luôn muốn vươn
đến những cái mới lạ. Cùng với Vi Thùy Linh, tác giả Ly Hoàng Ly cũng khao khát
được là chính mình một cách riết ráo: Cắt
đêm ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu đêm lại bằng tóc/ Tóc thưa dần thưa dần/ Những đường
rãnh trắng hếu đưa ta đi hết đêm này đến đêm khác/ Cho đến khi đầu trọc/
Cắt ta ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu ta
bằng hết đêm này đến đêm khác/ Cho
đến khi trắng hếu đêm (Cắt). Khát
khao được là chính mình trong mọi khoảnh khắc thời gian. Đó có thể xem
là một tiếng gọi mà suốt đời con người đi tìm, cho dù cuộc sống có nghiệt
ngã. Cái tôi đa ngã phức điệu là cái tôi
nhiều bản ngã, nhiều trạng thái. Có thể cái tôi là thiên thần có thể cái tôi là ác quỷ. Cái tôi mang trong mình nhiều trạng thái “rồng phượng lẫn rắn rết”
(Nguyễn Minh Châu).
3.1.3.2.
Cái tôi hiện hữu, hằng tồn và cái tôi hư vô,
bất định
Cái tôi
hiện hữu hằng tồn có nghĩa là mình cảm nhận, đọc được chính mình trong tấm
gương thi ca. Cái tôi hư vô bất định luôn có cảm giác lo âu bất an trước cuộc
đời hữu hạn. Con người với bản chất cô đơn vì tự mình làm nên mình, không có
chỗ dựa về lí trí, tự lần mò tìm đường đi cho mình vì vậy luôn lo âu. Lo âu vì
sự hư vô, không thể lí giải dược. Con người là một hữu thể cô đơn, một thế giới
đóng kín nhưng lại phải mang một trách nhiệm nặng nề đối với bản thân. Cô đơn
được triết học hiện sinh xem là định mệnh là nghiệp dĩ của con người. Cô đơn
bủa vây con người khắp mọi chiều không gian. Cô đơn từ khi còn nhỏ bé, cô đơn
trong lớp học, trong trang sách cả ngoài đường phố xôn xao. Con người bị đè
nặng bởi một khối cô đơn và phải mang theo nó, sống chung với nó không thể dứt
bỏ được mà chỉ chấp nhận nó.
Con
người hiện sinh quan niệm cuộc đời là hư vô. Con người sinh ra rồi mất đi,
không có gì là vĩnh cửu. Bi kịch buồn nhất của con người là người ta chết chỉ
có một mình. Con người sinh ra rồi khi chết, chỉ có một mình tự đảm nhiệm cái
chết, không ai làm thay, chết thay, chính điều đó khiến con người luôn âu lo,
suy tư. Cũng như sự sống, cái chết là một phần của cuộc đời con người. Có khi
các tác giả hình dung mình đang sống với cái chết. Nguyễn Quang Thiều hình dung
mình đã chết “Tôi đã chết một cái chết
khoảnh khắc/ Tôi thấy xác tôi như sương vương trên cỏ dại”. Không né tránh
bi kịch của đời người, các tác giả đứng từ điểm nhìn của cái chết cái vô thường
để có cái nhìn rộng hơn, bao quát hơn về cuộc sống trong hiện tại. Phan Huyền
Thư cáo phó mình như đã chết “Tôi muốn tự
mình lồng ảnh vào khung/ Đóng vào khung/ Tìm nơi treo trang trọng/ Như đã qua
đời” (Cáo phó). Khi ý thức được
cuộc đời hư vô con người sẽ hiểu được cần sống và làm gì trước cuộc sống. Tuy
nhiên, chết với thi nhân không phải là sự chấm dứt. Đó là sự tiên cảm về lẽ tồn
vong của con người giữa trời và đất, giữa bóng tối và ánh sáng. Điều này được
Mai Văn Phấn thể hiện trong bài thơ Giấc
mơ vô tận: “Gió mùa về/ Làm khăn
trắng quấn nơi gốc sú/ Trên đỉnh trời linh cữu nhấp nhô”. Nguyễn Quang
Thiều lí giải về ẩn số của đời người: “Thế
giới còn lại của loài người là một chiếc ghế vuông/ Con thú rên rỉ bám vào bến
bờ ước lệ sự sống”. Cuộc đời rút cục là một thứ trò chơi của con tạo “Chiếc quan tài dâng lên mãi/ Dâng lên đám
mây ngũ sắc/ Con đường người chảy thấu qua ngôn ngữ chúng tôi/ Hồi sức những âm
tiết đơn, sinh sôi đa bào/Mang ý nghĩa mới tiếng gọi tái sinh mãi tiếng vọng/
Ngôn ngữ náu mình trong chúng tôi/ Ngôn ngữ ánh sáng minh chứng chúng tôi/ Ngôn
ngữ ánh sáng minh chứng con cháu chúng tôi”. Khi đặt ra giả thiết mình đã
chết thì ta dễ hình dung hơn được ý nghĩa cuộc đời là gì. Cái còn lại là những
gì mà chỉ có ngôn ngữ mới chứng nghiệm được. Phải chăng đó là cái nhìn xuyên
qua thời gian, không gian vời vợi siêu thực để hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa nhân
sinh của con người?
3.2.
Cảm nhận về con người theo hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại
3.2.1. Một vài
giới thuyết
Nhận
thức về con người trong thơ Việt Nam đương đại là nhận thức con người với nhiều
cung bậc trạng thái. Đó là con người tự hào, con người lo âu, bất an. Trong
thời đại toàn cầu hóa con người có điều kiện sống cho bản thân mình và suy ngẫm
nhiều hơn về chính mình. Nhiều tác giả thơ Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm của
mình về con người trong thời đại mới. Con người với những trăn trở về chính bản
thể với mọi buồn vui, yêu ghét, kiêu hãnh, tự tin và âu lo, buồn chán, thất
vọng... Tác giả Lê Khánh Mai khát khao tìm về bản thể mình: “Tôi xương thịt hôm nay, ngày sau cát bụi/
cát bụi nhỏ nhoi khiêng vác linh hồn/ vẫn khao khát được chở che, cứu rỗi/ và
trên phiến ngực trần của đá/ tôi ước ao là một mảnh xương sườn” (Ngày sau). Con người luôn ám ảnh bởi cái
chết, sự hao mòn, bất định. Cuộc đời hữu hạn như là một cái án treo lơ lửng
khiến con người bị dồn đuổi bởi nỗi lo âu. Con người luôn âu lo phản tỉnh và
tra vấn chính mình: Đôi khi ngẩn ra/ Mặt
như hóa thạch/ Làm đá/ Có yên không? (Lâm Thị Mĩ Dạ). Khi suy tư về kiếp
người ngắn ngủi con người giật mình “ngẩn mặt ra” bởi sự phi lý của cuộc sống.
Phi lý vì con người ta sinh ra con người ta lại mất đi. Trong kiếp sống con
người nhọc nhằn trải qua bao giông tố, buồn đau thế rồi tất cả trở thành phù
du, hư hao. Ngẫm nghĩ như vậy khiến nhân vật trữ tình không khỏi bàng hoàng,
hoảng hốt. Sự phi lý luôn là câu hỏi chưa có lời đáp của con người do vậy suốt cả cuộc đời con người vẫn chìm đắm trong sự ưu tư. Con người luôn tự hỏi mình những câu hỏi mang nỗi niềm
day dứt về thân phận. Càng ngẫm nghĩ suy tư về kiếp người càng cảm nhận sâu sắc
nỗi cô đơn bản thể về kiếp sống phù du - Sao
tim tôi hững hờ/ Sao tôi không xúc động/ Sao tôi không vấn vương/ Tôi cứ bơ vơ
mãi/Giữa cuộc đời mến thương (Tạ lỗi -
Phan Thị Thanh Nhàn). Đó là cách nhìn nhận theo hướng con người cần gắn với
những cái gì thuộc về con người, thuộc về chính nó trong đời sống thực tiễn.
Khi đề
cập đến con người cá nhân, cá thể nhiều tác giả đề cập đến cái tôi của mình một
cách tự tin đầy khao khát. Đó là lời tự bạch của Xuân Quỳnh “Em trở về đúng nghĩa trái tim em/ Là máu thịt
đời thường ai chả có”. Con người máu thịt với mọi vui buồn, tốt xấu. Đó là
con người trong đời thực trần trụi mà ai cũng trải qua chứ không phải con người
của hình ảnh, con người chức phận. Tác giả Phùng Khắc Bắc quả quyết: “Ta phải là ta cả phần xác lẫn phần hồn”
(Con chó đá). Hà Phương khẳng định: “Tôi không thể đứng trong dàn đồng ca/ hào
hứng buồn vui theo nhịp tay nhạc trưởng”. Trở về với cái tôi cá nhân trước
tiên là được sống đúng là mình, trung thực với những cảm xúc của mình [150, tr. 90].
3.2.2. Con
người sinh thể với mọi nhu cầu và khát vọng sống trần thế
Con
người sinh thể trần thế là con người với những nhu cầu thiết yếu như được ăn,
ngủ, nghỉ, đau khổ, vui, buồn, con người bản năng. Thơ ca đương đại chuyển
hướng quan tâm đến con người đời tư thế sự. Con người không chỉ sống vì trách
nhiệm bổn phận mà là sống với con người với mọi nhu cầu đời thường. Con người với những mặt mâu thuẫn đối lập và thống
nhất. Con người đẹp - xấu - vui - buồn - yêu - ghét - thấp hèn - cao thượng...
Trong tác phẩm các nhà thơ luôn đề cập đến những khao khát, ước mơ của con
người. Đó là khát khao được tự do, khát khao dấn thân, sẵn sang đưa mình vào
một lĩnh vực, một thử thách nào đó của cuộc sống. Vi Thuỳ Linh đề nghị “Hãy
vĩnh biệt cuộc sống tĩnh mịch đơn điệu”, “Em giải phóng em trong thế giới tâm
hồn”. Con người hiện đại khi ý thức được về thân phận sẽ không chấp nhận đầu
hàng, bất lực “Đập nát đơn điệu, khuôn khổ của cũ kỹ, nhàm chán và cam chịu/ Em
tự làm mất đối xứng- bằng em”(Vi Thuỳ Linh)..Trong triết học hiện sinh, vấn đề
bản năng, tính dục được xem là một giá trị gắn liền với sự sống của loài người.
Bản năng tính dục là một cách để con người chống lại sự phi lí, chống lại nhịp
điệu khô cứng của cuộc sống như lời một triết gia: “Để đời sống con người không
hoàn toàn buồn thảm. Thượng đế đã cho nó dục tính nhiều hơn lí trí”. Chủ nghĩa
hiện sinh đề cao vai trò tính dục. Đó được xem là một biến thể con người tìm kiếm tự do, thoát khỏi sự
cô đơn và khẳng định nhân vị. Thơ ca hiện sinh quan tâm đến con người bản thể,
con người hiện tồn, con người trong thực tại, vì vậy, đối tượng mà thơ ca hướng
đến là con người bản năng. Chính từ vấn đề tính dục, con người bộc lộ rõ nhất
tính bản năng, qua đó cho thấy tính “tự ngã” tức là khẳng định ý thức cá nhân
mãnh liệt nhất, rõ nét nhất. Con người trong triết học hiện sinh tìm đến tính
dục để được sống đúng là chính mình. Chủ nghĩa hiện sinh quan tâm lí giải những
khao khát nhục cảm của con người mang tính nhân văn. Đây được xem là một phần
của sự sống. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra vai trò quan trọng của tính dục trong
đời sống con người. Nietzsche cho rằng: “Thiên tài là ở bản năng. Lòng tốt cũng
thế. Không có hành vi nào hoàn thiện hơn bản năng”. Freud cũng khẳng định bản
năng tính dục “là nguồn gốc cho mọi công trình sáng tạo vĩ đại”. Freud là người
đề xướng khái niệm tính dục. Khái niệm này chỉ một phạm vi rất rộng không chỉ
giới hạn ở hoạt động giao cấu mà hướng đến chỉ các hành vi đem lại khoái cảm
nhục dục nói chung. Vấn đề tính dục chưa được đề cập nhiều trong văn chương cổ. Đến văn học hiện đại, “bản năng tính
dục được nhìn nhận một cách đa diện, được thể hiện phức tạp hơn nhiều”. Tình
dục gắn với tình yêu, gắn với sự nổi
loạn, dấn thân, gắn với sự giải tỏa
tâm lý và giải thoát sự cô đơn bất lực, gắn với tự do và hưởng thụ thân xác. Thơ ca đương đại
đã đề cập đến vấn đề này một cách bạo
liệt nhưng cũng rất tinh tế mà F. Engels quan niệm là “nhục cảm lành mạnh”.
