MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
7. Cấu trúc luận văn
Chương 1 - TỔNG QUAN VỀ CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC VÀ DẤU ẤN CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết về chủ nghĩa siêu thực
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa siêu thực
1.1.2. Tư tưởng mĩ học và phương thức, thủ pháp nghệ thuật
1.2. Mai Văn Phấn và những tìm tòi, cách tân theo hướng siêu thực chủ nghĩa
1.2.1. Mai Văn Phấn – một gương mặt cách tân nổi bật của thơ Việt đương đại
1.2.2. Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn qua các giai đoạn sáng tác
1.3. Cơ sở hình thành dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa của Việt Nam sau 1975
1.3.2. Sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ đổi mới
1.3.3. Những tìm tòi theo hướng chủ nghĩa siêu thực trong thơ Việt hiện đại
1.3.4. Quan niệm sáng tạo của tác giả
1.4. Những đóng góp và giới hạn của sự tìm tòi, cách tân theo hướng siêu thực chủ nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 2 - DẤU ẤN CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN, NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN TỔ CHỨC HÌNH TƯỢNG
2.1. Những phương thức tổ chức hình tượng theo hướng siêu thực chủ nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Đi sâu khai thác tiếng nói của vô thức, trực giác, tâm linh
2.1.2. Dùng tưởng tượng như một phương thức mô tả, tái hiện đặc thù
2.1.3. Tô đậm tính ngẫu nhiên, đứt đoạn, phi logic trong mạch cảm xúc, liên tưởng
2.1.4. Nhấn mạnh tính khác lạ, dị thường của hình tượng
2.2. Những hình tượng siêu thực nổi bật trong thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Hình tượng “con người ngủ”
2.2.2. Hình tượng “thế giới xô lệch”
Chương 3 - DẤU ẤN CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN, NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN TỔ CHỨC LỜI THƠ
3.1. Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ
3.1.1. Từ, cụm từ
3.1.2. Các biện pháp tu từ
3.2. Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện qua bút pháp tạo hình
3.2.1. Các chất liệu tạo hình
3.2.2. Các biện pháp tạo hình
3.2.3. Sự gần gũi giữa bút pháp tạo hình trong thơ Mai Văn Phấn và bút pháp tạo hình trong hội họa siêu thực
3.3. Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện qua thơ tự do và thơ văn xuôi
3.3.1. Thơ tự do
3.3.2. Thơ văn xuôi
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. “Tôi đã sống, sáng tạo và cả chịu đựng những dằn vặt đau khổ của sự sáng tạo... Tôi đã tiếp nhận, chọn lọc tinh hoa của các khuynh hướng văn học trên thế giới bằng tình yêu và trách nhiệm một công dân nước Việt” [26]. Câu trả lời phỏng vấn của nhà thơ Mai Văn Phấn trong bài viết Nhà thơ Mai Văn Phấn: con đường khác tìm đến thơ Việt hiện đại của tác giả Gjeke Marinaj (Hoa Kỳ gốc Anbani) thực hiện qua email đã khẳng định quan điểm riêng của nhà thơ trong sáng tác văn chương. Đó không phải chỉ là ngụp lặn trong thế giới ngôn từ truyền thống hay những cảm thức rời xa hiện thực, sáng tạo phải là dũng cảm vượt lên những thành quả của hôm nay đểmở cho mình con đường mới. Trải qua bao “cuộc vong thân”, Mai Văn Phấn đã trở thành một gương mặt cách tân thơ quyết liệt và nổi bật của thế hệ cầm bút sau 1975.
1.2. Tìm hiểu thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi thấy ông đặc biệt chú ý đến tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh trong sáng tạo. Nhà thơ khát khao lí giải về thế giới trong chiều sâu bản chất của nó và phát hiện ra đằng sau cái hiện thực bề mặt là những mối liên hệ “âm u và sâu xa” giữa những hiện tượng tưởng chừng rời rạc, xa lạ. Điều này cho phép người nghệ sỹ nhận ra cái logic của đời sống trong những biểu hiện dị thường tăm tối, thậm chí phi lí, nghịch dị… Với một tư tưởng, quan niệm nghệ thuật độc đáo, kết hợp với việc tích cực học hỏi, tiếp thu tinh hoa của những trào lưu, khuynh hướng sáng tạo phương Tây hiện đại, trong đó có chủ nghĩa siêu thực, hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới đậm tính siêu thực.
1.3. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có một công trình khoa học nào chính thức bàn về “Dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn”. Do vậy, chúng tôi quyết định chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trải hơn 20 năm đời thơ, tác phẩm khởi nghiệp của Mai Văn Phấn là tập thơ Giọt nắng (1992), chính thức đưa ông vào làng văn, ghi dấu trong lòng độc giả về một Mai Văn Phấn trong trẻo, hồn hậu, tinh tế. Và Gọi xanh (thơ, 1995); Cầu nguyện ban mai (thơ, 1997); Người cùng thời (trường ca, 1999); Vách nước (thơ, 2003); Hôm sau (thơ, 2009); và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009), Bầu trời không mái che (thơ, 2010), hoa giấu mặt (thơ, 2012)… ra đời luôn được người đọc chân tình chào đón như lời đánh giá cao năng lực sáng tạo của Mai Văn Phấn.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình, bài viết bàn về thơ Mai Văn Phấn, song chưa có công trình nào trực tiếp và đi sâu nghiên cứu về những dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực trong thơ ông. Chỉ có một số bài viết trên báo, tạp chí, các buổi hội thảo đề cập tới một vài khía cạnh của vấn đề này trong một vài bài thơ hay tập thơ riêng lẻ, tức cũng chỉ mang tính chất điểm.
