MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn.
7. Cấu trúc của luận văn.
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Bối cảnh sáng tạo của thơ Mai Văn Phấn
1.1.1. Sự xuất hiện của một thế hệ nhà thơ khao khát cách tân thi pháp những năm Đổi mới.
1.1.2. Sự hình thành khuynh hướng đào sâu vào bản thể của cái tôi trữ tình.
1.1.3. Sự ý thức sâu sắc về tính sống còn của những tìm tòi hình thức.
1.1.4. Sự mở rộng giao lưu với các nền thơ thế giới.
1.2. Thơ Mai Văn Phấn: những trăn trở không ngừng xoay quanh hai chữ “sáng tạo”
1.3. Thơ Mai Văn Phấn: cuộc hành hương gập ghềnh về cõi riêng
1.4. Thơ Mai Văn Phấn: khúc ca đắc thắng của lý trí
Chương 2. DẤU ẤN CỦA NHỮNG KIỂU CẤU TỨ TRUYỀN THỐNG TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Khái niệm cấu tứ và nghệ thuật cấu tứ
2.1.1. Khái niệm cấu tứ.
2.1.2. Nghệ thuật cấu tứ.
2.2. Những kiểu cấu tứ quen thuộc trong thơ
2.2.1. Cấu tứ dựa trên mô hình cấu trúc phổ quát của bài thơ.
2.2.2. Cấu tứ dựa trên đặc trưng cấu trúc của thể thơ và đặc trưng của một số biện pháp nghệ thuật trong thơ.
2.3. Sự tiếp biến những mô hình cấu tứ truyền thống trong thơ Mai Văn Phấn
2.3.1. Sự tiếp biến mô hình cấu tứ truyền thống ở chặng đường thơ thứ nhất (từ khởi đầu đến năm 1995).
2.3.2. Sự tiếp biến mô hình cấu tứ truyền thống ở chặng đường thơ thứ hai (từ 1995 đến năm 2000).
2.3.3. Sự tiếp biến mô hình cấu tứ truyền thống ở chặng đường thơ thứ ba (từ 2000 đến nay).
Chương 3. NHỮNG KIỂU CẤU TỨ ĐẶC THÙ CỦA THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1. Cấu tứ theo dòng trôi của cảm giác
3.1.1. Cảm giác và cảm xúc trong thơ.
3.1.2. Những luồng chảy bất tận của cảm giác trên dòng cấu tứ thơ Mai Văn Phấn.
3.1.2.1. Cảm giác bi quan, hoài nghi đầy âu lo.
3.1.2.2. Cảm giác bí bách, chật vật.
3.1.2.3 . Cảm giác mệt mỏi, chán chường, bất lực rồi buông xuôi.
3.1.2.4. Cảm giác hoang mang, bất an, rối bời không lối thoát.
3.1.2.5. Cảm giác hồi sinh, tràn đầy tin yêu, hy vọng.
3.1.2.6. Cảm giác an nhiên, bình yên và tĩnh lặng.
3.2. Cấu tứ dựa trên quan hệ liên văn bản
3.2.1. Liên văn bản và liên văn bản trong thơ.
3.2.2. Những “khớp nối” đa chiều được phát hiện từ quan hệ liên văn bản trong cấu tứ thơ Mai Văn Phấn.
3.2.2.1. Cấu tứ dựa trên quan hệ liên văn bản tự phát.
3.2.2.2. Cấu tứ dựa trên quan hệ liên văn bản tự giác.
3.3. Cấu tứ dựa trên việc triển khai những cuộc đối thoại
3.3.1. Đối thoại và đối thoại trong thơ.
3.3.2. Những điểm “chập – nổ” được châm ngòi từ các cuộc đối thoại giữa dòng cấu tứ thơ Mai Văn Phấn.
3.3.2.1. Đối thoại với thế giới.
3.3.2.2. Đối thoại với người đọc.
3.3.2.3. Đối thoại với chính mình.
3.4. Sự chú ý đồng bộ giữa cấu tứ từng bài với cấu tứ toàn tập thơ
3.4.1. Bài thơ, tập thơ như là khuôn mặt, hình hài của người sáng tác.
3.4.2. Sự ý thức cao độ về “điểm hẹn”của cấu tứ từng bài với cấu tứ toàn tập trong thơ Mai Văn Phấn.
3.4.2.1. Sự đồng bộ cấu tứ trong tập và đột nhiên gió thổi.
3.4.2.2. Sự đồng bộ cấu tứ trong tập Bầu trời không mái che.
3.4.2.3. Sự đồng bộ cấu tứ trong tập hoa giấu mặt.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Phan Huy Dũng (trái) và Th.sỹ Nguyễn Tiến Lượng trong ngày bảo vệ LVTS, 30/10/2015
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mai Văn Phấn là một hiện tượng tiêu biểu của nền thơ Việt Nam sau 1975. Chưa bao giờ chúng ta thấy được một không khí thơ ca sôi nổi như bây giờ. Bối cảnh đất nước, thời đại, điều kiện lịch sử - kinh tế, văn hóa với nhiều biến chuyển tích cực đã làm nảy sinh một thế hệ những nhà thơ đầy tài năng, có thể kể đến Ý Nhi, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Vi Thùy Linh, Phan Thị Vàng Anh, Nhóm Ngựa trời, Nguyễn Ngọc Tư… và dĩ nhiên trong đó có Mai Văn Phấn. Ông được xem như là một hiện tượng thơ tiêu biểu với nhiều thể nghiệm, tìm tòi, sáng tạo nhằm cách tân thơ ca, đem đến những cách cảm, cách nghĩ mới cho độc giả, giúp họ dần vượt lên trên cách đọc truyền thống đã “cố định hóa” đối với văn học Việt (nói chung) và thơ ca Việt Nam (nói riêng). Mỗi một giai đoạn sáng tác, một Mai Văn Phấn đầy khác biệt xuất hiện và ngày càng khác lạ. Mai Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình một tư duy thẩm mỹ mới, và điều đáng mừng là ông đã thành công, được khẳng định, được dư luận hoan nghênh, đánh giá cao. Dĩ nhiên, để làm được điều đó không hề dễ dàng chút nào, 12 tập thơ của Mai Văn Phấn là minh chứng rõ ràng nhất.
