MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí
do chọn đề tài
2. Lịch
sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu .
5.
Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng
góp của luận văn
7. Cấu
trúc của luận văn
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1.
Thế giới nghệ thuật
1.1.2. Thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình
1.2.
Mai Văn Phấn và các chặng đường thơ
1.2.1. Tiểu sử nhà thơ Mai Văn Phấn
1.2.2. Các chặng đường thơ Mai Văn Phấn
1.3. Cơ sở hình thành thế giới nghệ thuật trong
thơ Mai Văn Phấn
1.3.1. Về
thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
1.3.2. Những cơ sở hình thành nên thế giới
nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
Chương 2. HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG
THẾ GIỚI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1.
Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng
cách tân thi ca
2.1.2. Cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình
yêu
2.1.3. Cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh
táo và trực giác nhạy bén
2.1.4. Cái tôi khao khát hướng tới một thế
giới tinh thần lý tưởng “thuần Việt
2.2.
Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Một thế giới của sự viên mãn và thuần
khiết
2.2.2. Một thế giới của sự tương giao, hài
hòa
2.2.3. Một thế giới của những cảm giác siêu
nghiệm
Chương 3. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG THẾ GIỚI NGHỆ
THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1.
Thể loại
3.1.1. Thơ lục bát
3.1.2. Thơ tự do
3.1.3. Thơ văn xuôi
3.1.4. Thơ cực ngắn
3.2.
Kết cấu
3.2.1. Kết cấu văn bản
3.2.2. Kết cấu hình tượng
3.3.
Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và biện pháp tạo hình
3.3.1. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng
3.3.2. Những tìm tòi trong bút pháp tạo hình
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Ts. Lê Hồ Quang (trái) và Th.sỹ Hoàng Thị Thanh Nhàn trong ngày bảo vệ LVTS

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mai Văn Phấn là một cây bút cách tân
tiêu biểu của thơ Việt Nam đương đại. Với ông, sáng tạo nghĩa là phải luôn đổi
mới và quá trình sáng tạo chính là “những cuộc cách mạng liên tiếp xảy ra trong
mỗi nhà thơ”. Điều đó được chứng minh rất rõ qua các chặng đường thơ của ông.
Nhà thơ quan niệm rất nhất quán: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt
những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác
trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân là nhằm
gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [55;378]. Có lẽ
chính vì thế nên khi xuất hiện, những “đứa con tinh thần” của ông luôn tạo ra
những hiệu ứng thẩm mỹ trái chiều và mạnh mẽ.
1.2. Thế giới nghệ thuật là thế giới hình
tượng được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên
tắc tư tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Gắn với một thế giới nghệ
thuật là một quan niệm riêng, cá tính
sáng tạo riêng của mỗi tác giả. Có thể thấy, gắn liền với một quan niệm thẩm mĩ
mới mẻ, thơ Mai Văn Phấn là một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo.
Tuy nhiên, cho đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp bàn đến vấn đề này. Do đó,
chúng tôi quyết định chọn “Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn” làm đề
tài nghiên cứu của luận văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Mai Văn Phấn là cây bút cách tân tiêu biểu
trong văn học đương đại. Về vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, cũng
đã có một số công trình, bài viết quan tâm tìm hiểu. Sau đây chúng tôi sẽ lược
thuật những ý kiến tiêu biểu.
2.1. Những nhận định, đánh giá về đặc trưng
thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
Văn Giá trong bài Thơ
sinh ra để nói về niềm hy vọng của con người, khẳng định thế giới nghệ
thuật trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới rất khó nắm bắt với sự “Bề bộn về số lượng: 370 bài. Bề bộn về ý
tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do,
thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên,
để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với
bất cứ ai” [46; 528] Nhà phê bình này cũng nhận xét rất xác đáng: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn
sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên
thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định; và còn phồn
sinh hóa sinh bất định là còn khiến con người ta có quyền hy vọng vào những gì
đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ
ngơi nghỉ ở con người” [46; 529].
Theo Đỗ Minh Tuấn: “Thế giới thơ của Mai Văn Phấn luôn luôn trong trạng thái sẵn sàng bùng
nổ. Một biến động dù thi nhân
day dứt siêu hình, những suy tưởng miên man... tất cả đều có thể là nhỏ nhất
như một tia sáng, một tiếng chim... Từ cuộc sống xung quanh vọng tới cũng
có thể khởi động lên trong sứ giả của
một trật tự thi ca mới mẽ đang chờ” [46; 148].
Theo Nguyễn Quang Thiều, viết về thơ Mai Văn Phấn là viết về “ hiện thực của
những giấc mơ, của những câm lặng, của tưởng tượng và khát vọng. Hiện thực này
trong nghệ thuật được sinh ra để hé lộ cho ta thấy một đời sống tâm linh, và nó
tìm cách cứu vớt sự tuyệt vọng của một hiện thực khác mà con người đang phải
đương đầu” [76; 3].
Nguyễn Thanh Tâm
trong bài Lập thể của ký ức và tưởng
tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã
nhận định:“Thơ Mai Văn Phấn
quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp
dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là
những lập thể của kí ức và tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua
các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó
tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã
bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [46; 395].
Tác giả Lê Hồ
Quang, trong bài Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn,
nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một
sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm
sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã
được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách
viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ
sáng tạo” [61; 1]. Và “ thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn
rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín
mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [61; 3].
Kim Chuông trong bài Mai Văn Phấn lấp lánh
giữa mông lung vô thức cho rằng: “Vũ
trụ đã nằm trong trái tim thi sĩ” và “Nhà thơ luôn văng mình về một phía xa
khuất để cố nén và ôm trùm nơi hồn mình một ngoại giới mông lung. Một vũ trụ
thiên nhiên tự nhà thơ đẻ ra các dồi dào trực giác, nhưng trực giác lại có quá
trình tích lũy nào đó”[46; 275].
Nhã Thuyên trong bài Khí quyển thơ-sinh
thái của Mai Văn Phấn: thơ, bầu trời và những linh hồn cho rằng thơ Mai Văn Phấn mang đến “không gian luôn rộng mở đón đợi người đọc cùng sáng tạo nhưng lại
không dễ dàng để gọi tên cái “khí” của một người thơ miệt mài, nhẫn nại, trong
lành và nhiệt huyết như Mai Văn Phấn”[46; 451].
Trong luận văn Một số cách tân nghệ thuật
trong thơ Mai Văn Phấn của Nguyễn Quang Hà (Đại học Thái Nguyên) cũng đã đề
cập tới một phương diện của thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, đó là không
gian nghệ thuật. Tác giả luận văn cho rằng: Trong thơ Mai Văn Phấn tập trung
thể hiện không gian đa diện - biến ảo và “biểu hiê%3ḅn rõ nhất của không gian đa diê%3ḅn - biến ảo là không
gian vụt hiê%3ḅn châ%3ḅp chờn giữa thực và ảo và không gian vô thức siêu
thực" [19; 59].
2.2. Những nhận định, đánh giá về nghệ thuật
xây dựng, thể hiện thế giới thơ Mai Văn Phấn
Nguyễn Hoàng Đức, khi đề cập đến sự thay đổi bút pháp
thơ Mai Văn Phấn, đã viết: “ Phải
nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng
thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm
nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc
công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như
lông hồng” [46; 35].
Đỗ
Quyên, khi đề cập tới ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn, cho rằng: “Chúng ta đang bàn
đến một thi giới gần như không có vốn từ vựng riêng và lạ. Nếu lướt nhẹ trên
vài câu vài bài, sẽ tưởng đây là tay viết bình dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không
phải tra từ điển Việt – Việt! Không khó hiểu với từng bài lẻ nếu có được vốn
tối thiểu của luật câu cú tiếng Việt...” [46; 187]. Cũng theo tác giả Đỗ Quyên,
“Mai Văn Phấn không là chủ nhân của các câu thơ, đoạn thơ hút hồn theo nghĩa
đơn tuyến. Các bài hay và khá của thi sĩ đều là những mạng đan xen trên một
phông văn hóa ổn cố bằng loại ngôn ngữ giản dị, chiêm nghiệm” [46; 164].
Nhà thơ Inrasara thì cho
rằng: "Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn trong những năm hậu đổi mới
chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng và trịnh trọng. Ngôn ngữ thơ
của Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẩn, ngày càng hướng đến sự tự phát và ngẫu
hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng thùng" [46; 73].
Đặng
Văn Sinh, khi đề cập tới tập thơ Bầu trời
không mái che, đã viết: “Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trưng của bút pháp
Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ không vần, không nhịp điệu, không
đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc cú pháp”[46; 109].
Theo
học viên Vũ Thị Thảo: “Thơ Mai Văn Phấn có nhiều bài mang hơi thở tự do, ít khi
sử dụng những dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự cú pháp, đề cao sự liên
tưởng cá nhân. Để biểu đạt giấc mơ và đời sống vô thức, lối viết tự động được
xem như là phương thức hữu hiệu...Đó là một cách để thoát khỏi mọi định kiến
của xã hội và luân lý, để biểu lộ niềm tin vào tính dân chủ của ngôn ngữ, để tự
do suy ngẫm về chức năng của nghệ thuật và bản chất của quá trình sáng tạo”
[46; 572].