Sau năm
1986, đất nước đã có sự thay đổi về hoàn cảnh lịch sử xã hội khiến cho nhận
thức, tư duy và cảm quan thẩm mĩ của con người cũng thay đổi. Con người sau một
chặng đường dài hi sinh vì sự sống còn của quốc gia dân tộc, giờ đây họ có thời
gian nhìn nhận lại chính mình và đi sâu quan tâm cuộc sống đời tư của con người
nhiều hơn. Trong lĩnh vực tình yêu, tính dục cũng có những cái nhìn và quan điểm
đầy mới mẻ hiện đại. Trên thi đàn Việt
Nam đã xuất hiện hàng loạt những cây bút trẻ mà tư tưởng của họ có sự tiếp cận
nhanh chóng sâu sắc chủ nghĩa hiện sinh từ phương Tây khiến quan niệm về tính
dục của họ cũng thay đổi... Sau năm 1954 tại miền Nam, rồi sau năm 1975 tại
miền Bắc, với sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh, cách nhìn nhận của các nhà
hiện sinh về vấn đề tính dục đã tạo nên một góc nhìn mới mẻ. Cùng với sự ảnh
hưởng của phân tâm học của Freud, các tên tuổi như M. Ponty, G. Maccelt và J.P
Sartre đề cao vấn đề thân xác. Thân xác con người cần được trân trọng bởi “Khả
năng tính dục không còn chính là sự sụp đổ, hoang phế bản thể” [58, tr. 87].
Khi con người ý thức được mình là một nhân vị độc đáo, tự do thì họ càng muốn
vượt thoát khỏi nỗi cô đơn ưu tư để khẳng định mình. Con người bất chấp mọi rào cản để khẳng định
chiều sâu bí ẩn phức tạp của cái tôi bản thể. Điều này không
chỉ được đề cập nhiều
trong văn xuôi Việt Nam mà còn được thể hiện một cách sinh động trong thơ ca đương đại.
Ở thơ
ca đương đại, đi cùng khát vọng dân chủ là khát vọng giải phóng con người cá
nhân, khát vọng được “cởi trói phần bản năng tính dục”. Theo luận giải của
Hoàng Thị Huế: Freud trong Ba tiểu luận
về lý thuyết tính dục đã cho rằng “Tình yêu tự căn bản là một hiện tượng
tính dục”. Tình yêu được giải thích như là khả năng bị cuốn hút đến những phần,
những mặt của giới tính đối lập - tức là người phóng chiếu những đặc điểm tự
ngã nội tại của riêng chúng ta. Chính vì vậy, hành vi yêu thương, trông nhớ,
chờ đợi, tôn sùng người yêu là biểu hiện những phần đối lập về giới tính, trong
mỗi con người, phần nam trong nữ và nữ trong nam của mỗi cá nhân. Con người
sống thật với chính mình, tiết lộ mình thường chỉ trong cảm giác phóng chiếu
lên ai đó đặc điểm tự ngã của bản thân. Chính vì vậy trong tính dục, với sự hâm
mộ sùng bái người yêu, thi nhân khẳng định giá trị tuyệt đối của người mình yêu
và qua đó của cả chính bản thân mình: “Trong tình yêu, hữu tính được hiểu và
được thực hiện chân chính, bản thể nhận được sự nhập thân đến cùng, đến đích,
vào trong đời sống cá thể của con người” [58].
Trong
thơ đương đại Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt là sau Đổi mới (1986), cùng với
sự thay đổi tư duy và quan niệm thẩm mĩ, đặc biệt là quan niệm mới mẻ về cái
tôi bản thể, thơ ca đã nói nhiều đến những bản năng thầm kín, khát vọng về tính
dục. Thời kỳ đầu, Dư Thị Hoàn là tác giả gây cho độc giả một cái nhìn khác lạ
về tình yêu thân xác. Dư Thị Hoàn lí giải sự tan vỡ trong tình yêu có khi bắt
nguồn từ những lí do liên quan đến ý thức về phái tính, ý thức về khát khao
tính dục bị lãng quên bởi sự vô tình, vô tâm của người mình yêu: Mọi chuyện rồi sẽ qua đi qua đi/ Chúng mình
sẽ thành vợ thành chồng/ Nếu không có một lần/ Một lần như đêm nay/ Sau phút
giây êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài lại khuy áo ngực cho em (Tan vỡ - Dư Thị Hoàn). Khi bài thơ ra
đời đã gây ngạc nhiên với nhiều ý kiến trái chiều của dư luận. Hoặc khi nhóm
thơ Ngựa trời trình làng với những vần thơ gây sốc đã có biết bao ý kiến phê
phán thẳng thừng. Những vần thơ về sự thật trần trụi của con người là điều khó
chấp nhận với dư luận. Các nhà thơ cũng chia thành nhiều luồng, nhiều quan điểm
trái chiều...Trong thơ Mai Văn Phấn, người đọc bắt gặp ngồn ngộn những hình ảnh
thơ diễn tả vẻ đẹp phì nhiêu gợi sự sinh nở, hóa sinh dưới cái nhìn của tính
giao. Đó là hình ảnh Đất đai tượng trưng cho người đàn ông, nhất thể hóa với
người đàn ông: “Đất đai - người đàn ông nằm ngủ (...) Trên ngực còn vương tro than của mùa đốt đồng” (Sau mùa gặt). Có khi là giấc mơ của người đàn ông: “Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/ Anh cựa
mình nồng nàn tươi xốp” (Bài ca buổi
sớm). Đất là biểu tượng cho sự sinh sôi với vẻ đẹp phồn thực. Đất đai gắn
với sự đơm hoa kết trái của tình yêu: “Bây
giờ là mùa xuân/ Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa/ Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra
Thủy/Đất rùng mình/Sông chảy/Ngàn vạn đọt mầm từ thân thể nở bung” (Anh anh em em). Tính phồn thực và nhục
cảm tính giao trong nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn đã được thể hiện một cách tự
nhiên. Bài thơ Dấu vết bình minh: “Căng mọng một bầu trời sắc dục ái ân: Da
thịt anh rộn ràng mang dấu chân em/ Làm những móng tay trên đất càng vang vọng/
Mỗi đốt xương muốn rời ra ngân lên bộ hơi/ Ngỡ có đôi môi trên đỉnh đầu đang thổi”.
Vi Thùy
Linh được xem là thi sĩ ái quyền. Với cách viết mạnh mẽ táo bạo, sử dụng từ ngữ
đầy cá tính, thơ của Vi Thùy Linh với những “trận bạo động chữ” (Văn Giá) đã
tạo nên một cái nhìn mới mẻ, thoát ra khỏi những khuôn phép chật hẹp để hướng
đến tình yêu thân xác. Đó là một quan niệm tình yêu mới mẻ lành mạnh, mang tâm
thức hiện sinh đầy nhân bản. Những câu thơ diễn tả khát khao tình yêu cháy bỏng
cuồng nhiệt: Hãy ghì chặt em, hãy hôn em,
vượt qua khắc nghiệt/ Chỉ có đôi mắt anh, đôi mắt anh có lửa/ Chỉ có đôi mắt
anh, đôi môi anh cháy ở môi em (Ở lại).
Nhịp điệu bài thơ nhanh gấp, người phụ nữ mong tìm đến tình yêu để khẳng định
sự tồn tại sự hiện hữu của cái tôi bản thể. Tình yêu như một ốc đảo để cái tôi
ngự trị và trú ẩn để tự thấy được ý nghĩa đích thực của sự sống con người. Đây
không đơn thuần là tình yêu lãng mạn đắm say mà vượt lên cảm xúc cuồng nhiệt là
một tấm lòng khát sống, khát khao được khẳng định sự hiện hữu của mình. Vi Thùy
Linh là người muốn đập vỡ những rào cản, muốn nổi loạn thể hiện tuyên ngôn về
tình yêu, về nữ quyền trong bài Anh sẽ ru
em ngủ: “Khu vườn vắng lại chỉ còn
anh và em/ Khởi đầu phản xạ thiêng liêng/ Những cặp chân khóa chặt nhau khước
từ chân lí”.../i Thùy Linh thể hiện lối viết mạnh bạo mà thi vị tạo nên thế
mạnh sở trường riêng: “Màu cho búp hôn
thụ phấn thân người”. Tác giả thường đề cập khát khao về thân xác một cách
táo bạo mãnh liệt không che giấu. Đại từ Anh
viết hoa trở thành tiếng gọi quen thuộc trong thơ Vi Thùy Linh. Anh chính là tình yêu - là cơ sở hình thành cảm hứng sáng tạo
trong thơ của tác giả. Trong thơ Vi Thùy Linh, tình yêu thiên về chiếm hữu
trong mọi chiều kích để khẳng định sự hiện hữu trong đời sống đích thực. Tác
giả tự thú nhận “Ngày anh đến mùa tình
lên/ Yên lặng mở những ngón tay chìa khóa/ Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo/ Eo chờ đợi vuốt ve, thất bão”.
Có khi tác giả tự họa thân thể mình trong cảm xúc
tình yêu và trong khát khao dục tính trần thế một cách chân thực. “Cơ căng tia mặt trời/ Ngước mắt nhận nguồn
sinh khí/ Nhịp nhàng muốt song/ Soi thần thái từng mili hình vóc/ Này đứng lên/
Vươn tay dan tay/ Như một cây vĩ cầm/ Đêm Nude/ Vili violin trắng… (Vi Thùy
Linh). Vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ được nhìn với cái nhìn tôn vinh một sức sống
rạo rực đầy men say thấm quyện trong sự soi chiếu của thiên nhiên vũ trụ để trở
nên đẹp, khỏe khoắn, lành mạnh. Vi Thùy Linh hướng ngòi bút khám phá nhìn tính
dục dưới cái nhìn mang giá trị văn hóa
tạo nên những sự mới lạ. Tác giả thường đề cập khát khao về thân xác một
cách táo bạo mãnh liệt không che giấu: “Hãy
siết em cắn em hằn lên dấu vết/ Hãy nhập vào em, hãy khóa và đánh mất chìa khóa
trong em/ Môi em trong anh còn bầm/ Chúng ta vẫn giấu hàm răng trong tiếng cười
mang nỗi đau tuyệt dịu” (Lá thư và ổ khóa).