1.2. Thơ Mai Văn Phấn là chân trời của những tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ. Bắt đầu từ tập thơ “Giọt nắng” được xuất bản năm 1992 tại Hải Phòng cho đến “hoa giấu mặt”, “Vừa sinh ra ở đó” (những năm 2012-2013)… Mai Văn Phấn lần lượt ghi tên lên nền thơ Việt một cách tự tin bằng các dấu mốc quan trọng với nhiều những điểm “khởi động” mới lạ. Độc giả, giới nghiên cứu phê bình, các cuộc hội thảo, tranh luận sôi nổi gần đây đã giành một sự quan tâm lớn đến thơ ông. Họ nhìn nhận, đánh giá, khen – chê nhiều mặt song tập trung nhất vẫn là ghi nhận những đóng góp, thể nghiệm về mặt thi pháp thơ Mai Văn Phấn. Bởi không ai có thể phủ nhận một điều rằng 12 tập thơ đã xuất bản của ông đều là những nỗi ám ảnh, ám ảnh về sự khác lạ. Thơ ông là một sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo. Đó là một hành trình dài, không ngừng nghỉ.
1.3. Tìm hiểu nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn là tìm hiểu con đường tạo nên phong cách riêng, độc đáo trong thơ ông. Cấu tứ chính là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc sáng tạo thơ ca của người nghệ sĩ, vai trò của nó được thể hiện trên nhiều bình diện của sáng tác kể từ khi mà tác phẩm “thai nghén” cho đến lúc một tập thơ nằm gọn trong tay độc giả. Bất kỳ một thi nhân nào cũng đều cố gắng rượt đuổi để tìm, để ngẫm cho ra cái “tứ” ẩn dấu sâu kín dưới các tầng ngôn ngữ dày đặc. Hiểu được điều này, Mai Văn Phấn đã nỗ lực tạo ra cho mình một kiểu “cấu tứ” riêng, đưa “cấu tứ” làm thành dấu hiệu tạo nên một phong cách riêng, độc đáo. Độc giả đọc thơ ông cũng liên tục “nhảy sào”, “vượt chướng” để tìm ra cấu tứ thật sự, xem đó là một trong những con đường rộng mở để khám phá, tìm hiểu và đánh giá thơ ông..
1.4. Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có tính hệ thống về nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn. Vì vậy, công trình này mong muốn đưa đến một cách nhìn nhận mới, góp phần làm sáng tỏ những đổi mới về nghệ thuật cấu tứ, cho thấy được sự sáng tạo, thể nghiệm mới lạ về thi pháp thơ và tài năng của Mai Văn Phấn, giúp độc giả và các nhà nghiên cứu đến gần hơn với thơ ông.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Sự xuất hiện của hiện tượng Mai Văn Phấn với những sáng tác thơ ca độc đáo đã nhanh chóng thu hút dư luận, tạo ra sự hứng thú cho các nhà nghiên cứu, phê bình và độc giả. Có lẽ chính vì thế mà ngay khi Mai Văn Phấn vừa cho xuất hiện trên thi đàn “những đứa con tinh thần” đầu tiên của mình thì nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình đã dành cho người thơ này một sự chào đón nồng nhiệt. Đặc biệt là giai đoạn từ năm 2009 đến nay, khi ông liên tiếp công bố 3 tập thơ mới là Hôm sau, và đột nhiên gió thổi và Bầu trời không mái che với nhiều thể nghiệm mới về thi pháp thì giới phê bình cả trong và ngoài nước đều ngạc nhiên trước sức sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ của nhà thơ.
Có thể nói, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá lớn. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, tính cho đến thời điểm này đã có đến hơn một trăm bài viết về thơ ông ở nhiều thể loại: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình...
2.1. Các bài viết dựng chân dung người thơ Mai Văn Phấn
Trong số các bài viết về Mai Văn Phấn, đầu tiên có thể kể đến bài Người đứng trước những con sóng của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Ở đó, ông nhận định: “Mai Văn Phấn là một trong rất ít người đã luôn luôn tìm cách đặt mọi giọng nói, mọi ngôn từ, mọi nghi lễ, mọi đồ vật và mọi khả năng sống vào một hệ thống chính xác của tư duy và của thời gian… Mai Văn Phấn đã sống đúng. Mai Văn Phấn đã thực thi đầy đủ nghĩa vụ của một công dân cùng với bao nhiêu người khác. Nhưng sau đó, Mai Văn Phấn đãmột mình lặng lẽ lên đường, con đường của sự sáng tạo không ngưng nghỉ. Và trên con đường ấy, Mai Văn Phấn biết rõ rằng chỉ có một mình anh. Người bạn đồng hành duy nhất của anh là khát vọng sáng tạo và những bí ẩn của ngôn từ. Bởi với một thi sỹ, trong tận cùng của im lặng người lại nghe thấy mọi điều” [100].
Nguyễn Tham Thiện Kế trong bài viết Chàng thi sĩ đi bên bờ sóng đã nhận định rằng: “Mai Văn Phấn lững thững đi bên mép sóng biển đông bắc trong đêm trăng suông bạc trắng. Dấu chân tiếp dấu chân cô độc trên cát, phút chốc sóng biển đã xoá nhoà, phẳng mịn. Những dấu chân còn vong thân huống hồ sự đổi mới, cách tân thơ của thiên niên kỷ mới, chàng Mai Văn Phấn không vong thân, thì làm sao có một Mai văn Phấn đang đi bên lệch cả miền sóng?” [37].
Cao Năm trong bài Nhà thơ Mai Văn Phấn – hiện thân của sự sáng tạo đã khẳng định: “Khép lại vài ý kiến tản mạn của mình, tôi chỉ muốn nói rằng, 20 năm đọc thơ, dõi theo con đường thơ Mai Văn Phấn, điều tôi nhận ra ở nhà thơ đầy năng động này là một bản lĩnh sáng tạo luôn kiên định con đường mình đi, dù biết trước là đầy chông gai, đau đớn và cả tai tiếng, nhưng đấy đích thực là con đường của riêng mình, khoảng trời của riêng mình, để từ đấy có thể góp được cái gì đó vào bầu trời cao xanh vời vợi của muôn loài. Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo! Chính anh trong cuộc trò chuyện mới rồi cũng nói với tôi, dẫu đã in thơ tuyển, nhưng con đường sáng tạo vẫn luôn ở phía trước, bài thơ mới vẫn ở phía chân trời!” [58]. Còn trong bài Mai Văn Phấn và một kỷ lục thơ ông lại nhấn mạnh: “Tôi thật ngỡ ngàng, vì một năm in được một tập thơ đã là cực khỏe; chắc chắn đó là điều đặc biệt với một nhà thơ trong thời buổi kinh tế thị trường này. Tôi đùa vui, có lẽ chưa có một nhà thơ nào ở xứ ta lập được một kỷ lụcnhư thế, thì đã thấy Mai Văn Phấn nhanh nhẹn lục trong giá sách, giây lát cầm mấy cuốn đến bàn làm việc, lại lúi húi ghi lời đề tặng vào từng cuốn sách, rồi mang đến bàn nước tiếp tục thực hiện nghi lễ tặng sách cho tôi…” [57].