Tuy nhiên bên cạnh những
nhận định, đánh giá khẳng định giá trị thơ Mai Văn Phấn thì vẫn còn những nhận
định, đánh giá trái chiều. Chẳng hạn Đặng Huy Giang, trong bài viết đánh giá về
tập Thơ viết, đã chỉ trích cách dùng
từ, kết cấu trong thơ Mai Văn Phấn, cụ thể là trong bài Mười bài tập mùa xuân. Theo tác giả, bài thơ chỉ là tập hợp những
câu vọng cổ, rối rắm, vô nghĩa, dài dòng,... mà thôi.
Nhìn chung, những nhận định, đánh giá của các
tác giả về vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn khá cụ thể, sâu sắc và có
giá trị, đưa lại cho chúng tôi những gợi dẫn quan trọng trong việc khám phá thế
giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chọn Thế giới nghệ thuật trong
thơ Mai Văn Phấn làm đối tượng nghiên cứu.
3.2. Phạm vi văn bản khảo sát
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong thơ Mai
Văn Phấn, luận văn khảo sát công trình Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận
và trả lời phỏng vấn (2013), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. Tập thơ Hoa giấu
mặt (2012), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. Tập thơ Vừa sinh ra ở đó (2013),
Nxb Hội Nhà văn Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề
tài này, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu sau:
4.1.
Tìm hiểu khái niệm thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn
Phấn.
4.2. Tìm
hiểu đặc điểm hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn.
4.3.
Tìm hiểu phương thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.
5. Phương
pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
Quan niệm thế giới nghệ
thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng của thế giới nghệ thuật thơ
Mai Văn Phấn, luận văn chú trọng tìm hiểu những yếu tố tạo nên chỉnh thể này và
những quy luật cấu tạo của nó.
5.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp
người viết nhận ra bản sắc riêng, thi pháp riêng của Mai Văn Phấn khi xây dựng
hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới
(so với các nhà thơ khác).
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này giúp
người viết tìm kiếm một cách có hệ thống những hình ảnh, biểu tượng xuất hiện nhiều
lần trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này giúp người viết làm rõ
những nét đô%3ḅc đáo về thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn và có
cái nhìn khái quát về thơ Mai Văn Phấn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần trong việc xác định, đánh giá những đóng góp
của thơ Mai Văn Phấn vào tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Đồng thời khẳng định
một phong cách thơ độc đáo - Mai Văn Phấn.
7. Cấu trúc
luận văn
Ngoài phần
Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về thế giới nghệ thuật thơ Mai
Văn Phấn
Chương 2. Hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới
trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 3. Phương
thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn
Chương
1
KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1.Thế giới nghệ
thuật
Thế giới nghệ thuật là
khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong đời sống và trong học thuật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thế giới nghệ
thuật là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ
thuật nhấn mạnh rằng: sáng tác nghệ thuật là
một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế
giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ
thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan
hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... Như vậy,
khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ
thuật có cội nguồn trong thế giới quan, văn hoá chung, văn hoá nghệ thuật và cá
tính sáng tạo của nghệ sĩ” [18; 303].
Lí luận văn học (tập 2, do Trần Đình Sử chủ biên), khẳng
định: “Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống
nhất không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng
tạo của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ
có trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật…Thế giới nghệ thuật là thế
giới tư tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người” [68; 81]. Và
“Một thế giới nghệ thuật nhất định với tư cách là hệ thống không chỉ đặc trưng
cho tác phẩm đó, mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung…Nghiên cứu cấu trúc
của thế giới nghệ thuật vừa cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm,
quan niệm của tác giả về thế giới, vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn
kín của nhà văn, cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật”
[68; 83].
Theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Thế giới nghệ thuật
của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là chỉnh thể tất phải
có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ
nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [37, tr.78].
Tham khảo những định nghĩa trên, chúng tôi đi
đến cách hiểu về khái niệm thế giới nghệ
thuật như sau:
Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng
được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư
tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Đó là một chỉnh thể nghệ thuật
sống động, cảm tính, được xây cất bằng vật liệu ngôn từ và các phương thức,
phượng tiện nghệ thuật đặc thù. Là đứa con tinh thần của nghệ sỹ, thế giới nghệ
thuật luôn hàm chứa và thể hiện quan niệm riêng của người nghệ sỹ về thế giới,
con người và bản thân sự sáng tạo. Đó không phải là một thế giới tĩnh mà là một
thế giới động, phản ánh những biến chuyển tinh vi và phức tạp trong tư tưởng
của người nghệ sĩ.
1.1.2. Thế giới nghệ
thuật trong thơ trữ tình
Theo Từ điển thuật
ngữ văn học, thơ trữ tình (tiếng Pháp: poesie lyrique), là thuật ngữ dùng
chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình. Trong đó, những cảm xúc và suy
tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được
thể hiện một cách trực tiếp. « Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính
chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình.
Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những biểu hiện
phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tình cảm cho tới những chính
kiến, những tư tưởng triết học"[18 ; 317].
Lê Quang Hưng trong Thế
giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945 cho rằng: “Thế giới nghệ thuật trong thi ca là thế giới được
nghệ sỹ sáng tạo ra bằng phương tiện ngôn từ. Nó chưa từng tồn tại trong thế
giới vật chất, và mãi mãi không bao giờ có thể biến thành thực tại vật chất.
Nhưng nó lại mang sự sống và tâm hồn chân thực của một người, một thế hệ, một
thời. Đó là bản lĩnh hình tượng của thế giới nghệ thuật - thuộc về tinh thần.
Là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ, thế giới nghệ thuật vừa phản ánh
thế giới xung quanh được cảm thấy của chủ thể. Nói theo ngôn ngữ của lý luận
quen thuộc thì nó vừa phản ánh “hiện thực”, vừa phản ánh “ý thức chủ quan” của
người nghệ sỹ” [24; 5].
Thơ trữ tình là sự bộc lộ cái chủ quan, là sự biểu hiện và cảm thụ của
chủ thể trữ tình trong một không gian, thời gian nhất định. Vì thế, thế giới
nghệ thuật trong thơ trữ tình thể hiện rõ qua hai hình tượng: hình tượng cái
tôi và hình tượng thế giới. Cái tôi là hình tượng trung tâm của thơ trữ tình,
mang vẻ đẹp độc đáo không lặp lại. Hình tượng thế giới tồn tại trong thơ trữ
tình với vai trò là khách thể để chủ thể - cái tôi trữ tình thể hiện mình. Tất
nhiên, hình tượng thế giới (cũng như hình tượng cái tôi nói trên) thực chất đều
là hình tượng nghệ thuật, chúng được xây dựng, thể hiện theo những nguyên tắc
thẩm mĩ riêng của nhà thơ.
1.2. Mai Văn Phấn và các
chặng đường thơ
1.2.1. Tiểu sử Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong
những gương mặt xuất sắc của khuynh hướng cách tân thơ Việt đương đại. Ông sinh
năm 1955, tại Kim Sơn, Ninh Bình, hiện sống và làm việc tại thành phố Hải
Phòng. Hải Phòng – thành phố cảng, chínhlà
nơi đã sinh ra nhiều tên tuổi tài năng như: Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn
Đình Thi, Bùi Ngọc Tấn, Thi Hoàng, Đồng Đức Bốn, Đình Kính, Dư Thị Hoàn, Mai
Văn Phấn... Trong đó, Mai Văn Phấn là một gương mặt tiêu biểu.
Mai Văn Phấn vốn là một học sinh giỏi văn của trường cấp
3 Kim Sơn, là người yêu thơ văn và bắt đầu làm thơ từ những năm 16, 17
tuổi. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Mai
Văn Phấn lên đường nhập ngũ. Năm
1981, trở về quê và làm việc tại Công ty Thuỷ lợi II Ninh Bình. Sau đó, học Đại
học Ngoại ngữ Hà Nội và được cử đi du học ở Liên Xô (cũ). Những năm tháng đi du
học cộng với tinh thần ham học hỏi, ông đã tiếp thu được tinh hoa nhiều nền văn
hóa, văn học trên thế giới. Đây là những kiến thức hết sức quan trọng làm nền
tảng cho hành trình sáng tạo của nhà thơ về sau.
Để hiểu hơn về tác giả này, ta hãy tìm hiểu thêm về những
yếu tố có tác động mạnh mẽ đến con người và hồn thơ ông.