Khát
vọng của cái tôi nhục cảm được thể hiện riết ráo, thôi thúc khi Vi Thùy Linh
viết: “Cái lưỡi mềm của anh nơi gan bàn
chân em/ Làm thế giới hóa lỏng”. Như vậy, sự đòi hỏi bạo liệt riết ráo
trong tình yêu là biểu hiện cho niềm “khát” được sống, được thoát ra khỏi cảm
giác âu lo và cô đơn, bế tắc trong những suy nghĩ mông lung về sự hữu hạn của
kiếp người. Con người trong thơ đương đại của các tác giả nữ chịu sự chi phối
rất mạnh mẽ của đời sống cá nhân, đề cao cái tôi cá nhân, vì vậy, đó còn là
tiếng nói của việc giải phóng phụ nữ, là biểu hiện của nữ quyền. Từ ngữ, nhạc
điệu thơ Vi Thùy Linh mạnh mẽ, nổi loạn. Khát khao tình yêu được nhìn từ góc độ
nhục cảm, gợi về hạnh phúc từ những mái ấm gia đình. Tác giả khai thác triệt để
những phần thân thể và những hoạt động giao hoan tính dục như tay, mắt, ngực,
môi, da, lưng, máu: Anh hạ trời xuống/
Anh nâng đất lên/Anh bùng vỡ thanh xuân cuồng điên/ Trên lưng Anh, bơi mải miết
ngón ngón em dài trắng/ Môi em trườn đêm căng/ Duỗi chân dài, em nối những ranh
giới, những núi đồi sóng biển/ Nhịp nhịp qua cầu đùi muốt/ Vào lúc Anh lên em
lên Anh/ Thụ tạo giấc mơ ấp ủ/ Em đạt khát khao làm Mẹ (Nơi ánh sáng). Mặc dù miêu tả tính dục
vốn từ lâu bị xem là cấm kị nhưng các nhà nghiên cứu đã cho rằng thơ Vi Thùy
Linh không rơi vào trần tục thô thiển mà vẫn giữ được sự chừng mực, vừa đủ bộc
lộ tất cả những mê đắm, vừa đủ tỉnh táo giữ được cái đẹp của thơ ca trong cái
đẹp của cuộc sống tươi xanh để tạo nên những giá trị mới cho thơ tình. Vi Thùy
Linh tự tin khẳng định mình có khả năng thay máu cho thơ - bằng cách đưa vào
thơ lời thẳng thắn mạnh bạo về sex, về tính dục đẹp.
Đằng
sau sự mạnh mẽ bộc bạch tâm can vì tình yêu trong đời thực và trong thơ chính
là tiếng thét cuồng điên vì nỗi đau trước cuộc đời đầy trắc trở, đầy âu lo, bất
an. Với những khát khao cháy bỏng thể hiện ý thức về quyền sống của người phụ
nữ trong Đêm là của chúng mình, tác
giả Ly Hoàng Ly thể hiện: “Đêm là của
chúng mình/ Sao nỡ ngủ hở anh”. Tác giả Ly Hoàng Ly dừng lại cảm nhận vẻ
đẹp thân xác một cách tự nhiên, chân thành: Chầm
chậm, mở một chiếc nút áo/ Soi vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo/ Soi
vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo/ Mở mãi, muốn mở mãi/ Mà bầu ngực vẫn
trắng, không đêm/ Mở mãi, muốn mở mãi/ Bầu ngực này căng/ Soi vào gương/ Bất
lực và khóc/ Trong vô vàn những giọt nước mắt/ Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực
trắng (Mở nút đêm). Ý thơ không chỉ dừng lại cảm xúc về thân xác mà còn
hướng đến những ẩn ức giằng xé trong đáy lòng nhân vật trữ tình khi đặt từng cử
chỉ động tác của thân thể người phụ nữ với vẻ đẹp phồn thực bên cạnh tiếng khóc
đầy bất lực che giấu nỗi buồn, nỗi lo
âu suy tư trước sự hư hao mong manh của kiếp người. Tác giả nói chuyện thân xác
nhưng hướng đến nhu cầu về đời sống tinh thần tìm kiếm những giá trị sống đích
thực. Tính nhục cảm không làm tầm thường, không dẫn dắt người đọc vào thế giới
bản năng mà đầy chất người. Tính nhục cảm thân xác hòa quyện với những khát
vọng mang tính bản thể của con người khi nó trở thành nguồn năng lượng sống bền
lâu cho con người. Khi con người mệt mỏi kiệt sức vì những sóng gió va đập bên
ngoài cuộc sống mưu sinh, chỉ có tình yêu mới là bến đỗ và là nguồn sống vực
con người tồn tại.
Ly
Hoàng Ly được xem là nhà thơ trẻ đầu tiên tham gia trình diễn thơ. Ly Hoàng Ly
vừa là nhà thơ, vừa là hoạ sĩ, nghệ sĩ của nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trình diễn. Thế mạnh trong thơ Ly Hoàng Ly là
đã tạo ra một thế giới thơ đầy mâu thuẫn giữa các màu đối lập hư đen- trắng và
độc một nỗi buồn, nỗi cô đơn. Điều đó thể hiện rõ trong tình yêu. Tác giả cho
rằng, nếu một ngày con người không còn niềm vui trong tình yêu, tình người thì
cuộc sống của con người cũng trở nên vô vị, vô nghĩa. Tình yêu còn là nguồn
động lực sống để con người tìm kiếm những đam mê, nỗ lực cống hiến trong đời
thực. Trong bài thơ Nhớ, tác giả Ly
Hoàng Ly viết: “Vai anh rộng để em thèm
bé nhỏ/ Mơ một ngày yên ngủ giữa vòng tay/ Một ngày thôi lơi lỏng áo quên cài”.
Bày tỏ tình yêu mãnh liệt với người mình yêu cũng là một biểu hiện sống hết
mình trong mối liên hệ gắn bó với tha nhân để tránh rơi vào tình trạng cô đơn,
lẻ loi và bị vong thân... Thực chất phía sau khát khao thân xác là một tầng vỉa
ngầm bên trong đó chính là khát khao sống mạnh mẽ dâng trào của con người hiện
sinh. Khi Phạm Thị Ngọc Liên cất lên những xúc cảm mạnh mẽ trong tình yêu, để
bộc lộ quan niệm về tình yêu mang nặng tư tưởng nữ quyền: “Lặn ngụp trong thơ/ Tắm gội mối
tình mình/ Hừng hực trong tôi/ Cháy bỏng ngôn từ/ Không hề giấu mặt/ Phải trả
nỗi đau bằng tiếng thét” (Khỏa thân
tím). Những câu thơ đầu là âm điệu cảm xúc đầy đắm say mãnh liệt. Nhân vật
trữ tình khát khao được hòa trộn gắn kết trong tình yêu trần thế cuồng nhiệt.
Câu thơ cuối giúp người đọc nhận ra đằng sau thái độ vồ vập khát khao hòa quyện
chiếm hữu là nỗi đau, là ẩn ức muốn nổi loạn gào thét để vơi bớt nỗi cô đơn.
Cái màu sắc nhục cảm trong tình yêu không chỉ dừng lại ở khát khao thỏa mãn bản
năng mà thực ra là muốn hướng đến lý giải và giải thoát khỏi sự tù túng vô
nghĩa của cuộc sống không có sinh khí không có nhựa sống. Người đọc bắt gặp
trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên hình ảnh một người phụ nữ tôn thờ một tình yêu
mãnh liệt cuồng say: “...Cháy bỏng những
khát khao lặng im/ tôi tìm thấy tôi một nửa/ Yêu tôi như chưa bao giờ/ Tôi dâng
tặng linh hồn tôi/ Nửa khát khao còn lại/ Và nửa trăng mệt mỏi cúi đầu”.
Lời thơ là sự tự thú nhận về quan niệm tìm đến tình yêu là để tìm thấy chính
mình như Xuân Quỳnh đã viết “Sông không
hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”.
So với
các nhà thơ trẻ thế hệ trước, các tác giả nữ trong thơ Việt đương đại có tiếng
nói mạnh mẽ hơn về tình yêu. Thông qua ngôn từ, họ thể hiện những cung bậc tình
yêu thân xác một cách “táo bạo, thẳng
thắn”. Tình yêu trong thơ họ mang một
đặc điểm mới là tình yêu khao khát được dâng hiến. Các tác giả không né tránh mà dám
bộc lộ những khát khao
chân thật. Đường Hải Yến: “Gọi tên anh
cho yên ổn bản thân mình” (Em). Tác giả Phương
Lan “Buông tay/ Hình
như cơn say/ Đang trễ nải trườn lên
đỉnh ngực/ Khai mở vực triền trắng
ngây hoa cúc/ Hoa nở sự sống mặn mùi biển
nóng ấm/ Em đáp lại âm âm tiếng gọi từng cơn
run rẩy bật tung mình”
(Những mảnh ghép của ngày).
Nếu như
người phụ nữ trong văn học trung đại chỉ sống theo bổn phận, cam chịu nhẫn nhục
thì trong thơ đương đại người phụ nữ khát khao được sống đúng là chính mình.
Tính dục gắn với những khát khao được yêu thương, quan tâm, chia sẻ. Phạm Thị
Ngọc Liên là nhà thơ đã khẳng định được vị trí của mình trải qua trên 15 năm sáng
tác. Đoàn Thị Xiêm nhận xét khái quát rằng chị đã đem đến cho thơ Việt Nam một
cơn gió lạ với tập thơ đầu tiên “Những vầng trăng chỉ mọc một mình”. Bài thơ
gợi nỗi ám ảnh về nỗi cô đơn, sự mòn mỏi hao khuyết của con người. Tập thơ cuối
của chị “Thức đến cùng và mơ” (2004) gồm 99 bài và là tập thơ được tặng thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam. Thơ Phạm Thị Ngọc Liên bây giờ khác lắm. Giọng thơ ấy
trầm lắng lại, như đang đến gần sự tĩnh lặng, như đang muốn được bình tâm”.
Người đọc tìm thấy trong tác phẩm của nhà thơ cái tôi tình nhân với nỗi buồn, nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Có khi tác giả Phạm Thị
Ngọc Liên biểu đạt cảm xúc mãnh liệt trào dâng: “Ta thèm khỏa thân dưới nắng/ Thèm ngủ yên trên cát/ Có vòng tay người
tình như chiếc lưới/ Võng ta vào giấc mộng trăm năm” (Biển trăm năm). Các thi nhân đi tìm chính mình ở bề sâu thẳm. Sau
tình yêu mạnh mẽ táo bạo đầy dâng hiến, các nhà thơ trẻ còn đề cập đến những
nỗi niềm cay đắng. Phạm Thị Ngọc Liên nói về những đắng cay phải chịu đựng
trong tình yêu: “Ôi nước mắt đắng cay đau
như rượu ấy/ Em uống một mình/ Riêng lẻ một mình say”.
Đến với
thời kỳ sau chiến tranh, con người trở về cuộc sống đời thường có điều kiện
quan tâm nhiều hơn đời sống thể xác và tinh thần. Văn học hiện sinh đề cập
nhiều đến vấn đề tính dục. Đó là hệ quả của những chủ đề nhân vị và tự do. Vấn
đề dục tính trở thành một chủ đề quan trọng của chủ nghĩa hiện sinh. Tính dục
là cội nguồn của đời sống, là khởi điểm của sự tồn tại. Con người sau chiến
tranh cảm thấy hoang mang bi quan về các giá trị bị đảo lộn trong cuộc sống, họ
tìm đến tính dục là để giải tỏa những ẩn ức, những chấn thương tinh thần. Thông
qua tính dục, con người hiện đại bày tỏ sự cô đơn, sự hoang mang âu lo trước
cuộc đời. Đồng thời qua tính dục, con người hiện đại khẳng định được nhân vị,
bản ngã trước sự bất an, phi lý của cuộc đ ời. “Tính dục được xem là phương tiện để chuyển tải tình cảnh cô đơn bất lực
cũng như nỗ lực níu giữ bản ngã đang dần bị tha hóa của con người hiện đại”
[58, tr. 89].
Tìm đến
tình yêu để tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Bởi chủ nghĩa hiện sinh quan
niệm nói đến tình yêu là nói đến tính nam tính nữ. Con người tìm đến tình yêu
là để khẳng định giới tính và biểu hiện tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.