Nguyễn Hiệp trong bài viết Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo cũng khẳng định: “Tôi cũng nhận thấy cái ngó sen mạnh mẽ Mai Văn Phấn trong hành trình vượt thoát về phía trong veo đã đôi lần lạc vào những lưỡng lự lựa chọn các lớp xác chết bùn lầy… Ngoi tìm và lầm lạc cũng là tất yếu thôi, có khi chính nhờ thái độ dấn thân ấy mà chúng ta có Mai Văn Phấn rất sen bây giờ…” [28].
Vân Long trong bài Mai Văn Phấn, người lữ hành vượt qua sa mạc khẳng định: “Mai Văn Phấn là một trường hợp thật riêng khác mà phải qua một quá trình dài ta mới nhận ra, bởi anh luôn không chịu ổn định một phong cách nào, luôn tự phá vỡ thế đứng ngỡ như tạm ổn định để bước sang một giai đoạn thể nghiệm mới… Một nhà thơ dễ bằng lòng với mình, sẽ kéo dài giai đoạn này có thể vẫn là một tên tuổi sáng giá. Nhưng Mai Văn Phấn, ngược với vẻ ngoài thư sinh, anh là người say mê leo núi, vượt biển không biết mỏi, mục tiêu luôn ở phía chân trời…” [53].
Anh Thơ trong bài viết Mai Văn Phấn – người “đi quanh con chữ” đã đưa ra nhận định: “Có thể thấy chung quanh cuộc kiếm tìm đi vòng quanh con chữ, Mai Văn Phấn ngày mỗi ngày thể hiện rất rõ phẩm chất không tự bằng lòng với mình… Do vậy, đi quanh con chữ để tìm thơ của riêng mình nhưng trụ lại được trong lòng bạn đọc vẫn là điều Mai Văn Phấn mải mê trong cuộc hành trình thơ không mệt mỏi” [101].
Có thể nói, các bài viết đều tập trung thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng nhà thơ Mai Văn Phấn. Qua những nhận định trên, ta thấy ông hiện lên với tầm vóc của một nghệ sĩ luôn khát khao, say mê trên hành trình sang tạo thơ ca.
2.2. Các công trình nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn
Thơ Mai Văn Phấn đã tạo ra một không khí mới cho nền văn học Việt Nam hiện đại, trở thành đối tượng của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Theo tài liệu tôi tìm được trên các trang báo điện tử, đã có rất nhiều bài viết về thơ Mai Văn Phấn được đăng tải, bàn luận về nhiều khía cạnh khác nhau, về cả tập thơ và những bài thơ đặc sắc. Tiêu biểu có thể kể đến như:
Nguyễn Thanh Tâm trong bài viết Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của ký ức và tưởng tượng, những chất chồng, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể dứt ra được. Thành thử ta cứ phải nghĩ, phải tương tư, và mỗi ngày ta lại phát hiện ra trong thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn những vẻ đẹp khiến lòng ta phải rung động…” [91].
PGS.TS Đào Duy Hiệp trong bài Mai Văn Phấn - những chặng đường sáng tạo thơ đã kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [27].
Nguyễn Hoàng Đức trong bài viết Mai Văn Phấn, ngòi bút phiêu lưu giữa những biến cố của tâm hồn đã nhận định: “Mai Văn Phấn quả xứng đáng là nhà thơ hiện đại. Theo cách rằng: các nhà thơ cổ điển dùng chữ để biểu hiện cuộc nhào lộn của tu từ pháp. Còn nhà thơ hiện đại dùng chữ để biểu tỏ ý nghĩa của mình, hay cái mình muốn nói…” [18].
Vũ Quần Phương trong bài viết Mai Văn Phấn – một hướng tìm nhận định: “Mai Văn Phấn không đi vào những việc cụ thể, không khai thác sự kiện mà ưa phát hiện vấn đề, nghĩ ngợi và triết luận thế sự. Anh ít miêu tả lại không hay dãi bày vui buồn trực tiếp. Anh thích suy nghĩ bằng những hình ảnh có tính ấn tượng nên thơ anh không dễ đến với đông đảo. Hơn nữa, những vấn đề anh chạm tới lại không phải những việc thời sự trực tiếp nẩy sinh từ đời sống cụ thể. Nó cách bức với cuộc đời bằng một sự nghiền ngẫm, đôi khi tư biện. Độc giả của anh thường là người nghĩ ngợi trìu tượng, thích phát hiện những sự kiện nội tâm, những quy luật xã hội lẩn khuất. Mối tương quan những ý thơ trong bài nhiều khi rất lỏng lẻo, nhưng đặt vào một hướng cảm xúc nó sẽ chụm…” [84].
Nhà phê bình Trần Thiện Khanh trong bài viết Tư duy về thơ: trường hợp Mai Văn Phấn đã đưa ra quan điểm: “Có thể nói Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm chuyển đổi. Tư duy Mai Văn Phấn luôn nắm bắt, thậm chí quy chiếu mọi thứ có giá trị vào những trạng thái có tính chất bước ngoặt, đột biến, bứt phá, mở đường, những cuộc cách mạng, những điểm chập nổ, sự đổ vỡ những giá trị cũ, thường xuyên hướng đến những chuyển động lệch nhịp của thơ ca” [40].
Đặng Thân trong bài Mai Văn Phấn và công nghệ cách tân thơ đã kết luận: “Thơ Mai Văn Phấn chan chứa cả trời vô thức. Ngôn từ mà Mai Văn Phấn đã ghi lại ấy xứng đáng được đi vào thơ ca Việt, vào văn học sử như một dòng thơ cách tân mãnh liệt nhất. Ngôn ngữ thơ ấy chưa ai từng viết. Nó mới lạ đến từng từ…” [99].
Các bài viết tuy chưa khái quát hết tất cả các phương diện nội dung và nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn nhưng lại là những gợi dẫn quý báu cho hoạt động tiếp nhận của độc giả và cả hoạt động nghiên cứu, phê bình…
2.3. Các công trình nghiên cứu về nghệ thuật, (liên quan đến) nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn
Lê Hồ Quang trong bài viết Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn đã nhận định: “Tương ứng với một thế giới động, đậm tính siêu thực, thơ Mai Văn Phấn đặc biệt chú trọng kiểu kết cấu mở. Đấy là một kiểu kết cấu hiện đại, ở đó bài thơ được tổ chức như một cấu trúc vận động, không mang tính hoàn tất, khép kín về nghĩa như trong kiểu kết cấu cổ điển… Xa hơn, nỗ lực tìm kiếm, nắm bắt tiếng nói vô thức, tâm linh, vốn “bất tuân” mọi khuôn khổ, trật tự hữu lí, cũng làm xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn những đặc điểm văn bản khác lạ… Nhu cầu đào sâu, mở rộng, làm đa dạng hóa tiếng nói tinh thần cá nhân hiện đại trong thơ cũng tạo nên xung lực mạnh mẽ làm “rạn vỡ” đường biên ranh giới thể loại thơ – văn xuôi trong sáng tác của Mai Văn Phấn…” [85].
