Phê bình thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara từ góc nhìn phong cách học (Luận văn thạc sĩ) - Hoàng Thị Mỹ Ngọc
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Hoàng Thị Mỹ Ngọc
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bửu Nam
PGS.TS. Bửu Nam (trái) & Ths. Hoàng Thị Mỹ Ngọc
PHÊ
BÌNH THƠ CỦA MAI VĂN PHẤN
VÀ INRASARA TỪ GÓC NHÌN PHONG CÁCH HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
VIỆT NAM
THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
Thừa Thiên Huế, 2020
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
2.
Lịch sử vấn đề
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.
Phương pháp nghiên cứu
5.
Đóng góp của đề tài
6.
Cấu trúc luận văn
NỘI
DUNG
CHƯƠNG
1: DẪN LUẬN VỀ PHONG CÁCH HỌC VÀ LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC
1.1.
Phong cách học – Lý thuyết và ứng dụng trong nghiên cứu phê bình
1.1.1.
Khoa học nghiên cứu phong cách học
1.1.2.
Lược sử phê bình phong cách học
1.2.
Một số vấn đề chung về lý luận phê bình văn học
1.2.1.
Phê bình văn học
1.2.2.
Phê bình thơ
1.2.3.
Sự đan xen các dạng thức phê bình
TIỂU
KẾT
CHƯƠNG
2: PHÊ BÌNH THƠ CỦA MAI VĂN PHẤN VÀ
INRASARA TỪ GÓC NHÌN PHONG CÁCH HỌC – NHỮNG
ĐIỂM GẶP GỠ
2.1.
Phong cách phê bình
2.1.1.
Phong cách phê bình nghệ sĩ
2.1.2.
Phong cách phê bình đậm màu sắc văn hóa.
2.2.
Mục đích phê bình
2.2.1.
Nhập cuộc về hướng mở
2.2.2.
Khai phá để sáng tạo
2.3. Ngôn
ngữ phê bình
2.3.1.
Ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh
2.3.2.
Ngôn ngữ gợi nhiều liên tưởng độc đáo, thú vị
TIỂU
KẾT
CHƯƠNG
3: PHÊ BÌNH THƠ CỦA MAI VĂN PHẤN VÀ
INRASARATỪ GÓC NHÌN PHONG CÁCH HỌC – NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT
3.1.
Đối tượng phê bình
3.1.1.
Chủ thể sáng tạo và cảm thức thời đại trong thơ
3.1.2.
Quan niệm về địa vị của nhà thơ nữ và thiên tính nữ trong thơ
3.2.
Giọng điệu phê bình
3.2.1.
Mai Văn Phấn - Giọng đằm thắm, trữ tình
3.2.2.
Inrasara – Giọng táo bạo, quyết liệt
3.3.
Phương pháp phê bình
3.3.1.
Mai Văn Phấn với phương pháp “thiết lập không gian”
3.3.2.
Inrasara với phê bình “lập biên bản”
TIỂU
KẾT
KẾT
LUẬN
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
PHỤ
LỤC I & II
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mai Văn
Phấn và Inrasara là những tác giả đang tạo được ấn tượng trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, với những phong cách riêng đặc sắc. Trong sự nghiệp sáng tác của
mình, cả hai tác giả đã có một khối lượng tác phẩm khá lớn và giá trị ở nhiều
thể loại bao gồm thơ, văn xuôi, nghiên cứu phê bình, dịch thuật. Với hai nhà
thơ này, ở thể loại nào cũng ghi được những thành tựu, in đậm dấu ấn riêng, đặc
biệt là về lĩnh vực thơ. Tuy nhiên, bên cạnh sở trường này vẫn còn một mảng
sáng tác không kém phần quan trọng, đó là phê bình - tiểu luận. Bằng vốn hiểu
biết phong phú cùng với dụng công tìm tòi nghiên cứu và sự nhạy cảm, tinh tế
của một nhà thơ, bằng lối viết tràn đầy nhiệt tình, cảm xúc, Mai Văn Phấn và
Inrasara đã mang đến cho những trang phê bình - tiểu luận của mình một giọng
điệu riêng độc đáo. Cả hai tác giả đều có những bài nghiên cứu phê bình đặc sắc
mà tập trung chủ yếu là những cây bút trẻ sáng tác theo khuynh hướng hậu hiện
đại như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Lê Vĩnh Tài, Đinh Thị Như Thúy, Vi
Thùy Linh, Dư Thị Hoàn, Phan Thị Vàng Anh, Trà Vigia, Trần Wũ Khang,... đã góp
phần khẳng định được nét đặc sắc riêng trong phê bình của họ. Tuy nhiên, phần
đóng góp rất quan trọng của hai tác giả đối với phê bình văn học lại chưa được
nghiên cứu đánh giá một cách công phu và đầy đủ, số lượng bài viết về lĩnh vực
này còn rất ít ỏi. Vì vậy luận văn chọn đề tài Phê bình thơ của Mai Văn Phấn và
Inrasara từ góc nhìn phong cách học, hy vọng sẽ góp một phần hữu ích
vào việc nghiên cứu đánh giá vị trí vai trò và ý nghĩa của hai cây bút Mai Văn
Phấn và Inrasara trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam hiện đại, ghi
nhận những thành tựu to lớn, phát huy những tư tưởng và phong cách riêng độc
đáo của hai tác giả trong
lĩnh vực phê bình thơ thời kì đổi mới – hậu hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Các nhà nghiên cứu, phê
bình đã ít nhiều đề cập đến vấn đề về phong cách thơ của Mai Văn Phấn và
Inrasara, nhưng để góp phần hiểu Mai Văn Phấn và Inrasra một cách đầy đủ hơn
thì không thể không nghiên cứu mảng phê bình của hai tác giả. Bởi ở đây, cả hai
đã bộc lộ được những quan niệm, những suy nghĩ của bản thân về sáng tác thơ ca,
họ đã lặng lẽ nghiên cứu, lần tìm trên con đường của mình những nét riêng, độc
đáo, góp phần tạo nên bức tranh phê bình phong phú và đa diện.
Có thể thấy, Mai Văn
Phấn và Inrasara đã có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực nghiên cứu phê
bình, tuy nhiên cả hai tác giả vẫn chưa nhận được sự quan tâm thực sự của bạn
đọc cũng như giới nghiên cứu. Do đó, các nghiên cứu về Mai Văn Phấn và Inrasara
với tư cách là nhà phê bình vẫn chưa làm nổi bật vai trò, vị trí của hai tác
giả trong nghiên cứu phê bình văn học hiện nay. Với phạm vi của luận văn và nỗ
lực tiếp cận tư liệu có giới hạn, chúng tôi trình bày lịch sử vấn đề nghiên cứu
qua các bình diện sau đây:
2.1. Công trình nghiên cứu về sự nghiệp và phê bình thơ của Mai Văn Phấn
Qua
một số ít bài nghiên cứu, chúng tôi thấy những ý kiến về phê bình thơ của Mai Văn Phấn
nhìn chung mới chỉ dừng lại ở nhận định, chưa có một đánh giá cụ thể mang tính
khái quát, hay chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào.
Mai Văn Phấn viết phê
bình – tiểu luận cũng chưa nhiều, mới khoảng trên dưới 50 bài, được tập hợp chủ
yếu qua tuyển tập Không gian khác và
một số bài viết đăng trên các trang mạng, nhưng bằng đam mê và tâm huyết của
mình, ít nhiều Mai Văn Phấn đã thể hiện được cá tính sáng tạo và lối đi riêng.
Nhận định về tập phê
bình tiểu luận này của Mai Văn Phấn, Anh Thơ nhận xét: “Đọc 25 bài viết về các
tác giả trên, tôi nhận thấy Mai Văn Phấn sử dụng “vật liệu phê bình” căn bản
vẫn là tác phẩm nhà thơ. Tuy nhiên, dưới góc độ “người cùng thời cách
tân”, anh dành cho mỗi tác phẩm sự đọc giàu xúc cảm và đồng cảm mãnh liệt.
Những thao tác khá tỉ mỉ, công phu còn là khi anh đi vào phân tích kỹ càng các
thủ pháp cách tân của mỗi nhà thơ”.Bằng sự đồng cảm và thấu hiểu của mình, Anh
Thơ nhận thấy: “Qua 25 bài phê bình và 4 tiểu luận cùng chủ đề thơ cách tân
trong cuốn sách này, Mai Văn Phấn còn muốn nói một điều: Không phải cứ cách tân
là hay, là nhất. Có những câu thơ viết theo lối cách tân mà bàng bạc, nhạt nhòa
thì không thể xếp ngang hàng với câu thơ viết theo lối hình học phẳng có thần
thái. Vấn đề ở chỗ một thế giới thơ ca đã khai mở thì cần phải đi tiếp và sứ
mệnh của các nhà thơ là không ngừng sáng tạo để tạo ra giá trị nghệ thuật mới.
Thơ cách tân khi đã là một khuynh hướng thì cũng cần có sự kế tiếp và luôn có
những ý kiến phản biện. Phản biện để thơ cách tân chuyển động tích cực hơn,
mạnh mẽ hơn trong xu hướng hội nhập toàn cầu. Âu cũng là thái độ đúng đắn của
Mai Văn Phấn khi viết phê bình.[8, tr.21]
Hay trong Ngắm nhìn cái đa tôi đã khác, Phạm Minh Đăng nhận định “Tìm đến một không gian khác, là để anh cảm
nhận những tiếng thơ cách tân, khác biệt với những hòa âm giữ nhịp dòng thơ
xuôi chảy. Tôi tin rằng chỉ những người cách tân mới nghe được giọng nhau, và
mức độ cách tân – tự thân đến đâu, họ nhận ra giọng cách tân – đồng vọng đến
đó”.
Không thỏa hiệp với
cái cũ, cái ngưng đọng, bất biến, Mai Văn Phấn luôn đặt mình ở giữa những đường
biên, ở trước các giới hạn, với tâm thế sẵn sàng rời bỏ, từ đó tìm một phương
cách, một con đường để vượt qua. Tập phê bình
- tiểu luận Không gian khác vừa được NXB Hội Nhà văn ấn hành quý I năm 2016 là
một tác phẩm đã làm được điều ấy.
Ở đoạn khác, Phạm Minh Đăng lại
khẳng định: “Kết nối điểm nhìn,tạo lập
không gian” là chiến lược sáng tạo của Mai Văn Phấn. Đối với nhà thơ - người
sáng tạo, có thể nói đây là hai thao tác có tính chiến lược và cũng là cơ sở để
nhìn nhận sự khác biệt. Trong tư cách một nhà thơ, với những trải nghiệm sáng
tạo cụ thể, Mai Văn Phấn đã thâm nhập vào thế giới của những người làm thơ
khác, giải mã cách tạo lập không gian, kết nối điểm nhìn của họ”.
Cũng với cái nhìn ấy nhưng cách đánh giá khác, Nguyễn
Thanh Tâm lại cho rằng: Không gian khác đem đến những hình dung về cái
khác ở ngoài Mai Văn Phấn, trên hành trình sống và viết, tìm và gặp của anh.
Nhưng Không gian khác còn hàm nghĩa về cái khác ở quanh chúng ta - vốn
là bản chất, đặc tính của cái sống. Nhận hiểu về cái khác, không chỉ là xác lập
cái ở ngoài chủ thể, mà quan trọng hơn là xác lập chính chủ thể. Được viết bằng
ngôn ngữ của một thi sĩ, cuốn sách không gây cảm giác nặng nề, hàn lâm mà nhẹ
nhõm, thuần hậu.
2.2. Công trình nghiên cứu về sự nghiệp và phê bình thơ
của Inrasara
Bên cạnh những bài
viết, nghiên cứu xung quanh hiện tượng phê bình thơ của Mai Văn Phấn, nhằm nhận
định về một nhà phê bình đương đại với những đóng góp và thành công không thể
không kể đến Inrasara, người đã có những đóng góp không nhỏ trong nền phê bình
thơ Việt Nam đương đại.
Inrasara
là nhà thơ có giọng điệu riêng biệt, một "hiện tượng" đang được lớp
trẻ hưởng ứng và yêu mến, nên những bài viết về Inrasara được đăng tải nhiều
trên các phương tiện truyền thông. Số lượng bài viết dồi dào sắc thái,
"cấp độ" tình cảm khác nhau; người viết có khi là nhà nghiên cứu, nhà
phê bình văn học chuyên nghiêp. Với
Inrasara, một hiện tượng phê bình khá đặc biệt, mặc dù có nhiều ý kiến khen chê
trái chiều xung quanh hiện tượng phê bình của ông, nhưng hầu hết những bài viết
ấy chỉ dừng lại ở mức tản mạn, những bài bút chiến trên phương tiện Internet và
một số tạp chí. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có những bài nghiên cứu, nhận
định có giá trị sau:
Trước tiên phải kể đến
nhận định của Lại Nguyên Ân trêntrang
điện tửVanviet.net, 10 - 1 – 2016: “Nếu đặt cạnh tất cả các trang phê bình gần đây, không chỉ trong năm
2015 mà rộng ra bên ngoài khung thời gian ấy nữa, bạn sẽ thấy như tôi, rằng đây
là trường hợp khá hiếm hoi trong đó tác giả đưa vào tầm nhìn phê bình không chỉ
một vài phạm vi giới hạn nào của ý niệm thơ tiếng Việt…
Dù
nhìn từ góc độ tư duy so sánh hay phê bình, tôi dám chắc rằng những tiền bối
sáng giá trong thẩm bình thơ như Hoài Thanh hồi những năm 1940, Lê Đình Kỵ hồi
những năm 1960 – 1970 chưa chắc đã thực hiện được những thao tác nghề nghiệp như trên”.
Trong Luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn, 2018 của Chu Minh Anh Thơ với đề tài Đóng góp của Inrasara trong phê bình văn học cũng đã có nhận xét
khá ấn tượng: “Inrasara là một nhà phê
bình văn học đầy tự tin và bản lĩnh. Ông không ngần ngại đi đường trường một
mình, ông viết phê bình như một hành động để tự thức và khai phóng. Các bài
tiểu luận, phê bình sắc sảo của ông gây chú ý bởi tư duy và phương pháp viết mới
mẻ, độc đáo. Chúng tôi tự hỏi liệu bức tranh phê bình văn học đương đại Việt
Nam sẽ như thế nào nếu thiếu đi tiếng nói thẳng thắn và mới mẻ của Inrasara?”