Thứ nhất, yếu tố gia
đình. Xuất thân trong gia đình theo đạo Thiên chúa giáo nên từ nhỏ Mai Văn Phấn
đã rất ngoan đạo. Trong một lần tâm sự với Hoàng Hiệp, nhà thơ từng nói: “Tôi
sinh ra trong gia đình theo đạo Thiên Chúa. Từ nhỏ tôi rất ngoan đạo, thuộc
kinh bổn và thông thạo Kinh Tân Ước và Cựu Ước, các sách thánh, mê hát thánh
ca… Lúc ấy cha mẹ tôi rất muốn cho tôi vào nhà dòng để có thể đi tu lâu dài,
nhưng khi nhận ra con ngựa hoang’ trong tâm hồn mình, thấy sự đam mê, run rẩy quá đỗi của mình với vẻ đẹp của thiên
nhiên và con người… Tôi đã từ chối. Sau này khi du học ở Liên Xô cũ
(1983-1984), tôi đã gặp vợ tôi bây giờ – một người theo Đạo Phật. Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả
sự chiều chuộng người tôi yêu nữa. Khi nghiên cứu các giáo lý của các tôn giáo
lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng: Thượng Đế chỉ có một. Và, chắc chắn chúng
ta được sinh ra và bị chi phối bởi một Đấng –Toàn - Năng. Đấng – Toàn - Năng
cho con người biết được ‘gần đúng khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông
qua các hình thức tôn giáo mà thôi”. Qua lời tâm sự này, chúng ta cũng phần nào
thấy được ảnh hưởng của các tôn giáo và các nền văn hóa thế giới trong thơ ông.
Thứ hai, yếu tố quê
hương. Ông được sinh ra và lớn lên ở Ninh Bình, vùng đất với nhiều truyền thống,
nét đẹp văn hóa dân tộc. Ninh Bình là vùng đất giao thoa giữa ba khu
vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó tạo nên một nền
văn hóa tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh
châu thổ sông Hồng. Vào thế kỉ X, Ninh Bình được xem là kinh đô, mảnh đất gắn
liền với bao thăng trầm của lịch sử. Đến thế kỉ XVI – XVII, đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình, hình thành trung
tâm Thiên Chúa Giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn. Mảnh
đất quê hương với chiều sâu truyền thống và đặc thù văn hóa ấy đã in đậm vào
tâm khảm thi nhân, tạo nên những trang viết giàu nội lực và ám ảnh. Hiện tại,
Mai Văn Phấn đang công tác và sinh sống tại thành phố Hải Phòng, nơi được xem
là quê hương thứ hai của nhà thơ. Hải
Phòng là một trong các thành phố lớn của Việt Nam, nơi có vị trí quan
trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước. Là
đầu mối giao thông vận tải với hệ thống cảng biển, Hải Phòng là thành phố phát
triển mạnh về kinh tế, cũng như đời sống, văn hóa …
Có thể thấy, yếu tố quê hương, gia đình đã ảnh hưởng, chi
phối mạnh mẽ tới nhiều phương diện nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Thơ ông
thể hiện tiếng nói tri ân đối với quê nhà, thể hiện tình yêu quê hương,
đất nước, sự gắn bó với những gì bình dị của đất đai, làng mạc và khát vọng tìm
kiếm, hướng về một tiếng thơ lý tưởng "thuần Việt".
Thứ ba, yếu tố thời đại. Thế kỉ XX,
XXI với sự phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ, xã hội phát triển,
tư duy của con người cũng đổi khác. Tương ứng với sự biến đổi của đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người, thơ ca cũng đang có những thay đổi
với nhiều hướng tìm tòi mạnh mẽ và khác biệt. Nhận thức được điều này, nhà thơ
tìm đến thơ ca để phản ánh hiện thực theo cách riêng, nhằm hướng về những nét
đẹp truyền thống thông qua lăng kính của con người hiện đại.
Mai Văn Phấn là con người thông minh, tài hoa – đó là
điều không thể không nói khi bắt đầu về
con người này.
Ngay từ những năm đang còn ngồi trên ghế nhà trường, tinh
thần ham học hỏi và tình yêu
thơ văn đã trỗi dậy trong ông. Ý chí, nghị lực và sự kiên trì trong học tập,
sáng tạo đã giúp ông có một phông văn hóa rộng và giàu kinh nghiệm trong cuộc
sống. Sau một thời gian dài tích lũy kiến thức, ông đã cho ra mắt bạn đọc hàng
loạt ấn phẩm khẳng định sức sáng tạo dồi
dào và tài năng nghệ thuật của bản thân.
Trong bài Mai Văn
Phấn: hiện thân của sự sáng tạo, nhà văn Cao Năm đã viết: ‘‘Mai Văn Phấn
dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người
hiện thân của sự sáng tao’’[46 ; 33]. Ngoài tài hoa, đam mê, tri thức, ông
còn là người dũng cảm và giàu bản lĩnh trong sáng tạo. Nhà văn Đình Kính đã từng nói : ‘‘Anh làm
thơ như nghệ sỹ tự tin đi trên sợi mảnh,
bên dưới là vực sâu hiểm trở, nhưng vẫn luôn tự tin rằng mình sẽ đến được
đích’’[46 ; 10]. Mai Văn Phấn – con
người luôn mạo hiểm để chinh phục đỉnh
cao nghệ thuật. Tự đổi mới và tự tái tạo
không ngừng chính là phẩm chất nổi bật của ông trong sáng tạo.
1.2.2. Các chặng đường
thơ Mai Văn Phấn
Với sức sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn đã xuất bản 11 tập
thơ và trường ca: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi
xanh (thơ, 1995); Cầu nguyện ban mai
(thơ, 1997); Nghi lễ nhận tên (thơ,
1999); Người cùng thời (trường ca,
1999); Vách nước (thơ, 2003); Hôm sau (thơ, 2009); Và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009); Bầu trời không mái che (thơ, 2010); Hoa giấu mặt (thơ, 2011); Vừa sinh ra ở đó (thơ, 2013)… Và, ông
cũng gặt hái được nhiều giải thưởng:
Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội (1994), giải thưởng cuộc
thi thơ tuần báo Văn Nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam năm 2010 cho tập thơ Bầu trời không mái che.
Với sức sáng tạo dồi dào, tư duy sáng tạo không ngừng đổi
mới, thơ Mai Văn Phấn không chỉ được bạn bè trong nước quan tâm mà còn được
đông đảo bạn đọc thế giới đón nhận. Ngày 19 tháng 6 năm 2014, ba tập thơ song
ngữ của nhà thơ đất cảng Hải Phòng lọt vào top 10 tập thơ Châu Á bán chạy nhất
trên mạng AmaZon. Đó là hai tập thơ song ngữ Việt – Anh : Ra vườn chùa xem cắt cỏ (Grass cutting
in a temple garden), Những hạt giống của
đêm và ngày (Seeds of night and day) và tập thơ song Việt – Pháp : Bầu trời không mái che (A ciel ouvert).
1.2.2.1. Từ trước 1995
Với những sáng tác đầu tay, Mai Văn Phấn đã có ý thức
muốn khác và khác so với chính ông và với người khác. Nhà phê bình văn học Phạm
Xuân Nguyên nhận xét: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển,
người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta
biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực
của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự
thăm dò để bung phá”[46; 8].
Giai đoạn này có 2 tập thơ: Giọt
nắng (thơ, 1992); Gọi xanh (thơ,
1995). Với những tác phẩm này, tên tuổi Mai Văn Phấn bước đầu được khẳng định
qua các giải thưởng : Giải nhất văn nghệ thành phố Hải Phòng với bài thơ Thuốc đắng ( 1991), Giải nhì (không
có giải nhất) của hai tờ báo : năm 1994 của báo Người Hà Nội với bài Nghi
Tàm ; năm 1995 của báo Văn nghệ
với chùm hai bài Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc và Nhật ký đô thị hóa.
Trong giai đoạn
này thơ Mai Văn Phấn thường hướng về những chủ đề thiên nhiên, tình yêu lứa
đôi, tình cảm quê hương, gia đình …, những chủ đề có tính truyền thống. Những
tác phẩm tiêu biểu của ông thời kì này có thể kể đến Thuốc đắng, Mười nén
nhang ngã ba Đồng Lộc, Em gái đi lấy chồng, Kinh cầu ban mai, Nhật kí đô thị...Ở đó, hiện thực đời sống
hiện lên với những đường nét quen thuộc và giản dị: Đưa dâu qua chiếc cầu
tre/ lòng anh chạm lá chua me chạnh buồn (Em gái đi lấy chồng).
Ngoài thơ lục bát, giai đoạn này Mai Văn Phấn còn sử dụng
thể thơ tự do và thơ văn xuôi. Với hình thức tự do, phóng khoáng, thơ văn xuôi
của ông đưa đến những cảm nhận mới về
thế giới: Mùa thu mang theo trận mưa giục chiếc lá chớm vàng rụng vội. Em
dọn lại căn nhà, còn anh mang chài lưới ra khơi (Ký sự mùa thu). Và, ở đó
nhà thơ thể hiện khát vọng tìm tòi, dâng hiến: Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để
tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si” (Viết cho cây sáo).
Nhìn chung, thơ Mai Văn Phấn giai đoạn trước 1995 xét về
mặt thi pháp đã có nỗ lực tìm tòi nhưng vẫn chưa đi xa hơn hệ hình thi pháp
truyền thống.