Sau đây chúng tôi xin lược thuật một vài ý kiến tiêu biểu.
2.1. Những nhận định, đánh giá về dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn từ phương diện tổ chức hình tượng
Trong bài Cấu trúc ngôn ngữ và hình ảnh trong tập thơ “và đột nhiên gió thổi” của Mai Văn Phấn, tác giả Đào Duy Hiệp có cái nhìn khá mới về thơ Mai Văn Phấn: “Hình ảnh trong thơ Mai Văn Phấn, (đa số là thơ văn xuôi), hầu hết đều là siêu thực, mộng mị, nhưng đọc kĩ ta vẫn thấy chúng bám rất chắc trên cái nền luận lí, hữu thức. Điều đó cho thấy ý thức lao động thường trực của nhà thơ mong “khám phá” ra thế giới, cái phần chưa được tri giác của cuộc đời” [16].
Cũng trong bài viết, khi xét về khía cạnh ngôn ngữ, tác giả tiếp tục nhận xét: “Ngôn ngữ thơ anh mang hồn cốt, phong cách rất riêng: hình như lặng lẽ mà quẫy cựa, khám phá với những tâm tình đôn hậu, sâu lắng. Hình ảnh lạ, đẹp từ những lao động ngôn ngữ đó mà thành. Trong cấu trúc của chúng, những hình ảnh của thơ anh thường chồng chất, xâm lấn, “đột kích” lẫn nhau giữa những không gian, thời gian thơ vô tận” [16].
Đỗ Minh Tuấn trong bài Mai Văn Phấn và thi pháp mộng du xuyên thế giới cho rằng: “Nhiều khi nhà thơ nhìn đăm đăm vào thế giới không người như họa sỹ đối diện với tấm toan để cắt xẻ mình dán lên đó những bức tranh hoang dã và siêu thực. Mai Văn Phấn cắt xẻ tâm hồn, cảm xúc để soi lên kính quang phổ, dán lên cây, lên lá, giọt mưa, ngọn gió… để ngắm nghía. Muốn hòa tan mình vào thế giới” [32,140]. Và chính từ đó, ông đã giúp người đọc khai phá, định hình cách hiểu thơ Mai Văn Phấn: “Phải học cách trẻ con nhìn mây để đọc thơ anh” [32,140].
Trong luận văn Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Hà, Đại học Thái Nguyên cũng cho rằng: Trong thơ Mai Văn Phấn tập trung thể hiện không gian đa diện - biến ảo và "biểu hiện rõ nhất của không gian đa diện - biến ảo là không gian vụt hiện chập chờn giữa thực và ảo và không gian vô thức siêu thực" [14, 64].
Tác giả Lê Hồ Quang qua Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn cũng phát hiện: “Mai Văn Phấn đặc biệt chú ý đến tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh trong sáng tạo. Người nghệ sĩ khát khao lí giải về thế giới trong chiều sâu bản chất của nó, đằng sau cái hiện thực bề mặt được nhìn thấy; mối liên hệ “âm u và sâu xa” giữa những hiện tượng tưởng chừng rời rạc, xa lạ; cái logic của đời sống trong những biểu hiện dị thường tăm tối, thậm chí phi lí, nghịch dị…”. Vậy nên, tác giả khẳng định: “Tồn tại trong thơ Mai Văn Phấn, do đó, là một thế giới đậm tính siêu thực” [57].
Đặng Văn Sinh đã nhìn thấy một Mai Văn Phấn và khúc biến tấu “Hôm sau” với sự hòa hợp giữa nhiều phong cách: “Tân cổ điển, hậu hiện đại, thậm chí cả siêu thực không loại trừ nhau mà luôn bổ sung cho nhau, hòa quyện vào nhau, chuyển hóa thành phẩm chất mới cả định tính lẫn định lượng”. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định: “Không gian siêu thực chính là bài toán giải tỏa sự bế tắc, phẳng lỳ, nhàm chán của diễn biến tâm lý con người ở vào thời điểm lịch sử rất khó định danh vì bị chi phối bởi tinh thần thời đại cưỡng bức quy luật. Siêu thực còn là giải pháp đưa con người vào trạng thái huyễn tưởng, tìm về vô thức, kích hoạt những vùng tối đang ngủ yên, thức tỉnh để chúng tham gia tối đa vào quá trình tư duy sáng tạo” [60].
Hồ Thế Hà qua bài Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn lại tìm thấy thêm một nét nhấn mới riêng của nhà thơ Mai Văn Phấn trong ý thức xây dựng thế giới hình tượng. Trong thơ Mai Văn Phấn, càng về giai đoạn sau này, tác giả càng nhận rõ “có lúc, anh xoá bỏ ý nghĩ, để nó tự buông xuôi theo dòng cảm giác, ảo giác”. Vậy nên thơ ông là “thế giới của sự va chạm, bất ổn, nhiều khi vô nghĩa lý mà con người đã kịp nhận ra trong khoảnh khắc ảo giác. Những hình ảnh siêu thực, vô thức như thế đã trở thành những hình tượng mang nghĩa bất ngờ” [32, 212-214].
Qua chuyên luận Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác, hai tác giả Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm lại cảm nhận được quá trình sáng tạo thi ca của Mai Văn Phấn thuộc khuynh hướng cách tân, trong đó nhà thơ chú trọng “tìm kiếm một nguồn sống mới, khai thác sâu hơn vào những tầng vỉa của đời sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức khuất chìm trong vùng tối của bản năng sống, bản năng người”. Cả hai nhấn mạnh “bước sang tượng trưng, siêu thực, Mai Văn Phấn có nhiều thể nghiệm khá thành công với việc gia tăng yếu tố ngẫu nhiên, phi lí, phi logic, bất quy tắc của trật tự sống, của mỹ cảm và quan niệm về tư duy về vũ trụ và con người” [12,101-119].