“Đóng góp của Inrasara
trong phê bình văn học” có thể coi là một cuộc thám hiểm vào miền đất lạ của
người viết. Trong quá trình đọc và nỗ lực nhận diện lối phê bình của Inrasara,
người viết đã phải không ngừng phản tỉnh và nhiều lúc, thật không dễ dàng để từ
bỏ những lề lối đã in hằn trong lớp cảm, lớp nghĩ. Bởi vậy, dõi theo hành trình
phê bình của Inrasara và chỉ ra những thành tựu của ông cũng là một phương cách
để người viết có dũng khí từ bỏ và vượt thoát chính mình”
Có thể thấy, đã xuất
hiện một số công trình đánh giá về sự sáng tạo và nỗ lực cách tân của hai nhà
phê bình được đặt trong bối cảnh không ngừng vận động và phát triển của văn học
Việt Nam đương đại. Song, đa số các ý kiến, tài liệu trên chỉ dừng lại ở việc
giới thiệu, bình phẩm, phỏng vấn mang tính khái lược và đặc biệt, nghiên cứu
về Phê bình thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara từ góc nhìn phong cách học
là vấn đề chưa có một công trình nghiên cứu cụ thểnào triển khai sâu sắc. Do đó,
tất cả những ý kiến, nhận định trên sẽ góp phần định hướng, gợi mở cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tập trung
nghiên cứu những nét đặc sắc về phê bình thơ của hai tác giả Mai Văn Phấn và
Inrasara từ góc nhìn phong cách học
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi sáng tác phê
bình của hai tác giả Mai Văn Phấn và Inrasara khá phong phú và đa dạng. Nhưng
trong giới hạn cho phép của một Luận văn, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát
trong phạm vi bốn tuyển tập Tiểu luận - Phê bình:
- Mai Văn Phấn với tuyển
tập Tiểu luận - phê bình:
+ Không gian khác
- Inrasara với ba
tuyển tập Tiểu luận - Phê bình:
+ Thơ Việt hành trình chuyển hướng say
+ Nhập cuộc về hướng mở
+ Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố “nữ”.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương
pháp phân tích
4.2. Phương
pháp so sánhloại hình
4.3. Phương
pháp liên ngành
4.4. Phương
pháp tiếp cận lý thuyết phong cách học và phong cách học văn chương.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn đã chỉ ra
được những nét đặc sắc, độc đáo trong phong cách phê bình của Mai Văn Phấn và
Inrasara, đồng thời vạch ra được những điểm gặp gỡ và khác biệt của hai phong
cách phê bình này cũng như nêu được sự đóng góp của hai tác giả trong thành tựu
chung của phê bình thơ hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu,
phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm ba chương chính:
Chương 1: Dẫn luận về phong cách học và lý luận phê bình văn học
Chương 2: Phê bình
thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara từ góc nhìn phong cách học – Những điểm tương
đồng.
Chương
3: Phê bình thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara từ góc nhìn phong cách học – Những
điểm khác biệt.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
DẪN LUẬN VỀ PHONG CÁCH HỌC
VÀ LÝ LUẬN PHÊ
BÌNH VĂN HỌC
1.1. Phong cách học – Lý thuyết và ứng dụng
trong nghiên cứu phê bình
1.1.1. Khoa học nghiên cứu phong cách học
“Nói thế nào cho có hiệu lực?” là câu hỏi luôn được
đặt ra kể từ khi loài người có tiếng nói và đã có rất nhiều lời giải đáp cho
câu hỏi này trong suốt tiến trình lịch sử. Tuy nhiên, đến một thời điểm nhất
định của sự phát triển xã hội, con người không chỉ bằng lòng với kinh nghiệm mà
vươn đến khái quát thành các lí thuyết khoa học thông qua việc khám phá các quy
luật. Phong cách học xuất hiện là kết quả tất yếu của quá trình vận động
biện chứng nói trên, từ đó người ta đúc kết và nâng lên thành các quy luật nói
viết có hiệu lực. Nói một cách khái quát, theo Cù Đình Tú trong công trình Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt:
Phong cách học là khoa học về các quy luật nói viết có hiệu lực mà đối tượng cơ
bản nhất của nó là các yếu tố biểu cảm của ngôn ngữ. Bởi lẽ tiếng nói của con
người khác hẳn mọi hệ thống tín hiệu khác chính là nhờ các yếu tố biểu cảm. Tài
nghệ nói viết của mỗi người thể hiện tập trung và rõ nét ở khả năng sử dụng và
sáng tạo các yếu tố biểu cảm. Do đó, khảo sát các yếu tố biểu cảm là một trong
những nội dung cơ bản nhất của phong cách học.
Tuy nhiên, điều muốn nói ở đây là chúng tôi muốn tập
trung nghiên cứu về phong cách học văn chương, chứ không phải phong cách học
ngôn ngữ, do đó cần phân biệt giữa phong cách học của ngôn ngữ học với phong
cách học của lí luận văn chương.
Nếu đối tượng của phong cách học là các phong cách
chức năng ngôn ngữ, nghĩa là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu nguyên
tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phương tiện
ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng tình cảm nhất định trong những
phong cách chức năng ngôn ngữ nhất định, do đó phong cách học của ngôn ngữ học
không có nhiệm vụ nghiên cứu phong cách ngôn ngữ nhà văn mà nghiên cứu ngôn ngữ
của tác phẩm nói chung, tạo thành một phong cách chức năng ngôn ngữ gọi là
phong cách ngôn ngữ văn chương. Còn đối tượng nghiên cứu ở phong cách học của
lí luận văn chương là phong cách ngôn ngữ nhà văn. Việc sử dụng ngôn ngữ của
nhà văn phụ thuộc vào các yếu tố như: nội dung tư tưởng của tác phẩm, thế giới
quan và phương pháp sáng tác, thể loại sáng tác, hệ thống chủ đề... Đây là
những phạm trù lí luận văn chương mà phong cách học văn chương cần khảo sát,
nghiên cứu.
1.1.2. Lược sử phê bình phong cách học
Trong phê bình văn học hiện nay, xuất hiện nhiều thuật
ngữ mới, mỗi bộ môn khoa học ra đời (điện tử học, vũ trụ học, tin học...), các
nhà khoa học sáng tạo ra những thuật ngữ mới (bộ nhớ, rô bốt, computer,...).
Trong nghiên cứu phê bình văn học cũng vậy, hàng trăm thuật ngữ mới ra đời và
nhiều thuật ngữ được mỗi nhà lý luận hiểu một cách. Trong đó, phong cách học có
thể hiểu một cách đơn giản nhất là nghiên cứu những đặc trưng ngôn từ văn
chương của một tác giả, một tác phẩm.
Trước hết hãy nói về sự
phân biệt Phong cách học cổ điển và Phong cách học hiện đại. Có
thật Phong cách học cổ điển đã “hóa thân” để “trở thành phong cách học hiện
đại”? Theo chúng tôi hiểu thì không phải vậy. Phan Ngọc gọi phong cách học cổ
điển là một bộ phận của khoa ngôn ngữ học. Còn phong cách học hiện đại, theo
ông, nếu có lại là một bộ phận của lý luận phê bình. Chúng thuộc hai lĩnh vực
khoa học khác nhau.
Ở Việt Nam, môn học Rhétorique này được dạy ở
phổ thông từ Ngữ pháp Nguyễn Lân (cuối những năm 50 thế kỷ trước) với tên gọi
Mỹ từ pháp, trong đó có dạy cách “làm đẹp” từ ngữ và cả vài hình thức thể loại
thơ. Sau đó tên môn được đổi là tu từ học, dạy về “những thuộc tính biểu
cảm của các phương tiện ngôn ngữ để lời văn hay hơn, đẹp hơn” (Từ điển Hoàng
Phê). Cuối cùng, từ 1974 môn học này lại được đổi tên là phong cách học nghiên
cứu về các phong cách và cả về tu từ. Như vậy qua cách đổi tên môn học ta thấy
sự thay đổi nhận thức về đối tượng môn học, nó đi từ việc làm đẹp từ, qua cả
ngữ và câu và mở rộng cả tới cái đẹp ở văn bản. Và cái từ phong cách học cổ
điển dùng để gọi nó là không thích hợp ít nhất với môn học ở nhà trường.
Xin mượn câu nói của
Roman Jakovson để chúng ta cùng suy ngẫm: Giờ
đây tất cả chúng ta đều hiểu rõ rằng một nhà ngôn ngữ học dửng dưng với chức
năng thơ của ngôn ngữ cũng như nhà nghiên cứu văn học thờ ơ với những vấn đề
ngôn ngữ học, xa lạ với phương pháp ngôn ngữ học là một hiện tượng lỗi thời quá
mức như thế nào.
Chẳng hạn xét về thơ, ở thế kỷ XX có bốn giai đoạn quan
trọng: đó là Thơ mới 1932-1945, thơ chống Pháp 1946-1954, thơ chống Mỹ
1965-1975, và thơ trong thời Đổi mới từ thập niên cuối thế kỷ XX. Thời của Thơ
mới là sự ra đời và khẳng định của cái tôi cá nhân. Dẫu có bơ vơ, có cô đơn
buồn tủi, rợn ngợp, dẫu có xui người ta đi vào những nẻo trốn khác nhau… nó vẫn
là sự thể hiện một bước phát triển mới của con người trong tương ứng với sự
phát triển xã hội. Đó là sự áp đặt nhưng lại nằm trong xu thế của thời đại, mà
Hoài Thanh đã nói rất hay trong bài Mở đầu Thi nhân Việt Nam. Sự ra
đời của cái Tôi này tìm được tiếng
nói của nó trong Thơ mới. Tương ứng với các cá nhân trong đời, muốn thoát ra
khỏi những ràng buộc vô hình chằng chịt quanh mình, Thơ mới tìm đến cái riêng,
vừa như một nhu cầu bức xúc, vừa như một dỗi hờn với thực tại. “Ta là một, là riêng,
là thứ nhất”, “Em là em, anh vẫn cứ là anh” (Xuân Diệu), “Đường về thu trước xa
xăm lắm. Mà kẻ đi về chỉ một tôi” (Chế Lan Viên)… Rồi tương ứng với cái tôi,
cái cá nhân muốn được thể hiện, được kiếm tìm trong thơ, phê bình thơ đứng
trước nhiệm vụ tìm kiếm và khẳng định những gương mặt riêng trong dàn đồng ca
Thơ mới – những cái riêng qua nhiều gương mặt: Thế Lữ, Huy Thông, Nguyễn Nhược
Pháp, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên… chỉ trên dưới
10 năm, để đến với kết thúc và tổng kết trong Thi nhân Việt Nam.
Với Hoài Thanh, trong khai mạc của nền thơ hiện đại, đã
có một gương mặt phê bình thơ hiện đại, tương ứng và đồng hành với sáng tác, để
nhận diện và tổng kết về nó.
Sau phong trào Thơ mới
1932-1945, thế kỷ XX chứng kiến một giai đoạn rực rỡ của nền thơ Việt Nam hiện
đại, qua thời kỳ chống Pháp để đến với thời kỳ cả nước chống Mỹ 1965-1975. Một
nền thơ chan chứa chất trữ tình cách mạng và âm hưởng anh hùng ca, tương ứng
với một thời hào hùng của dân tộc “Xẻ dọc
Trường sơn đi cứu nước” (Tố Hữu) và “Ta
là ta mà lại cứ mê ta” (Chế Lan Viên) “Thời
đại anh hùng đòi hỏi một nền nghệ thuật anh hùng” – yêu cầu đó đã được đáp
ứng trong giai đoạn thơ này, vừa như một phản đề, vừa như một sự phát triển đối
với phong trào Thơ mới – thời đại của sự ra đời con người cá nhân ngót 30 năm
về trước.
Nói thơ chống Mỹ là nói áp lực của thời đại, đưa đến một
phong cách thơ bao trùm mọi khuynh hướng, mọi tìm tòi riêng của cá nhân. Khiến
cho mỗi cá nhân chỉ có thể tìm được giá trị riêng của mình trong âm hưởng chung
của nền thơ. Khiến cho mỗi sự đi chệch ra khỏi âm hưởng đó, quỹ đạo đó là khó
được chấp nhận. Việc nhận diện và khẳng định một phong cách bao trùm của thời
đại trong thơ – trở thành mục tiêu cơ bản của phê bình thơ.
Tất nhiên, trong phong cách cơ bản của thời đại vẫn tồn
tại những phong cách riêng, giọng điệu riêng. Bởi nếu không có các giọng điệu
riêng thì phong cách chung cũng sẽ không có hình hài… Nền thơ chống Mỹ, đó là
bản đồng ca, rồi hùng ca của những tên tuổi Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan
Viên, Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông… Sau các thế hệ
trên sẽ đến một thế hệ cùng đồng hành với nhau mà sự xuất hiện trước – sau là
không đáng kể, gồm: Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Duy, Vũ Quần Phương, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Anh Ngọc… Những
tên tuổi này đều có những nét riêng đủ cho sự phân biệt giữa người này với
người kia – nhưng không phải là sự khác nhau đến rạch ròi như thời Thơ mới, vì
họ bị chi phối bởi một âm điệu chung của thời đại. Phê bình thơ thời chống Mỹ
có mục tiêu gắn nối giữa cái riêng và cái chung đó, giúp cho sự nhận thức vừa
là sự khác nhau, vừa là sự giống nhau của cả một nền thơ. Và nếu có lúc, đi
riêng và đi sâu vào một gương mặt thơ nào đó, thì gần như không làm thay đổi
một trật tự đã được xác định.
Thời đổi mới tính từ những năm 90, là sự trở lại cái
riêng, sau một thời kỳ cả nền thơ hướng tới một khuôn mặt chung “Những năm đất nước có chung dáng hình, có
chung khuôn mặt”. Bây giờ là thời của đơn ca – nhưng để có phong cách riêng
được công nhận là rất khó. Và tiêu chí hay – dở chung cho tất cả bỗng trở nên
mơ hồ, khó mà phân biệt được. Bởi nó là sự khác nhau giữa nhiều thế hệ, nhiều
xu hướng, nhiều thị hiếu, nhiều cách viết… Có nhiều kiểu người viết thì cũng có
nhiều kiểu người đọc. Trong tình thế mới này, người phê bình đã hết vai trò là
người hướng dẫn, hoặc đại diện cho ai. Không thể đại diện cho ai, nhưng vẫn
phải có một chủ kiến của mình, có một tiêu chuẩn hay – dở cho mình, để thích
hoặc không thích, tán thành hoặc phản đối, khen hoặc chê…
Khi mà số người làm thơ bỗng trở nên rất đông, khiến cho
ai cũng có thể làm thơ, in thơ thì việc bao quát diện mạo thơ là khó, và nhận
diện hay – dở càng khó hơn. Phê bình thơ rút lại chỉ còn là việc đọc, điểm một
cách tuỳ tiện, và chẳng ai chịu ai trong việc khen – chê, kể cả những giải
thưởng lớn, nhỏ, cũng khó tìm được sự nhất trí trong giới phê bình và bạn đọc.