1.2.2.2. Từ 1995 đến 2000
Từ 1995 đến 2000, Mai Văn Phấn cho ra đời
ba tập thơ: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và
trường ca Người cùng thời (1999). Nhà thơ bước đầu làm một cuộc lột xác
về nội dung, tư tưởng cũng như hình thức thể hiện. Về cảm hứng cũng như thi
pháp thơ giai đoạn này đã có nhiều điểm khác trước. Nếu giai đoạn trước, thi sỹ
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cái hiện thực cảm xúc bề mặt, dễ nhận biết của đời
sống thì giai đoạn này, nhà thơ chủ trương hướng về nhận thức chiều sâu nhân
sinh. Do đó, hiện thực được khắc họa với những nét gai góc, phức tạp: Lẽ phải vùi chôn trong đơn thư mặc danh/
Đồng tiền lật ngược trang hồ sơ khởi tố/ Có mặt quỷ sau mặt người lấp ló/ Quỷ thì run mà người thì
buồn. Cuộc sống hiện đại đang dần đổi thay: Sủi bọt. Rạn nổ. Vụn nát/
Hơi nóng bốc cao ngùn ngụt giữa trời/ Nỗi khắc khoải không còn có ý nghĩa/ Sự
đổi thay vượt quá sức mình (Từ hạt mưa); Dấu chân không nhận ra nhau vô
cảm trơn lỳ/ Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ/ cỏ nát...(Khúc
dạo đầu). Ở đó, ý thức cá nhân và tinh thần trách nhiệm cộng đồng hòa nhập làm
một: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/
Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua. Ở đó, xuất hiện những nỗi đau mới
và những niềm hy vọng mới: Từ tưởng tượng/ và niềm hy vọng/ Tôi rút những
mũi tên/ Ra đi tìm đích cho ngày mai (Mũi tên bóng tối).
Về mặt thi pháp, nhà thơ
Lê Xuân Đố khẳng định thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này “bứt phá cách tân thi pháp
với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc,
bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét đẹp tiềm ẩn của tình yêu,
đời sống” [46; 283]. Cùng với ý thức cách tân thi pháp, Mai Văn Phấn khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề
sau, bề xa” của nó. Mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ ông giờ đây có khi
chỉ là những “Dàn ý” hay “Bài tập mùa xuân”, hoặc những ý tưởng
bất chợt “đến trong ý nghĩ”. Những câu chữ bề bộn, phá vỡ ranh giới thơ
và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man như “những ý nghĩa không sắp
đặt”, “không quán tính”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Điều này được
chứng minh qua các bài thơ tiêu biểu như: Mười bài tập mùa xuân, Mail cho
em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số 18…
Trong những tổ chức ngôn từ tưởng chừng như
phi logic, nhà thơ đang đến gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm
linh. Vì
thế, Văn Giá đã khẳng định: “Chặng thứ 2 là cả một nỗ lực bứt phá: giờ đây
không trọng tự tình nữa, mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở
chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha, để rồi phát huy rõ rệt
ở chặng 3” [45; 539].
1.2.2.3. Từ 2000 đến nay
Từ 2000 đến nay, Mai Văn Phấn cho ra đời hàng loạt tập
thơ: Vách nước (2003), Hôm sau (2009), Và đột nhiên gió
thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Vừa sinh ra ở đó (2013)...;
thể hiện sức sáng tạo dồi dào của nhà thơ. Đây được đánh giá là giai đoạn nở rộ
tài năng của thi sỹ.
Thi pháp thơ Mai Văn Phấn tiếp tục cách tân với những hình
ảnh, liên tưởng, ngôn từ lạ. Thay
cho cái nhìn mang tính “nhất phiến” trước đây là một cái nhìn “phân mảnh” đầy
hoang mang, “sản phẩm” của một thời đại đầy bất an và biến động. Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Đúng vậy,
Chỉ là giấc mơ, Còn cậu hãy đứng đằng kia… phản chiếu một cái nhìn nghịch
dị, hài hước, không kém phần tỉnh táo về một thế giới bị xô lệch, con người bị
biến dạng, trở nên méo mó, không khác gì những sản phẩm “chế tác từ đồ phế
thải”.
Giai đoạn
này, nhà thơ tiếp tục dung nạp những thủ pháp, kĩ thuật viết mới, phức tạp theo
hướng hiện đại chủ nghĩa và hậu hiện đại chủ nghĩa. Song bên cạnh đó, tư tưởng
và nỗ lực hướng đến một lối viết “tự
nhiên/ như đi trên đất”, giản dị, “thuần Việt”, ngày càng hiển lộ rõ nét
trong Những bông hoa mùa thu, Cửa mẫu, Hình đám cỏ…, và gần đây nhất là
những tác phẩm trong tập Vừa sinh ra ở đó.
1.3. Cơ sở hình thành nên thế giới nghệ thuật trong thơ
Mai Văn Phấn
1.3.1. Về thế giới nghệ
thuật trong thơ Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn trong một tiểu luận đã viết: “Thơ ca đang
chuyển động trong một thế giới đa chiều, đa cực. Trách nhiệm của mỗi nhà thơ
phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn
tồn tại trong không gian mới của thời đại” [55; 275]. Với ý thức sáng tạo mạnh
mẽ, độc đáo, Mai Văn Phấn đã sớm nỗ lực xây dựng một thế giới nghệ thuật riêng
cho mình.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn được xây dựng
bởi nhiều yếu tố: nhân vật, không gian, thời gian, ngôn từ, thể loại, giọng
điệu, âm thanh và màu sắc…Nhưng do phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung làm rõ
hình tượng cái tôi, hình tượng thế giới và những phương thức nghệ thuật xây
dựng thế giới hình tượng trên.
Hình tượng cái tôi là
nhân vật trung tâm của tác phẩm mang vẻ đẹp độc đáo, không lặp lại. Hình tượng
cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện ở các phương diện: Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng cách tân
thi ca; cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén; cái tôi nồng nàn, say đắm trong tình yêu và cái tôi khao khát hướng
tới một thế giới tinh thần "thuần Việt". Hình tượng cái tôi trong thơ
Mai Văn Phấn luôn vận động hướng về phía trước để mang lại cho người đọc những
cảm giác mới lạ, không lặp lại. Hình tượng thế giới chính là sự khúc xạ hiện thực qua lăng kính chủ quan của
nhà thơ. Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện qua các
phương diện cơ bản: Một thế giới của sự viên mãn và thuần khiết; một thế giới
của sự tương giao, hài hòa và một thế giới của cảm giác siêu nghiệm. Để xây dựng
hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới, Mai Văn Phấn đã sử dụng khá đa dạng
và linh hoạt các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Tiêu biểu là cách tổ chức
văn bản, cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và bút pháp tạo hình độc đáo.
Có thể thấy, thế giới nghệ thuật trong thơ
Mai Văn Phấn biến đổi đa dạng, phong phú song vẫn nhất quán ở tinh thần vận
động về cái mới, mở ra một chân trời tiếp nhận rộng rãi cho độc giả.
1.3.2. Những cơ sở hình thành nên
thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn
1.3.2.1. Bối cảnh lịch sử - thẩm
mĩ Việt Nam sau 1975
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực qua các giai
đoạn, thời kì. Các giai đoạn phát triển của nền văn học nước nhà thường gắn
liền với mốc phát triển của lịch sử dân tộc. Văn học và lịch sử dân tộc có mối
quan hệ khăng khít với nhau. Trải qua bao thăng trầm dân tộc, đất nước ta ngày
càng đi lên và cùng với sự phát triển của dân tộc là sự phát triển trong tư duy
của con người.
Năm 1975, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, kết thúc vẻ vang ba mươi
năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc, chấm dứt ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc, thực dân hơn một thế kỷ trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước và đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức: chiến tranh vẫn
tiếp tục (chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam); cơ chế quản lý quan liêu
bao cấp với nhiều di hại nặng nề, chính sách cấm vận của Mỹ... Thời hậu chiến
với những khó khăn chồng chất buộc thơ ca không thể tiếp tục nhãn quan, cảm
hứng và giọng điệu sử thi như trước nữa.
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở
ra một trang mới cho lịch sử đất nước nói chung và văn học nghệ thuật nói
riêng. Công cuộc đổi mới không chỉ làm thay đổi diện mạo đất nước trên bình
diện kinh tế, chính trị, xã hội mà còn làm thay đổi một cách sâu sắc và tác
động trực tiếp đến đời sống văn hóa xã hội, trong đó văn học nghệ thuật cũng
không nằm ngoài guồng quay đó.
Sự nghiệp đổi mới đưa nước ta phát triền hòa
nhập với xu thế chung của thế giới. Công nghiệp hóa, hiên đại hóa đã làm thay
đổi tận gốc nền sản xuất, kiến tạo lại hạ tầng cơ sở xã hội. Kinh tế thị trường
đã tác động nhiều mặt tới đời sống người dân cũng như tới hoạt động sáng tạo
nghệ thuật. Cũng với điều đó, xu hướng toàn cầu hóa kéo theo những thay đổi to
lớn trên mọi lĩnh vực đời sống. Việt Nam từ một nền văn hóa mang đậm tính cộng
đồng, làng quê đang chuyển mình thành một nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Nền
văn hóa đó không những đề cao những giá trị truyền thống, những giá trị cộng
đồng mà còn đánh thức tiềm năng sáng tạo kỳ diệu của con người, thúc đẩy xã hội
đi lên trên cơ sở hình thành ý thức cá nhân hiện đại.