2.2. Những nhận định, đánh giá về dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn từ phương diện tổ chức lời thơ
Nguyễn Thanh Tâm trong bài viết Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã đưa ra nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức và tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường”.Cách viết này buộc người đọc nghĩ đến hình ảnh “một tình nhân khó tính”, “khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [32, 395].
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện trong bàiXóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn đã khẳng định: “Từ chữ đến lời, ngôn ngữ thơ và tư duy thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn nhằm thể hiện một khát vọng quyền lực tối thượng của nhà thơ đi tìm một cấu trúc văn bản thơ mới lạ, với cách dụng ngữ riêng, in đậm cá tính sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tích hợp đặc sắc, ưu thế của các thủ pháp: truyền thống, tượng trưng, siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Văn bản thơ văn xuôi Mai Văn Phấn đầy tiềm năng nghĩa ẩn chứa trong đó, nó là một kết cấu vẫy gọi sự mở, sự khám phá của người đọc tri âm, đồng điệu, đồng cảm” [32, 363-364].
Còn tác giả Vũ Thị Thảo trong bài Những ảnh hưởng khuynh hướng siêu thực trong tập thơ Hôm sau của Mai Văn Phấn đã bước đầu mở cánh cửa cho chúng tôi tìm hiểu các dạng kết cấu thơ của ông: “Thơ Mai Văn Phấn có nhiều bài mang hơi thở tự do, ít khi sử dụng những dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự cú pháp, đề cao liên tưởng cá nhân. Để biểu đạt giấc mơ và đời sống vô thức, lối viết tự động được xem là phương thức hữu hiệu”. Không chỉ vậy, người viết bài này còn thấy: “Cũng như hầu hết các nhà thơ vận dụng thủ pháp siêu thực, thơ Mai Văn Phấn khêu gợi nỗi kinh ngạc bằng cách phá vỡ thói quen sử dụng từ ngữ sáo mòn và khai mở các dáng vẻ phong phú của thế giới bằng những hình ảnh chói sáng. Bởi hình ảnh chính là một phương tiện giải phóng cái nhìn, gắn kết tưởng tượng với tự nhiên, biến các khả năng thành hiện thực”. Nhưng điểm mới của thơ Mai Văn Phấn là “thơ Mai Văn Phấn không thoát ly mọi liên hệ với thực tế xã hội, nó bám rễ rất chắc vào đời sống, luôn theo sát mọi diễn biến của đời sống con người và phản ánh nó với các dạng thức mới lạ” bằng lối diễn đạt của kiểu ngôn ngữ siêu thực [32, 572-577].
Tác giả Đặng Văn Sinh trong bài viết Mai Văn Phấn và khúc biến tấu "Hôm sau" đã phát hiện được khả năng vận dụng ngôn ngữ tài tình của Mai Văn Phấn trong hành trình thi ca:"Hôm sau" là tập thơ có phong cách diễn đạt khá đa dạng bằng ngôn ngữ thông tục nhưng giàu hình ảnh, đặc biệt hết sức biểu cảm. Mai Văn Phấn rất có sở trường tạo ra những "mê cung" dẫn dụ người đọc vào trường liên tưởng như một thứ ma trận. Cái hay của nhà thơ là đã “kéo độc giả vào trò chơi chữ nghĩa, tạo ra hiệu ứng dây chuyền chẳng khác gì những con bài domino” [60].
Và trong bài viết Mai Văn Phấn tìm về ngọn nguồn thi ca, Đặng Văn Sinh cũng có nhận xét về tập thơ Bầu trời không mái che: “Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trưng của bút pháp Mai Văn Phấn”. Ở đó, Đặng Văn Sinh còn phát hiện thiên nhiên, cuộc sống, tình yêu được khám phá bằng hướng nhìn động: “Nó luôn chỉ là một lát cắt bất chợt mang tính biểu tượng bởi tinh thần siêu thực được khai triển trong không gian bốn chiều, vừa hiển lộ vừa thần bí dưới dạng thức ngôn ngữ được mã hoá” [32, 109-110].
Cùng cách nhìn với Đặng Văn Sinh, tác giả Khánh Phương còn nhìn thấy chất siêu thực tồn tại đậm nét trong tập Vách nước từ bài viết Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, từ hai chiều của “phép lạ” của thi ca: “Vách nước” là “những “bài tập” siêu thực của thơ Mai Văn Phấn, trong đó có nhiều tứ thơ hay, mở ra những vùng cảm giác tinh khôi, dịch chuyển và giao thoa kì lạ, phức hợp của giác quan” [32, 109 -110].
Với Mai Văn Phấn & công nghệ cách tân thơ, tác giả Đặng Thân lại có phát hiện khá thú vị: “Thơ Mai Văn Phấn chan chứa cả trời vô thức”. Điều này gợi mở hường phân tích thơ ông thông qua những hình ảnh mang tính trực giác, mơ tưởng và cả ảo giác; qua những hình ảnh phi lí, nghịch lí, nghịch dị và vụn vặt. Ông cũng khẳng định: “Ngôn từ mà Mai Văn Phấn đã ghi lại ấy xứng đáng được đi vào thơ ca Việt, vào văn học sử như một dòng thơ cách tân mãnh liệt nhất. Ngôn ngữ thơ ấy chưa ai từng viết. Nó mới lạ đến từng từ” [64].