Có phải vì thế nên Phan Huyền Thư viết: “Ngủ
vùi trong anh/ Nhịp tim còn lảnh lót/ Đòi gỡ/ Đòi buộc/ Đòi tỉnh dậy/ Đòi/ Do
dự/ Miên man” (Do dự). Động từ
“đòi” lặp lại có tính chất nhấn mạnh vào khát khao được tìm một chỗ dựa bình
yên trong thân xác của tình yêu. Có khi Phan Huyền Thư chia sẻ nỗi lòng và niềm
khát sống một cách mạnh mẽ: “Cá chép của
em/ Bơi theo dấu anh sông biền biệt/ Vượt Vũ Môn không hóa rồng/ Hóa lộn chồng/
Lộn kiếp (Hai mươi ba tháng chạp -
Phan Huyền Thư). Tác giả muốn dệt nỗi nhớ bằng một tấm chăn có thể đắp lên
người ủ hơi ấm ngay cả trong lúc nghỉ ngơi: “Thiếu phụ chong đèn/ Khâu đợi chờ thành tấm chăn”. Tác giả đưa
người đọc vào sự suy tư, suy tưởng giữa thật và rỗng, giữa tồn tại và hư vô.
Cuộc đời con người là vô thường. Chớp mắt là cuộc đời đã hết. Vì vậy con người
chạy đua với thời gian để giành lấy sự sống trong từng khoảnh khắc. Làm thơ là
một cách để thấy mình tồn tại.
Đoàn
Thị Lam Luyến là một cây bút nữ xuất sắc. Thơ chị mang sắc thái vừa mạnh mẽ vừa
đầy nữ tính trước cuộc sống đời thường. Nhà thơ đã xác lập được một phong cách
riêng “sự nhào nặn giữa yếu tố thơ trữ tình, thơ triết luận có lúc đến xót xa
oan nghiệt vẫn khiến người đọc ham sống vượt lên giữ tự do về mình, cho thân
nhân, chính là nét đẹp có sức rung động của thơ Đoàn Thị Lam Luyến” [68]. Nhà
thơ luôn hướng đến tình yêu chân thật: “Trái
tim em kiêu hãnh trước bao người/ Bỗng run rẩy bên anh rồi hóa ra giọt lệ/ Bay
mất áo tàng hình lại nguyện là đôi trẻ/ Trong ngỡ ngàng hai đứa hôn nhau” (Hai người cô đơn).
Đằng
sau lớp vỏ ngôn từ có vẻ mạnh bạo, có vẻ lạ lẫm, tân kỳ thực chất là một tầng
vỉa ẩn ngầm trong đó chính là khát khao sống mạnh mẽ dâng trào của con người
hiện sinh. Người tình, người yêu được cảm nhận dưới góc nhìn của sự tinh khôi,
trong sáng, có sức mạnh cứu rỗi con người thoát ra khỏi những giông tố cuộc
đời. Đến với tình yêu không chỉ vì dục tính, con người có đủ kiêu hãnh để rời
xa dục vọng thân xác mà tìm đến tình người đầy tính nhân văn. Biểu hiện dục
tính còn là triết lý về nhân sinh. Qua thơ chị người đọc nhận ra triết lý về
quy luật cuộc sống hợp rồi tan, cuộc đời ngắn ngủi. Muốn cuộc sống vĩnh cửu chỉ
còn cách là sống và yêu chân thực hết mình trong tình yêu, vượt lên mọi thực
tại đầy mâu thuẫn để khám phá, để sống trọn vẹn mọi chiều kích của tình yêu và
dục tính.
Với Cát
Du, khát vọng nhục cảm đầy chất hiện sinh đưa người đọc vào cảm xúc thăng hoa:
“Mắt em anh ánh/ Môi em nồng nồng/ Vòng
tay âm ấm/ Vẫn còn đâu đây”. Cảm giác được sống cùng tình yêu thân xác là
cảm giác được bình yên. Nhờ tình yêu nên được sống là chính mình. Tuy nhiên
đằng sau cảm xúc đầy hân hoan kia lại là nỗi ưu tư: “Thế mà người đã xa khơi/ Người mang vòng tay của em đi đâu/ Bỏ mặc em
trong cõi người giá lạnh này/ Hãy siết em lần nữa/ Siết em lần nữa đi nào/ Siết”
(Hãy siết em lần nữa). Lời khẩn cầu “Hãy siết em lần nữa” chính là nỗi khát
khao tìm được chỗ trú ẩn an toàn, vững chãi sau những giông bão cuộc đời. Bên
cạnh đó, Cát Du còn tỏ bày nỗi đau của phận người như một quy luật trong bài Cát: “Không có nỗi đau sao được/ Em không tin đâu/ Không tin”. Triết lí
của Cát Du mang tính hiện sinh khi cho rằng cuộc đời không thể không có nỗi
đau. Nỗi đau được xem là định mệnh, là một tất
yếu của con người. Niềm vui, hạnh phúc thường qua mau để lại cho con
người sự ưu tư chơi vơi đầy lo lắng hoảng hốt. Tác giả cho rằng không tin,
không dám tin cuộc đời không có nỗi đau thương. Cuộc đời vui ít buồn nhiều.
Tình yêu trong thơ Cát Du gắn với sự tận hiến: “Chỉ vòng ôm là thực/ Siết chặt là thực/ Giẫy giụa là thực/ Rơi tõm
vào/ Cơn cuồng nhiệt yêu” (Ám ảnh màu
chi). Cùng với Cát Du tình yêu trong thơ Ly Hoàng Ly gắn với sự tận hiến một cách tự nguyện chứ không phải là
đòi hỏi nữ quyền.
Con
người tìm đến tình yêu để được khẳng định mình và được sống thật với cảm xúc
của mình đó là biểu hiện mới mẻ trong thơ ca đương đại mang sắc thái hiện sinh.
Chỉ khi con người biết sống đúng với bản thể và nhân vị độc đáo thì mới dám cởi
bỏ lớp áo giả dối và dám dấn thân để khẳng định cái quyền tự do tuyệt đối,
quyền tự lựa chọn cách thể hiện mình. Khác với kiểu tình yêu ép buộc và chiếm
hữu, tình yêu đích thực gắn với dục tính và tận hiến.
Trong
thơ các tác phẩm thơ Việt Nam đương đại, người phụ nữ thể hiện niềm khát khao được sống đúng là chính
mình. Đó không chỉ là tiếng nói đòi nữ quyền mà thời trung đại nữ sĩ Hồ Xuân
Hương, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm hay Nguyễn Gia Thiều đã lên tiếng. Thời kỳ
Đổi mới có thể xem là thời điểm mà các tác giả thơ nữ có điều kiện để hiện thực
hóa khát khao đã được đặt ra trong lịch sử văn học và thơ ca. Ngoài tiếng nói
của nữ quyền luận thì đó là những khát khao vươn lên cuộc sống tự do đầy nhân
bản của con người mang tính nhân loại, mang tính hiện sinh. Trần Hoài Anh
(2015) cũng nhấn mạnh mặt tích cực của khát vọng nhục cảm hiện sinh “không dẫn dụ người đọc vào những thèm khát bản năng” mà là sự chưng
cất cho những khát vọng tinh khiết
từ thực thể phần CON và
phần NGƯỜI của nhân loại [11]. Chính quan niệm này sẽ phủ nhận những quan niệm ấu trĩ và cực
đoan của thời kì dài trong
văn học. Đó là quan niệm quy kết vấn đề đồi
trụy mà văn học thường được cảnh
cáo phải né tránh. Trái lại nó
góp phần
tiếp nối tâm thức “văn
hóa phồn thực” trong mạch nguồn văn hóa dân tộc.
Xét về
nội dung của những tác phẩm thơ ca đương đại, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra nét
mới so với thơ ca thời kì trước thể hiện tập trung sự biểu đạt ở cái tôi. Nếu trước
đây cái tôi cái cá thể của mỗi người thường bị chìm khuất trong cái ta thì lúc
này biểu đạt cái tôi đã nổi lên như một yêu cầu bức thiết của đời sống cá thể.
Khao khát nhục cảm thân xác trong thơ Việt Nam đương đại là một biểu hiện mang
tâm thức hiện sinh nổi bật. Đằng sau sự giải thoát cho sự cấm kị dục tính trong
xã hội cũ, sự giải thoát những ẩn ức, những chấn thương về tinh thần, vấn đề
dục tính là biểu hiện cho sự thức tỉnh của con người cá nhân và là biểu hiện
cho sự tiếp nối văn hóa phồn thực trong văn học dân gian. Vấn đề tính dục trong
quan niệm của văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng là
một vấn đề ít được đề cập. Đây là một vấn đề
đòi hỏi người nghệ sĩ phải giữ được ranh giới giữa vẻ đẹp thân xác với những rung
cảm mang tính nhân bản nhân văn để tránh sa vào dung tục tầm thường. Thơ Việt
Nam đương đại đã cho thấy sự thay đổi trong tư duy nhận thức và quan niệm thẩm
mĩ tạo nên tiếng nói mới mẻ hiện đại cho nền thơ ca.
Như
vậy, có thể nói rằng qua thơ Việt đương đại, người đọc đã nhận ra dấu ấn của sự
cách tân về tư duy, về cảm xúc và quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ đương đại.
Đặc biệt là dấu ấn hiện sinh trong việc bày tỏ cảm xúc trong tình yêu mang đậm
yếu tố dục tính. Các tác giả cho thấy tính dục có những sự đổi thay theo từng
thời kì lịch sử. Vượt qua những rào cản cấm kị, những khuôn vàng thước ngọc của
nho giáo phong kiến, tình dục trong thơ Việt đương đại phản chiếu sự đổi thay
của thời gian. Các tác giả đề cập đến tình yêu thân xác, tình yêu dục tính
nhưng cũng đồng thời cho thấy những khát khao thân xác trong tình yêu cuồng
nhiệt đắm say là để tìm đến khẳng định nhân vị tự do và giải thoát khỏi những
ẩn ức, những chấn thương tinh thần trong thời kì hiện đại. Đây là một vấn đề
đòi hỏi người nghệ sĩ phải giữ được ranh giới giữa cái vẻ đẹp thân xác với
những rung cảm mang tính nhân bản nhân văn để tránh sa vào dung tục tầm thường
góp phần mở ra một cái nhìn mở của con người về vấn đề vốn từ lâu bị lảng
tránh. Thơ Việt Nam đương đại đã cho thấy sự thay đổi trong tư duy nhận thức và
quan niệm thẩm mĩ tạo nên tiếng nói mới mẻ hiện đại trong nền thơ ca Việt Nam
đương đại đáng được trân trọng.
3.2.3.
Con người khát khao tự do, dấn thân và những giới hạn, bất khả
Những
giới hạn bất khả tri nghĩa là con người có nhiều giới hạn. không thể nào vượt
qua được. Sống trong đời con người luôn ám ảnh bởi giới hạn sinh- lão-bệnh-tử.
Con người luôn phải đối diện với cái chết, sự già nua, Mặc dù con người ý thức
rất mãnh liệt về sự sống và ý nghĩa của đời sống cùng nỗ lực vươn lên không
ngừng nhưng cũng không thể thay đổi được những giới hạn đó. Con người chỉ biết
ngậm ngùi chấp nhận “rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi”. Vì phải chịu sự chi
phối của những quy luật mà tạo hoá đã sinh ra do vậy con người đành phải chấp
nhận những quy luật đó. Chủ nghĩa hiện sinh là triết học về tự do. Tự do theo
quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh là tự do lựa chọn. Hiện sinh không phải tự
nhiên mà có mà là do sự lựa chọn của con người để có được hiện sinh. Con người
ý thức được sự phi lý, buồn nôn trước đời sống đầy bất an, luôn đối mặt với sự
hư vô, nỗi cô đơn và cái chết. Con người buộc phải lựa chọn tự do bằng cách
nhập thế, dấn thân. Con người có một phẩm chất là không chịu chấp nhận bị vùi
lấp trong cuộc sống vô nghĩa mà luôn khao khát vươn lên. Muốn vượt thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt, tầm thường, con người chấp nhận dấn thân đối mặt với những bất an, những
rào cản hay những rủi ro, thất bại. Chỉ có dám dấn thân và chấp nhận nhập thế
thì con người mới khẳng định được nhân vị độc đáo của mình. Chủ nghĩa hiện sinh
chỉ cho con người thấy rõ hơn cuộc sống là một thảm kịch với những cái bi đát,
phi lý, buồn nôn. Con người sống trong thế giới bất khả tri. Bởi vì con người
không lý giải được vì sao mình xuất hiện trong vũ trụ và vì sao mình biến mất.