Trong luận văn của mình, học viên Vũ Thị Thảo cũng kết luận: “Nói về nghệ thuật ngôn từ, Mai Văn Phấn tỏ ra nhuần nhuyễn trong việc sáng tạo ra thứ ngôn ngữ chắt lọc, cô thấu và tinh tế nhưng ông cũng không bỏ qua thứ ngôn ngữ đời thường giản dị như chính cuộc sống của thi nhân. Đặc biệt, nhà thơ đã khá thành công khi tạo ra sự khác biệt cho thơ mình bằng việc vận dụng tối đa hệ thống ngôn từ tạo sinh nghĩa với đầy ắp những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ và tượng trưng. Với phương châm sáng tạo này, Mai Văn Phấn đã tạo ra được tính chất mở, tính đa thanh, đa nghĩa cho tác phẩm văn học và kêu gọi người đọc đồng sáng tạo với nhà thơ…” [98].
Nguyễn Quang Hà trong luận văn Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấnkết luận: “Với những tìm tòi và cách tân về cấu trúc thơ, hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ thơ, tạo cho mình một giọng điệu thơ riêng, Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ mới có thể chuyển tải được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng với nhiều cung bậc tình cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức trách nhiệm với con người và cuộc sống, phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội. Con đường cách tân thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn đã bước đầu được đón nhận và đã tạo ra được những ảnh hưởng nhất định tới hành trình cách tân thơ Việt hôm nay và sau này…” [23].
Trên đây, chúng tôi đã điểm lại những bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị đã đánh giá, nhìn nhận về nhiều vấn đề trong thơ Mai Văn Phấn. Các tác giả như: Cao Năm, Trần Thiện Khanh, PGS.TS Đào Duy Hiệp, Nguyễn Hiệp, Nguyễn Thanh Tâm – Ngô Hương Giang… đã giành rất nhiều tâm huyết nghiên cứu về Mai Văn Phấn và thơ của ông. Qua các bài viết, các công trình đó, có rất nhiều những điều được phát hiện, được đánh giá nhận xét công phu. Nhưng cũng còn nhiều điều chưa được làm rõ, thậm chí mới chỉ ở dưới dạng giới thiệu, tản mạn, bình tán… Nhất là trong việc nghiên cứu về mặt nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu thích đáng. Thế nhưng các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết trước lại là những gợi ý quý giá để chúng tôi mạnh dạn đưa ra những kiến giải riêng với hy vọng góp một cách nhìn đầy đủ hơn, tiếp tục đi sâu hơn trong việc nghiên cứu về nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn, xây dựng công trình bài bản, công phu góp phần khẳng định được những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại cũng như khẳng định sự thành công của thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cách tân của Việt Nam sau 1975.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghệ thuật cấu tứ trong thơ của Mai Văn Phấn.
3.2. Phạm vi tài liệu khảo sát
Nghiên cứu về nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn, luận văn khảo sát công trìnhThơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội nhà văn, 2011, Hà Nội. Cùng với đó là nghiên cứu, khảo sát các tập thơ đã xuất bản: Giọt nắng (1992), Nxb Hội Văn nghệ Hải Phòng; Gọi xanh (1995), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội; Cầu nguyện ban mai (1997), Nxb Hải Phòng; trường ca Người cùng thời (1999), Nxb Hải Phòng; Nghi lễ nhận tên (1999), Nxb Hải Phòng, Vách nước (2003), Nxb Hải Phòng; Hôm sau (2009), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội; và đột nhiên gió thổi (2009), Nxb Văn học, Hà Nội; Bầu trời không mái che (2010), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tập thơ hoa giấu mặt (2012), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội và một số bài tiểu luận cùng rất nhiều bài trả lời phỏng vấn của Mai Văn Phấn được đăng trên các báo, tạp chí. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo thêm một số bài thơ Mai Văn Phấn mới sáng tác.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau:
4.1. Đưa đến cái nhìn khái quát về đặc trưng nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
4.2. Làm rõ dấu ấn của những kiểu cấu tứ truyền thống trong thơ Mai Văn Phấn.
4.3. Phân tích những kiểu cấu tứ đặc thù của thơ Mai Văn Phấn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và triển khai đề tài này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê - phân loại: Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những nhận xét về thơ Mai Văn Phấn có chứng cứ cụ thể. Việc so sánh, đối chiếu cũng sẽ dễ dàng và có sức thuyết phục cao hơn.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Nhằm phát hiện những nét độc đáo riêng biệt của thơ Mai Văn Phấn so với các nhà thơ khác, sự phát triển trong hành trình cách tân thơ của ông. Đặc biệt là nhìn ra được đặc trưng trong nghệ thuật cấu tứ thơ Mai Văn Phấn
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn nhất thiết phải đặt nó vào một hệ thống nhất định để có được một cái nhìn đầy đủ, rành mạch, cho thấy được quá trình đi vào thơ ca hiện đại của Mai Văn Phấn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Để làm rõ những nét độc đáo của thơ Mai Văn Phấn và có cái nhìn khái quát về hành trình thơ Mai Văn Phấn. Từ đó có cơ sở nêu những nhận định khái quát về nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua việc tìm hiểu đề tài này, chúng tôi mong muốn xác lập một cách nhìn toàn diện và có hệ thống về nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn.
Đồng thời, thông qua đề tài này, tôi cũng mong muốn góp một hướng tiếp cận những giá trị của các tác phẩm nghệ thuật mà cụ thể là các sáng tác thơ của Mai Văn Phấn, từ đó có được những gợi ý thích đáng cho các công trình nghiên cứu, các ấn phẩm sách, các chuyên luận sau này và cũng giúp độc giả dễ dàng khám phá và đến gần hơn với thơ ông.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đặc trưng nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
Chương 2: Dấu ấn của những kiểu cấu tứ truyền thống trong thơ Mai Văn Phấn.