Nhìn chung, cho đến nay đã có rất nhiều công trình, bài viết bàn về thơ Mai Văn Phấn. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra tính siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn và khẳng định đây là một đặc điểm tạo nên vẻ cách tân, hiện đại trong thơ tác giả này, song trên thực tế, hoặc các công trình, bài viết ấy mới chỉ dừng lại ở cấp độ tính chất (màu sắc, yếu tố…) hoặc mới chỉ đi vào phân tích sơ lược một số phương diện biểu hiện của nó. Bởi vậy, trên cơ sở những ý kiến gợi dẫn của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về vấn đề “Dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chọn Dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn làm đối tượng nghiên cứu.
3.2. Phạm vi khảo sát
Với đề tài này, chúng tôi đi sâu khảo sát 11 tập thơ của Mai Văn Phấn gồm:
- Giọt nắng, Hội Liên hiệp VHNT TP. Hải Phòng, Hải Phòng, 1992.
- Gọi xanh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995.
- Cầu nguyện ban mai, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, 1997.
- Nghi lễ nhận tên, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, 1999.
- Người cùng thời, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, 1999.
- Vách nước, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2003.
- Hôm sau, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2009.
- và đột nhiên gió thổi, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2009.
- Bầu trời không mái che, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2010.
- hoa giấu mặt, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2012.
- Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2013.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu sau:
4.1. Tìm hiểu khái quát về chủ nghĩa siêu thực và dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn.
4.2. Tìm hiểu về dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn từ phương diện tổ chức hình tượng.
4.3. Tìm hiểu về dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn từ phương diện tổ chức lời thơ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp hệ thống
5.2. Phương pháp so sánh
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại
5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn, một tác giả nổi bật của thơ Việt Nam sau 1986, qua đó, góp phần khẳng định đóng góp của ông trong dòng thơ cách tân Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chủ nghĩa siêu thực và dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 2: Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ phương diện tổ chức hình tượng
Chương 3: Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ phương diện tổ chức lời thơ
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC
VÀ DẤU ẤN CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết về chủ nghĩa siêu thực
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa siêu thực
Chủ nghĩa siêu thực là một khuynh hướng văn học nghệ thuật hiện đại, xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ XX ở Pháp, sau đó lan rộng ra nhiều nước khác trên toàn thế giới. Thuật ngữ “chủ nghĩa siêu thực” (Surréalisme) được nhà thơ G. Apollinaire dùng trong tác phẩm của mình vào năm 1917. Nó chính thức được sử dụng một cách rộng rãi năm 1924 tại Paris với dấu mốc là Tuyên ngôn siêu thực lần thứ nhất của A. Breton.
Có thể khẳng định siêu thực là một khuynh hướng nghệ thuật lớn bao trùm nhiều loại hình của nghệ thuật. Từ điển thuật ngữ văn học viết: Chủ nghĩa siêu thực là “khuynh hướng văn nghệ tiền phong chủ nghĩa ra đời ở Pháp vào những năm 10 - 20 của thế kỉ XX và được giới văn nghệ sỹ ở một số nước khác như Bỉ, Tiệp Khắc, Nam Tư, Hoa Kỳ, Mê–hi–cô, Nhật… hưởng ứng. Người dọn đường chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của khuynh hướng văn nghệ này là chủ nghĩa đa đa” [13, 90]. Trong 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân viết: “Chủ nghĩa siêu thực dựa vào triết học chủ nghĩa trực giác, vào các học thuyết tôn giáo thần bí của phương Đông, vào chủ nghĩa Freud; nhiều luận điểm của các lý thuyết gia siêu thực khá gần gũi với các tư tưởng Thiền luận Phật giáo. Những người chủ trương khuynh hướng này coi các nhà lãng mạn Đức là các bậc tiền bối, coi nhà thơ Apollinaire và họa sỹ Italia G. De Chirico là những người tiên khu gần gũi của họ. Nảy sinh trong giới nhà văn, chủ nghĩa siêu thực lại trở nên phổ biến hơn cả ở hội họa (S. Dali, J. Miro, J. Tanguie, G. Arpe, M. Ernst, A. Mason, R. Magritt…) trong số những người sáng lập của khuynh hướng này, có nhiều nhà văn nổi tiếng như: L. Aragon, A. Breton, F. Soupault, P. ESluard, R. Desnos, A. Artaud, R. Vitrac, T. Tzara…” [3, 99-100].
Trường phái này chịu ảnh hưởng của những trào lưu triết học và các khoa học nhân văn hiện đại như triết học trực giác của H. Bergson, học thuyết Phân tâm học của S. Freud, thuyết tương đối của A. Einstein... Dựa trên cơ sở triết học trực giác của Bergson và học thuyết Phân tâm học của Freud, chủ nghĩa siêu thực chủ trương hướng về thế giới vô thức của con người, xem đó là “lĩnh vực vô hạn đối với sự khám phá, sáng tạo nghệ thuật”. Họ quan niệm thi ca (và rộng hơn, là nghệ thuật) không chỉ miêu tả con người trong phần ý thức tỉnh táo, khi nó chơi bời và làm việc mà còn thể hiện cái phần “con người ngủ” với thực trạng vô thức của nó. Bên cạnh đó, căn cứ vào thuyết tương đối của A. Einstein, các nhà siêu thực cũng có quan niệm về cái “hư ngụy” của không gian và thời gian trong thế giới hàng ngày. Họ cho rằng, hình ảnh mà ta nhìn thấy về thế giới hằng ngày chỉ là những hình ảnh “bất tín” và do đó mà phải có một con mắt khác, cách nhìn khác để tìm ra bản chất thế giới (hay thế giới đích thực). Ấy là một thế giới khác, đối lập với cái thường nhật, hằng ngày – thế giới siêu thực.