Con người không tự quyết được cuộc đời mình, không lường trước được những bất
an vì cuộc đời luôn mơ hồ, bấp bênh. Nhưng con người là một nhân vị độc đáo tự
do, luôn muốn khẳng định mình. Muốn vậy, con người luôn phải nỗ lực dấn thân,
kiếm tìm, lựa chọn cho mình lối vượt thoát khỏi thực tại bi đát. Đối với nhà
văn, viết là để phủ định xã hội xấu xa bất công hướng đến xã hội tốt đẹp hơn.
Thơ Việt Nam đương đại cho thấy các tác giả thực hiện trên những mức độ khác
nhau những cuộc dấn thân nổi loạn của con người trên nhiều phương diện. Để nổi
loạn, con người tìm đến tình yêu bày tỏ khát khao được sống một cách mãnh liệt.
Cái tôi
trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên còn là cái tôi chiêm nghiệm, triết lí. Nhà thơ
quan niệm cuộc đời là hư vô, là hành trình phân định ranh giới giữa cái sống và
cái chết rất mong manh. Tác giả cho rằng: “Khoảnh
khắc giữa sự sống và cái chết là một màn /sương lướt về phái trước là cõi khác/
một thế giới trừng phạt và phán xét/ khen thưởng và đãi đằng/ bước về phía sau là cuộc sống/ chẳng khác gì nhau (Mây trắng)…
Phạm
Thị Ngọc Liên quan niệm cuộc đời đầy nỗi buồn “Giọt lệ đã khô trong con tim nhức nhối/ nỗi buồn sầu hơn đại dương” (Tự khúc 2). Để vượt thoát nỗi buồn, con
người dấn thân trong tình yêu và tìm về với bản thể của chính mình...Trong bài
thơ Em sẽ yêu anh như tháng Giêng,
cái tôi đã sống với thái độ dấn thân mãnh liệt. Thời gian tháng Giêng trong thơ của Phạm Thị Ngọc Liên
trở nên có hồn như một sinh thể. Tháng Giêng dài như sông, đầy hoa lá chim
muông cây cỏ. Người phụ nữ hiện đại dám bày tỏ tình cảm cảm xúc một cách quả
quyết, chân thành. Đây là điều mới mẻ so với quan niệm truyền thống. Dấn thân
trong tình yêu là một cách để người phụ nữ chứng tỏ khát vọng được yêu, khát
vọng được hiểu và cả thiên tính nữ đầy nhân bản. Tư tưởng nổi loạn là một
truyền thống trong văn hóa phương Tây. Tư tưởng đó bám vào đời sống xã hội ở
miền Nam Việt Nam khi con người phải hứng chịu những vết thương của chiến
tranh. Chính điều này đã thôi thúc họ phản kháng, nổi loạn để bảo toàn cuộc
sống an yên từ bên trong. Đặc biệt, trong thơ đương đại xuất hiện hàng loạt
phong cách thơ nữ đã nổi loạn khi không né tránh vấn đề dục tính và thể hiện ý thức
về nữ quyền luận rất rõ. Đó là Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Phạm Thi Ngọc
Liên, Lâm Thị Mỹ Dạ, Cát Du. Không chỉ
khẳng định quyền tự do luyến ái, các tác giả còn công khai thẳng thắn đòi quyền
tự chủ trong đời sống cá nhân. Có khi để dấn thân
nổi loạn, con người lại ưu tư về kiếp người ngắn ngủi, phi lý. Lưu Quang Vũ tự
hỏi cái gì đang đợi con người khi tiếng đồng hồ cứ tích tắc. Nghe từng sự vận
động của thời gian, nhà thơ khẳng định đó là tiếng động khủng khiếp nhất và đặt
ra bao câu hỏi về sự sống con người. Khi hiểu ra quy luật hữu hạn của đời
người, nhà thơ cảm thấy âu lo và đầy suy tư: “Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc/ Hai tiếng động nhỏ bé kia/ Hơn mọi ầm
ào gầm thét/ Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người” (Cho Quỳnh những ngày xa). Tiếng tích tắc
của đồng hồ như lời nhắc nhở con người về sự trôi đi của đời người. Suy tư
trước sự trôi chảy của thời gian, thi nhân đặt câu hỏi cái gì đang đợi con
người phía trước. Đó chính là sự kết thúc bi đát của cuộc sống hữu hạn. Ý thức
về sự bi đát của đời người tạo nên bước chuyển trong ý thức để con người sẵn
sàng dấn thân nổi loạn vượt ra khỏi cuộc sống tẻ nhạt vô thường. Con người hiện
sinh khi nhận thức được cái nhân vị của mình họ không chịu để cuộc sống trôi
qua vô vị mà luôn muốn thay đổi tự làm mới mình: “Đoạn tuyệt ngày hôm qua/ đầu giường sằng sặc giấc mơ mới/ đông cứng nỗi
buồn/ ngọ nguậy trong đầu con mọt nghiến răng/ thèm ý mới” (Mưa - Phan Huyền Thư).
Như
vậy, con người với khát khao tự do, dấn thân và những giới hạn, bất khả là một
biểu hiện độc đáo của khuynh hướng hiện sinh trong thơ đương đại. Khát vọng tự
do, dấn thân của con người, rõ ràng, luôn là khát vọng nhân bản.
3.2.4.
Con người thân phận với những buồn đau, âu lo về số kiếp, sự cô đơn và cái chết
Chủ
nghĩa hiện sinh quan niệm đời sống là một thảm kịch bi đát buồn nôn. Nhưng con
người là một chủ thể, một nhân vị độc đáo luôn nỗ lực dấn thân nổi loạn vượt
thoát để tìm kiếm chính mình. Con người muốn tự lí giải cho chính bản thân
mình, muốn chứng minh hiện sinh thì phải dấn thân mình vào những cuộc tìm kiếm
bằng suy tư hoặc bằng hành động. Đời sống con người trước chiến tranh đổ vỡ phi
lí tạo nên những dư chấn, sự bất an về tinh thần khiến con người bị tha hóa.
Đời sống mỏi mòn, tù túng, tẻ nhạt, khiến con người cảm thấy bi quan và mong
tìm một lối giải thoát để tìm được ý nghĩa của cuộc sống buộc họ phải dấn thân,
hành động.
Tính
phi lý là một khái niệm chủ yếu của học thuyết hiện sinh chủ nghĩa. Với Sartre,
nó được nâng lên thành một khái niệm bao trùm và thấm nhuần mọi khái niệm khác.
Bản thân hiện sinh là cái vô thường. Sartre quan niệm vô thường có nghĩa là sự
vắng mặt của lí do tồn tại, tức là cái phi lý chủ yếu nhất. Phi lý là không thể
giải thích được sự tồn tại của thế giới và hiện sinh. Con người tự nhiên sinh
ra, sinh ra một cách ngẫu nhiên không có sự lựa chọn. Nói như Sartre “Con người bị vứt vào thế giới”. Vì thế
muốn hiện sinh, anh ta phải tự lựa chọn. Muốn tự do, anh ta phải vươn lên. Sự
tự do ấy là một khả năng phi lý tính. Vì phải vươn lên để có được tự do nên con
người luôn âu lo và suy tư. Theo Sartre, thế giới con người là một thế giới xô
bồ, hỗn độn, phi lí tính, thế giới không có quy luật, lý trí và ý chí của con
người bất lực trước thế giới ấy. Sự thay đổi trong tư duy muốn có sự đổi thay,
muốn lột xác thơ ca để tìm sự bứt phá
mạnh mẽ. Đó là hành trình đổi mới để khẳng định ý thức bản thể hiện sinh của
thơ ca đương đại “Những cái lưỡi để phát
nổ, những đơn âm đã bắt đầu rướn chạy” (Độc
thoại - Nguyễn Quang Thiều). Có khi tác giả dùng cách diễn đạt như lời nói
hàng ngày nhưng vẫn biểu đạt được những suy tư âu lo của con người: “Tôi để biết tôi là ai phải về với biển sâu -
lòng mẹ - ngủ yên - là chốn tận cùng thế giới, những ẩn dụ cho cõi vô thức
trong mỗi con người”. Cái tôi sáng tạo của nhà thơ cảm nhận thế giới bằng “cái tai rộng lớn của cô đơn”, những âm
vang từ cuộc đời khúc xạ qua lăng kính trải nghiệm của nhà thơ “làm rung những vòm cây và những ngọn đồi”
(Nhà thơ - Nguyễn Quang Thiều), hay “Thu mình trên ghế/ Vẽ bầu trời/ Không có chỗ
cho mây” (Tôi - Mai Văn Phấn).
Cảm
thức về sự phi lý, sự bất ổn của tồn tại hiện tồn trống rỗng vô nghĩa được
Nguyễn Quang Thiều biểu đạt qua bài thơ Nhịp
điệu châu thổ mới: “Nếu được đốt sớm
hơn mọi thế kỷ trước/ Những vết rạn dương gian chầm chậm tràn tràn đầy/... /
Như tan chảy qua những kẽ tay kí ức, và hơn thế/ Như hơi thở bất tận ẩm ướt và
nóng hổi phủ trên Châu Thổ” (Nhịp
điệu châu thổ mới - Nguyễn Quang Thiều). Thế giới loài người đầy những vết
rạn, đầy những chấn thương, phi lý. Nếu được đốt sớm hơn mọi thế kỷ trước nghĩa
là nếu được nhận thức sớm hơn thì con người sẽ sớm cảm nhận được ý nghĩa sự ấm
áp của cuộc sống. Trong tác phẩm Bài hát,
Nguyễn Quang Thiều cũng viết: “Những ngôi
mộ tổ tiên hắt sáng gọi tôi về/ Tôi khép đôi cánh xác xơ ngày cúng giỗ/ Ngắm
những dòng sông sáp nến chảy chan hòa/ Tổ tiên giơ lên trời xanh chứng minh thơ
bằng đá/ Cổ xưa hoang hoang trên mỗi cánh chuồn chuồn” (Bài hát). Những câu thơ là lời truy vấn
bức thiết về sự tồn tại của con người mang màu sắc hiệm sinh triết lí. Dòng hoài niệm từ những
suy ngẫm về kiếp người vọng về từ tổ tiên nguồn cội. Lấy cảm hứng từ ngày cúng giỗ, tác giả ngẫm nghĩ về tổ tiên như đangđược gặp lại tổ tiên mình. Một dòng
suy tư về kiếp người như trỗi dậy vừa nhớ nhung hoài niệm, vừa trĩu nặng nỗi âu
lo. Tổ tiên hòa nhập vào trời xanh khắc dấu vào thơ vào trong lòng hậu thế như
khắc vào đá …Ở đây có sự gắn kết, tiếp nối giũa tổ tiên và cá thể, giữa quá khứ
và hiện tại, giữa còn và mất khiến con người trăn trở suy tư.
Triết
học hiện sinh quan niệm cuộc đời con người là hư vô. Thức nhận hư vô là một đặc
điểm riêng của thuyết hiện sinh. Con người luôn luôn đi tìm bản thân nó mà
không bao giờ đạt được mục đích. Vì vậy cuộc sống của con người là một mâu
thuẫn không thể giải quyết. Cái đặc trưng của hiện thực con người là ý thức.
Hiện sinh là tồn tại có ý thức mà ý thức ấy không gì khác là hư vô. Theo
Sartre, con người luôn luôn tồn tại khoảng trống trong bản thân mình. Khoảng
trống hư vô nó là phi lý, không nguyên nhân, không trách nhiệm. Từ đó khái niệm
hư vô giải thích sự đau khổ của con người. Các nhà thơ đương đại đã có quá
trình sáng tạo mở rộng hình thức câu thơ để có thể ôm chứa được hiện thực đời
sống và đời tư của con người với muôn chiều kích, ý thức, vô thức, tiềm thức...
phản ánh con người hiện đại sống trong sự truy vấn và phản tỉnh mang nỗi buồn,
nỗi cô đơn bản thể.