Khi mà phong trào thơ còn ngổn ngang như vậy thì việc tìm một tiếng nói chung,
hoặc một phong cách nổi bật được mọi người chấp nhận là không dễ, công việc phê
bình càng trở nên khó khăn hơn. Gần như người làm thơ nào cũng muốn tìm tòi –
cho khác người, nhưng chưa tìm ra lối, chưa đạt được hiệu quả nghệ thuật
như mong muốn.
Vậy, hành trình phê bình phong cách học là, với trực giác
và sự phân tích ngôn ngữ học, người phê bình đi từ các phương thức nghệ thuật
đặc trưng của một nhà văn, một tác phẩm, đến ý nghĩa, nổi và chìm, của tác phẩm
đó. Hai yếu tố này đan xen nhau, cái này nâng đỡ cái kia, để tìm, đến tối đa,
văn chương của cái đẹp (hình thức) và cái đẹp của văn chương (nội dung).
Người đầu tiên nhắc đến từ phong
cách trong phê bình văn học Việt Nam có lẽ là Nguyễn Lộc và Đỗ Đức Hiểu, nhưng
người đầu tiên thực hành phê bình phong cách học ở Việt Nam là Phan Ngọc với
công trình Tìm hiểu phong
cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều . Theo Phan Ngọc, mỗi một ký
hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm. Phong cách học là khoa
học nghiên cứu cái mặt biểu cảm này của ngôn ngữ. Cụ thể hơn, nó nghiên cứu các
kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy.
Tuy nhiên, không phải công trình nghệ
thuật nào cũng có phong cách. Một tác phẩm chỉ có phong cách khi nó đạt được
tính cấu trúc, tức có sự thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể.
Chính vì phong cách là một phạm trù chất lượng, nên trong nghệ thuật có được
phong cách là một hiện tượng rất quý. Và, vì thế, không phải tác giả nào cũng
có phong cách, thể loại nào cũng có phong cách và thời đại nào cũng có phong cách.
1.2. Một số vấn đề chung về lý
luận phê bình văn học
1.2.1. Phê bình văn học
Theo từ điển tiếng Việt, phê bình
văn học là sự phán đoán, bình phẩm, đánh giá và giải thích tác phẩm văn học, đồng
thời kèm theo việc phán đoán, bình luận, giải thích, đánh giá những hiện tượng
đời sống mà tác phẩm nói tới.
Những phán đoán phê bình xuất hiện
hầu như đồng thời với sự xuất hiện của văn học, ban đầu với tư cách là những ý kiến của các độc giả
thuộc tầng lớp quan trọng và hiểu biết nhất, trong số đó không ít người cũng
đồng thời là người sáng tác văn học. Trong những giai đoạn về sau, khi được
tách ra thành một công việc riêng, phê bình văn học vẫn mang một ứng dụng khá
khiêm tốn: đánh giá khái quát về các tác phẩm, giới thiệu tác phẩm với độc giả,
khích lệ hoặc chỉ trích tác giả. Với sự phát triển của văn học, những mục tiêu
và tính chất của phê bình văn học trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi bộ môn phải
được phân nhánh và đa dạng hóa.
Phê bình văn học là một môn khoa học về văn chương. Sáng
tác và phê bình đều là những hoạt động nghệ thuật mang tính sáng tạo nhưng là
những hoạt động với tư duy khác nhau, phương pháp khác nhau. Phê bình là một
loại hoạt động nghệ thuật có đặc điểm riêng, tính cách riêng, yêu cầu riêng
khác với hoạt động sáng tác. Điều quan trọng nhất của phê bình là sự phân tích,
lí giải để từ đó đánh giá, khen ngợi, hay phê phán nhằm thúc đẩy sự sáng tác
của văn học.
Quan hệ giữa phê bình và sáng tác là mối quan hệ biện
chứng. Hai hoạt động đó dựa vào nhau mà tồn tại, phát triển, nhưng không phụ
thuộc vào nhau. Cả hai đều là ý thức của thời đại. Điều kiện hoạt động của phê
bình là những sự kiện của thực tiễn sáng tác với những thành tựu và những vấn
đề của nó. Như Biêlinxki đã nói: “Phê
bình không phải phụ thuộc vào sáng tác, cả phê bình và sáng tác đều xuất phát
từ thời đại, từ đặc điểm của từng loại hình văn học, chỉ có điều, phê bình là ý
thức triết học của sáng tác”. Do đó người phê bình phải có sự am hiểu sâu
sắc những quy luật và đặc trưng của văn học, trang bị cho mình những tri thức
về khoa học xã hội, về văn hóa, lịch sử, nếu không thì khó có thể giúp gì thêm
cho sáng tạo và rồi cũng sẽ rơi vào công thức, vào những nhận định chủ quan,
phiến diện mà thôi.
Một nền phê bình chân chính là nền
phê bình đấu tranh tư tưởng để tìm ra chân lí. Vậy nên, để có một nền phê bình
tốt đòi hỏi phải có nhà phê bình tốt.
Đứng trước một tác phẩm, người phê bình phải xử lí thế
nào cho xứng đáng với công phu của người sáng tác. Xuất phát từ đặc trưng về
đối tượng chủ yếu của văn học, nhà văn phải phản ánh cuộc sống thế nào và đề
nghị cho con người những lẽ sống gì. Đó chính là điều mà người phê bình phải
quan tâm đến trước nhất và phải đủ trình độ để đánh giá cho sâu sắc và công
tâm.
Lịch sử cho thấy, một nền văn học phát triển mạnh mẽ, kết
tinh lại được ở một số cây bút lớn thì nền văn học ấy đã trưởng thành. Nền văn
học lớn và phát triển toàn diện là một nền văn học có những nhà văn lớn đồng
thời cũng có được những nhà phê bình lớn. Nền văn học phát triển, sự phân công
trong văn học đòi hỏi phải có những nhà lí luận, phê bình để tìm hiểu, đánh giá
nền văn học đó, nghiên cứu quy luật phát triển của nó, nghiên cứu những cây bút
tiêu biểu, xuất sắc của nền văn học ấy, của thời đại văn học ấy. Vì vậy, một
người làm thơ cũng có thể đồng thời là một nhà phê bình thơ.
1.2.2. Phê bình thơ
1.2.2.1. Phân biệt phê bình thơ và phê bình
văn xuôi
Phê bình cần chú ý đặc trưng của thể loại. Do vậy, bên cạnh
điểm chung giống nhau của công việc phê bình, lại có sự khác nhau khi phê
bình văn xuôi, thơ, hoặc kịch.
Phê bình thơ khác phê bình văn xuôi, ở chỗ nó ít được
nương tựa vào đối tượng miêu tả, vào cái gọi là đề tài. Với văn xuôi, đề tài có
vai trò quan trọng, quy định khá rõ nội dung phê bình.
Đề tài của văn xuôi là vô cùng tận, trải khắp không gian
và thời gian cuộc sống con người và không giống nhau. Chỉ riêng sự khác nhau
trong muôn mặt đề tài đã có thể quy định sự khác nhau trên các lĩnh vực mô tả
của văn xuôi.
Trong khi đó, đề tài trong thơ lại hẹp, lại thể hiện ở
một quy mô nhỏ, bởi đây chỉ là sự giống nhau hoặc khác nhau trong bấy nhiêu
tình cảm muôn thuở của con người. Thơ về cơ bản, và như lịch sử hiện diện của
nó, từ xưa đến nay, cả phương Đông và phương Tây, là những biểu hiện, những nhu
cầu bộc lộ của đời sống bên trong con người, là sức chứa và sắc thái của nội
tâm, là vui buồn, yêu ghét… nẩy ra trong quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với ngoại cảnh…
Tất nhiên, sự phong phú và khác biệt trong các trạng thái
tình cảm của con người vẫn là cả “một thế giới” cho thơ khai thác, bởi cuộc đời
và con người là cả một vũ trụ kỳ diệu và biến hoá không cùng. Chính vì không
phải chủ yếu là kết quả của sự quan sát, và trải rộng sự quan sát trong không
gian và thời gian như văn xuôi mà chỉ là sự chiêm nghiệm, đào sâu vào thế giới
bên trong con người, để có thơ, nên phê bình thơ nghiêng về một phương thức
tiếp cận khác: không phải là sự thức nhận; mà là cảm nhận. Không nghiêng về suy
tư (trừ thơ triết lý) mà là cảm xúc và rung động; không hướng về phía vĩ mô của
thế giới người mà thu hẹp vào những biểu hiện tinh vi, tế nhị của hồn người.
Bởi thơ là loại hình cho ta đi vào nội tâm một người để hiểu mọi người, và phê
bình thơ là tạo nên cái cầu nối cho mối giao cảm đó. Và do vậy mục tiêu và đối
tượng của sự nắm bắt trong phê bình thơ không phải là khách thể, là cái ngoại
giới được miêu tả, mà chính là tác giả, là chủ thể trữ tình của sự biểu hiện.
Phát hiện của phê bình thơ (tất nhiên đây là thơ trữ tình, chứ không phải là
các loại thơ khác) do vậy là phong cách, là giọng điệu. Một nhà thơ có giá trị
là một nhà thơ có phong cách. Một nền thơ lớn là một nền thơ có nhiều phong
cách. Chưa có phong cách thì chưa thể nói đến một nền thơ. Phát hiện ra giọng
điệu riêng, phong cách riêng – nó là cái tinh tuý, cái đặc sắc của mỗi nhà thơ,
để không lẫn với ai – đó là mục tiêu của phê bình thơ.
Không còn cái chung để mà tựa thì phải tựa vào chính
mình. Phê bình cũng vậy, phải xác định cho được tiêu chí hay – dở ở chính bản
thân mình và chính trong thơ. Nhưng dù có cô lập nó ra khỏi đời, thì thơ vẫn là
sản phẩm của chính con người – con người của cái thời mà nó hiện diện. Nếu thơ
đang trong một cuộc tìm, thì phê bình thơ, dẫu là đi sau hoặc đi trước, vẫn
phải sao cho hội được vào cuộc tìm kiếm đó.
Như vậy, nếu phê bình văn xuôi đang hướng sự chú ý vào
phương thức biểu hiện thay cho nội dung biểu hiện, thì phê bình thơ – sự bối
rối nằm ở cả hai: sau chữ phải là nghĩa, nhưng sau chữ còn là “bóng chữ”
1.2.2.2. Các dạng
thức phê bình thơ
Trước khi bàn sâu về tình hình phê bình văn học ở nước ta
hiện nay, chúng tôi muốn đề cập đến những vấn đề đã được thống nhất trong giới
nghiên cứu phê bình văn học. Đó là việc phân chia ba loại hình phê bình văn học
(tất nhiên mọi sự phân chia đều chỉ có tính chất tương đối): phê bình báo chí,
truyền thông (bao gồm các nhà báo và những người yêu văn học nói chung viết),
phê bình hàn lâm (bao gồm các giáo sư, các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp ở các
viện nghiên cứu, các trường đại học) và phê bình nghệ sĩ (bao gồm các nhà văn,
nhà thơ viết) . Do đó, có thể hình dung sự đa dạng và khác biệt có tính căn bản
trong bức tranh phê bình văn học của bất kỳ dân tộc nào. Nghĩa là có sự tiếp
nhận văn học theo từng cấp độ, phạm vi với quan điểm, trình độ đánh giá và phê
bình khác nhau ở từng tác phẩm văn học, từng hiện tượng văn học. Chưa kể đến
việc công bố các bài viết của từng loại phê bình đó trên các phương tiện nào,
dung lượng và cách tiếp cận ra sao cũng như tâm lý và cách quan tâm tiếp nhận của
từng loại người đọc phê bình văn học có sự khác nhau như thế nào. Trong đó,
cũng phải kể đến sự khác nhau của phê bình văn học vùng miền, địa phương và
trung ương, cũng như đẳng cấp cao trong cách tiếp cận các phương pháp lý thuyết
phê bình hoặc chỉ cảm nhận theo trình độ phổ thông.
Kiểu phê bình thứ nhất, phê bình báo chí.
Ở Việt Nam, phê bình văn học nói
chung thường chỉ được hiểu như là phê bình báo chí, còn phê bình học thuật thì
được hiểu như là nghiên cứu, một bộ môn của khoa học văn học. Thực ra, trong
khoa học văn học không có cái gọi là nghiên cứu hoặc là nghiên cứu văn học nhằm
chỉ chính cái mà ngày nay gọi là khoa học văn học, bao gồm cả lý luận văn học,
lịch sử văn học và phê bình văn học, hoặc là nó chỉ là một hệ thao tác mà bất
cứ khoa học nào, kể cả phê bình văn học, đều cần đến, như một công đoạn thiết
yếu, cho công việc của mình.
Phê bình báo chí có chức năng phát hiện cái đẹp. Nó đưa ra những
phán đoán thẩm mỹ về một tác phẩm, một sự kiện văn học. Nếu theo chức năng này
thì phê bình báo chí thuộc về phê bình giá trị chứ không phê
bình sự thật. Nhưng trên thực tế, nhất là ở Việt Nam, dưới áp lực của xã
hội học mác xít, người ta vẫn thấy đầy rẫy những sự quy chiếu về hiện thực. Phê
bình báo chítrước hết do các cây bút phụ trách chuyên mục “Đọc sách và phê
bình” trên các báo đảm trách, rồi các thầy giáo dạy văn ở đại học và phổ thông,
các nhà thơ, nhà văn thuận tay trái, hoặc các nhà phê bình tài tử. Phương pháp
phê bình của họ chủ yếu là dựa vào cảm nhận, ấn tượng, trực
giác hoặc nhận xét theo hệ giá trị thẩm mỹ hiện hành.
Phê bình báo chí, do chú trọng đến văn học đương đại, nên
dễ tạo ra đời sống xã hội của văn học. Nó là phản ứng tức thì, là tiếng nói kịp
thời của sáng tác văn chương. Một nền văn học không có tiếng nói của báo chí là
một nền văn học chết. Nhưng một nền văn học mà chỉ có tiếng nói của báo chí thì
cũng là một nền văn học chết, theo một kiểu khác. Nhà phê bình là người đọc
nhanh, đọc chéo tác phẩm, rồi phát hiện ra những cuốn sách hay, những tác phẩm
có vấn đề, “đáng đọc”, đưa ra một vài nhận xét định tính, hướng dẫn người đọc.