Chương 3: Những kiểu cấu tứ đặc thù của thơ Mai Văn Phấn.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Bối cảnh sáng tạo của thơ Mai Văn Phấn
1.1.1. Sự xuất hiện của một thế hệ nhà thơ khao khát cách tân thi pháp những năm Đổi mới
Sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ khao khát cách tân thi pháp được khởi nguồn từ thay đổi của bối cảnh lịch sử xã hội và đòi hỏi đổi mới của chính bản thân văn học. Có thể tóm tắt bằng một vài những sự kiện chính như sau: Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi, đất nước thống nhất và bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế với nhiều những thuận lợi và khó khăn, thách thức. Tiếp đến, đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã vạch ra con đường đưa đất nước ta ra khỏi sự khủng hoảng và bước vào thời kỳ phát triển mới. Khủng hoảng kinh tế được ngăn chặn, giao lưu với các nước trên thế giới được tăng cường, xã hội có nhiều thay đổi theo hướng tích cực, tạo nên một vận hội cho đất nước. Đứng trước thực tại trên, văn học cần phải đối mới. Nhu cầu đổi mới văn học đã trở thành một nhu cầu cấp thiết của giới sáng tác, lý luận cũng như công chúng độc giả. Đó vừa là hệ quả vừa như một động lực thúc đẩy quá trình đổi mới toàn diện đất nước.
Trong vô vàn sự kiện tích cực như thế, văn học đã dần được được cởi trói, vượt thoát ra khỏi các áp lực nhiều khi mang tính khiên cưỡng của văn học chiến tranh một thời về nhiều bình diện nhất là thi pháp. Nó đi sâu vào khám phá muôn mặt đời sống, tự do bay bổng khai thác những bề sâu, bề xa, các bí ẩn trong tâm hồn con người thậm chí là cả trong tiềm thức, vô thức; nó tự vạch cho mình một con đường đi như không định sẵn và cũng không hẳn là có đích đến bởi địa hạt sáng tạo của nghệ thuật lúc này đang chuyển động trong một biên độ rộng. Văn học (nói chung) thơ ca (nói riêng) giờ đây đã có được một chân trời mới, một mảnh đất màu mỡ và trên đó đã sinh sôi, nảy nở ra các thế hệ nhà văn, nhà thơ luôn theo đuổi con đường nghệ thuật bằng khao khát cách tân, đổi mới, tìm tòi và sáng tạo không ngừng nghỉ. Các quan niệm về thơ, tư tưởng cũng như cách thực hành thơ cũng vì thế mà càng trở nên mới mẻ “các nhà thơ chuyển từ bè cao sang bè trầm. Cái nhìn sử thi đã phai nhạt mà thay vào đó là cái nhìn phi sử thi...” (Nguyễn Đăng Điệp). Từ đây, ý thức nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng về lịch sử. Tiếp đó là nỗ lực khám phá sự phong phú của cái tôi ẩn dấu dám phơi bày những bi kịch nhân sinh hoài nghi những giá trị vốn đã ổn định để đi tìm những giá trị mới… Giờ đây, nhà thơ hoan hỉ lao vào khám phá nội giới của mình, trình ra những bề khuất lấp của cảm thức cá nhân bị đè nén bấy lâu. Và có lẽ “giải thiêng” là trò chơi được nhiều nhà thơ tham dự. Một trong những thành tựu lớn về mặt nghệ thuật của giai đoạn này chính là nhà thơ đã ý thức được sức mạnh của ngôn ngữ khi họ xem “thơ như một ngôn ngữ”. Sự thay đổi lớn trong cách thi sĩ nhìn về thế giới đã làm nở rộ các khuynh hướng thơ khác nhau, với một thế hệ nhà thơ khao khát cách tân thi pháp.
Để nhận diện rõ hơn về điều đó, chúng ta thử phác họa đôi nét về thực thể thơ đương đại để có một cái nhìn mang tính chất toàn cảnh và đa chiều hơn. “Điểm lại những sáng tác thơ từ đổi mới đến nay với những tên tuổi tác giả, tác phẩm như: Nguyễn Đức Mậu (Hoa đỏ nguồn sông – 1987), Nguyễn Duy (Mẹ và em, Đãi cát tìm vàng – 1987,Đường xa – 1989, Quà tặng – 1990, Bụi – 1997), Dư Thị Hoàn (Lối nhỏ - 1988), Dương Tường (36 bài tình – 1989, in chung với Lê Đạt; Đàn – thơ ngoài lời – 2003,Mea culpa và những bài khác – 2005), Hoàng Hưng (Ngựa biển – 1989, Người đi tìm mặt – 1993), Lê Đạt (Bóng chữ - 1994), Nguyễn Trọng Tạo (Sóng thủy tinh – 1988, Gửi người không quen – 1989), Phạm Thị Ngọc Liên (Những vầng trăng chỉ mọc một mình– 1989, Biển đã mất – 1990), Xuân Quỳnh (Hoa cỏ may – 1989), Đoàn Thị Lam Luyến (Lỡ một thì con gái – 1989), Trương Nam Hương (Khúc hát người xa xứ - 1990), Đặng Đình Hưng (Bến lạ - 1991, Ô mai -1993), Phùng Khắc Bắc (Một chấm xanh – 1991), Nguyễn Quang Thiều (Ngôi nhà mười bảy tuổi – 1990, Sự mất ngủ của lửa – 1992,Những người đàn bà gành nước sông – 1995), Thanh Thảo (Khối vuông rubic – 1985,Từ một đến trăm – 1988, 123 – 2007), Dương Kiều Minh (Củi lửa – 1989, Những thời đại thanh xuân – 1991, Tôi ngắm mãi những ngày thu tận – 2008), Mai Văn Phấn (Giọt nắng – 1992, Gọi xanh – 1995, Cầu nguyện ban mai -1997, Nghi lễ nhận tên – 1999,Người cùng thời – 1999, Vách nước – 2003, Hôm sau – 2009, và đột nhiên gió thổi – 2009, Bầu trời không mái che – 2010, hoa giấu mặt – 2012, Vừa sinh ra ở đó – 2013), Đồng Đức Bốn (Con ngựa trắng và rừng quả đắng – 1992, Dòng sông đời mẹ - 1989,Trở về với mẹ ta thôi – 2000, Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc – 2002), Ý Nhi (Vườn – 1999), Nguyễn Bình Phương (Xa thân – 1994, Lam chướng -1997, Từ chết sang trời biếc – 2001, Buổi câu hờ hững – 2011), Nguyễn Việt Chiến (Mưa lúc không giờ - 1992,Ngọn sóng thời gian – 1998, Cỏ trên đất – 2000, Những con ngựa chăn sóng biển – 1995, Vi Thùy Linh (Khát – 1999, Linh – 2000, Đồng tử - 2005,Vili in Paris – 2012), Phan Huyền Thư (Nằm nghiêng – 2002, Rỗng ngực – 2005, Sẹo độc lập – 2014) Phan Thị Vàng Anh (Gửi VB – 2006), Nguyễn Thế Hoàng Linh (Mỗi quốc gia một thành phố của thế giới – 2009, Mật thư – 2013)...” [22,132]