1.1.2. Tư tưởng mĩ học và phương thức, thủ pháp nghệ thuật
1.1.2.1. Tư tưởng mĩ học
Tư tưởng mĩ học của chủ nghĩa siêu thực được xác lập chủ yếu dựa trên những quan điểm trong Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực của A. Breton và một số tác phẩm mang tính cương lĩnh khác của những người theo trường phái này. Tuy nhiên, đây chỉ mới là nền móng về mặt lý thuyết, tư tưởng này còn được cụ thể hóa, bổ sung, củng cố và phát triển qua các sáng tác của các nhà siêu thực chủ nghĩa. Có thể kể đến những người đi tiên phong như A. Breton, G. Apollinaire, L. Aragon, G. Lorca, P. ESluard, S. Dali, J. Cocteau… với những sáng tạo gây ấn tượng mạnh rải đều trên hầu hết các lĩnh vựcnghệ thuật khác nhau.
Trên cơ sở những tài liệu chúng tôi đã tập hợp và nghiên cứu, khảo sát, về tư tưởng, quan niệm mĩ học của trường phái siêu thực, xin được trình bày tóm lược như sau:
Trước hết, các nhà siêu thực đặc biệt coi trọng, đề cao việc hướng về thế giới vô thức của con người, cái mà họ cho là “một lĩnh vực vô hạn đối với sự khám phá sáng tạo nghệ thuật” [13, 90-91]. A. Breton trong tuyên ngôn thứ nhất của chủ nghĩa siêu thực đã viết: “Siêu thực (danh từ) là trạng thái tâm lý thuần túy không ý thức (automatism), mà ta có thể trải nghiệm để thể hiện (bằng lời được viết thành chữ hoặc bất cứ cách gì khác) hoạt động thực tế của tư duy (thought). Siêu thực được tư duy sai khiến, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của lý trí, được miễn trừ khỏi mọi quan ngại liên quan tới thẩm mỹ và đạo đức” [1]. Theo các nhà siêu thực, “hiện thực chân thực nhất, hiện thực tuyệt đối - tức siêu thực - là hiện thực bị “cầm tù” trong vô thức, cần phải được giải phóng và được thể hiện trong tác phẩm nghệ thuật” [66]. Con người trong quan niệm của các nhà siêu thực là “con người toàn nguyên”, bao gồm cả phần ý thức sáng tỏ tỉnh táo và cả phần bản năng, vô thức ẩn chìm. Bản năng, vô thức, giấc mơ đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần nhân loại.
Thứ hai, các nhà siêu thực, chú trọng cái ngẫu hứng, đề cao việc loại trừ ra khỏi ý thức của mình những thứ gọi là duy lí, logic, trật tự. Họ để tư tưởng được tự do bộc lộ, có ý thức khai mở “chiều sâu nội giới”, nhấn mạnh những hình ảnh nhòe mờ lướt qua, chuyển dịch vào sâu thẳm tâm thức con người. Họ khao khát vẽ lại thế giới bằng hệ thống hình ảnh táo bạo, lạ lẫm, phi lí, ở những mảnh ghép vụn vặt và bé nhỏ, không có bất kì mối dây liên kết được hiển thị ở trực giác, giấc mơ, ảo giác… trong thời khắc lý trí đã ngủ yên. Để có được thế giới như mong muốn, họ thả hồn trôi nổi chốn khuất sau ý thức, để tiếng nói tiềm thức, vô thức, trực giác tự do lên tiếng, phá vỡ mọi xiềng xích trói buộc của lý trí, đạo đức, tôn giáo, của mỹ học truyền thống…
Thứ ba, dựa theo lý thuyết “Tự động tâm linh” của A. Breton, những nhà thơ siêu thực “kêu gọi hướng tới sự hồn nhiên không suy nghĩ của trẻ thơ, tới trạng thái mê sảng, tới những ảo giác mộc mạc của những bộ lạc nguyên thuỷ và nền nghệ thuật cổ sơ của họ” [71]. Vậy nên, xét về phương diện tư tưởng, chủ nghĩa siêu thực nổi bật với ý thức trả con người trở về với chính họ, với sự tự do đích thực và tìm thấy hiện thực tuyệt đối của cuộc sống bằng vô thức, bằng tâm tưởng, bằng những giấc mơ. Tất nhiên, thế giới thơ siêu thực còn là sự tương tác, thâm nhập giữa trạng thái vô thức và ý thức, giữa mơ và thực, giữa nội giới và ngoại giới nên chúng “vừa thấm đẫm những trải nghiệm cá nhân, vừa mang dấu vết của cuộc đời thật” [72].
Tóm lại, chủ nghĩa siêu thực chủ trương luôn mở rộng phạm vi hoạt động của trí tưởng tượng, chủ trương khai thác, định hình thế giới bằng mộng, bằng suy tưởng, bằng sự dẫn đường của cả tâm lý lẫn tư duy, nhằm phát hiện một thực tại đầy đủ hơn thứ hiện thực đời sống đã được bàn tay con người cố tâm nhào nặn và diễn tả. Theo Andre Breton thì không thể có “một công thức sáo mòn kiểu siêu thực chủ nghĩa” [1]. Thực chất, những nhà siêu thực chủ nghĩa luôn khao khát đi tìm một hiện thực thực sự của đời sống và mô tả diện mạo của nó qua con đường của vô thức, tâm linh, mộng tưởng nhưng đó “không phải là một thế giới phủ định, hư vô như trong trường hợp của chủ nghĩa Đađa, mà đó là một thế giới của những trăn trở, tìm tòi từ nội tâm” [7].