Như vậy, hoàn cảnh lịch
sử - xã hội Việt Nam sau 1975 thay đổi dẫn đến những chuyển biến về mặt tâm lý, lối sống của con người. Sự
chuyển biến về tâm lý, lối sống đã dẫn đến sự thay đổi cách nhìn, quan điểm
thẩm mỹ của các nhà thơ và đây là điều
kiện cho sự xuất hiện thế hệ nhà thơ đổi mới với những cách tân thi pháp.
Trước hết là sự thay đổi trong quan niệm thẩm
mĩ về con người và đời sống. Nếu văn học Cách mạng trước 1975 thường phản ánh
hình tượng con người lớn lao, kì vĩ, đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp cộng đồng,
dân tộc thì thơ sau 1975 thường hướng về con người với những lo toan thường
nhật trong cuộc sống, ở đó, ý thức cái tôi cá nhân được khẳng định mạnh mẽ. Thơ
hướng về hiện thực với những bề bộn, phức tạp như nó vốn có. Đồng thời, thơ
cũng đi sâu vào thế giới bên trong tâm hồn con người. Cùng với xu hướng đưa thơ
về gần với hơi thở của đời sống là xu hướng đi sâu vào vùng vô thức của con
người, gia tăng “chất ảo” trong thơ buộc người đọc phải giải mã các tín hiệu
nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng khác nhau.
Quan niệm về bản chất thơ ca cũng đã có những
thay đổi. Nếu trong văn học trung đại, thi sỹ dùng thơ ca để tải đạo, giáo huấn
thì đến thơ ca hiện đại, nhiệm vụ thơ ca đã có sự thay đổi. Ngoài chức năng xã
hội, chức năng giáo dục, thơ ca còn đề cao chức năng thẩm mĩ. Với quan niệm
này, đề tài, chủ đề thơ sau 1975 trở nên
phong phú và đa dạng hơn. Quan niệm tư tưởng sáng tạo thay đổi, tất yếu kéo
theo sự thay đổi về hình thức, ngôn ngữ, bút pháp tạo hình…. Nhiều nhà thơ mạnh dạn vận dụng các kỹ thuật viết
hiện đại, tiếp thu các khuynh hướng văn học trên thế giới, tạo nên những cách
tân mang tính đột phá trong thi pháp thơ.
1.3.2.2. Sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ đổi mới
Lực lượng chủ đạo của
nền thơ đương đại Việt Nam là thế hệ nhà thơ đổi mới. Thực ra, “thế hệ nhà thơ
đổi mới” là một thuật ngữ có tính quy ước, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ cầm bút sau
1975 và thành danh sau 1986, theo xu hướng đổi mới và cách tân thi pháp. Với ý
nghĩa đó, “thế hệ đổi mới” thực chất bao gồm nhiều thế hệ cầm bút nối tiếp
nhau. Có thế hệ cầm bút trước 1975, nhưng chỉ thực sự gây ấn tượng và được độc
giả rộng rãi biết đến sau 1986 như nhóm tác giả “dòng chữ”: Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, ..., Có những tác giả cầm bút và thành
danh từ thời chống Mỹ song vẫn tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho thơ
sau 1975 như Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Ý Nhi, Thi Hoàng, Hoàng
Hưng... Có thế hệ viết sau 1975 và thành danh sau 1986, còn gọi “thế hệ hậu
chiến” như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Mai Văn
Phấn, Nguyễn Bình Phương, Irasara... Nối tiếp thế hệ trên là sự ra đời thế hệ
nhà thơ trẻ như Nguyễn
Quyến, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Vĩnh Tiến, Ly
Hoàng Ly, Trần Nguyễn Anh, Văn Cầm, Nguyễn Thị Từ Huy,…
Họ là một thế hệ sáng
tạo sung sức và khao khát cách tân, làm mới thơ ca dựa trên những nền tảng dân
tộc. Họ mong muốn được giải phóng khỏi những quan niệm hẹp hòi, khô cứng, để
không còn quá băn khoăn tôi hay ta, hiện thực hay không hiện thực. Họ mải mê ghi
lại những chấn động đột ngột từ tâm hồn, đắm mình trong dòng chảy của cảm xúc, cứ như thế, càng trọn vẹn bao nhiêu,
hoàn hảo bao nhiêu càng thơ bấy nhiêu. Họ
khao khát làm mới thơ từ nội dung đến hình thức thể hiện. Họ cất lên tiếng nói
mạnh mẽ, quyết liệt, nhiều khi gây sốc.
Tóm lại, sự xuất hiện
thế hệ các nhà thơ đổi mới với những cách tân thi pháp đã đưa thơ ca đương đại
Việt Nam bước sang một trang mới. Họ dám chấp nhận thử thách, dám chối bỏ sự
hoà lẫn đơn điệu vào dòng thơ truyền thống với những bạn đọc quen thuộc và
những nhà phê bình quen thuộc để phiêu lưu vào những con đường sáng tạo
mới nhằm đưa lại diện mạo mới cho thơ Việt đương đại. Sau đây là một số
gương mặt nổi bật trong thế hệ nhà thơ sau 1975 – “thế hệ hậu chiến”.
* Nguyễn
Lương Ngọc (1858 –
2001): Ông quê ở Ba Vì, Hà Nội. Sau
khi tốt nghiệp kĩ sư cơ điện, năm 1981 nhà thơ về công tác tại công trường thủy
điện sông Đà, bắt đầu sáng tác thơ. Sau đó, ông theo học trường viết văn Nguyễn
Du rồi làm báo ở Hà Nội. Nhà thơ qua đời ở cái tuổi mà thơ ca còn độ sung sức
nhất, để lại bao dự định ngổn ngang về thơ, về đời. Nhà thơ Dương Kiều Minh đã nhận định: “Anh
để lại cuộc cách tân thơ ca đầy hứa hẹn với triển vọng của một sức bật mãnh
liệt và vạm vỡ, đã gây nên sự chấn động trong giới văn chương và bạn bè”.
Các tập thơ tiêu biểu của ông gồm: Từ
nước - 1990, Ngày sinh lại -
1991, Lời trong lời – 1994.
* Dương
Kiều Minh (1960 – 2012): Nhà thơ Dương Kiều Minh quê huyện Mê Linh, tỉnh
Vĩnh Phúc. Từ 1980-1991, ông công tác tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà - Hòa
Bình. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du khóa III (1986-1989). Từ năm 1991
đến nay, ông công tác tại Sở Văn hóa thông tin, Hội văn học nghệ thuật Hà Tây
(cũ), Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội, phó chủ tịch thường trực Liên
hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Thủ đô. Ông để
lại 7 tập thơ (Củi lửa - 1989, Dâng mẹ - 1990,
Những thời đại thanh xuân -1991, Ngày xuống núi - 1995; Tựa cửa - 2001; Tôi ngắm mãi những ngày thu tận - 2008;
với một số tập bản thảo sau này in trong Tuyển thơ Dương Kiều Minh (2011), 2 tập tiểu luận và một số tùy đàm
văn chương.
* Nguyễn Bình Phương: Sinh năm 1965, quê ở Thái Nguyên. Nguyễn Bình Phương là gương mặt thơ xuất hiện vào
nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cùng một lúc với nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc.
Gắn bó với quân ngũ và sớm bén duyên với văn chương, Nguyễn Bình Phương bắt đầu cho ra mắt những tác phẩm ấn tượng của mình từ
giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Ở thời điểm đó, ông bắt nhịp hết sức nhanh
chóng với không khí sáng tạo ở Trường Viết văn Nguyễn Du, với những tên tuổi
như Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Giáng Vân… nhưng vẫn rất đậm đà tố chất
độc đáo của mình. Gia tài thơ ca của Nguyễn Bình Phương gồm: Lam chướng (1994), Xa
thân (1997), Từ
chết sang trời biếc (2001)
và tập thơ mới nhất, Buổi câu hờ hững (2011).
*
Nguyễn Quang Thiều: Nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 13/2/1957 tại Làng Chùa, Ứng Hòa, Hà Tây (nay là
Hà Nội). Bắt đầu viết văn từ năm 1983, ông đoạt giải thưởng Hội Nhà văn 1993
cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa. Cho
đến nay, Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 10 tập thơ và tuyển chọn trong số đó để
in thành tuyển thơ lần thứ nhất Châu thổ (NXB
Hội nhà văn, 2011). Ông là một trong những gương mặt cách tân nổi bật của thế
hệ thơ Đổi mới. Tập thơ Châu thổ được
tuyển từ 6 tập thơ đã xuất bản của Nguyễn Quang Thiều: Ngôi nhà 17 tuổi (1990), Sự mất ngủ của lửa (1997), Những người đàn bà
gánh nước sông (1995), Nhịp điệu Châu thổ mới (1997), Bài ca những con chim đêm
(1999), Cây Ánh Sáng (2009).