Từ một dòng chảy chung, thơ ca Việt Nam sau 1975 lại ngoặt theo nhiều hướng. Bên cạnh những người vẫn đang say sưa bảo tồn các giá trị thơ ca truyền thống “vẫn trung thành với quan niệm thơ là địa hạt của sự thanh cao, diễm lệ, là sự lên tiếng của trái tim đang xúc cảm mãnh liệt về sự sống thông qua thể nghiệm kỳ diệu của chủ thể sáng tạo” [22,136] thì có rất nhiều cây bút tài năng lại kiếm tìm cho mình một “trò chơi” riêng đầy thú vị từ vạch xuất phát là cách tân thi pháp. Đặc biệt nhất là các nhà thơ thuộc nhóm “dòng chữ” với các tên tuổi như: Từ Huy, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Trần Dần... Khác với những nhà thơ “dòng nghĩa” (đi vào đào bới bản thể của cái tôi, vào vùng khuất của tâm linh, bản năng sống, bản năng người như: Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Phương Lan...), họ khai thác triệt để âm, hình, tự dạng, màu sắc, cách thức bày bố, thể hiện của chữ, rút bỏ khả năng biểu vật, biểu thái, biểu niệm của thực từ, từ hóa thực từ bằng cách đẩy chúng vào các cấu trúc mới, tạo cơ hội phát huy khả năng vẫy gọi, liên tưởng: “Em về phố lặng/ lòng đổ chuông/ llềnh lluềnh nước/ lli/ lluâng/ lloang llưng/ lliêng llinh lluông buông boong/ ad lllibitum”(Dương Tường). Nguyễn Thanh Tâm cho rằng: “Cấu trúc của thơ dòng chữ là cấu trúc của những tiền giả định mà Lê Đạt đã từng gọi là vân chữ, bóng chữ, xuất hiện do chính khả năng vẫy gọi, tụ nghĩa, liên tưởng của từ, chữ, âm thanh...để tạo thành một trật tự mới: Nắng tạnh heo mày hoa lạnh/ Mimôza chiều khép cánh mi môi xa (Lê Đạt)” [22, 140]. Một số nhà thơ khác lại sử dụng các thể thơ cũ như một tri thức tiên nghiệm để cấu trúc lại nhịp điệu và ngôn ngữ trong thơ: kiểu lục bát “thảo dân” của Nguyễn Duy, lục bát thị dân của Nguyễn Thế Hoàng Linh, lục bát đọc chậm của Nguyễn Việt Chiến... Đó là biểu hiện của sự nới lỏng cấu trúc các thể thơ truyền thống. Song hành cùng với đó là việc sáng tạo trên các thể thơ mới mà tiêu biểu nhất là thơ tự do và thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Nguyễn Bình Phương.. với những cách tổ chức không gian, thời gian, hình tượng độc đáo, những đứt gãy trong mạch liên tưởng, sự chắp nối trong tưởng tượng... Và trong bối cảnh thơ như thế, Mai Văn Phấn đã có mặt và chạm đích ở tất cả các hướng của dòng chảy thơ ca những năm đổi mới.
1.1.2. Sự hình thành khuynh hướng đào sâu vào bản thể của cái tôi trữ tình
Sự phong phú của một nền thơ có thể được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau nhưng trước hết, đó phải là nền thơ cho phép sự tồn tại của nhiều khuynh hướng nghệ thuật. Thơ Việt Nam giai đoạn sau 1975 có sự nở rộ của nhiều khuynh hướng khác nhau tuy nhiên đáng chú ý nhất, nổi bật nhất là sự hình thành khuynh hướng đào sâu vào bản thể của cái tôi trữ tình.
Ở Việt Nam, khái niệm cái tôi trữ tình thường được nhìn nhận với tư cách là một dạng biểu hiện cụ thể của cái tôi nhà thơ. Xét về bản chất, thơ trữ tình luôn vươn tới khát vọng khám phá những trải nghiệm trong đời sống của con người, đặc biệt là đời sống tinh thần. Chính vì thế trong những áng thơ tình ta luôn tìm thấy những trải nghiệm, thể nghiệm, những khao khát về tình yêu, hạnh phúc, về sự sống, cái chết, về niềm tin, lý tưởng và cả những nỗi trống trải cô đơn cùng với những khổ đau của con người. Trong cuộc sống, cái tôi và chi phối và định hướng mọi hành vi của con người, còn trong nghệ thuật cái tôi như là một nhân tố khởi sự và hoàn tất của quá trình sáng tạo. Cái tôi trữ tình là sự trình bày trực tiếp của cái tôi nghệ thuật, là biểu hiện tập trung của tính chủ quan trong thơ trữ tình. Tính chủ quan ấy được nhận thấy thông qua nguyên tắc tiếp nhận và tái hiện đời sống của thể loại trữ tình.
Cái tôi và cái tôi trữ tình đều bắt nguồn từ bản thân nhà thơ. Tuy nhiên cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình không hoàn toàn trùng khít với nhau. Cái tôi trữ tình trong mối quan hệ với cái tôi nhà thơ nó vừa có nét tương đồng, vừa có sự khác biệt. Cái tôi trữ tình một phần thể hiện cái tôi của nhà thơ, một phần nó được khách thể hóa, được thăng hoa trong nghệ thuật bằng nghệ thuật.
Đi vào khám phá, phát hiện và thể hiện cái tôi trữ tình, không phải là địa hạt riêng của thơ ca những năm đổi mới. Trước đó, đã từng xuất hiện một cái tôi biểu hiện cho cái tôi xã hội, cái tôi tập thể trong ca dao dân ca, là cái tôi phi cá thể hóa - hình thức của loại hình văn học là diễn xướng và truyền miệng, thời gian và không gian mang tính ước lệ làm cho thời gian cá thể hóa của cái tôi tác giả bị mờ hẳn đi. Tiếp đó là cái tôi bản ngã, cái tôi buồn chán, cô đơn, phủ nhận thực tại thời kỳ 1932-1945 mà rõ nhất là ở phong trào Thơ mới mà như Hoài Thanh đã từng nhận xét “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Chuyển sang giai đoạn 1945-175, trước một vận mệnh lớn lao là đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà vậy nên cái tôi xuất hiện trong thơ lúc này là cái tôi sử thi, “cái tôi” luôn hòa chung vào “cái ta”, nói tiếng nói của lịch sử, của dân tộc, của thời đại, đặt mình trong trách nhiệm vì sự sống còn của đất nước.