Chiến
tranh đã kết thúc nhưng những tàn dư của nó để lại hệ quả vô cùng nặng nề. Đặc
biệt là sự đổ vỡ, mất niềm tin vào cuộc sống của con người. Từ cái tôi sử thi,
thơ ca Việt Nam đã chuyển hướng truy tìm cái tôi bản thể bên trong con người.
Đó là con người phổ quát. Thơ đi sâu vào phản ánh thế giới riêng tư của con người
cá nhân. Cái tôi trong thơ Vệt Nam là cái tôi phổ quát, cái tôi thân phận. Đó
là con người được đặt trong tương quan với cảm thức về thời gian. nỗi buồn và
cái chết. Cái tôi trong thơ Việt Nam đương đại gắn với nỗi khắc khoải về phận
người. Cái tôi hoài nghi bi quan trước cuộc sống đầy vô thường. Cái tôi bản thể
tra vấn truy lùng chính bản thân mình. Trong mỹ cảm của thơ đương đại, cái tôi
bản thể là đẹp nhất, đáng để bàn luận, để ngưỡng vọng. Không gian gắn với con
người bản thể là không gian riêng tư, không gan bị xé vụn, không gian hoài
niệm, không gian bên trong. Điều này được thể hiện rõ trong thơ Nguyễn Quang
Thiều. Tập thơ Sự mất ngủ của lửa của
ông đã đánh dấu hành trình cách tân thơ đương đại. Cái tôi bản thể đã in đậm
dấu ấn trong các bài thơ Ngôi nhà 17
tuổi, Sự mất ngủ của lửa, Những người đàn bà gánh nước sông, Nhịp điệu châu thổ
mới, Bài ca những con chim đêm, Cây ánh sáng... Con người luôn đối mặt với
nỗi cô đơn từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi. Có những nỗi cô đơn thầm lặng
hiển thị qua bề ngoài thô kệch cằn cỗi. Con người càng vất vả cô đơn càng khát
khao được sống, không kêu ca tuyệt vọng. Con người luôn xem cô đơn âu lo là một tất yếu,
cần vượt thoát điều đó để khẳng định nhân vị một cách mạnh mẽ và dũng cảm. Phát
hiện và đề cập đến những nỗi đau thầm lặng và trân trọng niềm khát vọng sống
mãnh liệt ấy chính là thiên chức và tài năng phẩm hạnh của người nghệ sĩ. Từ
tiếng vọng nội tâm sâu thẳm, Nguyễn Quang Thiều đã cho người đọc nhận rõ một
cảm nhận bản thể người nhuốm màu hiện sinh ở thơ ca đương đại. Với khuynh hướng
hiện sinh, thơ ca quan tâm hơn đến số phận tâm tư của con người trong những
cảnh ngộ cụ thể, giúp con người tự
hiểu mình, tự thoát ra ngoài những giới hạn khắc nghiệt của sự đơn điệu, vô
nghĩa để đi tìm ý nghĩa của cuộc sống. Con người âu lo cô đơn về số kiếp, sự
phi lý là một biểu hiện mang tính hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại. Không
gian trong thơ Nguyễn Quang Thiều gắn
với không gian Làng Chùa, Sông Đáy. Không gian ấy gợi nhắc về quê hương tổ tiên
nhưng cũng giúp nhà thơ có cái nhìn sâu xa về thân phận con người nói chung.
Trong bài thơ Lễ tạ nhà thơ tìm về
cái tôi bản thể từ con đường: Con đường/
Dắt ta về hồ nước cũ. Con người trong xã hội hiện đại vẫn luôn cảm thấy cô
đơn. Sau những cọ xát với cuộc sống muôn màu muôn vẻ, con người tìm về chốn
bình yên để được che chở, đó chính là nơi mình đã ra đi và nay lại trở về. Nơi
ấy là quê hương, là nguồn cội. Qua thơ Nguyễn Quang Thiều, người đọc nhận ra sự
gắn kết, hòa trộn trong nỗi lòng sâu thẳm của nhà thơ đó chính là những kỉ niệm
về quê hương, xứ sở. Ông từng tâm sự: “Thơ ca là thế giới tự do của mình. Ở đó
tôi được tự do làm con giun bò qua khu mồ của dòng họ, làm con chim tung bay
trên bầu trời riêng”: Tôi hát, tôi hát
bài ca về cố hương tôi/ Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm/ Một
mai đây tôi sẽ nằm trong đó/ Kiếp này tôi là người/ Kiếp sau phải là vật/ Tôi
xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ/Để canh giữ nỗi buồn- báu vật cố hương tôi.
Khi nghĩ về quê hương, nguồn cội cũng chính là khi nhà thơ ý thức một cách sâu
sắc về nỗi buồn, nỗi cô đơn bản thể. Con người sống rồi chết, cuối con đường
lại trở về hòa lẫn trong lòng đất thẳm sâu quyện vào hơi thở của quê hương,
nguồn cội. Đó phải chăng là những trăn trở, suy tư của nhà thơ về quy luật đau
thương của kiếp người. Không gian Làng Chùa của Nguyễn Quang Thiều không đơn
thuần là không gian quê hương xứ sở mà đó còn là không gian của người sống,
người chết, của cõi dương, cõi âm. Không gian khiến nhà thơ tìm về để đối diện
với thế giới nội tâm, nơi để hoài niệm, để sám hối, để thanh lọc tâm hồn. Với
giọng suy tư đầy triết lí, tác giả nghĩ về cố hương của mình bằng sự suy tư từ
hiện tại về quá khứ cội nguồn và cả tương lai phía trước tạo nên dòng liên
tưởng trầm tư. Con người sinh ra gắn bó với quê hương, khi già đi lại trở về với nơi chôn nhau cắt rốn. Dù bươn chải khắp mọi không
gian nhưng cuối cùng vẫn trở về với cố hương mang theo nỗi buồn vĩnh cửu của
kiếp người ngắn ngủi. Ý thơ nói về nỗi buồn nhưng không bi lụy mà làm sáng lên
một chân lý của cuộc sống. Với nội dung đề tài tác phẩm quan tâm đến mảng đời
tư thế sự, tác giả Nguyễn Quang Thiều bày tỏ sự quan tâm đến số phận con người
khi đất nước đã nguội tắt ngọn lửa chiến tranh. Cuộc sống sau chiến tranh vẫn
luôn đặt ra bao vấn đề liên quan tới vận mệnh con người. Cho dù nền khoa học kĩ
thuật và công nghệ phát triển hiện đại nhưng con người vẫn không thoát khỏi
những lo âu cô đơn, bởi theo chủ nghĩa hiện sinh đó là một đặc tính cố hữu của
con người.
Cùng
với Nguyễn Quang Thiều, cần nói đến nhà thơ Mai Văn Phấn, người được cho là có
sức sáng tạo thơ ca dồi dào. “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và
sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo” [Dẫn theo
102, tr. 13]. Theo thống kê của Phạm Thị Trịnh: “Tính đến năm 2009, ở Việt Nam,
Mai Văn Phấn đã xuất bản 16 tập thơ và một cuốn sách phê bình, tiểu luận, 17
cuốn xuất bản ở nước ngoài. Thơ của ông đã được dịch ra 27 thứ tiếng, xuất hiện
trong hơn 50 tuyển tập thơ và tạp chí quốc tế. Năm 2014, 3 tập thơ song ngữ của
ông lọt vào top 10 tập thơ châu Á bán chạy nhất trên mạng Amazon” [158, tr 67].
Thơ ông là sự hòa trộn của tình yêu quê hương, gia đình, thời đại với vốn hiểu
biết nhiều luồng văn hóa và sự tiếp nhận hòa quyện tư tưởng Thiên chúa giáo,
Phật giáo và triết học hiện đại. Ông từng tâm niệm: “Tiếng thở dài bay đi trong
lớp bụi thời gian, ta sửng sốt thấy hồn vía tổ tiên trong nét hoa văn đình
làng, trống đồng, ngọn tháp… Những thân phận khóc cười đêm ngày làm kén ở hồn
ta”. Nỗi cô đơn trong tương quan với không gian trong thơ Mai Văn Phấn gắn với
không gian trần thế, không gian riêng tư, không gian của tình yêu đôi lứa. Tình
yêu trong thơ Mai Văn Phấn là sự hòa trộn giữa tâm hồn và thể xác. Đó là không
gian nhỏ lẻ, rời rạc nhưng chứa đựng những góc ẩn sâu của đời sống nội tâm con
người. Trong bài Cấu trúc tạm thời,
tác giả viết: Những thửa ruộng, nóc nhà,
bóng cây, mái tóc. Chuyển động lặng im, vụn rời không quy luật.../Ta chạy qua
những ô cửa lấp lóa/ Ngã bảy ngã ba nờm nợp bóng người/ Nơi công cộng tiếng hỏi
chào vồn vã. Đây là những không gian rất đỗi bình thường nhưng có ý nghĩa
chứa đựng nhiều suy nghĩ của con người. Đó là không gian con người luôn hướng
về khi phải đối mặt với nhiều vấp váp, mệt mỏi chán chường trong cuộc sống. Có
khi những không gian nhỏ lẻ, rời rạc lại cho thấy được những giá trị sống đích
thực mà con người hiện đại muốn truy tìm: Úp
mặt vào bóng tối lùm cây/ Gió đang chạy trên lưng mình những bước chân đô thị/Bóng tối dẫn tôi về ngôi nhà của mẹ/
Ngôi nhà như chiếc bánh không nhân. Con người luôn đối mặt với những
mâu thuẫn khi khát khao được sống trong sự ồn ào náo nhiệt của thị thành, nhưng
cũng chính trong sự ồn ào lại muốn tìm về sự tĩnh lặng an nhiên. Tuổi thơ hồn
nhiên, được sống đúng là chính mình như quầng sáng luôn khiến con người tiếc
nuối: Nhặt được đồng xu gỉ cuối sân/ Ngỡ
chạm phải tay mình thời thơ ấu. Không gian trong thơ Mai Văn Phấn còn là
không gian bên trong, không gian tiềm thức, vô thức. Nhà thơ đào sâu vào chính
cái tôi bản thể với nhiều cung bậc cảm xúc, suy nghĩ. Chính điều này tạo nên
chất thơ, nét riêng trong thơ Mai Văn Phấn. Khi đánh giá thơ Mai Văn Phấn, Phạm
Quang Hưng nhận định: “Thế giới nghệ thuật mang tên Mai Văn Phấn xem ra như nổi
trội hẳn lên trong tầng tầng lớp lớp những người cùng thời (Không gian và hành trình thơ Mai Văn Phấn).
Tác giả Mai Văn Phấn là người đã giành một không gian chính yếu cho nỗi buồn,
nỗi cô đơn của con người trước cuộc sống đầy những mâu thuẫn, những xung đột và
cả những cảm giác mơ hồ, hư vô trong thơ mình. Nguyễn Thị Bích Phụng trong bài
viết Cảm thức hiện sinh trong tập thơ Hoa
giấu mặt của Mai Văn Phấn đã nhận xét
thơ Mai Văn Phấn thường dẫn con người vào thế giới hiện sinh đặc sắc: “Thơ Mai
Văn Phấn thường mang nội hàm những xung đột - xung khắc giữa cá thể và những
điều kiện hiện tồn, cả kí ức và những linh giác, những tâm trạng âu lo trong
mọi chuyển động của vạn hữu, mơ hồ, hư vô và bất định. Thơ Mai Văn Phấn dẫn người đọc lẩn khuất vào thế giới hiện
sinh cô độc đa tạp trong Hoa giấu mặt. Thời gian và không gian nghệ thuật trong
Hoa giấu mặt là tiểu vũ trụ biệt lập
mang trạng thái tĩnh tại của Thiền, mong manh đến từng sát-na làm nên những cảm
thức hiện sinh” [114].