Như vậy, nhà phê bình đúng là “kẻ đọc giùm” (Thiếu Sơn) cho người khác. Nhờ
vậy, tiếng nói của phê bình trở nên có uy tín. Độc giả nói theo, nghĩ theo nhà
phê bình ngày càng đông: một công chúng được hình thành. Công
chúng lại tạo ra dư luận. Và khi dư luận đã tồn tại, nó cần
được nuôi dưỡng và hướng dẫn liên tục bằng những thông tin mới, ngày càng mới,
của phê bình. Tuy dư luận là con đẻ của phê bình, phụ thuộc vào phê bình,
nhưng, cùng với phê bình và công chúng, dư luận lại là một “thiết chế” văn học
có khả năng tác động mạnh mẽ không chỉ đối với tác phẩm, tác giả, mà cả đối với
phê bình.
Phê bình báo chí, do phải cung cấp kịp thời nhu cầu “nóng
sốt” và “đến hẹn lại lên” cho công chúng, nên không thể đi sâu vào tác phẩm. Nó
không có nhiệm vụ tìm kiếm nguồn gốc của cái đẹp mà nó phát hiện được ở tác
phẩm, nhất là không có nhiệm vụ lý giải tại sao như thế là đẹp. Bài phê bình,
vì thế, thường dừng lại ở cấp độ đọc sách, thậm chí điểm
sách. Một điều nữa, do gắn liền với một hoặc vài tờ báo cụ thể, lệ
thuộc vào mục đích, tôn chỉ của nó, phê bình báo chí đôi khi buộc phải nói thế
này chứ không nói thế kia.
Kiểu phê bình thứ hai, phê bình học thuật.
Phê bình học thuật tồn tại cùng lúc với phê bình báo chí. Nhưng khi yên bình,
nó ẩn dưới bề sâu, nó là mạch ngầm của đời sống văn học. Đến khi có biến động,
hệ giá trị thẩm mỹ hiện hành bị đảo lộn, hoặc giải thể, phê bình học thuật mới
nổi lên bình diện thứ nhất của đời sống văn học, cùng với phê bình báo chí lúc
này đang lúng túng, để lập lại trật tự bằng việc xây dựng một hệ giá
trị thẩm mỹ khác phù hợp hơn với tinh thần của một thời kỳ văn học mới
đang hoài thai.
So với phê bình báo chí, phê bình học thuật ít được ưa
chuộng hơn. Người đọc thông thường thì chê là quá nặng nề, kém thanh thoát, lại
khó hiểu bởi những thuật ngữ xa lạ. Nhà văn thì hoặc bực tức vì mình bị bỏ
quên, hoặc vì tác phẩm của họ bị “mổ xẻ” bởi các phương pháp khoa học. Chỉ một
số ít người nhìn vấn đề sâu hơn, có hứng thú học thuật, hoặc biết vượt qua thị
hiếu đọc thông thường để bận tâm đến hiện trạng thẩm mỹ hỗn độn, thì lại đặc
biệt hứng thú với phê bình học thuật. Đồng thời, với cách tiếp cận khoa học của
mình, nó miêu tả và lý giải tác phẩm văn học một cách chính xác hơn, sâu sắc
hơn, có lý luận hơn và, do đó, thuyết phục hơn. Và, để làm được điều đó, phê
bình học thuật phải chú ý đến các lý thuyết và phương pháp, nhất là lý thuyết
và phương pháp mới.
Tóm lại, với hầu hết các loại phê bình kể trên, thì phê
bình văn học của họ đã không còn phân biệt nổi với lý luận văn học nữa. Có lẽ
với bất cứ ngành nghề nào cũng vậy, sự phân biệt chỉ ở mức tương đối.
Phê bình học thuật, như vậy, đã thực hiện chức năng xây
dựng hệ giá trị thẩm mỹ. Đồng thời, nó luôn tìm kiếm, xây dựng, mở rộng, nâng
cao và hoàn thiện các điển phạm này. Cùng với thời gian, hệ giá trị thẩm mỹ
hiện hành càng trở nên ổn định, vững chắc và chuẩn mực. Đến một lúc nào đó, nó
lại trở thành khuôn vàng thước ngọc, thành chân lý độc tôn, bó trói một thực
tiễn văn chương sống động, luôn tiến về phía trước. Thế là hệ giá trị thẩm mỹ
mới mẻ ngày nào nay đã khô cứng, cũ kỹ và lâm vào khủng hoảng. Như mỹ học Thơ
Mới vào những năm sau 1945 đã trở nên cọc cạch với một thực thể thi ca mới mẻ,
đầy sức sống của thơ buổi đầu kháng chiến, nhất là thơ không vần Nguyễn Đình
Thi, nên cần phải có mỹ học mới, mỹ học của thơ hiện đại. Vì thế, cần phải xây
dựng hệ giá trị thẩm mỹ mới. Phê bình văn học lúc này lại phải dũng cảm phủ
định cái trật tự mỹ học hiện hành mà trước đây nó đã cố công tạo dựng, đồng
thời kiến thiết một trật tự thẩm mỹ khác. Để làm được điều đó, nó phải thay
đổi hệ hình (paradigme), tức tự mình phải đi trước đã. Ở đây,
có lẽ cần phải nói rõ thêm một điều là phủ định trong phê bình văn học không
phải là bảo nó sai, tiêu diệt nó, mà chỉ là xác định rằng hiện nay nó không còn
đủ lực để giữ vai trò chủ đạo nữa, hoặc trước đây tưởng nó là chân lý phổ quát
thì nay chỉ là cái đúng trường hợp. Bởi vậy, có thể nói, lịch sử phê bình văn
học là lịch sử của những khẳng định và phủ định các quy chuẩn thẩm mỹ.
Kiểu phê bình thứ ba, phê bình nghệ sĩ
Nói đến nghệ sĩ là nói đến một kiểu người đặc biệt,
người sáng tạo hay biểu diễn nghệ thuật như văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, ca sĩ... Họ
là những “người say”, “người điên” (Chế Lan Viên); là những
người “ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập
chững trên đường đời” và có thể “nhảy
xuống sông ôm bóng trăng mà chết” (Hoài Thanh); họ là người uống rượu với “thạch lan hương”, “ăn rau muống từ trong vỏ ốc, đánh bạc bằng thơ và khát khao kết bạn với
Hằng Nga” (Nguyễn Tuân); họ là người “Khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao); họ là
những người tôn thờ cái Đẹp và sáng tạo cái đẹp, giàu hình ảnh và có trí tưởng
tượng bay bổng. Họ là những ngườigiàu
cảm xúc, nhiều liên hệ lý thú về đời thơ, nghề thơ, kinh nghiệm sáng tác hoặc
đi sâu vào một khía cạnh của bài thơ là nét riêng thuộc phong cách phê bình
nghệ sĩ. Đọc những bài phê bình này có khi thấy hay hơn cả bài thơ.
Do đó có thể thấy, trong lĩnh vực phê bình văn học, phong cách nghệ sĩ là
lối viết phê bình đòi hỏi một sự xúc động tình cảm và một năng khiếu thẩm mỹ tinh tế. Đến
với phong cách phê bình này, người viết không chỉ cần có trí tuệ sắc sảo mà cần
cả tài năng văn chương nữa. Người viết theo phong cách này khám phá tác phẩm và
tác giả một cách trực tiếp, trình bày bằng cảm xúc chứ không theo hành trang lí
thuyết. Sức mạnh của phong cách nghệ sĩ là hành trang nghệ thuật. Cách viết này
rất khó, bởi lẽ viết lý luận phê bình văn học mà có chất văn thực ra cũng là
sáng tác văn học.
1.2.3. Sự đan xen các dạng thức phê bình
Cách phân loại như trên chỉ mang
tính tương đối, bởi thực tế không ít trường hợp có sự giao thoa giữa các phong
cách. Phong cách học đường và phong cách hàn lâm dễ lẫn vào nhau nếu bình thơ
theo hướng thi pháp học. Ở một số trường hợp, phong cách học đường gần gũi với
phong cách thưởng thức phổ thông khi bình thơ viết cho trẻ em. Trường hợp khác phong cách hàn lâm, phong cách báo chí
đan xen phong cách nghệ sĩ làm cho bài phê bình lúc thì khuôn mẫu, khắt khe,
khi lại tự do, phóng khoáng, lúc thì sâu sắc, kĩ càng, khi lại sơ sài, đơn
giản,...
Ở bất kỳ cấp độ nào, cái quan trọng mà
nhà phê bình cần đạt được để đưa ra phán xét là anh ta phải nhận biết giá trị
của một chức năng phê bình lớn hơn cái anh ta nhắm tới phê bình, chức năng đó
gọi là “lý giải” (interpretive). Cho dù từ lý giải có thể bị các nhà phê bình
khác thay thế bằng từ “miêu tả” (description) hay từ “diễn giải” (elucidation),
thì hầu hết các nhà phê bình đều đồng ý nhau về cái chính yếu nhất của công
việc phê bình là: miêu tả, giải thích và lý giải.
Mỗi trường phái, thể loại và cách thức
phê bình nghệ thuật nhắm đến những cách đánh giá và lý giải khác nhau. Nhưng dù
ở cách thức nào đi nữa, chúng ta cần nắm được hai ý tưởng nền tảng sau:
- Thứ nhất: Một nhà phê bình nghệ thuật
xuất sắc cần biết kết hợp những cách tiếp cận cũng như những phương pháp khác
nhau và bởi vậy anh cần phải tránh cái mà nhà triết học Dewey gọi là “sự giản
lược sai lầm” của phê bình. Để loại trừ sự quyến rũ thiên vị vào đó, nhà phê
bình phải biết chấp nhận một cái nhìn đa chiều cạnh và điều đó khiến anh được
tự do lựa chọn phương pháp của mình. Cái anh lựa chọn sẽ đáp ứng bao quát hơn
cả qui mô thể loại nghệ thuật mà anh xem xét.
- Thứ hai: Cần có được những điểm mốc
chính yếu thuộc phẩm chất phê bình mà nhà phê bình đem vào bài luận của mình.
Nói cách khác, phương pháp không thể thay thế nổi sự cần mẫn của trí năng cũng
như khả năng nhạy cảm của óc phán đoán.
TIỂU KẾT
Như vậy, với phần dẫn luận về phong cách học và lý luận
phê bình văn học chúng ta đã có cái nhìn khái quát về phong cách học và ứng
dụng của nó trong nghiên cứu phê bình cũng như cái nhìn chung nhất về sự nghiệp
phê bình thơ của hai tác giả, từ đó làm cơ sở, nền tảng cho quá trình đi sâu
nghiên cứu về những điểm gặp gỡ và khác biệt trong phê bình thơ của Mai Văn
Phấn và Inrasara từ góc nhìn phong cách học. Đem lại những khám phá, phát hiện
thú vị, đồng thời khẳng định thêm vị trí, vai trò của hai tác giả trong lĩnh
vực phê bình thơ nói riêng và trong tiến trình phát triển văn học nói chung.
CHƯƠNG 2
PHÊ BÌNH THƠ CỦA MAI VĂN PHẤN VÀ INRASARA
TỪ GÓC NHÌN PHONG CÁCH HỌC – NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ
Tìm hiểu về phê bình thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara
từ góc nhìn phong cách học chúng ta nhận ra những điểm gặp gỡ và khác biệt đầy
độc đáo của hai tác giả trong lĩnh vực phê bình. Phần này, chỉ xin tập trung
làm rõ những điểm gặp gỡ thú vị trong phê bình thơ của hai tác giả trên các
phương diện: phong cách, mục đích và ngôn ngữ phê bình.
2.1. Phong cách phê bình
Nhà văn Pháp Buy phông từng nói: “Phong cách ấy là con
người”. Nó hình thành từ thế giới quan, nhân sinh quan, chiều sâu và sự phong
phú của tâm hồn, của vốn sống, sở thích, cá tính cũng như biệt tài trong sử
dụng cách hình thức, phương tiện nghệ thuật của nhà văn. Từ đó có thể hiểu, một
nhà phê bình có phong cách trước hết phải bộc lộ sự sắc sảo của mình khi quyết
định lựa chọn tác giả, tác phẩm làm đối tượng phê bình. Sao cho qua tác giả,
tác phẩm ấy bật lên được những vấn đề, tư tưởng đáng bàn, có khả năng thu hút
sự chú ý của người đọc; đồng thời thể hiện được sự độc đáo, tài hoa, uyên bác
mang phong cách, sở trường và dấu ấn riêng của tác giả. Mai Văn Phấn và
Inrasara đã thực sự tạo được những dấu ấn về phong cách tài hoa ấy: Phong cách phê
bình nghệ sỹ và phong cách phê bình từ góc nhìn văn hóa.
2.1.1. Phong cách phê bình nghệ sĩ
Trước khi đến với phê bình, cả Mai Văn Phấn
và Inrrasara đều là những nhà thơ, những người nghệ sĩ với tâm hồn nhạy cảm và
giàu cảm xúc suy tư trước cuộc đời. Vậy nên khi đến với lĩnh vực phê bình, họ
đã có một sẵn một hành trang giàu có về ngôn ngữ, hình ảnh, sự tinh tế, tài
hoa, cảm xúc, trực giác nhạy cảm của người nghệ sĩ,… Cả hai tác giả đều cổ xúy
cho phong trào thơ cách tân hậu hiện đại, đi sâu vào sáng tạo của các nhà thơ
để chỉ ra những khám phá, phát hiện bất ngờ, những điểm độc sáng của từng bài
thơ, nhà thơ, giai đoạn, thời kì thơ, thậm chí là sự vận dụng kết hợp kiến thức
của nhiều lĩnh vực, khẳng định được tài năng và vốn hiểu biết phong phú, đa
dạng cũng như vốn kiến thức sâu rộng của các tác giả.