1.1.2.2. Phương thức, thủ pháp nghệ thuật
Xuất phát từ những tư tưởng, quan niệm mĩ học nói trên, chủ nghĩa siêu thực đề xuất nhiều nguyên tắc, thủ pháp và kỹ thuật mô tả, thể hiện mới, trong đó nổi bật lên là lối viết tự động. Các tác giả cũng đề xướng việc mở rộng biên giới thơ để thu nạp không chỉ kĩ thuật văn xuôi mà còn cả kĩ thuật âm nhạc (phối nhiều bè), hội hoạ (xé dán), điện ảnh (cắt ráp)... Alan Gullete nhận xét: “Chủ nghĩa siêu thực thực chất là một phương pháp kĩ thuật và cách hướng dẫn sử dụng kĩ thuật ấy như một chìa khoá để mở ra cõi vô hạn trong tâm trí con người”. Điều này mở rộng biên giới của thơ, tạo nên những ấn tượng mới lạ, gây sửng sốt, kinh ngạc, gây những “cú sốc” trong cảm giác, nhận thức...
Xin được nói thêm về những thủ pháp và kỹ thuật viết của chủ nghĩa siêu thực. Viết tự động là lối viết mà trong đó nhà thơ buông lỏng mình cho sự dắt dẫn của tiềm thức, lối viết nằm giữa trạng thái mơ và tỉnh, với những ảo giác, ảo ảnh loé lên trong dòng tâm tư bất định. Lối viết này rất được các tác giả siêu thực ưa chuộng bởi nó đòi hỏi người viết tiếp cận hiện thực không theo tư duy logic thông thường mà phát huy cao độ tiếng nói từ vô thức, trực giác, tâm linh. “Cốt lõi của phương pháp sáng tác tự động là nhà văn ghi lại lập tức từ ngữ, hình ảnh, dòng ý tưởng chợt xuất hiện trong đầu, bất kể văn bản cuối cùng là những chắp vá xẹo xọ, vô nghĩa, không đầu đuôi…Với siêu thực, thời đại của những những phép tu từ hoa mỹ đã vào hồi tàn cuộc” [71]. Cùng với điều đó, chủ nghĩa siêu thực triệt để sử dụng thủ pháp “lắp”, “dán”, “ghép” từ ngữ, hình ảnh, sử dụng các biểu tượng thần bí, huyền ảo, “không cần sử dụng các dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự ngữ pháp” [13,90-91]. Bằng điều này, “nhà thơ có thể thâm nhập vào phía sâu thẳm của con người dựa trên thủ pháp của sự tương tự, sự bất ngờ, cái nghịch lý, sự tương liên của những cái vô cùng phi lý tưởng không bao giờ có thể tồn tại gần nhau” [13, 90-91]. Không chỉ vậy, hình ảnh trong những tác phẩm mang dấu ấn siêu thực là “sự tụ họp, kéo gần lại những hình ảnh không hề có mối liên đới nào với nhau, và từ sự phi lý ấy, siêu thực sẽ tìm ra được ý nghĩa “chói loà” của riêng mình” [72]. Vì vậy, sự “bóp méo hiện thực” trong các tác phẩm siêu thực chủ nghĩa, thực chất, lại là cách thức khác đểtruyền tải hiện thực, nhiều khi hiệu quả không ngờ. Đằng sau những lối viết, lối diễn tả có vẻ phi lý, nghịch thường, thậm chí kỳ dị ấy, các nhà siêu thực đã phản ánh được thực tại ở những chiều kích mà lý trí con người không với tới. Nói cách khác, đó là hiện thực của vô thức, trực giác, tâm linh.
Dù về mặt lịch sử, thời của chủ nghĩa siêu thực đã đi qua, nhưng những đóng góp của họ trong quan niệm mĩ học và kỹ thuật, thủ pháp thể hiện, mô tả đối với sự phát triển của văn nghệ và nhất là thơ ca hiện đại là không thể phủ nhận. Xin mượn nhận xét của nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp qua bài viết Hình ảnh trong thơ siêu thực để ghi nhận lại ba ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa siêu thực đối với thơ: “Một là, thôi thúc người sáng tạo tích cực, chủ động chống lại sự xói mòn, xơ cứng của từ. Hai là, buộc người lao động nghệ thuật phải trở nên chuyên nghiệp và có tri thức, trí tuệ để tìm kiếm nhưng hình ảnh mới, lạ. Ba là, từ những hình ảnh đó, làm nảy sinh những ý nghĩa mới, đẹp vào cuộc đời và con người” [15].
1.2. Mai Văn Phấn và những tìm tòi, cách tân theo hướng siêu thực chủ nghĩa
1.2.1. Mai Văn Phấn – một gương mặt cách tân nổi bật củathơ Việt đương đại
Mai Văn Phấn được xem là một gương mặt cách tân nổi bậtcủa thơ Việt đương đại. Thơ ông đã tạo được những dấu rất riêng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của thơ ca nói chung với tư cách “một nhà thơ rất chuyên nghiệp, chuyên sâu và nhiều ý tưởng mới”. Trong thơ của Mai Văn Phấn, mỗi một thi phẩm là “một thể nghiệm để có được một phát hiện mới, một ghi nhận mới về sự cách tân” [4, 226-228].