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, cái tôi trữ tình bừng tỉnh, nó trở về đúng nghĩa với cái tôi. Nó nhìn thẳng vào những vấn đề mà thời gian qua “cái tôi sử thi” đã né tránh, nó phản ánh đúng hiện thực sau chiến tranh, đề cập đến những vấn đề nhân sinh thế sự. Nhà thơ nhìn cuộc đời bằng con mắt khác, không còn thiên về ngợi ca nên hiện thực được soi chiếu bằng cái nhìn đa chiều. Cái tôi trữ tình xuất hiện với nhiều dạng thức, cái tôi cá nhân cá tính được khẳng định mạnh mẽ. Đó là cái tôi trong cuộc đời riêng của tác giả với những cảm xúc vui buồn, là cái tôi trước những nghịch cảnh éo le của cuộc đời, là cái tôi trách nhiệm trước thời thế...
Cũng chính vì thế mà khuynh hướng trở về, đào sâu vào bản thể của cái tôi trữ tình đã trở thành khuynh hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975. Những năm đầu thập kỷ 80, thơ ở giai đoạn chuyển giọng: nhà thơ nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, về những suy ngẫm, trải nghiệm của cái tôi trước một thực tại khắc nghiệt. Nếu như trước đây, nhất là thơ giai đoạn 1945-1975, các nhà thơ dường như e ngại khi viết về nỗi buồn thì thơ sau 1975, nhiều nhà thơ lại công khai bày tỏ nỗi buồn. Đó không hẳn là nỗi buồn kiểu Thơ mới mà là nỗi buồn được chắt chiu, được cất lên từ biết bao nhiêu những bộn bề, ngổn ngang của đời sống hiện thực, chúng được soi chiếu bằng một cảm quan nghệ thuật hoàn toàn mới. Tác giả Nguyễn Đăng Điệp nhận định: “Có nỗi buồn về thần tượng bị gẫy đổ, ảo tưởng bị tan vỡ khi nhận ra Chúa chỉ bằng đất đá (Nguyễn Trọng Tạo), có nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý chuyện tồn tại mà Xa dần truyện, bớt dần thơ (Nguyễn Duy) và có những trắc ẩn về riêng tư, đôi lứa :Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng (Lâm Thị Mỹ Dạ)” [14,18]. Giọng điệu trong thơ giai đoạn này cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ, phổ biến là giọng điệu “tự thú, tự bạch”. Nguyên do xuất phát từ hệ quả của những nỗi buồn thời thế, sự bất an của con người trước cuộc đời, sự khủng hoảng nghiệt ngã của niềm tin; đồng thời, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa người với người ngày càng trở nên lỏng lẻo, thậm chí là tha hóa, biến chất, con người càng trở nên lạc lõng và cô đơn hơn trước hiện thực. Vì vậy nét nổi bật của khuynh hướng này là các nhà thơ thường rung động, chấn động trước những biến thái tâm lý tinh tế, sâu kín, nhiều khi ngỡ như thật mơ hồ - khó hiểu, mong manh - dễ vỡ. Tuy nhiên cũng xuất hiện không ít những nỗi đau giả, những tiếng khóc vờ vì cảm xúc hời hợt và thói triết lý vặt trong thơ. Thậm chí việc nói quá nhiều đến nỗi buồn, kể lể dài dòng, phiền hà đã khiến nhiều tác phẩm rơi vào tình trạng phản cảm. Chính vì vậy, các nhà thơ cũng cần chú ý đến việc vẽ và sáng tạo, làm chảy những giọt nước mắt có giá trị góp phần thanh lọc tâm hồn con người, giúp con người sống cao đẹp hơn, “người” hơn.
Không dừng lại ở đó, thơ Việt Nam sau 1975 còn đi sâu khám phá những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng siêu thực của cái tôi trữ tình. Đi vào khám phá vũ trụ người bao giờ cũng là một thách thức lớn với người nghệ sĩ. Nỗ lực đào sâu cái tôi ẩn giấu, cố gắng phát hiện chiều sâu tâm linh của con người là nét nổi bật của xu hướng này. Các nhà thơ tiếp tục tìm hiểu cấu trúc của cái tôi trong quan hệ với chính nó. Như Nguyễn Đăng Điệp nhận định: “Tại đây, tính tự động tâm lý đậm màu sắc siêu thực và sự ú ớ trong cảm thức nghệ thuật được đề cao. Muốn thế nhà thơ phải nhập - thấy(theo cách nói của Đặng Đình Hưng). Trong trường hợp ấy, thơ là hình ảnh nội tâm của thế giới nội tâm, là ý thức chống lại các quy tắc có sẵn trong thơ, sự khước từ việc có mặt của tư duy duy lý trong nghệ thuật” [14,19]. Ta có thể tìm thấy chất thơ này trong các sáng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Dương Tường hay lối thơ “vụt hiện” của Hoàng Hưng... và dĩ nhiên, trong số ấy thì Mai Văn Phấn cũng thường được nhắc đến như một dấu ấn nổi bật: Khi tha thẩn lạc vào chốn cũ/ Đất vẫn ăn tưng bừng bữa những âm thầm/ Nỗi âm thầm vò xé trong hàm răng làm tôi vùng bỏ chạy/ Không có tiếng vang nào bởi các ngón chân (Giọng nói)...
1.1.3. Sự ý thức sâu sắc về tính sống còn của những tìm tòi hình thức
Với ý muốn thoát ra khỏi những quan niệm thơ và thi pháp truyền thống, muốn giải phóng thơ ra khỏi những chức năng, làm phương tiện biểu đạt những cái ngoài nó, đưa thơ về với chính nó, thế hệ nhà thơ sau 1975 đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo về thể nghiệm nhiều hướng đi, nhiều lối viết mới cho thơ với mục đích là cách tân hình thức thơ theo hướng hiện đại chủ nghĩa.
Xuất phát từ ham muốn tìm tòi hình thức thơ đó, nhiều thi nhân đã không ngần ngại đưa ra những quan niệm mới về Chữ và Nghĩa cho thơ. Họ muốn Chữ thoát khỏi chức năng ký hiệu thay thế cho những cái được biểu đạt, đọc thơ không phải là đi tìm nghĩa sau các Chữ và làm thơ là làm “Chữ”. Lê Đạt đã từng tuyên bố: “Chữ bầu lên nhà thơ”, “nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải bằng nghĩa tiêu dùng, nghĩa tự vị của nó mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan với câu thơ, bài thơ”. Còn Trần Dần thì nói: “Tôi viết tức là tôi để con chữ tự mình làm nghĩa”. Có thể thấy những quan niệm này không hề quen thuộc mà trở thành xa lạ với số đông người đọc thơ và cả người làm thơ ở nước ta, nhưng nếu so sánh một chút với phương Tây thì lại không có gì là mới. Nhưng điều đáng ghi nhận, đáng được tôn vinh nhất ở những nhà thơ mang theo quan niệm trên là họ đã rất chu trọng khai thác và làm giàu các giá trị của mỗi chữ trong tiếng Việt, lạ hóa các chữ đã quen thuộc bằng cách tạo ra, đẩy chữ vào các kết hợp mới, khác với trật tự ngữ pháp thông thường cứng nhắc. Những thể nghiệm như thế đã từng được Trần Dần đưa ra trong các tập “Mùa Sạch” và “Jờ Joạcx, Lê Đạt trong tập “Bóng chữ”...