* Inrasara:
Inrasara - nhà thơ dân tộc
Chăm, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tên thật là Phú Trạm, sinh ngày 20 tháng 9
năm 1957 tại làng Chakleng, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ông là nhà thơ,
đồng thời là nhà lí luận - phê bình, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, nhưng ông
thành công hơn ở lĩnh vực thơ ca. Inrasara đã được trao giải thưởng ASEAN 2005
(giải thưởng dành cho những người có đóng góp về văn hoá và văn học của các nhà
văn trong khu vực châu Á). Ông là tác giả của 5 tập thơ nổi tiếng: Tháp nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng (1997), Hành hương em(1999),
Lễ tẩy trần tháng Tư (1996), Chuyện 40 năm mới kể.
1.3.2.3. Quan niệm sáng
tạo của tác giả
Sáng tạo luôn là nhu cầu của người nghệ sỹ. Trần
Thiện Khanh, một nhà phê bình trẻ viết: “Về phương diện lý thuyết, có bao nhiêu
người sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho cùng, mọi quan
niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình độ nhận thức rất khác nhau
của người cầm bút về văn học” [46; 507].
Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ có quan
niệm sáng tạo rất nhất quán và mang tinh thần đổi mới mạnh mẽ. Quan niệm này
được ông thể hiện theo nhiều cách, hoặc trực tiếp qua các tiểu luận văn học và các bài trả lời phỏng
vấn, hoặc gián tiếp qua các sáng tác thi ca. Sau đây là những khái lược quan
niệm về thơ và nhà thơ của Mai Văn Phấn.
* Quan niệm của Mai Văn
Phấn về thơ
Với Mai Văn Phấn, hành trình sáng tạo nghệ thuật là
hành trình gian khổ, đơn độc để đi tìm cái đẹp, và “dù viết theo bất kỳ khuynh
hướng nào, thơ ca luôn mang vẻ đẹp nguyên khởi, nhằm phục sinh, tái tạo thế
giới, mãi đối lập với cái xấu và gian tà. Thơ ca là ánh sáng đẩy lùi bóng tối,
là nước mát làm xanh tươi mặt đất, là vị thuốc chữa lành những vết thương tâm
hồn, đánh thức thiên lương con người để họ không rơi vào vũng lầy tha hóa, sống
nhân hậu thân thiện hơn” [59; 1]. Với tác giả này, thơ ca là CÁI ĐẸP, nơi con
người hướng đến để thể hiện, để thanh lọc tâm hồn và hoàn thiện nhân cách của
mình. Thơ ca được ví như là dưỡng chất để nuôi lớn tâm hồn con người, là vị
thuốc để chữa lành mọi vết thương lòng, là vị thánh cứu rỗi con người và thế
giới. Thơ ca mang trong mình vẻ đẹp quyền năng lớn lao.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: "Thơ ca,
đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con
đường vĩnh cửu của nó, (...) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với
những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con người trần tục của
nhà thơ và con người sáng tạo của anh ta” [71; 15]. Quả đúng vậy! Với Mai Văn
Phấn, “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả...
nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [55; 454]. Hết sức
đề cao việc đổi mới và cách tân thi pháp thơ, ông viết: “Thơ ca càng ảo bao
nhiêu càng đem lại sự chân thật bấy nhiêu..., hiện thực trong thơ được hiện hữu
trong một “mặt phẳng cong”...Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà
chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng”
[55; 400].
Chúng ta đang sống trong xã hội phát triển, ở đó,
sự cách biệt giữa các dân tộc, giữa con người với con người ngày càng xa. Ý
thức đươc điều này, thi sỹ khẳng định: “Thơ ca là cầu nối, là bàn tay chân
thành, giọng nói ấm áp để chúng ta tìm đến nhau, cảm thông, thấu hiểu nhau hơn.
Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn...cũng như
thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của dân tộc ấy. Chúng ta tựa
vào thơ ca để ngày thêm hoàn thiện, thay đổi, lớn lên và bình đẳng giữa các dân
tộc trên trái đất” [59; 1].Ông cũng nhấn mạnh: “Quan niệm mỗi nền thơ chỉ có
giá trị trong ngôn ngữ mẹ đẻ là phiến diện và nghèo nàn, không thể tồn tại lâu
khi những cuộc giao thương, di dân, hội nhập trong lịch sử đã mang đến cho thơ
những quan niêm mới” [59; 1].
* Quan niệm
của Mai Văn Phấn về nhà thơ
Người làm nghệ thuật
luôn mang trong mình khát vọng sáng tạo nhưng mỗi nghệ sỹ lại có những quan
niệm sáng tạo riêng. Với Mai Văn Phấn, sáng
tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển
những giá trị đã định hình mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi là đối lập)
với cái đã định giá. Quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong
thân”, là quá trình phủ định bản ngã: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng
là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách trung
thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa chìa khóa trong một
cái chợ” [55; 399]. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái
mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong
nghệ thuật. Ông cho rằng, bài thơ mà nhà thơ viết ra không còn thuộc về anh ta
nữa mà thuộc về độc giả. Nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong
một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời vì "mỗi bài thơ viết xong hầu
như tồn tại độc lập với người làm ra nó, sự "lưu luyến" hay không xin
dành cho người đọc và thử thách khắc nghiệp với thời gian. Tôi không có thói
quen chiêm bái những con đường cũ của mình,
không "quay vái lạy chiếc áo vừa treo lên giá" [55; 430]. Sáng
tạo luôn đồng hành với việc không ngừng nghỉ trong sáng tác, mỗi đứa con tinh
thần ra đời tồn tại độc lập với những sản phẩm sau đó, “tôi được bài thơ dạy
lại mình cách viết” [55; 441].
Xã hội ngày càng thay
đổi, phát triển kéo theo quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của con người cũng thay
đổi, điều đó đòi hỏi nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi và đổi mới: “ Trách nhiệm
của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình,
nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại” [55; 375], và,
“Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn
quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại
những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn cỗi” [55; 399].
Xuất phát từ những quan
niệm nói trên, Mai Văn Phấn quyết liệt đặt ra vấn đề đổi mới thi pháp thơ: “Đổi
mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm
tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám
phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong
nhịp điệu đời sống hiện đại” [55; 378]. Nhà thơ nếu chỉ để tâm ve vuốt sở thích
của đám đông thì sẽ làm nghèo đi sự phong phú của khu vườn thi ca sinh động.
Mọi người cầm bút đều mong muốn được nhiều bạn đọc chia sẻ, nhưng đây không phải
là cứu cánh của những thi sỹ chân chính. Mai Văn Phấn cho rằng: “Đổi mới thi
pháp trước hết nhằm chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người đọc, tạo
những không gian thơ đa dạng, thiết lập hệ quy chiếu mới trong cách tiếp cận
tác phẩm. Sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay
phát triển những giá trị đã định hình, mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi
đối lập) với cái đã được định giá” [55; 423], và phù hợp “lối tư duy phổ quát,
mạch lạc, tốc độ... họ luôn khao khát những giá trị mới lạ phù hợp với đời sống
hiện đại của độc giả” [55; 423].
Tuy nhiên, với Mai Văn
Phấn, sáng tạo, cách tân không đồng nghĩa với việc cắt đứt với thơ ca truyền
thống. Cách tân là tiếp thu cái truyền thống đồng thời làm mới để tạo nên nét
hiện đại cho truyền thống. Mai Văn Phấn
là người đọc nhiều và rất am hiểu về các xu hướng, trường phái thơ phương Tây
hiện đại, nhưng ông quan niệm học hỏi và sáng tạo chứ không phải bắt chước máy móc. Sáng tạo
luôn đòi hỏi tài năng và bản lĩnh. Chính vì thế, trong một bài thơ của mình,
ông viết: Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển
động (Ngậm em trong miệng).
Là người hành nghề sáng tạo, nhà thơ phải biết dũng cảm rời bỏ bầy đàn và chính mình.
Từ những phân tích trên
ta thấy, Mai Văn Phấn nhà thơ luôn có ý thức quyết liệt đổi mới mình, đổi mới
thi ca. Quan niệm sáng tạo ấy đã phần nào cho thấy bản lĩnh, phẩm chất của thi
sỹ. Đây cũng chính là một cơ sở quan trọng hình thành nên thế giới nghệ thuật
thơ khác biệt, độc đáo của Mai Văn Phấn:
“Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi,
ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định” [55, 447 -
448]. Tất nhiên, từ những quan niệm đến thực tế sáng tác nhiều khi là cả một
khoảng cách đầy thử thách đối người nghệ sỹ sáng tạo.
Chương 2
HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG THẾ
GIỚI
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
Thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn là một chỉnh
thể thống nhất bao gồm các thành tố cấu trúc và quy luật vận động nội tại, thể
hiện quá trình cái tôi nhà thơ nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tưởng
tượng, sáng tạo. Từ góc độ thi pháp, luận văn chúng tôi tập trung tìm hiểu thế
giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn ở hai phương diện: hình tượng cái tôi và hình
tượng thế giới.