Ấn tượng đầu tiên khi
đến với phê bình thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara đó là những phát hiện tinh
tế, nhạy cảm của nghệ sĩ mà trước hết nó được thể hiện ngay trong cách đặt tiêu
đề cho những bài tiểu luận của mình. Chẳng hạn Mai Văn Phấn với một loạt những
tiêu đề ấn tượng: Thơ Giáng Vân – trong
suốt và tĩnh lặng, Cơn mưa ánh sáng trong thơ Lê Ngân Hằng, Mạch nước ngầm
trong thơ Đinh Thị Như Thúy, Thơ Nguyễn Ngọc Tư thắp ngọn lửa xanh, Giấc chiêm
bao trong thơ Nguyễn Đình Di, Ngõ nhà non lại màu rêu, … Hay trong tác phẩm
Inrasara với: Dư Thị Hoàn – tiếng thơ
hiện đại lạc lỏng giữa rừng thơ đương đại, Vi Thùy Linh – nỗi ồn ào cần thiết,
Lam Hạnh vượt qua mình để nhìn ra ngoài, Phan Huyền Thư như thể kẹt lại ở đường
biên, Đoàn Minh Châu sau chiêm nghiệm nỗi buồn… Với những nhan đề giàu cảm
xúc và sức gợi ấy đã tạo cho người đọc một mong muốn được nhanh chóng “mở cửa”
để bước vào khám phá vườn thơ đầy hương sắc gọi mời.
Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã được chứng kiến
rất nhiều định nghĩa và quan niệm về thơ. Lý giải về bản chất của thơ, các tác
giả nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng: "Thơ
là một cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu". Còn nhà thơ
Tố Hữu thì quan niệm: "Thơ là cái
nhụy của cuộc sống". Dưới cái nhìn cấu trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc
định nghĩa: "Thơ là cách tổ chức
ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy
nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này". Định nghĩa này của giáo sư Phan
Ngọc đã kế thừa được những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu
trong mấy chục năm qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu thơ hết sức
rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần tuý mà chủ yếu là hiện
tượng giao tiếp nghệ thuật.
Là một nhà phê bình đậm chất nghệ sĩ, Mai Văn Phấn Và
Inrasara đều ý thức được rằng một trong những thành công của công việc phê bình
thơ chính là phải phát hiện cho được những câu thơ hay, những ý thơ hay, những
chi tiết nghệ thuật bất ngờ, độc đáo. Đó chính là cái rung động mãnh liệt nhưng
không kém phần tinh tế và nhạy cảm mà người nghệ sĩ có được mình giúp cho công
việc phê bình được hấp dẫn và thuyết phục hơn.
Đến với Thơ Giáng
Vân trong suốt và tĩnh lặngtrong tập Phê bình – tiểu luận Không gian khác, Mai Văn Phấn đã như
đồng cảm với thi sĩ trong từng câu chữ. Phải là một người giàu cảm xúc, phải là
người dồng điệu tâm hồn, Mai Văn Phấn mới có những cảm nhận rõ ràng đến thế:
Tâm trạng cô đơn, lẻ loi thường xuất hiện trong thơ chị, không buồn bã, day
dứt, mà tự nhiên, tự tin như nó vốn có. Cầu đứng một mình với tôi
một mình/ Gió thổi với mây trời/ Mặt trăng với sóng nước (Giấc mơ). Hình ảnh “cây cầu” với “tôi”
đều một mình. Chữ “một mình” trong câu thơ đầu, như đã vô tình kéo
giãn khoảng cách giữa các thi ảnh, mở ra nhiều góc nhìn đơn lẻ khác khác,
từ gió, mây, mặt trăng, sóng… Cũng trong bài Giấc mơ có câu thơ cấu trúc
lạ Tôi đứng giữa cầu, gió thổi gió lay tôi. Ít khi thấy trong
thơ Giáng Vân có các điểm “giao tiếp” (ở bài thơ này: tôi… cầu… gió)
hội tụ vào một “tôi” như câu thơ trên. Nhân vật “tôi” đã làm cả chiếc cầu chòng
chành, chao đảo, nhưng không bị ngã vì chị đã đứng ở giữa cầu. Gió
trong câu thơ đã lay chị hay chị làm ra gió không biết nữa.
Với Giấc chiêm bao
trong thơ Nguyễn Đình Di, Mai Văn Phấn đã có những phám phá, phát hiện thú
vị đem lại cho người đọc những cảm xúc bất ngờ: “Sự chân thành của câu
thơ “Và sau đấy giấc ngủ của anh
cũng sâu” đã vượt qua mọi thủ pháp, thi pháp. Chữ “cũng sâu” được tác giả viết lặp lại chữ
“thật sâu” nằm ở ngay cuối câu thơ
trên. Thông thường khi viết, đây là những từ đồng âm cùng nghĩa mà nhà thơ cần
tránh dùng lại, bởi bạn đọc sẽ cho là tác giả bí từ. Nhưng trong trường hợp
này, nhà thơ Nguyễn Đình Di đã cố ý dùng lại một chữ mà ông vừa dùng. Sự lặp
lại này phù hợp với chuyển động “chậm dần đều” của giấc ngủ. Nó giống như một
viên sỏi đang rơi vào miệng giếng, rồi liệng dần xuống đáy sâu. Nếu không có
câu thơ này, cả bài thơ “Nói hộ bàn tay chai” sẽ đưa người đọc rơi vào cảm giác
nhàm chán, cũ mòn. Câu thơ độc đáo trên có thể ví như cái “huyệt” trên “cơ thể”
thơ đang ủ rũ, ngái ngủ…, bất ngờ được tác giả “bấm” vào thật đúng lúc, làm
“toàn thân” bài thơ trở nên ấm nóng và vận động hoàn toàn khỏe mạnh”.
Hay trong Thức với
miền hương, Mai Văn Phấn lại cảm nhận nhẹ nhàng mà tình tứ, sâu lắng mà trữ
tình, đằm thắm mà yêu thương: “Miền hương” của Nguyễn Đình Di vẫn thức dậy khi
chiều đã muộn. Như mỗi khi thủy triều đã lùi xa để lại bãi bờ trải dài thoai
thoải, thi sỹ đã đặt từng bước chân mình lên đó, in rõ dấu vết, lún sâu xuống
cát: “Mặt trời vùi vào ngực em tĩnh lặng” (Khoảng vắng). Đây là câu thơ
tình hay và hiếm hoi trong tập thơ này. Nó đem đến cho bạn đọc sự nồng ấm, mặn
mà, ngỡ như được nhấp chén trà thơm hương vị đất đai bên hiên một căn nhà vắng,
hay trong góc một khu vườn yên tĩnh chốn thôn dã.
Tuy nhiên, dù đậm chất nghệ sĩ như thế nhưng phê bình thơ
của Mai Văn Phấn và Inrasara không đơn thuần chỉ là trực giác, ấn tượng. Cùng
với sự kết hợp với phê bình học thuật, sự đan xen của các dạng thức phê bình,
cả hai tác giả đã thể hiện được khă năng và bản lĩnh của mình trong lĩnh vực
phê bình thơ.
Bằng những liên tưởng phong phú và những khám phá, phát
hiện bất ngờ, Mai Văn Phấn đã khẳng định hơn nữa tài năng và trí tuệ của mình.
Bởi bên cạnh những khám phá, phát hiện đầy thú vị ấy là sự am hiểu về nhiều
lĩnh vực, nhiều ngành nghề mà nếu không có trình độ, kiến thức thì đọc để hiểu
đã khó huống gì viết ra cho người khác hiểu lại càng khó hơn.
Am hiểu kiến thức về lĩnh vực mình nghiên cứu, tất yếu,
Mai Văn Phấn còn thể hiện kiến thức sâu rộng của mình trên nhiều lĩnh vực: văn
học, toán học, vật lí, âm nhạc, hội họa, điện ảnh. Chỉ trong bài “Thơ Nguyễn Lương Ngọc, những cách tân khởi
đầu, chúng ta đã cảm nhận được sự tài hoa, uyên bác đó: “Nếu thiết kế không
gian trong tập thơ “Từ nước” có thể ví với hình học phẳng, thì một số bài thơ
trong tập thơ “Ngày sinh lại” đã tạo cho bạn đọc cảm giác về hình học không
gian. Những hình ảnh trong đó thường đứt đoạn, cắt nhỏ, biệt lập... để ráp nối
lại trong không gian trừu tượng với nhiều góc nhìn từ nhiều hướng. Nhà thơ
không quan sát đối tượng ở một góc cố định mà đồng thời phân chia thành nhiều
mặt khác nhau, tạo những liên tưởng phức hợp, cho bạn đọc cảm nhận như đang xem
một bức tranh lập thể: Tôi xanh da trời/ Em tôi thì trắng/ Hai anh em
tươi/ Sương dâng ngang người (Tiên cảm).
Một đoạn khác, anh viết: Nếu trong tranh lập thể, các bề mặt của hình họa, mặt phẳng giao nhau
không theo quy tắc phối cảnh, làm cho người xem nhận ra chiều sâu của bức
tranh, thì trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, những chuyển động của hình ảnh thường
đứt quãng, đột ngột, mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ, gợi nhiều chiều kích của
cảm xúc, mở thêm những biên độ tưởng tượng phong phú và mới lạ.
Cách phê bình thẳng thắn nhưng không kém phần dí dỏm và
tinh tế: Bên cạnh một số bài thơ trong
tập thơ “Lời trong lời” quy tụ tài năng, điểm hội tụ của lộ trình cách tân thi
pháp của nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc, ta gặp khá nhiều bài thơ còn nông cạn ý
tưởng, hời hợt, mờ nhạt cảm xúc. Có cả những bài như ông cố tình buông lỏng dây
cương cho ngựa quay về đường cũ, có thể điểm tên như: “Nhịp nhàng”, “Vào
hạ”, “Một vòng Hà Nội”, “Quanh quẩn”, “Dịu dàng ở nguồn suối”, “Tiếng yêu”,
“Trong tinh mơ Cam Ranh”, “Thao thức cùng Phan Thiết”, “Sóng lăn tăn bình
minh”... Đọc những bài thơ này, tôi liên tưởng nhà thơ giống như một phi công,
khi lấy được độ cao cho máy bay thì ông đã cài tự động hệ thống điều khiển. Có
lúc ngỡ ông như còn lơ là ngồi uống cafe, rồi nghĩ lan man mà ít chú ý tới
đường bay có gặp nguy hiểm hay không...
Và Mai Văn Phấn khẳng định, phê bình cũng chính là cách
để rút ra những bài học, những chiêm nghiệm và hướng đi cho mình trong sáng tác: Khi xếp những tập thơ của Nguyễn
Lương Ngọc cạnh nhau, “Từ nước” - “Ngày sinh lại” - “Lời trong lời”, tôi
nhận ra những cột mốc của một hành trình, một lý tưởng thi ca xuyên suốt: sáng
tạo chính là sự lột xác, hoài thai, sự tái sinh...
Đồng ý tưởng và quan niệm đó của Mai Văn Phấn, Inrasara
cũng đã khẳng định được sự chắc tay của mình trong công việc không ít truân
chuyên mà đầy duyên nợ này như Phan Ngọc từng nói: Với mỗi tác phẩm văn học, giá trị, sức sống trường tồn, tác động của nó
đến đời sống như thế nào phụ thuộc một phần quan trọng vào người phê bình,
nghiên cứu. Vì thế, bên cạnh sự nhiệt tình, công tâm, khả năng cảm thụ... còn
đòi hỏi người làm phê bình, nghiên cứu văn học có kiến thức chuyên môn, phương
pháp phù hợp.
Đến với thơ của Du Nguyên trong Tiệm tiến mà vẫn quyết liệt, Inrasara cảm nhận: Nỗi cô đơn ngoại
nhập, không là của mình. Nó cần bị phân hủy. Tôi phải tiêu hủy nó. Làm thế nào?
– “Bào ngọt tâm”, Du Nguyên nghĩ thế. Và thi sĩ này đã quyết làm thế.
Tôi
nhặt lọn tóc đen cuối cùng tết bằng kỉ niệm
Và những khuôn mặt đêm lượn về trên
phố
Cùng mùa thu vầng trăng hình như
khuyết
Gửi vào số máy 09…015
“Tn nhắn gửi tới số 09…015 chưa thực
biện được.
(Bào
gọt tâm) [19,tr.146]
Hay đến với Vũ Thiên Kiều, trong Chuyển một giọng thơ Inrasara đã phát hiện: Sau tháng ngày dài bức
bối và nung nẫu của chờ và nhớ, với một
nắm đạm thương rên rẩm nhớ/ ngày rộp đói những ngọn môi hỉ xả. Khi “ngọn
thức sáng” và “lụt gõ cửa”, ta đưa nhau về nguyên thủy loài người – như một ca
từ nhạc sến xưa, thi sĩ hết còn ngại ngần lột tả và phơi bày mọi góc cạnh của
hành cử giao hoan. “Anh múc tưới em, mũi em ngạt/ dị ứng mùi xa anh”. “Chạm
nhau giữa vùng nước xoáy/ nở mắt suối/ ngọt hụt hơi em” (Đố những ngọn môi, NXB
Hội Nhà văn, 2014). [19,tr.122]
Một phát hiện khác của Inrasara khi đọc thơ Nguyễn Quang
Thiều: Nguyễn Quang Thiều ngược lại, được cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở
thế thượng phong, anh biết tận dụng cơ hội khuếch trương tối đa giọng thơ tìm
thấy. Nghĩa là bên cạnh tài năng, thơ Nguyễn Quang Thiều nhận đủ đầy yếu tố
thuận lợi khác. Đồng tình hay không, thơ anh vẫn có hấp lực nhất định, tạo ảnh
hưởng lan tỏa lên thế hệ thơ trẻ khu vực phía Bắc”. [18,tr.196]
Theo Inrasara, chỉ vài năm trở lại đây, bằng thủ pháp vắt
dòng, bằng cố ý tạo nhịp trúc trắc , nhịp chỏi, các nhà thơ trẻ đã làm mới cái
mới của thơ tự do: một đóng góp quan trọng vào cách tân nhịp điệu thơ Việt:
Nằm
nghiêng lạnh
hơi lạnh
cũ. Ngoài đường khô tiếng ngáy
Nằm
nghiêng. Mùa đông
Nằm
nghiêng trên thảm gió mùa.
(Phan Huyền Thư, Nằm
nghiêng, NXB Hội nhà văn, 2002)
Hay:
Rốt
cuộc
Người
đàn ông luôn bị chính cái đầu mình lừa dối
Không
gì ngăn cản không gì thôi thúc
Người
đàn ông bước theo sau dòng chảy cần mẫn thu lượm bóng cái đầu của chính mình và
trả lời thay cho cái đầu về những điều chưa bao giờ cái đầu tự hỏi
Trong
khoảnh khắc ấy.