Có thể nói mỗi tập thơ của Mai Văn Phấn đều là một sự “vượt thoát”, “vong thân” khi “băng qua các sa mạc khuynh hướng”. Lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, tân hình thức, cổ điển mới… đều đã được ông nghiên cứu, trải nghiệm bằng tất cả sự đam mê, hứng khởi. Nhưng trong thế giới của thi ca, “ít ai mò tới quá xa giới hạn của tâm thức để đến vùng linh cảm hoang vu, bí ẩn. Lại càng ít hơn, những ai tới đó mà còn mang về cho chúng ta một ý tứ, một bài thơ” (lời giới thiệu tập thơGiọt nắng). Mai Văn Phấn đã làm được điều đó. Ông mượn thế giới siêu thực như một phương thức tái hiện đặc thù giúp mình bay vào thế giới tâm linh, vô thức, tìm kiếm trong cái xa xôi của trực giác, giấc mơ, ảo giác… và thoát ra thành những lời thơ ma mị, hút hồn mà vẫn giàu tính thẩm mỹ. Cái hay của Mai Văn Phấn là đã tạo một từ trường thơ đầy sức mạnh, kêu gọi và dẫn dụ người đọc suy tư và tưởng tượng cùng ông thông qua ngôn từ và hình tượng thơ ca. Tác giả Vương Tâm khẳng định: “Khối huyền ảo Rubic thơ anh hút hồn tôi và bao bạn đọc với những con chữ đậm đặc hình ảnh chuyển động bất ngờ từ những nút mầu ngỡ như bấn loạn. Nhưng cuối cùng sáu mặt phẳng mầu hiện lên một hiện thực đầy sự lay động và ám ảnh, được hình thành bởi những đường chéo của một ngôn ngữ bí ẩn, trong không gian huyền ảo mang danh hiệu của thi sĩ họ Mai” [61].
Tuy nhiên, một mặt, luôn có ý thức học tập và hấp thụ, tiếp thu tinh hoa của nhiều nền thơ thế giới, nhiều phương pháp và khuynh hướng sáng tác phương Tây hiện đại, Mai Văn Phấn vẫn luôn ý thức tìm về với cội nguồn, với bản sắc văn hoá dân tộc, để sáng tạo nên những tác phẩm cách tân song vẫn mang đậm “tinh thần Việt”. Thơ ông, do vậy, thể hiện rất rõ khát vọng “lột xác để thơ ca tìm về nguồn cội, cũng chính là cách nhà thơ tìm đến những giá trị mới trong thời đại công nghệ hiện nay”[28]. Đây mới là đích đến đáng trân trọng và đánh dấu sự thành công trong thơ ông, nhất là về mặt tư tưởng sáng tạo.
1.2.2. Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn qua các giai đoạn sáng tác
Với sức bền đáng nể, Mai Văn Phấn đã xuất bản 11 tập thơ và trường ca, gặt hái được nhiều giải thưởng. Nhờ tư duy sáng tạo và khát vọng không ngừng đổi mới, thơ Mai Văn Phấn không chỉ được mở cánh cửa đón người đọc trong nước đồng hành mà còn tìm thấy tri âm ở không ít bạn bè quốc tế.
Sáng tác thơ Mai Văn Phấn có thể chia làm ba giai đoạn: từ trước 1995, từ 1995 đến 2000, từ 2000 đến nay. Ở mỗi chặng đường sáng tạo, người đọc có thể nhìn thấy sự bứt phá ngoạn mục của thi sĩ trong việc cách tân phi pháp, thể nghiệm đa dạng các khuynh hướng sáng tác. Tuy nhiên, các thi phẩm của Mai Văn Phấn vẫn đậm nhạt hoà trộn dấu vết của vệt siêu thực.
1.2.2.1. Từ trước 1995
Giai đoạn này thi sĩ họ Mai có 2 tập thơ: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi xanh (thơ, 1995). Nhờ đó, tên tuổi Mai Văn Phấn bước đầu được khẳng định qua các giải thưởng: Giải nhất văn nghệ thành phố Hải Phòng với bài thơ Thuốc đắng (1991), Giải nhì (không có giải nhất) của hai tờ báo: năm 1994 của báo Người Hà Nội với bài Nghi Tàm; năm 1995 của báo VănNghệ với chùm hai bài Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc vàNhật ký đô thị hóa.
Một thời tuổi trẻ đã giúp thơ Mai Văn Phấn hồn nhiên toả sáng với đề tài về thiên nhiên, tình yêu quê hương, gia đình, những phút rung động của tình cảm lứa đôi qua những bài thơ “nho nhỏ, xinh xinh”. Tuy nhiên, cái tôi “trẻ tuổi, trẻ lòng ấy” còn thôi thúc hồn thơ chạm sâu hơn vào mạch nguồn của thế giới, khám phá chính mình và cuộc đời, đi xa hơn những gì con người có thể nhìn thấy. Vậy nên, ở giai đoạn này, thơ Mai Văn Phấn bước đầu đã xuất hiện hiện tượng “tư duy phân mảnh, đổ vỡ nguyên tôi” và “cái tôi của Mai Văn Phấn đã manh nha hơi hướng đa ngã, đa nhân cách” [12, 11]. Chẳng hạn, nhà thơ đắm mình theo kiểu tưởng tượng “hồn rời khỏi xác” để“lang thang”, để “lâng lâng”, và để quên đi thực tại:
Khi tôi ngủ say hồn ra khỏi xác
Lâng lâng trên những cánh hoa
Lang thang như xưa lúc mẹ vắng nhà
Quên thể xác đăm chiêu lầm lũi
(Hồn nhiên)
Và sau đó là:
Tôi lại nhập hồn về với xác
Chẳng phải tôi, cũng không là người khác
Để hồn nhiên cất tiếng khóc lọt lòng
Đây là một biểu hiện không lạ với những ai quen với dòng thơ siêu thực. Đằng sau cuộc thoát xác, ra đi rồi nhập về đã giúptôi không là tôi của quá khứ với bao nhọc nhằn, đua chen, hoang mang, nghi hoặc, cô độc mà là một cái tôi mới, tinh khôi hơn, thánh thiện hơn. Vậy phải chăng con đường trở về với giấc mơ và cõi vô thức giúp ta trở nên Người hơn?