2.1. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn
Cái tôi là biểu hiện của
ý thức về con người cá nhân, là sự tự nhận thức của con người về tư cách, nhân
phẩm hoặc giá trị của chính mình trong xã hội.
Mỗi nhà thơ khi sáng tạo
đều thể hiện sự nhận thức của bản thân về cuộc sống hiện thực và nhu cầu bộc lộ
cảm xúc của cá nhân giữa cuộc đời. Hình tượng cái tôi được xây dựng khi nhà thơ
tự ý thức đầy đủ về cá tính năng lực sáng tạo và con đường nghệ thuật của mình.
Có thể, tìm hiểu hình tượng cái tôi ở nhiều cấp độ: bài thơ, tập thơ, nhà thơ,
thời đại. Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn, chúng tôi nghiên cứu hình tượng
cái tôi ở cấp độ nhà thơ thể hiện qua các sáng tác cụ thể. Ở cấp độ này, hình
tượng cái tôi là một kiểu nhân vật trong tác phẩm văn học. Nó là kết quả của sự
khái quát hiện thực, thể hiện cái nhìn của tác giả và gợi lên ở người đọc quan
niệm, nhận thức sinh động về con người và cuộc sống.
Qua thực tế khảo sát văn
bản thơ, chúng tôi nhận thấy hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn có những
đặc điểm nổi bật sau đây:
- Cái tôi giàu khát vọng
và năng lượng cách tân thi ca
- Cái tôi say đắm, nồng
nàn trong tình yêu
- Cái tôi thống nhất giữa lí tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén
- Cái tôi khao khát hướng tới một thế giới
tinh thần lý tưởng “thuần Việt”
2.1.1. Cái tôi giàu khát
vọng và năng lượng cách tân thi ca
Với Mai Văn Phấn, cách tân thơ là điều tất yếu
trong quy luật vận động thi ca, cũng là khát vọng tự thân mãnh liệt của người
nghệ sỹ này. Điều đó được chứng minh qua hành trình sáng tạo của ông. Mỗi tập thơ ra đời
là kết quả của một ý thức tìm tòi, cách tân mạnh mẽ, để không lặp lại người
khác và quan trọng hơn là không lặp lại chính mình. Hành trình ấy cho thấy nhà
thơ không ngừng học hỏi, tiếp thu, thể nghiệm nhiều bút pháp, khuynh hướng sáng
tạo khác nhau, từ nhiều nguồn thi ca trên thế giới. Khát khao làm mới khuôn mặt tinh thần bản thân
và thi ca, cái tôi Mai Văn Phấn không ngại phủ định và tự phủ định, để liên tục
hướng tới những giá trị thẩm mĩ mới. Cái tôi ấy luôn hướng tới mục tiêu cách
tân nghệ thuật, sử dụng nhiều kỹ thuật hiện đại, song luôn tuân thủ mục đích
tạo ra không gian thơ, trường thơ riêng, coi thơ là tiếng nói khai mở một cõi
thế giới riêng của trực giác, tâm linh. Ở đó, thi sỹ tìm về một tiếng thơ
riêng, thuần khiết của người Việt hiện đại.
Nói như vậy cũng có nghĩa là sự đổi mới này,
dĩ nhiên, không chỉ dừng lại ở những thể nghiệm kĩ thuật nhỏ lẻ, thuần túy.
Ngược lại, nó luôn hướng tới và gắn liền với mục đích kiến tạo một quan niệm mĩ
học hiện đại, nhất quán ở nhà thơ. Với Mai Văn Phấn, “Điều quan trọng trước hết
trong sáng tạo là thiết lập không gian... Không gian ấy hàm chứa những vấn đề
lớn tạo nên từ trường ảnh hưởng cho những bài thơ cụ thể sau này. Đó là những ám ảnh cốt lõi về thời đại,
thời cuộc, những quan chiếu, hệ luỵ trong xã hội, thái độ sống, thái độ chính
trị của thi sỹ; một cõi riêng của cảm giác hay linh giác mà người ngoài
không thể dụng ý chạm tới, và cả những vấn đề muôn thuở của văn chương, như
khuynh hướng, giọng điệu, thể loại, tính nhân bản v.v...”[60; 1]. Đặc biệt,
“Không gian sáng tạo này luôn mang giá trị biệt lập, độc sáng, không trùng hợp
với những người khác, và, không lặp lại chính mình. Đây là thử thách lớn nhất
với nghệ sỹ, đặc biệt nhà thơ, vì thường sau mỗi giai đoạn sáng tạo, các nhà
thơ nhìn lại không gian mình vừa trải qua với thái độ tự hài lòng, cảm giác như
mọi góc khuất đời sống, những bí ẩn của tâm trạng đều được ánh sáng thi ca soi
tỏ; nói cách khác, nhà thơ như không muốn nói thêm điều gì, và, cũng thấy mọi
ngả đường phía trước bị bịt lối... Nếu không mở được không gian nghệ thuật khác
tiếp theo, nhà thơ sẽ rơi vào bế tắc, cùn mòn, thấy nặng nề nếu phải cố gắng
nói những điều đã cũ” [60; 1].
Chính quan niệm cách tân mạnh mẽ này đã tạo
nên đặc điểm nổi bật đầu tiên ở hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn: giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi
ca.
Trước hết, hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn
là cái tôi của những tìm tòi, thể nghiệm sáng tạo đa dạng. Trong các
sáng tác trước 1995, như nhận xét của một nhà phê bình, Mai Văn Phấn đã có ý
thức khác đi - so với chính ông và với người khác. Những bài thơ mang đậm dấu
ấn thi pháp truyền thống đã bắt đầu cựa quậy với những dấu hiệu đổi mới trong
thi tứ, thi ảnh. Chẳng hạn:
Tàn mùa chiếc lá lia qua
Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần
Sáng thì làm trăng thượng tuần
Lu thì ghép với mấy lần cong
vênh
(Một
mình)
Hoặc:
Em ngủ say không biết/
anh đang nhìn hạt mưa/ bóng tối xơ xác ngoài cửa sổ/ tán cây đè nặng ngực mình/
.../ Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh/ những đế giày chuẩn bị vỡ
tung/ chân tường mở cánh cửa thoát hiểm/ bụi mưa phùn hay châu chấu bay qua/ cả
ngôi nhà lao đi chóng mặt/ sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh... (Để nhận ra anh).
- Những hạt giống vừa chạm vào ánh sáng / Đã
gặp những gì chẳng thấy trong mơ / Rơm rạ mục dâng lên từ đất ẩm/ Gió xước qua
bụi gai trong lúc giao mùa / Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm / Để lấy đi những
hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi những mùa vàng rạo
rực hiến dâng” (Tự thú
trước cánh đồng).
Ngay trong những sáng
tác ở giai đoạn đầu, thơ Mai Văn Phấn đã đem lại cho người đọc những liên tưởng
mới lạ nhờ các ẩn dụ tinh tế. Chẳng hạn: Vầng trăng em đứng giữa trời/ Để
rơi ngàn mảnh gương ngời mặt sông/ Ngày tràn đêm vỡ lên bông/ Mình ta khua động
cả dòng tịch liêu (Trương Chi) ;
Anh đi níu gió trên trời/ Lùa râm mát tới những nơi em chờ/ ... /
Mắt người buông xuống sông xưa/ Ru con thuyền ấy trong mưa mỏi mòn/ ... (Bâng quơ).
Đấy vẫn là một cái tôi mang trong mình những
vẻ đẹp cổ điển: Em nhòe nắng mới ngây thơ/ Ấm ran khắp tầng vũ trụ/ Anh
thành bông cúc thẫn thờ/ Cuối mùa vàng lên vội vã (Cuối xuân đầu hè), nhưng
không nằm im trong khuôn khổ mà luôn cựa quậy tìm lối, chuyển động: “Lỡ vin
vào bóng mây qua / Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò / Đầu kim tựa có ai chờ/
Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa” (Gom nhặt cuối mùa). Con người luôn tìm cho
mình một lối đi riêng với khát vọng thay đổi: “Những hạt giống vừa chạm vào
ánh sáng / Đã gặp những gì chẳng thấy trong mơ / Rơm rạ mục dâng lên từ đất ẩm
/ Gió xước qua bụi gai trong lúc giao mùa / Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm /
Để lấy đi những hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi
những mùa vàng rạo rực hiến dâng” (Tự thú trước cánh đồng).
Có thể thấy, cái tôi trong sáng tác ở giai
đoạn đầu của nhà thơ vừa mang vẻ đẹp của cái tôi truyền thống vừa có dấu hiệu
bắt đầu cựa quậy để bứt phá, đổi mới.
Từ 1995 đến 2000, thơ Mai Văn Phấn cách tân
thi pháp mạnh mẽ. Khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề rộng, bề xa” buộc
phải đổi mới cách nhìn, cách lí giải về hiện thực. Hình tượng cái tôi trong thơ
Mai Văn Phấn giai đoạn này là sự “cộng hưởng” của ý thức cá nhân và tinh thần
công dân, dân tộc được thể hiện ấn tượng qua hệ thống hình ảnh, ngôn từ mới,
lạ:
Nghe trong đám đông cộng hưởng những giai
điệu cá tính, tựa hào quang hắt lên từng khuôn mặt, đan xen nhau rồi kết thành nhọn tháp.