(Trần Tiến Dũng, Hiện,
NXB Thanh niên, 2000)
Một lần nữa có thể khẳng địnhcông tác phê bình không phải
là chỉ của riêng những người làm phê bình. Bất cứ ai yêu thơ, tâm huyết với thơ,
thấu cảm cùng tác giả đều có thể bày tỏ chính kiến của mình. Phê bình thơ có
thể xem là quá trình đồng sáng tạo. Nhưng có điều, những nhà thơ làm phê bình
thơ, những nhà phê bình theo phong cách nghệ sĩ sẽ có những lợi thế nhất định
không dễ mấy ai có được. Sự nhạy cảm trong phát hiện,sự tinh tế trong nhận
thức, sự phong phú trong cảm xúc, sự kịp thời trong nắm bắt xu thế chung của
thời đại,… Tất cả đó đã đem lại sức hấp dẫn và thuyết phục rất riêng cho phê
bình thơ của Mai văn phấn và Inrasara.
2.1.2. Phong cách phê bình đậm màu sắc văn
hóa.
M. Bakhtin – nhà nghiên cứu triết học, văn học và các
khoa học nhân văn – cho rằng: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của
văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá một
thời đại trong đó nó tồn tại. Không được tách nó khỏi các bộ phận khác của văn
hoá” [3, tr.157]. Bởi vậy, không thể phủ nhận rằng giữa văn hoá và văn học có
mối quan hệ gắn bó mật thiết. Đó vừa là cơ sở lí luận vừa là cơ sở thực tiễn
về mối quan hệ giữa văn hoá và văn học.
Phê bình văn học từ góc nhìn văn hoá là lựa chọn khai
thác các giá trị, các yếu tố văn hoá bản sắc được thể hiện trong văn học, trong
đó có những giá trị đặc thù của từng vùng miền, của từng giai đoạn văn hoá,
những giá trị tinh hoa trong đời sống, trong những mối quan hệ của con người
với tự nhiên và xã hội,… Những thành tố văn hoá cụ thể biểu hiện các giá trị
trên có thể là phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, nghệ thuật truyền thống
hay ngôn ngữ, tính cách con người,…
Với những trải nghiệm, sáng tạo của
một nhà thơ đồng thời cũng là một nhà phê bình, Mai Văn Phấn đã thâm nhập vào
thế giới của các nhà thơ khác, giải mã cách tạo lập không gian, kết nối điểm
nhìn của họ. Tác giả đã tinh tế khi nhận ra, Dương Kiều Minh, “mang hơi xuân từ
những cánh đồng”, Nguyễn Lương Ngọc và những cách tân khởi đầu, lộ trình cách
tân của Nguyễn Quang Thiều, không gian xa trong thơ Trần Tiến Dũng, “ngọn lửa
xanh” trong thơ Nguyễn Ngọc Tư… Đặc biệt, Mai Văn Phấn đã dành sự ưu ái cho
Gjekë Marinaj (nhà thơ Hoa Kỳ gốc An-ba-ni), Müesser Yeniay (nhà thơ Thổ Nhĩ
Kỳ), Rati Saxena (nhà thơ Ấn Độ) bởi đây là những thi sĩ tiêu biểu cho khuynh
hướng thơ ca hiện đại trên thế giới. Nếu Gjekë Marinaj vừa mang màu
sắc hiện đại, có dấu ấn của những khuynh hướng tiền phong mà vẫn đậm hơi thở
truyền thống An-ba-ni, thì Müesser Yeniay lại là một tâm hồn Thổ Nhĩ
Kỳ đầy kiêu hãnh, một Rati Saxena với những bài thơ làm hiện hình nền
văn hóa Ấn Độ thâm trầm, sâu xa mà kỳ vĩ… (Từ
những “Không gian khác”, Thanh tâm). Từ đó Mai Văn Phấn luận giải về mối
quan hệ giữa người đọc và đổi mới thơ, cũng như với thị hiếu thẩm mỹ của công
chúng. Thơ cần đổi mới và người đọc cũng cần thay đổi để có thể tiếp nhận các
giá trị mới. Nếu sáng tác là hành trình vượt thoát, phủ định những cái đã qua,
thì việc đọc cũng tương tự như thế, người đọc đòi hỏi cần có những tác phẩm
hay, mới lạ. Đứng từ góc độ lý luận, có thể thấy Mai Văn Phấn đã chạm đến những
vấn đề căn bản của lý thuyết tiếp nhận, về người đọc, về bản chất của văn bản,
ngôn ngữ và tác phẩm văn chương.
Chẳng hạn trong bài Nơi tụ hội ánh sáng, Mai Văn Phấn đã viết: Tập thơ “Cánh
trăng” của Đinh Trần Phương đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm thơ Việt
đương đại. Nó khước từ sự cô tịch, trầm mặc, bi ai trong thơ haiku cổ điển để
đến với sự thanh thoát, nhẹ nhàng, hiện đại. Đặc biệt, nó không cố ý ghìm nén
biểu lộ cảm xúc mà chủ ý biểu đạt sự lãng mạn, tươi non, mở cho bạn đọc một thế giới thơ mới mẻ, trẻ trung, tràn đầy ánh
sáng. Xin trích đoạn trong Lời kết tập thơ của Đinh Trần Phương, với tôi, đây
là bài thơ văn xuôi khơi mở và giàu phức điệu, là độ mở của cánh cửa xoay, độ
tương phản sáng tối của màn hình để những bài thơ trong “Cánh trăng” được sáng ý, rõ nét hơn. Tôi trở về nhà, đến
ngồi với ông bà nhìn ra cửa sổ. Phía trước có một cái cây tán rộng. Tôi hỏi,
ông bảo đó là cây hoàng quyên. Một con chim hoàng quyên bay qua bay lại rất vui
vẻ. Tôi đoán con chim là linh hồn của cái cây kia, hoặc cũng có thể ngược lại,
cái cây là linh hồn của con chim.
Đến với phê bình thơ của Mai Văn
Phấn, cảm giác như bắt gặp một người với hai nét tính cách, một là gương mặt
dịu dàng, thanh mát của đồng quê; một là gương mặt của nhà hiền triết đầy suy
tư, bí ẩn. Khi nhận xét về thơ Nguyễn Lương Ngọc, Mai Văn Phấn viết: “Trong tập
thơ đầu tay của Nguyễn Lương Ngọc, bạn đọc thấy được nỗ lực và sức bền của một
mầm cây vừa bật lên trong mùa đông khắc nghiệt” (Không gian khác, tr.29). Hay
trong một đoạn khác: “Cả mặt đất và khoảng không trong câu thơ như vừa chuyển
động, vừa khép cánh đậu xuống. Nhà thơ đã bất ngờ đưa bạn đọc đến một bến đỗ
trừu tượng, nhà ga của những chuyến bay của vạn vật. Mọi người đang chuyển
động, cả những ai đọc đoạn thơ này cũng ngỡ như vừa “khép cánh” đậu xuống sau
đường bay bí ẩn của riêng mình, để rồi lại bình tĩnh sống, bình tĩnh chiêm
nghiệm khi biết Bí mật chuyến bay cánh
giấu đi rồi”. [26, tr.34].
Mai Văn Phấn từng tâm sự “Thơ ca đã
dạy tôi làm người. Chính tác phẩm của tôi đã quay lại dạy tôi tất cả”. Niềm
khao khát của Mai Văn Phấn là tìm được một giọng thơ hiện đại thuần Việt chứ
không “sa lầy” trong các quan niệm cũ hay các trường phái mà thơ ca nhân loại
đã đi qua.
Cũng quan tâm đến thế hệ các nhà thơ
cách tân – hậu hiện đại, nhưng trên hết, trước khi xuất hiện với tư cách là nhà
thơ, nhà nghiên cứu, phê bình thì Inrasara là nhà nghiên cứu và sưu tầm văn hóa
– văn học Chăm. Tên tuổi của Inrasara không chỉ gắn liền với quá trình đổi mới,
cách tân thơ Việt sau 1975, mà còn gắn liền với công lao phục hưng những giá
trị quý báu của dân tộc Chăm, đưa văn hóa Chăm hòa nhập với đời sống hiện đại,
làm phong phú thêm nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc dân tộc. Đó cũng chính là
điều làm nên cá tính táo bạo, nổi bật của Inrasara trong hành trình sáng tạo
của mình.
Sinh ra tại làng Chăm Chakleng – tỉnh Ninh Thuận, được
nuôi dưỡng bởi bầu sữa Chăm nên có thể hiểu vì sao xuyên suốt trong sáng tác
của Inrasara là mạch cảm hứng bất tận về con người Chăm, số phận Chăm, văn hóa
Chăm, và cả những bước chuyển mình đầy vất vả, nhọc nhằn của xã hội Chăm nhỏ bé
trong cơn lốc toàn cầu hóa. Có lẽ không phải chỉ Inrasara mới yêu mến văn hoá
Chăm, mà văn hoá Chăm đã chọn Inrasara từ tiền kiếp.
Inrasara “có một tập thơ sáng tác bằng tiếng Chăm và một
bộ sưu tập văn học cổ điển Chăm” từ hồi còn đi học. Năm 1975 Sara khởi thảo Từ
điển Việt - Chăm. Năm 1992, anh hoàn thành bộ sách Văn học Chăm. Năm 1984 biên
soạn Từ vựng học tiếng Chăm. Năm 1994, viết xong Văn học Chăm I- Khái luận. Năm
1995, in Văn học dân gian Chăm. Sau cuốn Văn học Chăm II- Trường ca (1995),
Inrasara công bố tập tiểu luận Các vấn đề Văn hoá xã hội Chăm (1999). Năm 2003,
Inrasara cho in cuốn Văn hoá xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại… Càng ngày
công trình của Inrasa càngdày
dặn và càng chứng tỏ được bút lực dồi dào của tác giả. Nói đến Inrasara có thể
hình dung về một “vùng Chăm” cổ kính…
Sáng tác và nghiên cứu ở Inrasara luôn song hành với
nhau. Có thể nói chúng đã hoà vào nhau, chuyển hoá cho nhau. Cảm hứng sáng tác
thôi thúc Inrasara sưu tầm, nghiên cứu. Công việc nghiên cứu văn hoá Chăm ở
Sara đơm hoa rồi kết thành những trái thơ ngọt ngào.
Inrasara từng tâm sự: Bên cạnh việc sưu tầm, nghiên cứu,
“tôi phải nhìn sông Lu từ một chiều kích khác, đến với sông Lu bằng những bước
đi khác”. Nàng thơ hiểu tâm nguyện ấy của Inrasara nên xuất hiện kịp thời. Ả
thơ tự nguyện thực hiện chức năng mang chở văn hoá. Thơ Inrasara kết đọng vẻ
đẹp của văn hoá Chăm. Thơ của Inrasara biểu hiện cái nhìn đầy suy tư về con
người Chăm, tâm tính Chăm. Có một “vườn Chăm” trong thơ Inrasara.(Trần Thiện
Khanh - Inrasara nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, Tạp chí Sông Hương – số
247).
Và để nhập lưu văn chương Việt Nam đương đại, các cây bút
Chăm không thể chối từ phương tiện diễn đạt bằng tiếng Việt. Tháp nắng của
Inrasara xuất bản năm 1996 được xem là một cách khởi động, nhưng chỉ khi đặc
san Tagalau ra đời năm 2000, các cây bút người Chăm viết tiếng Việt mới nhập
cuộc thực sự. Hàng loạt tên tuổi xuất hiện và tìm được giọng điệu riêng. Trên
nền bản sắc cũ. Họ biết tiếp nhận các trào lưu văn chương mới, các thủ pháp
mới, “lai ghép” để tạo nên bản sắc mới.[17, tr. 68]
Không ngừng nhận diện và khám phá, phát hiện những cái
hay, cái mới, cái độc đáo của nghệ thuật, Inrasara miệt mài nhưng không kém
phần khắt khe trên hành trình nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật của mình. Để
rồi cũng có lúc Inrasara vỡ òa hạnh phúc khi phát hiện ra những bước chuyển
đáng trân trọng của nghệ thuật: Hội nhập cùng dòng chảy của văn chương thế
giới, khi các thủ pháp ấy không còn đáp ứng trúng nhịp cảm thức thời đại, không
ít nhà thơ Chăm đã biết vận dụng các thủ pháp hậu hiện đại vào các sáng tác của
mình. Trộn lẫn ngôn từ và hình ảnh có mặt trên vi tính để làm thành thơ thị
giác, cắt dán hay giễu nhại. Trần Wũ Khang của “Nỗi niềm phê bình” là một:
Có lẽ
những giọt nước mắt đã khóc vào khẩu hiệu
vào
trăn trở của nỗi niềm phê bình
là
những giọt nước mắt phim bộ
có lẽ
Từ
đại hội năm ngoái khóc
sang
tập áp cuối
năm
nay
(Và
để làm gì, thi sĩ...?)
Đến với tiểu luận – phê bình của Inrasara, chúng ta luôn
cảm nhận một tâm hồn luôn trĩu nặng nỗi niềm suy tư, trắc ẩn. Là khát khao phục
dựng nền văn hóa dân tộc Chăm, là mong mỏi đưa văn hóa Chăm hòa nhập vào đời
sống hiện đại, làm phong phú thêm nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong niềm tự hào
của Inrasara khi nhìn về ba tác phẩm văn học Chăm ấn tượng: Mỗi tác phẩm nghệ
thuật lớn thật sự hầu như chỉ xảy đến một lần, như thể tạo hóa đúc ra cái khuôn
cho riêng nó rồi đập vỡ khuôn đi. Nên tất cả những tác phẩm bắt chước nó đều là
thứ phẩm. Một Ariya Bini – Cam, Ariya Glơng Anak, Pauh Catwai hay Ariya Nau Ikak
không kéo lê dấu vết các sáng tác có trước nó. Nó là độc sáng và độc nhất.
[...] Ba tác phẩm như là ba ngọn tháp đứng biệt lập trong văn học dân tộc.
[...] Và dù đó là các tác phẩm văn chương nhưng chúng cho ta một hiểu biết sâu
rộng về nhiều lĩnh vực. Đọc tác phẩm, người đọc luôn có cảm giác các tác giả
phải là những đại trí thức hàng đầu của Chăm lúc đó. ...[17, tr.88]. Thậm chí Inrasara còn tin tưởng rằng “Nếu hậu hiện
đại trang bị cho nhà văn Chăm cảm thức mới, thì toàn cầu hóa cung ứng cho họ
mọi phương tiện để hành động. Họ có thể “nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện
đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại” (Hoàng Ngọc Tuấn – 2002) [17, tr.69].