Joạc jờ jêrô... vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng tròn
tôi không hiểu tôi bò hai chân trên sẹo joạc jờ nào?
sao cứ thun thút những sẹo mưa jọc jài ống ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quic-ss? mà tôi vẫn bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc vườn jạch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng
tôi biết jành jạch sử ký cả
những luồng phùn mọc lọc người đi
(Tựa Jờ joạcx – Trần Dần)
Được “lấy đà” từ những quan niệm mới, thơ sau 1975 liên tục thực hiện các bước nhảy “vượt rào” tìm tòi về hình thức, trong đó tự do hóa là xu hướng bao trùm. Tự do hóa về hình thức thơ đã xuất hiện từ giai đoạn trước, nhưng đến giai đoạn này, nó được đẩy mạnh và trở thành một đặc điểm chủ đạo. Tự do hóa được thể hiện trên nhiều cấp độ từ thể thơ, kết cấu bài thơ, dòng thơ đến ngôn ngữ và cả cách trình bày.
Thơ tự do không vần trước đây còn là một hiện tượng hiếm hoi như trường hợp thơ của Nguyễn Đình Thi trong khánh chiến chống Pháp, thì giờ đây đã trở thành một hiện tượng rất phổ biến. Thơ văn xuôi với cách viết không phân dòng cũng được sử dụng rộng rãi ở nhiều trường ca và cả ở những bài thơ ngắn. Hầu hết các nhà thơ trẻ sau 1975 đều không muốn làm thơ theo các thể cách luât. Họ muốn giải phóng thực sự cho những ý tưởng cảm xúc khỏi những khuôn mẫu thể loại có sẵn. Một số cây bút khác vẫn sử dụng các thể thơ quen thuộc như lục bát, bảy chữ, tám chữ thì cũng cố gắng tạo ra những thay đổi theo hướng tự do hơn về cách tổ chức câu thơ, về nhịp điệu (thơ lục bát của Nguyễn Duy, Phạm Công Trứ, Đồng Đức Bốn và nhiều người khác).
Bây giờ sông hoá lưỡi cưa
Để tôi đi sớm về trưa nát lòng
Bây giờ em đã sang sông
Để tim tôi búp sen hồng bỏ rơi
Vớt buồn trên mặt sông trôi
Bây giờ vẫn chỉ mình tôi giữa dòng
(Sang sông – Đồng Đức Bốn)
Tổ chức kết cấu bài thơ cũng hết sức đa dạng và nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi những cách kết cấu lập tứ quen thuộc. Đặc biệt là ở lối thơ “vụt hiện”, hay ở những thể nghiệm của Trần Dần, Lê Đạt, Mai Văn Phấn để cho các chữ tự tạo sinh ý nghĩa. Còn ở các trường ca thì các tác phẩm thường được tổ chức thành các chương, khúc mà kết cấu bên trong là mạch trữ tình – chính luận. Một số tác giả lại thử nghiệm lối thơ rất ngắn, bài thơ chỉ gốm 2-3 dòng...
Người về từ cõi ấy
Vợ khóc một đêm con lạ một ngày
Người về từ cõi ấy
Bước vào cửa người quen tái mặt
Người về từ cõi ấy
Giữa phố đông nhồn nhột sau gáy
...
Một đêm có tiếng bâng quơ hỏi
Giật mình
Một cái vỗ vai.
(Người về - Hoàng Hưng)
Tự do hóa cũng được thể hiện ở việc tổ chức câu thơ. Câu thơ điệu nói được hình thành trong quá trình hiện đại hóa thơ ca, đã được đẩy manh hơn trong giai đoạn 1945-1975. Nhưng nhìn chung câu thơ trong các giai đoạn ấy được tổ chức như những phát ngôn hướng ngoại. Cùng với xu hướng trở về với đời sống thế sự và riêng tư, cái tôi trữ tình trong thơ từ 1975 cũng mang xu thế hướng nội. Vì thế, câu thơ, lời thơ cũng là những phát ngôn hướng nội. Khi thơ tự do và thơ không vần đã trở thành phổ biến, các dòng thơ cũng được giãn nở hoặc co lại một cách rất tự do, sự liên kết giữa các dòng thơ, câu thơ cũng có xu hướng phá bỏ những trật tự logic thông thường. Nhịp điệu tuy vẫn là một yếu tố cần thiết nhưng nó đã hết sức linh hoạt ngay cả trong thể thơ có số chữ hạn định ở mỗi dòng. Đặc biệt ở một số trường hợp, nhịp điệu câu thơ đã gần như câu văn xuôi và gần như không có vai trò gì đáng kể trong việc tổ chức câu thơ.
Bóng tối, là cô gái – mang thành phố đi lang thang – cho đêm ngắn lại
Trở về – thiếu phụ. Nước lạnh biến thiếu phụ thành thiếu nữ. Thiếu nữ chạy trốn – tới khi tay không giữ nổi bút.
Khoả thân trong chăn
Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên. Chỉ cần Anh gối lên đùi
Mình ôm lấy Anh ôm mình
Biết sự bình yên của mặt đất
(Chân dung – Vi Thùy Linh)
Tự do hóa về kết cấu bài thơ, tổ chức câu thơ cũng đi liền với sự tự do trong sử dụng ngôn từ. Trường từ ngữ trong thơ đã được mở rộng đến gần như không có giới hạn nào. Những từ thông tục, khẩu ngữ, biệt ngữ, đã có mặt trong thơ của khá nhiều tác giả, nhất là lớp trẻ. Một số người lại muốn tạo sinh nghĩa mới cho các chữ bằng cách kết hợp chúng không theo quy tắc thông thường hoặc tạo ra những chữ mới từ những âm tiết chưa có nghĩa. Các nhà thơ theo quan niệm “làm thơ là làm nghĩa” rất coi trọng tái tạo chữ, tạo sinh nghĩa mới cho chữ, bỏ qua những nghĩa đã quen thuộc của chữ mà họ gọi là “nghĩa tự vị, nghĩa tiêu dùng”.
bất động
khi đói một an ủi
tràn như năng lượng gốc