Không
chỉ là nỗi cô đơn trong không gian, cái tôi trong thơ Việt Nam đương đại còn cho thấy nỗi cô đơn trong thời
gian. Quan niệm thời gian trong thơ đương đại là cái tôi bản thể không thấy
thời gian trôi. Nỗi lo sợ thời gian trôi một đi không trở lại đã có từ thời xa xưa. Khi Baudelaire thốt
lên: “Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! Thời gian
ăn cuộc đời”. Xuân Diệu sau này cũng chịu ảnh hưởng khi khẳng định thời
gian là tuyến tính “còn trời đất nhưng
chẳng còn tôi mãi”. Đời người ngắn ngủi, mỗi ngày qua là mỗi ngày tiệm cận
hơn giới hạn kiếp người. Nỗi lo sợ thời gian chảy trôi luôn là nỗi lo sợ ám ảnh
khi cuộc đời con người là hữu hạn.
Trương
Đăng Dung với tập thơ Những kỉ niệm tưởng
tượng đã gây hiệu ứng mạnh mẽ trên thi đàn thơ Việt Nam. Giải thưởng của
Hội Nhà văn Hà Nội (2001) đã ghi nhận sự đóng góp của Trương Đăng Dung trên địa
hạt thơ và lý luận văn chương. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học hiện sinh
từ phương Tây, quan niệm về thời gian trong thơ ông mang tâm thức hiện sinh rõ
rệt. Đó là một nỗi ám ảnh trở đi trở lại trong thơ ông. Ông quan niệm thời gian
đến rồi đi lặng lẽ, vô tình, lạnh lùng, tàn nhẫn: Anh không thấy thời gian trôi/ Thời gian ở trong máu, không lời/ Ân
mình trong khóe mắt làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết nên
mặt đất thành lời/ về kiếp người ngán ngủi (Anh không thấy thời gian trôi). Thời gian trong thơ Trương Đăng
Dung là “tiếng rít từ thẳm sâu lòng người”. Thời gian gắn với những trăn trở
suy niệm về nỗi buồn của kiếp người ngắn ngủi. Trong thơ ông, người đọc cảm nhận nỗi âu lo đến sợ hãi trước sự
nghiệt ngã của thời gian: Sợ thời gian
rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ (Vật chứng). Thời gian trôi đi biến mọi
thứ trở thành vô nghĩa. Vạn vật luôn vận động, chỉ còn lại cuộc đời con người
là hữu hạn, một đi không trở lại. Vì vậy, con số một trăm năm hay một nghìn năm
cũng đều mang trong nó sự cô đơn, âu lo, đầy bi kịch. Tác giả thừa nhận chua
chát: Rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi.
Đây được xem như một tổng kết đầy khái
quát, triết lí của Trương Đăng Dung. Nhà văn Tô Hoài cũng từng nói “dù anh
nghiêm túc hay anh cớt nhả cũng sẽ đem đến đáp số của một đời người”. Chủ nghĩa
hiện sinh khẳng định con người không lí giải được mình tự nhiên sinh ra rồi tự
nhiên mất đi. Con người sinh ra để rồi chết. Khi ý thức được sâu sắc điều đó,
con người luôn sống trong âu lo, băn khoăn, tiếc nuối. Trương Đăng Dung nhìn
vạn vật vần xoay dưới lăng kính của thời gian, từ đó đưa đến cái nhìn đầy triết
lý trước cuộc đời. Và vì nhìn cuộc đời luôn chảy trôi để kết thúc, do vậy, con
người càng ý thức sâu sắc về giá trị của từng ngày sống.
Có lẽ
vậy cho nên nhà thơ sống với đời nhiều trăn trở, khắc khoải suy tư, sống tinh
tế, vị tha, nhân văn. Đỗ Lai Thúy gọi thơ Trương Đăng Dung là thơ -Thời gian. Và cũng chính Đỗ Lai Thúy đã nhận định: “Trương Đăng Dung là nhà
thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm chí
mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào đó về cuộc
đời” [100]. Ông khẳng định: “Không nói thơ Trương Đăng Dung là thơ triết học,
chỉ nói thơ anh có tư tưởng triết học” [151, tr. 289]. Ông đã nhận ra đặc điểm
thơ Trương Đăng Dung xoay quanh những tư tưởng hiện tượng luận.
Những kỉ niệm tưởng tượng của
Trương Đăng Dung bộc lộ ý thức của tác giả về thời gian, tình yêu và cái chết.
Đó là nỗi bất an của con người trước thực tại đầy phi lí. Đóng góp mới mẻ của
Trương Đăng Dung cho thơ Việt đương đại là ở cảm nhận mới về thời gian bên
trong: “Thôi em đừng khóc/Rồi sẽ qua đi
kiếp người ngắn ngủi/ Một ngày kia hết mọi buồn vui/ Chui xuống cỏ ta sẽ nằm
dưới cỏ/ Bàn tay ta bất động dưới đất dày/ Bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy”.
Tác giả cảm nhận thời gian bên trong của cái hữu hạn đời người. Vì đời là hữu
hạn vậy nên những vật lộn toan tính buồn vui chỉ là vỏ bề ngoài của hành trình
sống hướng về cái chết. Khi hiểu như vậy thì con người sẽ có một tầm nhìn sâu
rộng về cuộc sống để hình thành và nuôi dưỡng một cách sống có ý nghĩa trước
thực tại đầy phi lí. Thực tại trong quan niệm của Trương Đăng Dung là thực tại
nhuốm đầy bi kịch [37, tr. 305]. Con người sống, lao động, suy nghĩ và vươn lên
hướng về phía được - mất nhiều hơn mà không ý thức được đầy đủ về sự phi lí của
cuộc sống. Thế hệ này qua thế hệ sau lại tới và lại bắt đầu nhịp mưu sinh đầy
toan lo sấp ngửa. Ít khi con người dừng lại để hiểu cuộc đời. Con người như lũ
kiến lầm lũi nhỏ bé tồn tại trong sự phi lý. Họ không biết vì sao mình ở đây,
mình là ai, đến để làm gì? Khi con người hiểu rõ về thân phận, về giới hạn của
cuộc đời thì sẽ có cái nhìn và thái độ sống khác hơn để tìm cách mở rộng giới
hạn sự sống. Những hình ảnh mang tính biểu tượng về thời gian trong thơ Trương
Đăng Dung như dòng sông, đêm, chân trời, bức tường, ánh sáng. Nhà thơ nhận ra
những bức tường trong mọi không gian cuộc sống con người: “Có mặt khắp nơi/ Trong những lời ru đoàn tụ/ Trong những lời buồn chia
tay”. Thậm chí: “Giữa những cái bắt tay/ Có một bức tường/ …/
Giữa hai chiếc gối nằm kề nhau/ Có một bức tường” (Bức tường). Đâu đâu cũng có một bức tường ngăn cách đó là bức tường
thời gian.
Trương
Đăng Dung được xem là một trong những nhà thơ có những tác phẩm in đậm dấu ấn
hiện sinh nhất trong số các nhà thơ cùng thế hệ. Ông quan niệm: “Thơ có thể và
cần phải là một trong những hình thức biểu hiện của tư duy triết học”. Thơ của
ông lựa chọn triết học hiện sinh làm nền tảng lý luận và cũng là mục đích biểu
hiện. Trong thơ, ông coi trọng việc giãi bày bản thể một cách tự nguyện. Đó là
cái tôi luôn cảm thấy cô đơn, bất an trước thực tại đời sống. Qua thơ ông,
người đọc “nhận ra những mệnh đề quen thuộc, cốt lõi của triết học hiện sinh
với niềm bi quan định mệnh sâu sắc. (Nguyễn Thanh Tâm). Chủ nghĩa hiện sinh
quan niệm con người là một chủ thể cô đơn bị sinh ra rồi chết đi. Nhưng con
người luôn phải vươn lên chính định mệnh đó: “Tôi bị sinh ra /tôi phải dấn
thân/ tôi hội đủ những điều kiện chết/ tôi không hy vọng gì”(Tự do của Nikos Kazantzakis). Trong bài
thơ Tự bạch, ông giãi bày những trăn
trở về những điều sâu thẳm bên trong nội tâm thân phận con người tồn tại trong
kiếp sống đời thường. Hoàn toàn có thể xem tác phẩm này cũng như là một “tự
bạch” của cảm quan hiện sinh trong thơ ca Trương Đăng Dung: “Tôi có tác phẩm
đầu tiên là tiếng khóc chào đời sau chín tháng ngồi im tập xếp hình dấu hỏi.
Tôi sinh ra bên một dòng sông, phía trước là cánh đồng, phía sau là biển. Làng tôi nghèo, biển nổi sóng, sóng đẩy gió, gió thổi lên trời cao.
Những ngôi sao lung linh hình hạt gạo, gieo giữa trời xa hy vọng của bao đời.
Tôi nghe đêm đêm tiếng bước chân người, tiếng trẻ khóc đòi ăn, tiếng mèo kêu ma
quái, tiếng mưa rơi da diết gọi bình minh. Bóng những người cha lặng lẽ vô
tình, như vết máu đổ dài trên vách, những người mẹ ôm bụng trào nước mắt, sung
sướng lo âu nghe nhịp đập con người: Tôi không nói được chính xác bằng lời về
những điều cảm nhận; Ngôn từ như con tắc kè hoa, có đời sống riêng và không
ngừng thay đổi; Tôi đi giữa mọi người, bên những hàng cây im lặng, lòng thầm
biết ơn thân cây nào rồi đây ngã xuống, xẻ mình ra ôm tôi về cát bụi; Tôi không
mang đến điều gì mới lạ, giữa quá khứ và tương lai tôi chỉ là đứa trẻ biết
già.” Với sự hoà quyện giũa chất trí tuệ và chất trữ tình xúc cảm, nhà thơ lý
giải những phạm trù vũ trụ quan và nhân sinh quan một cách sáng tạo. Bài thơ là
sự suy ngẫm về mối tương quan giữa còn- mất, hữu hạn- vô hạn. giữa cái bình
thường và vô thường…
Trương
Đăng Dung luôn quan niệm vòng đời của tác phẩm là một quá trình. Đó là một hành
trình gian nan và có những đòi hỏi nghiệt ngã về sự trung thực và tử tế: “Làm
thơ không thể lừa dối con người. Vậy làm thế nào để không lừa dối con người?
Chỉ có làm bằng cách của thơ, thơ đích thực”. Từ tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng đến Em
là nơi anh tị nạn là một quá trình “dịch chuyển từ trạng thái bất an trước
đời sống sang trạng thái khát khao được an trú trong lòng đời sống” (Văn Giá).
Qua các tập thơ đã cho thấy sự nhất quán trong tư tưởng của tác giả. Nếu tập
thơ Những kỷ niệm tưởng tượng là nỗi
ám ảnh thời gian, những khắc khoải về phận người thì tập thơ Em là nơi anh tị nạn không chỉ ghi lại
những sự kiện của tâm hồn cá thể mà thông qua đó khơi mở những suy tư truy vấn, đối thoại về tồn tại người
và chạm đến những giá trị phổ quát. Thế giới bấp bênh, bất an, các giá trị đảo
lộn trong xã hội hiện đại khiến con người như kẻ lưu đày cần tìm nơi “tị nạn” Rồi một ngày tàu anh kiệt sức/ nằm im trên
canh đồng/ những toa tàu bỏ không/ đầy bụi/ Rồi một ngày tàu em đến/ tiếng còi
nghe như tiếng côn trùng/ những toa tàu bỏ không/ đầy ối/ Thấp thoáng bóng người/
trong cỏ (Hai chuyến tàu). Em là nơi anh tị nạn gửi gắm ý niệm
hướng về ánh sáng cứu rỗi sự cô đơn của con người. Em vừa cụ thể vừa khái quát - đó là vợ, là mẹ, là
những người thân yêu, là chốn bình an hay nơi anh giãi bày những âu lo trăn trở
về kiếp người. Các nhà nghiên cứu phê bình đều khẳng định qua thơ ông cho thấy
thường trực nỗi bất an lớn về phận người. “Trương Đăng Dung là một bất an lớn.