Táo bạo là thế, quyết liệt là thế nhưng cũng có lúc đó
Inrasara lại trăn trở, suy tư: “...Về kĩ thuật thơ, thơ Việt Nam của thế hệ hậu
hiện đại mới chưa có gì nổi bật. Nhưng chính thái độ thơ của họ, nhất là tinh
thần toát ra từ thơ họ nói lên tất cả. Đó là thứ tinh thần mở - trọn vẹn, toàn triệt, sự vô ngại trong và với thế
giới hiện tại. Thơ họ là văn bản sống hiện hữu bừa bộn và trộn lẫn trong thế
giới đa tạp, chúng đòi hỏi sự tương tác nhiều chiều. Và chỉ qua tương tác,
chúng mới tồn tại đúng như chúng là. Chúng cần một lối tiếp cận mới: Phê bình
mở...” (Inrasara, Thơ Việt, thế hệ hậu hiện đại mới, Tạp chí Sông Hương
– số 330, 2016)
Xin mượn lời tâm sự của Inrasara để một lần nữa khẳng định vai trò và sứ mệnh của những người
làm công tác nghiên cứu, phê bình: Thời đại khác, quan điểm thơ cũng khác. Các
nhà thơ đương đại không viết khi đã xác định con đường, hay khi đã “tìm thấy
mình”, mà vừa viết vừa tự khám phá chính mình. Khám phá mình ngay trong hành
động viết và qua quá trình viết. Chuyển động và thay đổi. Do đó, để bắt kịp với
sự chuyển mình, của văn chương đương đại, các nhà thơ thời kì Đổi mới, thời kì
hậu hiện đại cũng phải không ngừng tự làm mới mình, thay đổi cả tư duy thẩm mĩ,
thậm chí mỗi nhà thơ đồng thời cũng là những nhà phê bình văn học, phê bình để
tự cảnh tỉnh, phê bình để nhận đường, phê bình để sáng tạo...
Để làm nên những thành công và góp thêm diện mạo cho phê
bình văn học, Mai Văn Phấn và Inrasara đã không ngừng nỗ lực học hỏi, tìm tòi
và sáng tạo. Mai Văn Phấn và Inrasara đều là những người đọc nhiều, hiểu nhiều
và có trường văn hóa rất mạnh. Cả hai tác giả không chỉ giàu cảm xúc, nhạy cảm,
tinh tế trong nhận thức mà còn có vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa của nhiều
vùng miền, nhiều ngôn ngữ. Đó là sự kết hợp của văn hóa truyền thống và hiện
đại, của văn hóa Chăm, hay cả sự kết hợp của văn hóa phương Đông và phương Tây.
Một trong những điều làm nên thành công đó là cả hai tác giả đều rất giỏi về
ngoại ngữ, đi nhiều nơi, khám phá nhiều điều, học hỏi thêm nhiều kiến thức, từ
đó cả hai không chỉ mở rộng văn học Việt Nam ra tầm quốc tế, được bạn bè quốc
tế quan tâm mà thậm chí còn đưa văn học Việt Nam hội nhập với thế giới.
2.2. Mục đích phê bình
Nhà phê bình trước hết là một cá thể, một người đọc thông
thường sau nữa mới là một người đọc trên cấp độ tinh anh.Trong quan hệ với nhà
thơ, nhà phê bình giống như một thám tử. Từ tham vọng khai mở thế giới đóng kín
của thi sĩ đến hy vọng gặp gỡ và giao tiếp – trong tư cách kẻ khác, nhà phê
bình bắt đầu hành trình của mình.
Phê bình trong ý nghĩa sâu xa nhất của nó là quá trình
tìm kiếm chính mình. Nhà thơ và tác phẩm chỉ là đối tượng của phê bình ở tầng
thứ nhất. Kể từ lần gặp gỡ đó, nhà thơ và tác phẩm như một cảm hứng, một nguyên
cớ, gợi dẫn, thách thức, thôi thúc chủ thể phê bình dấn bước đi tìm bản lai
diện mục của mình. Như thế, có thể nói, phê bình làm hiện lên chân dung nhà phê
bình bên cạnh chân dung nghệ thuật của nhà thơ. Trên thực tế, dù có nhiều nhà
thơ và nhiều nhà phê bình, nhưng hiện diện như là một tiếng nói, một giá trị,
một chân dung trong đời sống văn chương nghệ thuật lại không nhiều.
Tìm hiểu về phê bình thơ của Mai Văn Phấn và Inrasara từ
góc nhìn phong cách học, người đọc nhận thấy ở hai tác giả có những điểm tương
đồng khá bất ngờ, thú vị, và một trong những điểm tương đồng đầu tiên đó chính
là mục đích phê bình, được thể hiện trên các phương diện sau.
2.2.1. Nhập cuộc về hướng mở
Mai Văn Phấn không có ý định viết phê bình. Từ những năm
90 của thế kỷ trước, tác giả chỉ tập trung sự đam mê vào lộ trình đổi mới thi
pháp theo khuynh hướng cách tân đã tự hoạch định cho mình. Nhưng cũng từ đó thơ
cách tân đã “thành một vấn đề” khiến nhiều người quan tâm, thậm chí tổ chức cả
những hội thảo chuyên ngành về đổi mới thi pháp. Là người sáng tác, tiếp nhận
nhiều luồng ý kiến khác nhau cũng như cả những tranh cãi đa chiều về thơ ca
truyền thống và cách tân, sự lệch pha giữa nhà thơ và bạn đọc, Mai Văn Phấn dần
hình thành ý thức phản tỉnh và luôn đặt câu hỏi cho mình, rằng thơ ca Việt Nam
đang ở vị trí nào trong xu hướng hội nhập toàn cầu? Câu hỏi này luôn thôi thúc
tác giả cho đến tập thơ thứ 6 “Vách nước” (năm 2003), tác giả quyết định viết
tiểu luận, phê bình không ngoài mục đích bày tỏ chính kiến về một khuynh hướng
thơ, tìm ra sự khác biệt căn bản của thế hệ Đổi mới với thế hệ trước.
Hỏi về phản ứng của các nhà thơ và chung quanh việc phê
bình thơ, Mai Văn Phấn tâm sự: “Trong số 24 tác giả tôi giới thiệu, có người
tôi quen biết, có người ở mức thân, nhưng cũng có người tôi chưa biết mặt. Song
khi phê bình, tôi đều viết một cách… bí mật; nghĩa là chẳng ai biết tôi sẽ viết
về họ thế nào? Chỉ đến khi xuất hiện trên” giấy trắng mực đen”, mọi người mới
bất ngờ. Có người nói vui rằng tôi mê mải với người này mà quên mất người kia.
Có người nói tôi “bình” như… nhập đồng, “phê” hơi ít nhưng trúng. Nhưng
được nhất là chưa có ai gọi tôi là nhà phê bình cả. Tôi thấy rất đúng, vì nhà
phê bình thì phải trau dồi nhiều lắm. Tôi tuy phải đọc nhiều, đọc kỹ, thậm chí
phải “đào bới” tư liệu thì cũng chỉ là trải nghiệm, phục dựng và lý giải không
gian thơ của các nhà thơ Đổi mới theo cách nhìn và quan niệm thẩm mỹ của riêng
tôi. Ví von thì tôi tự đánh chìa khóa để mở cửa ngôi nhà tìm ra ánh sáng riêng của
mỗi nhà thơ mà tôi biết”.
Cũng như Mai Văn Phấn, Inrasara đã thể hiện rất rõ mục
đích phê bình của mình. Trong một bài trả lời phỏng vấn, Inrasara đã nói: “Tôi sáng tác (thơ, tiểu thuyết) và nghiên
cứu văn chương – ngôn ngữ Chăm là chính, làm phê bình chỉ là thế buộc. Khi thấy
vài tác giả, nhóm tác giả, tác phẩm, trào lưu văn chương có tiềm năng nhưng bị
giới thuyền thông bỏ qua oan uổng hay bị ngược đãi bất công, tôi tự cho mình
trách nhiệm nhập cuộc. Nhập cuộc bằng ghi nhận chúng, bày ra cái hay, cái mới
của chúng đến với người đọc, truy tìm triết học trên đó loại thơ văn này nảy
sinh và, nếu cần – biện minh cho chúng. Tôi gọi đó là phê bình lập biên bản. Là
phê bình không chối bỏ một nỗ lực làm mới nào, trào lưu sáng tạo trên nền tảng
hệ mĩ học nào bất kì; ứng xử công bằng và sòng phẳng với mọi tác phẩm, tác giả
hay nhóm tác giả.
Hay cũng trong một cuộc phỏng vấn khác, tác giả nói: “Viết phê bình, với mình, chủ yếu là để tự
cảnh giác với cái nhàm cũ trước, sau đó mới tới các bạn thơ khác”.
2.2.2. Khai phá để sáng tạo
Bên cạnh việc phê bình thơ để giới thiệu những gương mặt
thơ trẻ trong thời kì đổi mới, Mai Văn Phấn và Inrasara còn có mục đích khác là
phát hiện và khai phá, tìm ra những điểm mới, những điểm độc sáng để không
ngừng làm mới cho các sáng tác của chính mình. Đó cũng chính là quá trình lao
động không kém phần kì công của hai tác giả.
Trong tập Phê bình - Tiểu luận Không gian khác, qua 25 bài phê bình và 4 tiểu luận cùng chủ đề thơ
cách tân, Mai Văn Phấn khẳng định một điều: Không
phải cứ cách tân là hay, là nhất. Có những câu thơ viết theo lối cách tân mà
bàng bạc, nhạt nhòa thì không thể xếp ngang hàng với câu thơ viết theo lối hình
học phẳng có thần thái. Vấn đề ở chỗ một thế giới thơ ca đã khai mở ắt cần phải
đi tiếp và sứ mệnh của các nhà thơ là không ngừng sáng tạo để tạo ra giá trị
nghệ thuật mới. Thơ cách tân khi đã là một khuynh hướng thì cũng cần có sự
kế tiếp và luôn có những ý kiến phản biện. Phản biện để thơ cách tân chuyển
động tích cực hơn, mạnh mẽ hơn trong xu hướng hội nhập toàn cầu. Âu cũng là
thái độ đúng đắn của Mai Văn Phấn khi viết phê bình.
Chẳng hạn khi cảm nhận về thơ Nguyễn Lương Ngọc, Mai Văn
Phấn đã có những khám phá, phát hiện mới mẻ:Nguyễn
Lương Ngọc đã xuất phát từ cách hành ngôn quen thuộc trong thơ truyền thống,
như lối ẩn dụ, ví von của ngôi thứ ba trong vai trò người quan sát trong tập
thơ “Từ nước”, như:
Hạt phấn vàng
nhẹ như không có (Tương quan).
Mưa cuồng nộ ngoài kia chỉ
còn như điệp khúc (Hy vọng).
Người lớn như suối sông,
lũ trẻ thì như nước (Đường và trẻ).
Đến cách chuyển đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất, nhân
vật đang trực tiếp cảm nhận, hành động. Đây là sự hoàn thiện của quá trình
trình hóa thân, chuyển hóa từ cái tôi chủ thể sáng tạo thành hình ảnh và chuyển
động của thế giới bên ngoài đồng nhất với thế giới nội tâm:
Nhà
thơ cúi đầu
Môi
dầy lụi lửa
Bỏ đi
Những
bó cơ tan rữa
(Nhà thơ).
Em
mỉm cười từ đâu
đá
Bay-on chao chát
Đăm
đắm nhìn từ đâu
Sương
Tây Hồ ngột ngạt
(Lời hát).
Từ “tôi như, tôi
là...” đến “chính tôi...” là cách
chuyển đổi chủ thể quan trọng của thơ cách tân sau 1975, mà thơ Nguyễn
Lương Ngọc là một ví dụ cụ thể. Đó là sự khác biệt căn bản so với thế hệ thơ
trước đó về cách xác định cái tôi chủ thể ở ngôi thứ nhất và cách thiết lập
không gian thơ. Xin dẫn chứng cách quan sát sự vật và góc nhìn từ bên ngoài của
một số nhà thơ thuộc thế hệ trước đó. Trước hết là thơ Xuân Diệu:
Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
(Chiều).
Và thơ của Huy Cận:
Những ngôi sao cũng lần lượt hòa tan
Làm thành rạng
đông như màu lơ thoảng nhẹ
(Một ngày lên).
Mặt trời xuống
biển như hòn lửa
(Đoàn thuyền đánh cá).
Đến thơ Nguyễn Lương Ngọc đã khác. Nhà thơ và đối
tượng được mô tả đã hòa nhập làm một chủ thể để cất tiếng nói chung. Câu thơ
sau đây cho thấy, ngọn gió đã thổi lên điệu hồn của nhà thơ và nhà thơ rung cảm
để gió không còn là vô tri nữa:
Tôi
đã rón rén từng bước, nín thở
Mong
giữ được một cơ thể biết bay
Nhưng
chỉ gặp chút nỗi niềm ngọn gió
Mát
mát đầu ngón tay
(Tìm gặp).
Nhận thức và linh cảm được bản chất và chuyển động của
vạn vật, nhà thơ đã tri nhận được tính “hợp nhất” của thế giới, vũ trụ:
Cái
trước ở trên đầu giờ chìm vào trong ngực
Chỉ
một
Tất
cả chúng ta chỉ một
(Chỉ một).
Đến với “Chậm hơn
sự dừng lại” của Trần Tuấn, Mai Văn Phấn cũng có những phát hiện không kém
phần thú vị.
“Dừng lại”, tức vận tốc tức thời
bằng không. Vậy sao lại có khái niệm “chậm hơn” nó? Đó là câu hỏi mở đầu khơi gợi sự tò mò đầy ấn tượng. Có lẽ, đó là câu hỏi thông thường của một
người “bình thường” trong chốn dương gian này. Nhưng trong thơ Trần Tuấn, đấy
có thể lại là câu hỏi ngây ngô, ngớ ngẩn của kẻ viễn/ cận thị, kẻ mù màu... Vậy
hãy khua cây gậy dò đường của anh/ chị lên đi, sẽ thấy, bên dưới/ cạnh/ phía
trên mặt đường kia còn nhiều mặt đường khác nữa. Và thấy trong/ sau/ xa hơn
giọng nói kia còn có những âm sắc mang thông điệp khác nữa.