Ở đó qua chuông trái tim đã được kéo lên…
Cá tính hòa đồng với quy luật thiên nhiên,
cho ta nhịp nhàng, cho ta nguôi ngoai, cho ta thổn thức…
Tuân theo luật mà dồi dào cá tính. Cái Tôi
tận cùng dẫn tới cái ta”
Hay:
“Cộng hưởng cùng bạn bè, đồng chí, vợ
con…Cùng giấc mơ trước thềm thế kỉ, để không còn những ngón tay rã rời (ngón
duy cảm, ngón thì duy lý). Mà tất cả là những ngón tay chân thực, hòa đồng trên
một bàn tay.” (Cộng Hưởng II)
Không dừng lại cái tôi với những khát vọng
của đời sống hiên hữu, nhà thơ còn muốn “hóa thân” để được sống lại với những
cảm giác vô thức trong từng giấc mơ – hay chính là những suy tư của con người,
thông qua tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Đây là giai đoạn cách tân
mạnh mẽ của nhà thơ với nhiều thử nghiệm bút pháp hiện đại: tượng trưng, siêu
thực, tân hình thức… Xin lấy ngẫu nhiên một bài thơ để chứng minh - Ngậm em trong miệng:
Luôn tin có em trong miệng
Nơi không chiến tranh, dịch hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, lừa lọc
Lối em đi không còn gai nhọn
Bão tràn qua anh dựng tường ngăn
Bình yên trong miệng anh
Em thúc nhẹ bờ vai
Vòm ngực, ngón chân vào má
Huyên thuyên và hát thầm
Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể
Anh là con cá miệng dàn dụa trăng
Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động
Đấy là một hình tượng thơ độc đáo. Cái tôi
trữ tình “Luôn tin có em ở trong miệng”,
để có thể che chở, bao bọc em khỏi một thế giới đầy rẫy dịch hạch, thị phi. Có
lẽ, sự hy sinh của anh đã được em đền đáp xứng đáng: Em thúc
nhẹ bờ vai/ Vòm ngực, ngón chân vào má - siêu thực, mộng mơ nhưng lại rất
thực. Đặc biệt là hình ảnh: Anh là
con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động… Ở
đây, cái
tôi đang có một hành động quyết liệt “rời bỏ bầy đàn”, để khẳng định
mình trong
một thế giới đầy biến động. Chỉ một từ “quẫy” đã làm bật nổi sự khó
khăn khi rời bỏ đám đông rời bỏ những bộ đồng phục tinh thần, tư
tưởng, để có thể đạt tới tự do sáng tạo. Ta cũng có thể thấy rõ điều này
qua
nhiều tác phẩm khác: Chỉ là giấc mơ, Kể lại giấc mơ, Giấc mơ vô tận, Quay
theo mái nhà, Bài học, Hội chứng từ một tin đồn, Tỉnh táo tột cùng,..
Về diện mạo cách tân của thơ Mai Văn Phấn,
một nhà phê bình đã nhận định: “Có thể thấy thơ Mai Văn Phấn là một hành trình
liên tục cách tân, tìm tòi. Vượt lên những hạn chế nhất định, mỗi giai đoạn
sáng tác của ông đều ghi dấu bằng những tác phẩm đáng chú ý. Ý thức học hỏi
nghiêm túc hướng về những nền thơ lớn trên thế giới, đặc biệt là thơ Âu – Mỹ
hiện đại, cộng với “tham vọng” hướng tới xây dựng một tiếng thơ Việt “thuần
khiết” là động lực thúc đẩy ông không ngừng hăng hái tìm kiếm và thử nghiệm. Dĩ
nhiên, song song với việc tiếp thu có chọn lọc là ý thức xây dựng một thẩm mĩ
quan cá nhân độc lập. Bởi vậy, thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng
song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất,
khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [62; 3].
Quả đúng như vậy.
2.1.2. Cái tôi say đắm,
nồng nàn trong tình yêu
Bên cạnh cái tôi tràn
đầy năng lượng và khát vọng cách tân nghệ thuật, hiện diện trong thơ Mai Văn
Phấn còn là một cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu.
Thực ra, tình yêu là một
đề tài vĩnh cửu. Trong phong trào Thơ Mới, đã xuất hiện nhiều nhà thơ tình xuất
sắc như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu...Trong đó,
Xuân Diệu từng được mệnh danh “nhà thơ
tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “vị
hoàng tử của thi ca Việt Nam trên lĩnh vực thơ tình” (Đoàn Thị Đặng Hương).
Với Xuân Diệu, yêu là sự hòa cảm, sự sát kề của hai thể xác:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực.
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt.
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng
Trong say sưa anh sẽ bảo em rằng:
Gần thêm nữa! Thế vẫn còn xa lắm!
(Xa cách)
Ý thức “Yêu là chết trong lòng một ít” nhưng thi
sỹ vẫn lao vào để “yêu”, “được yêu”, “mời yêu”. Ông nồng nàn và quyết liệt
khẳng định:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào
Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa
Cho từng tia mắt đọ tia sao
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Có thể thấy, cái tôi
nồng nàn nhục cảm trong thơ Xuân Diệu thường được bộc lộ qua các hành động thụ
hưởng trực tiếp về thân xác (ôm, riết,
hôn, say...). Khao khát mãnh liệt nên cái tôi Xuân Diệu luôn giục giã, vội
vàng “gấp đi em!”, “gần thêm nữa, thế vẫn
còn xa lắm!” (Xa cách), kêu gọi “phải
nói yêu trăm bận đến ngàn lần” (Phải nói), năn nỉ, van xin “mở miệng vàng, và hãy nói yêu tôi/ Dẫu chỉ
là trong một phút mà thôi!” (Mời yêu).
Cái tôi trong thơ Xuân
Diệu thể hiện tình yêu thật mạnh mẽ, nồng nàn. Còn trong thơ Mai Văn Phấn, điều
đó được thể hiện như thế nào?
Thơ Mai Văn Phấn viết về
tình yêu đậm tính dục nhưng không hề tạo ra cảm giác trần trụi, thô tục, ngược
lại vẫn giữ được nét kín đáo mà không kém phần mãnh liệt, thông qua các biểu
tượng, hình ảnh giàu sức liên tưởng. Bài thơ Gió thổi sau đây là một ví dụ tiêu biểu:
Chúng mình hôn nhau trong hành lang hẹp
trên cỏ xanh, trong những góc tối
trên tháp chuông, bên gốc cây cổ thụ...
Bốn bề nước tràn ướt chân
lúc ấy gió thổi rất mạnh
Con sâu đo em đu lên người anh
thì thầm gặm hết những xanh non
Con ong vẫn nhởn nhơ bay
thác đổ đều đều, mưa rơi rất chậm
nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một phía.
(Gió thổi)
Cái tôi nhà thơ khát khao giao cảm, khát khao thể
hiện xúc cảm tình yêu trong mọi không gian: “hành lang hẹp”,“bên gốc cây cổ thụ”,“những góc tối”,... Tình yêu
được thể hiện mạnh mẽ qua những nụ hôn nồng nàn, say đắm. Trong những cảm xúc
thăng hoa, Em biến thành “con sâu đo đu
lên người anh” để “gặm” tất cả
những gì “ xanh non”. Động từ “gặm” được sử dụng rất tài tình: em
cảm nhận cơ thể anh, hòa vào cơ thể anh và muốn tận hưởng cảm giác đó thật lâu,
mãi mãi.
Với con mắt nhân sinh –
thẩm mĩ hiện đại, nhà thơ không ngần ngại mô tả tình yêu gắn liền với tính dục,
với những khát khao nhục cảm. Tính dục không đơn thuần chỉ tồn tại ở con người
mà tồn tại ở mọi sinh vật trong vũ trụ. Mai Văn Phấn thường sử dụng những hình
ảnh thiên nhiên, mùa màng, sự kết giao, sinh nở của vạn vật để diễn tả về tình
yêu đôi lứa của con người. Đó là một tình cảm mang tính phổ quát, thể hiện sự
hợp nhất cao độ giữa các mặt đối lập Âm – Dương, Đất – Trời, Sáng – Tối...,
mang đậm tính triết học:
Vươn thẳng
Tán cây quang hợp mặt trời
Lá chồng lên nhau hoan hỉ
Bật dậy thở chung dòng nhựa
Máu từ đất đau chảy qua bàn chân
Do đó, cảm xúc ấy có thể
hết sức mãnh liệt:
Nhoài lên mỏn đá sắc
Thân thể gió trầy xước
...
Giang tay núi đạp chân vào đất
Vò nát
Xé toang thân gió
Ánh sao rơi
Buổi sớm vỡ òa
Mà cũng rất đỗi tinh tế,
gợi cảm:
Đu cành cao
Chạm ngực em trái chín
Thân bỏng rát
Anh sấm rền gót
chân
Trái chín bay chậm buông thõng