Nỗi bất an thi sĩ. Nỗi bất an của những trăn trở về sự tồn tại người” (Nguyễn
Đăng Điệp).
Đề cập
nỗi buồn về kiếp sống phù du, hư vô mang tâm thức hiện sinh, Lâm Thị Mĩ Dạ đã thuyết phục người đọc qua
những vần thơ cụ thể: “Bây giờ chỉ có một
mình ta/ Một mình ta với bao la một mình/ Khóc ta hạt bụi vô thường/ Mai kia
tìm chốn cội nguồn nghỉ ngơi”. Có thể nhận ra điểm chung của các nhà thơ
đương đại là sự suy tư trăn trở trước sự vô thường, tiếc nuối âu lo trước sự
trôi chảy của kiếp người. Sự âu lo dâng trào trong ánh nhìn, trong khóe mắt,
trong mọi chiều kích của thời gian không gian. Từ đó hình thành cho con người
nhân sinh quan sống sâu sắc, nhân bản, nhân văn. Thơ ca bứt phá khỏi mọi chuẩn
mực giá trị cũ để hòa nhập vào dòng chảy văn học và thơ ca nhân loại. Cái tôi
cảm thấy cô đơn, cô độc mong tìm được sự an ủi để giải thoát khỏi sự giằng xé
trong chính mình. Cái tôi gào thét van gọi sự mở lòng bởi tình yêu cho thấy bi
kịch của cái tôi mang trong mình nỗi đau không được là mình, nỗi đau giữa những
giá trị đối nghịch. Nỗi lo sợ thời gian chảy trôi luôn là nỗi lo sợ ám ảnh khi
cuộc đời con người là hữu hạn. Ý thức sự mỏng manh của kiếp người con người
hiện sinh luôn thường trực nỗi ưu tư.
Ly
Hoàng Ly diễn tả nỗi cô đơn tận cùng cảm giác khi không có người yêu, người
chồng hay một chỗ dựa để cái tôi bấu víu tránh cảm giác nhỏ bé chơi vơi trong
bài thơ Nửa đêm: “Đêm giật mình thức giấc/ Không thấy anh bên
cạnh/ Không hiểu sao lòng bàn tay đầy nước/ Đêm rót lên mình những giọt lạnh”.
Đó là nỗi cô đơn tự mình gánh vác không ai có thể hiểu hay san sẻ đượm màu sắc
hiện sinh.
Ly
Hoàng Ly dựng lên trong bài thơ có cái nhan đề “nửa Tây nửa ta” Performance trứng:
Ông ta đập trứng Lòng trắng lầy nhầy, lòng đỏ
rực cháy ly thủy tinh cáu bẩn/ Mặt trời vỡ khi ông ta nuốt lòng đỏ vào bụng/ Tự
dưng ông ta tỏa sáng Ông ta tỏa sáng một mình
Nhan đề
bài thơ với từ tiếng Anh “Performance” có ý vị phúng nhại (parody) pha trộn cả
sắc thái carnival, và đó cũng là một biểu hiện của cảm thức hiện sinh - ý vị
này cho thấy rõ ngay khi ta đọc đến bài thơ khác cũng dùng nguyên ngữ từ
“performance” nhưng cố ý kèm cùng từ cũng tiếng Anh như cố ý “phiên âm” bồi - ham bơ gơ. Bài thơ trên dẫn từ tập thơ Lô Lô của Ly Hoàng Ly, trong tập này ta
còn đọc thấy vài “performance” khác - Performance
ham bơ gơ, Performance photo. Sự
phóng chiếu cái hình ảnh “sinh hoạt phàm tục” lên tầm “sử thi” toàn cõi bỗng
khiến ta như lập tức xốn xang cái cảm giác hiện sinh điển hình “buồn nôn” (the
nausea) thực sự và cụ thể: Lòng trắng lầy nhầy, lòng đỏ rực cháy ly
thủy tinh cáu bẩn/ Mặt trời vỡ khi ông ta nuốt lòng đỏ vào bụng”. Chúng ta
không biết Ly Hoàng Ly có hàm ý “liên văn bản” gì đến tiểu thuyết Buồn nôn (La nausée) của nhà văn hiện
sinh nổi tiếng J.P. Sartre không - tiểu thuyết mà có nhà phê bình đã nhận xét
là tác giả của nó đã nhận ra được cái kinh nghiệm mà Jaspers gọi là “chuẩn bị
cho một sức bung phá mãnh liệt”… Sự thực thì rất có thể cái “ông ta” trong bài
thơ trên cũng chỉ như bao người đàn ông trong cuộc sống ngoài kia - cũng đã có
những tháng ngày sống trôi qua vô vị, buồn tẻ. Những hành động việc làm và cả ý
nghĩ đã đang gặm nhấm cuộc sống hiện sinh của con người, biến cuộc đời họ trở
nên tầm thường, vô nghĩa. Có khi nhà thơ trải lòng về nỗi cô đơn khi không còn
chỗ dựa tinh thần. khi không còn ai đón đợi, không còn ai trông mong, không còn
ai bao dung, không còn lửa của nhiệt tình sự sống “Không ai đợi tôi về sau cánh cửa/ Không nồng nàn không ấm áp bao dung/
Tôi như sống nửa đời đêm giấu lửa/ Một nửa đường đang khuất dấu bao dung/ Tôi
như sống nửa đời đem giấu lửa/ Một nửa đường đang khuất phía mông lung”. (Một nửa đường đang khuất - Đinh Thị Thu
Vân). Con người mang một nỗi lo sợ bất an vì mình sẽ bị cuộc đời bỏ quên, bị
trở thành xa lạ với đồng loại. Nỗi băn khoăn đó chính là bản thể con người đang tự truy vấn về sự
tồn tại của chính mình trong cuộc đời.
Thời
đại mới đòi hỏi con người phải xác định đúng vị thế của mình trong dòng chảy
lịch sử “được thành thực với mình, được
là mình trở thành một nhu cầu, một mong muốn khẩn thiết” [150, tr. 89]. Con
người thoát ra từ chiến tranh cảm thấy lo âu bất an trước thực tại phi lí hỗn
độn. Con người cảm thấy bị bỏ rơi lạc lõng nên luôn khát khao sự gắn kết, hòa
nhập. Khi xã hội phát triển với nền công nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại,
con người cá nhân mới không sống theo khuôn mẫu mà mỗi người là một cá thể
riêng biệt, một nhân vị. Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển và hội
nhập quốc tế, con người là những cá nhân cô đơn, đánh mất mình nhưng cũng đồng
thời vươn lên tự khẳng định chính mình. Đó là “đặc trưng cái tôi trong thơ Việt
Nam sau năm 1986” [65, tr. 37-46].
Kết
thúc chiến tranh, con người Việt Nam trở về với cuộc sống đời thường đối diện
với bao âu lo trong cuộc sống. Con người bước ra khỏi chiến tranh vẫn chưa hết
bàng hoàng và họ đặt ra những câu hỏi về sự phi lý do chiến tranh đem lại. Tác
giả Lưu Quang Vũ đặt ra những câu hỏi day dứt trước những mất mát mà chiến
tranh gây ra cho con người tạo nên sự phi lý, sự vô nghĩa: “Tuổi trẻ chúng tôi tìm gặp nhau/ đặt lại những câu hỏi/ về cuộc chiến tranh này/ về mọi giá trị trên đời/ nguồn gốc những nguyên nhân/ của chém giết và thù
hằn/ bất công và đói rét/ cần phải làm gì/ để có lí do mà hy vọng?” (Hồ sơ mùa hạ). Người lính trở về từ
chiến tranh mang theo cả sự hoài nghi về cái phi lý của cuộc đời: “Em bảo cuộc đời này thảm hại lắm xấu xa lắm/
Tất cả đều buồn cười vô nghĩa lý/ Mà khổ sở mà chết người” (Người con gái đến phòng em chiều thu).
Nỗi buồn hiện sinh được biểu hiện khá sớm trong thơ Lưu Quang Vũ. Ông nói về sự
cô đơn của kiếp người qua những câu thơ đầy nỗi buồn và nước mắt: “Gã đàn ông quầng mắt tối đen/ Trong cuốn
sách buồn/ Nói với tôi lời buồn bã: Con người chỉ là ống sậy cô đơn/ Trái đất
giữa không trung/ Như một giọt nước mắt (...) Nỗi cô đơn tuyệt vọng...” (Hoa
cẩm chướng trong mưa). Nỗi cô đơn là một chủ đề cơ bản của triết hiện sinh.
Tác giả khẳng định lại những nỗi cô đơn con người phải chịu đựng và chấp nhận
nó như một định mệnh. Đó là một yếu tính con người không thể lảng tránh hay
trốn chạy. Có khi con người cô đơn ngay khi đang ở cạnh người thân: “Sao tôi lại muốn em tin/ Khi chính tôi cũng
chẳng tin ai cả/ Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ/ Thằng bé lẻ loi
giữa lớp học ồn ào/ Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao (...)/ Tôi là người lính cô đơn ở giữa trung
đoàn/ Bao lâu rồi vẫn chỉ có thế thôi/ Nỗi cô đơn hoàn toàn cô đơn khủng khiếp/
Trước và sau trong và ngoài trang sách...” (Mấy đoạn thơ).
Quan
sát những sinh hoạt thường ngày của bao thanh niên nam nữ ở nông thôn, ở thành
phố, có lúc giật mình suy nghiệm về sự sống vô nghĩa, đáng lo âu của con người:
“thôn nữ quần Jeans giầy da/ trai làng
ngày đêm vỉa hè đợi việc/ chầu chực một tương lai đô thị hóa nông thôn” (Tôi đi trên đường đầy bụi, Thành phố của tôi
- Phan Huyền Thư). Đây là hình ảnh rất thực tế có thể bắt gặp bất cứ miền
quê nào. Ý thơ gợi sự phi lý đáng thương, đáng lo âu. Một thế hệ có đủ sức trẻ,
có tuổi thanh xuân nhưng không ước mơ hoài bão, không có công ăn việc làm,
không theo kịp vòng quay của xã hội. Tất cả dật dờ trong nhịp sống hờ hững,
nhịp sống thừa ra mà chính họ không biết làm sao thay đổi được. Những giá trị
tinh thần mang tính bản thể bị xói mòn trong xã hội hiện đại đã được các nhà
thơ đương đại đặc biệt quan tâm. Trạng thái cô đơn tạo cái nhìn bi quan âu lo
về cuộc sống đồng thời cũng có tính chất thức tỉnh con người cảm nhận được giá
trị cuộc sống để vươn lên.
Cái tôi
trong thơ ca đương đại Việt thường xuất hiện trong sự cô đơn, trống trải lặng
buồn. Cái tôi đối diện với những nỗi niềm lo lắng, hoang mang, bất an, xót xa,
bế tắc. Nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên viết: “Nỗi
buồn như chiếc bóng” luôn ám ảnh đeo bám con người. Con người cá nhân càng
thấm thía nỗi cô đơn thì lại càng khát khao vươn lên khẳng định mình như một
nhân vị, một cá thể độc đáo. Trong bài thơ Bay,
tác giả Ly Hoàng Ly đã quan sát vẻ mặt của những con người trên một chuyến bay:
Bay/ Fasten seat belt while seated/ Trên tất
cả máy bay/ Đều đọc thấy hàng chữ ấy/ Chưa đủ/ Tiếp viên sẽ nhắc đi nhắc lại/
Xin vui lòng cài thắt dây an toàn/ Thắt bụng mình vào một chiếc ghế xa lạ/ Và
lơ lửng trên trời/ Đâm đâm tầng mây/ Mọi người trên hành tinh di chuyển/ Một
cách thụ động/ Và ngớ ngẩn đần độn/ Nhớ đến giấc mơ của nhân loại/ Ước làm
chim/ Sải cánh bay (Bay).