Điểm chạm đầu tiên, dễ nhận thấy, là thế giới phân cực
trong “Chậm hơn sự dừng lại”, vừa
quen vừa lạ. Quen, vì nó vẫn được soi tỏ bằng ánh sáng trần thế, minh bạch và
phơi mở trong hệ quy chiếu được đo bằng tần số, hình khối, kích thước thông
thường. Lạ, vì cốt lõi của nó đã bị bóc tách khỏi nó, bị cắt trụi chùm rễ từng
nuôi dưỡng nó. Nó trở nên cô lẻ, trơ trụi trong một không gian không có điểm
đặt, không thể xác định. Những hình ảnh sau đây trong bài thơ “cô đơn cô độc” cho
người đọc thấy được tính phân cực của từng đơn vị hình ảnh trong “Chậm hơn sự dừng lại”:
hạt
bụi cô đơn với hạt bụi
ngón
chân cô độc với bàn chân
… con
chữ cô đơn với hàng chữ
… ánh
sáng cô độc với ngọn đèn
…
nước cô đơn trong giọt nước
muối
cô độc với đại dương…
Tính phân cực này đã làm cho những tứ thơ Trần Tuấn hiển
hiện sáng rõ trong không gian mở rộng, mặc dù chúng được quan sát dưới một lăng
kính khác lạ, tạm gọi đó là những góc nhìn nghiêng. Góc nhìn ấy cho ta
thấy được sự hợp lý của cái hỗn mang và phi lý trong cả tập thơ và trong chính
tiêu đề của cuốn sách, “Chậm hơn sự dừng
lại”. Cái “chậm” của đơn cực này
được so sánh với sự “dừng lại” của
đơn cực khác hay đa cực. Phía khác ấy, sự “dừng
lại”, có thể đang tồn tại, ký sinh trên cùng một bản thể với những chuyển
động của “chậm” lại. Tiêu đề này với
hàm nghĩa tất cả đều chuyển động, dù có thể được miêu tả trong trạng thái bất
động. Còn những chuyển động kia đang đi về đâu, kết cục thế nào xin tùy bạn đọc
ước đoán.
Đến với “Cánh trăng”
của Đinh Trần Phương, Mai Văn Phấn lại có một trải nghiệm đầy mới lạ:
Một chiều mùa
đông cách đây hai năm, tôi nhận được “Cánh trăng”, tập thơ đầu tay của tác giả
Đinh Trần Phương. Nhớ lúc ấy tôi đã mở hé từng trang, tựa như người đọc “chạc”
trong hiệu sách để giữ cho cuốn sách luôn mới. Một cảm giác thanh tịnh, tinh
khôi đã ùa vào tâm trí tôi. Tựa như người trong căn phòng mùa đông luôn được
sưởi ấm, tôi bất ngờ mở cửa sổ. Ngoài kia là khí xuân mát lành, tiếng chim,
suối chảy, ánh trăng, mưa lất phất, gió nhẹ...
Tôi giữ mãi cách đọc “mở hé từng
trang” tập thơ “Cánh trăng” đến tận bây giờ. Mỗi lần tôi thường mở khoảng mươi
trang, đọc vài ba chục bài rồi khép lại, bởi thấy thế là vừa đủ cho một ngày,
một nỗi niềm, cho tâm trạng tôi khi ấy. Cách đọc tập thơ này cho tôi liên tưởng
mình đi qua một chiếc cửa tự động xoay tròn. Nếu coi mỗi trang của “Cánh trăng”
là một cánh cửa tự động, thì tùy thuộc vào cảm nhận của người đọc. Bạn có thể
lật mở bất kỳ trang thơ nào, tới khi có được cảm giác mình đã bước qua được
“khung cửa” ấy. Đôi khi, vô tình gặp một bài thơ, tựa như chỉ cần chạm tay là
cánh cửa đã nhẹ nhàng bật mở:
Nỗi buồn của chiếc lá
khô
tôi mở xem
ánh trăng [26, 84]
Mỗi câu của bài thơ trên tựa một mặt của ngọn tháp có ba
mặt, một công trình kiến trúc hoàn chỉnh. Trong chiếc lá khô kia cất giấu những
“bí mật của khoảnh khắc” (chữ của Lê Hồ Quang), như nỗi buồn, bàn tay người mở
xem, ánh trăng cùng vô vàn hình tướng mà người đọc mặc sức tưởng tượng. Ba câu
thơ liên tiếp tạo thành hơi thở chánh niệm, nhiếp phục lại tâm ý, giúp ta cảm
nhận được sự mầu nhiệm của giây phút hiện tại. Ánh trăng nằm trong chiếc lá khô
chờ người mở xem. Nỗi buồn của chiếc lá khô lại là ánh trăng. Câu thơ giúp ta
thấy được sự huyền nhiệm của đời sống này khi biết “mở xem” một chiếc lá khô. Ba
câu thơ tựa ba vật dụng tối giản, ba viên đá cuội để người đọc tự do xoay đảo,
nhìn phía nào cũng đẹp, vi diệu.
Với Inrasara, viết phê bình để thể hiện tình yêu văn học,
khao khát được tận hiến cho nền văn học dân tộc. Ông trăn trở, thổn thức hơn ai
hết khi phát hiện ra những mầm mống của những bước vận động của văn chương nước
nhà. Viết phê bình, với ông còn là để sẻ chia những suy nghĩ và cả những cảm
xúc về nền văn học đương đại.
Phê bình văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Là
khoa học, nó đòi hỏi người viết bao quát được vấn đề, lập luận vững chắc, dẫn
luận phong phú và chính xácđồng thời phải lí giải thuyết phục. Là nghệ thuật,
bởi phê bình yêu cầu ở người viết độ nhạy cảm cao với cái mới, có khả năng thẩm
định tác phẩm hoặc vấn đề chưa được biết, hoặc đã biết thì phải theo một cách
nhìn, cách khám phá mới.
2.3. Ngôn ngữ phê bình
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, là một môn nghệ
thuật nhưng khác với các ngành nghệ thuật khác nhờ đặc trưng chất liệu sáng tác
văn học là ngôn từ. Ngôn từ văn học có tính hình tượng, được sắp xếp theo một
tổ chức nhất định để ngôn từ phát huy giá trị của nó, đồng thời nó cũng đảm bảo
tính hàm súc, cô đọng, đa nghĩa và biểu cảm. Ngôn ngữ văn học tạo nên tác phẩm
và mang lại hiệu quả thẩm mĩ cho văn bản. Nhưng giá trị của ngôn từ chỉ đạt mức
tối đa khi nó được dùng đúng chỗ, đúng văn cảnh. Từ đó có thể hiểu văn học là
một bộ môn nghệ thuật lấy con người làm đối tượng nhận thức, lấy hình tượng làm
phương thức biểu đạt nội dung và lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng.
Phải chăng vì thế mà Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ngôn ngữ... Giàu ngôn ngữ thì
văn sẽ hay...Cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có
bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của.
Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn
phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ, thấp khớp...”. Vì
vậy, tìm hiểu về những điểm tương đồng trong phê bình thơ của Mai Văn Phấn và
Inrasara dưới góc độ phong cách học, không thể không tìm hiểu về ngôn ngữ.
2.3.1. Ngôn
ngữ sinh động, giàu hình ảnh
Ngôn ngữ luôn là yếu tố thứ nhất, là công cụ, là chất
liệu xây dựng hình tượng trong văn học. Không có ngôn ngữ thì không tồn tại văn
học. Nó không chỉ là cái vỏ vật chất của tư duy mà còn thể hiện phong cách, tài
năng, quan điểm nghệ thuật của tác giả. Jakobson từng nói: “Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh”.
Đó là thứ ngôn ngữ được chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ
tinh tế của ngôn ngữ”. Vì vậy với các nhà lý luận phê bình văn học, ngôn
ngữ thơ là một phương tiện hình thức luôn được coi trọng, ngôn ngữ luôn là một
giá trị không thể phủ nhận trong thơ, vì “thơ
tức là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ” (Nguyễn Quốc Trụ). Và “ngôn ngữ thi ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài
hòa giữa ngôn ngữ, tư tưởng và nhiệm vụ của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm
màu kỳ diệu ấy”. Đây mới thực sự là yếu tố làm nên giá trị thơ ca.
Đến với thế giới thơ của Mai Văn Phấn chúng ta đã thấy sự
sinh động và giàu hình ảnh, đến với thế giới phê bình thơ của Mai Văn Phấn điều
đó lại càng được thể hiện rõ nét hơn.
Viết về nhà thơ Trần Xuân Trường, trong bài “Con cò mổ trúng bóng mình vội bay”, Mai
Văn Phấn như thấu hiểu, sẻ chia với tâm trạng, cảm xúc của tác giả qua những
ngôn từ giàu sức gợi:
“Đêm
nằm ôm giấc mơ quê
Bóng
hoa hắt xuống bờ đê chập chờn”
(Cho
vừa tháng ba)
Quê hương đối với Trần Xuân Trường thực sự là mạch nguồn,
là cội rễ nuôi dưỡng nguồn cảm xúc sáng tạo. Nhiều người trong chúng ta, dù đi
xa nhưng lòng vẫn bám chặt vào đất quê, tựa như cánh diều, dù bay cao tới đâu,
nhưng sợi dây diều ấy vẫn được cột chặt vào nơi chôn nhau cắt rốn. Phải chăng
cội nguồn luôn ở trong tâm khảm, trong tầng sâu văn hóa của mỗi con người, để
khi vượt ghềnh thác hay phải đối mặt, đối thoại với những nền văn hóa khác thì
nó được đưa ra làm bằng chứng, để đánh cược cho phẩm giá và danh dự cá nhân,
danh dự dân tộc.
Đọc tập thơ Phúc
nhà bồi đắp yêu thươngcủa Lâm Xuân Vi, Mai Văn Phấn lại sử dụng ngôn ngữ
mộc mạc nhưng không kém phần tinh tế: “Tập thơ cho tôi hình dung được tới thăm
ngôi nhà thân quen của ông chốn thôn dã. Nơi “Cỏ gai chăng kín lối mòn” (Mẹ ơi!), nơi “Gió qua vườn gió hiển linh giải bày” (Nguồn cội thi thư). Chính
nơi vùng đất đế đô Hoa Lư ấy có vườn cây xao động bởi những cơn gió biển từ Cồn
Thoi bất chợt thổi về, gợi nhớ những buổi “Nắng
ngày xa” (Tên một tập thơ của Lâm Xuân Vi), nhớ trận “lũ đồng chiêm cồn cào” thuở nào (trong bài thơ “Mẹ”)”.
Đặc biệt khi cảm nhận về thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng, Mai Văn Phấn như một người thợ
điêu khắc, tác giả đang cặm cụi đẽo gọt “ngôn ngữ” của mình một cách trau
chuốt, gợi nên những hình ảnh đầy bất ngờ, độc đáo, cảm giác như “con rối” ấy
đang cựa quậy cử động ngay trước mắt người đọc: “Đọc liền mạch một loạt bài thơ
theo suốt lộ trình của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, tôi bị lạc vào thế giới “con
rối” đang cử động, khuynh loát mọi nhận biết và xúc cảm của mỗi người về đời
sống đương thời. Từ những yếu tố không đo đếm được của tự nhiên như ánh sáng,
bầu trời, đại dương, hay những vật nhỏ bé như con sâu, cái cày, cái bánh pizza,
trái mìn claymore, cái mở nút chai, lọ muối… chúng đều được điều khiển theo quy
luật riêng dưới bàn tay phù thủy của ông. Những “con rối” do nhà thơ “chế tác”,
để lại từng nhịp thở gấp, cả nước mắt, dấu vân tay “đóng dấu bản quyền”. Đó là
những câu thơ tối giản, như rời rạc, ngắt quãng, phục hoạt một thời tao loạn,
chia ly, phơi bày bao đau thương, mất mát: như quả mìn chưa nổ/ nằm chờ
ta dưới đám cỏ mùa thu (Mùa thu năm 1977); là kẻ hối hận ăn năn/ Vì
đã nằm suốt đêm trong bụi rậm/ Phục kích đứa em trai của mình (Sau
chuyến nghỉ hè xa). Những câu thơ của Nguyễn Đức Tùng ngỡ như ai đó cầm con dao
sắc chém mạnh, làm đứt ngang một thân cây mảnh: Trên các bức tường vôi
trắng/ Máu đã lau xong (Thăm Trung Hoa); Bên bờ rào tử đinh
hương/ Anh tìm được một vật/ Đã cắt đứt tình yêu chúng ta (Mặt trời
lặn xuống ở Cali)...”.[26, tr.104]
Hay trong “Nhà thơ Inrasara, người khai hoang ánh sáng”,
bằng cách cảm nhận tinh tế và cảm xúc chân thành, Mai Văn Phấn đã như đưa người
đọc lạc vào một thế giới đầy ấn tượng, thể hiện rõ hơn nữa sự tài hoa của tác
giả trong sử dụng ngôn ngữ: “Đọc tập thơ và trường ca “Lễ tẩy
trần tháng Tư”, tôi chợt thấy nhà thơ Inrasara tái hiện cả mảnh đất Chăm
của ông trước mắt bạn đọc. Tất cả như hiển hiện trên một sân khấu quay. Trên
đó, mỗi bài thơ của ông là một khung cảnh, sự kiện, nhân vật… Chính giữa “sân
khấu” của “Lễ tẩy trần tháng Tư” là ngọn tháp Chàm, được tác giả “chiếu
sáng” từ nhiều góc quét, tạo nên một phối cảnh đồng hiện, huyền hoặc. Bóng
của tháp như dòng sông ma/ trườn qua đêm tối những triều đại/ đánh thức kí ức
các dân tộc/ duyên nợ (hay cả không nợ nần gì) với tháp (Tháp Chàm
muôn mặt). Nhân vật “Em” xuất hiện trong một “phân cảnh” của “sân khấu” cùng
những tiếng va đập của đời sống công nghiệp: Em giặt giũ trong căn gác
lạ/ em thợ phụ trong xưởng may lạ/ em hoảng hốt trong con hẻm lạ/ Mang linh hồn
ruộng đồng/ em rụng vào đêm lạ (Tam tấu trước ngưỡng thế kỉ XXI). Giáp
phía sau sân khấu, hình ảnh cô gái Chăm xuất hiện nhanh trong ánh sáng đặc
tả: cô gái đội nước xuống đồi, dừng lại, nấn ná hồi lâu rồi chậm rãi
bước về làng/ bây giờ làm gì, ở đâu – ai biết? (Những ngày rỗng - Ngày
5: Ngày đẹp nhất)”…[26, tr.135]
Người ta nói “Văn là người”, điều đó có thể thấy rõ ở Mai Văn Phấn. Đọc phê bình
của tác giả, chúng ta cảm nhận một tâm hồn rộng mở, một thế giới sinh động,
giàu hình ảnh, cảm xúc và hơn hết đó còn là cả một tấm chân tình.