Chặng thơ này còn đánh dấu bước chuyển mình của Mai Văn Phấn về mặt thể loại. Ngoài thơ lục bát, giai đoạn này Mai Văn Phấn còn sử dụng thể thơ tự do và thơ văn xuôi như là một cách thức để đưa đến những cảm nhận mới về thế giới. Đó là những nỗ lực vượt bật trong mong muốn đổi mới thi pháp. Tuy nhiên chặng đường này, thơ ông, quả thực như đánh giá của một số nhà phê bình, vẫn chưa đi xa hơn hệ hình thi pháp truyền thống.
1.2.2.2. Từ 1995 đến 2000
Từ 1995 đến 2000, Mai Văn Phấn cho ra đời ba tập thơ: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường caNgười cùng thời (1999). Những tập thơ này đã đánh dấu một sự thay da đổi thịt từ nội dung đến hình thức, từ cảm hứng đến thi pháp, từ đề tài đến hình tượng. Ông không bằng lòng với cái hồn nhiên, chân thật dễ thẩm thấu trên bề mặt câu chữ mà bước đầu đi đến vùng đất thăm thẳm của cõi tâm linh. Khai thác hiện thực ở góc nhìn tưởng khuất lấp này hoá ra lại là cách “bứt phá” vô cùng sáng tạo trong cách tân thi pháp để Mai Văn Phấn có thể “mở rộng biên độ thơ”, khắc hoạ cuộc sống muôn hình muôn vẻ hơn. Hiện thực cuộc sống đương đại nhiều góc tối bất công, bi kịch, tàn bạo đi vào thơ ông với những hình ảnh ẩn dụ - tượng trưng đầy ám ảnh:
Lẽ phải vùi chôn trong đơn thư mặc danh
Đồng tiền lật ngược trang hồ sơ khởi tố
Có mặt quỷ sau mặt người lấp ló
Quỷ thì run mà người thì buồn.
(Từ hạt mưa)
Sủi bọt. Rạn nổ. Vụn nát
Hơi nóng bốc cao ngùn ngụt giữa trời
Nỗi khắc khoải không còn có ý nghĩa
Sự đổi thay vượt quá sức mình
(Từ hạt mưa)
Dấu chân không nhận ra nhau vô cảm trơn lỳ
Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ
cỏ nát...
(Khúc dạo đầu)
Ở đó, cái hoang mang, âu lo, dự cảm không lành trước cuộc đời đa đoan được soi chiếu qua cái nhìn “phân mảnh” trước nhiều vấn đề thời cuộc, về bản chất con người, về những khoảnh khắc đẹp của tình yêu, của đời sống. Nhưng đồng thời nhờ đó tinh thần trách nhiệm mới đánh thức cái tôi cá nhân lên tiếng. Để rồi đằng sau “nỗi đau phát sáng” sẽ xuất hiện những niềm hy vọng mới:
Từ tưởng tượng
và niềm hy vọng
Tôi rút những mũi tên
Ra đi tìm đích cho ngày mai
(Mũi tên bóng tối)
Hoặc:
Máu sẽ tuần hoàn trong các mạng viễn thông tin học, soi sáng đến tận cùng mọi sinh linh, nỗi niềm ẩn khuất. Cá thể vô danh cùng làm nên Tổ quốc hữu danh.
Từ trang giấy học trò thấy cử động một dáng hình đất nước, tựa cánh tay săn bền giơ lên quả quyết, chỉ dẫn những ngả đường trước mặt, hay cách vươn lên như tán xanh quang hợp ánh mặt trời.
Khắp nẻo không gian đã giãn ra cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp:
Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!
(Chương X: phía trước bàn chân)
Về bút pháp tạo hình, thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này chuyển sang một bút pháp mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa. Thơ ông giờ đây đầy những hình ảnh nghịch dị, phi lí, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”, bộn bề câu chữ bất chợt đến trong ý nghĩ, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi. Điều này được chứng minh qua các bài thơ tiêu biểu như: Mười bài tập mùa xuân, Mail cho em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số 18, Nỗi đau phát sáng, Đối thoại với thời gian, Bài ca buổi sớm…
Quả thực, từ Giọt nắng (1992) đến trường ca Người cùng thời(1999), Mai Văn Phấn đã càng ngày càng đi đến gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Vì thế, Phạm Quang Trung đã khẳng định: “có thể nói, đến lúc này Mai Văn Phấn đã tìm được những “giải pháp” đổi mới thi ca thoả đáng, chí ít là cho riêng mình” [32, 468].
1.2.2.3. Từ 2000 đến nay
Từ 2000 đến nay, Mai Văn Phấn cho ra đời hàng loạt tập thơ:Vách nước (2003), Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi(2009), Bầu trời không mái che (2010), hoa giấu mặt (2012),Vừa sinh ra ở đó (2013)... thể hiện sức sáng tạo dồi dào của nhà thơ trên cơ sở những nền móng trước đó. Inrasara đã từng cất lời “mừng cho Mai Văn Phấn: miệt mài, hành khất, tu tập, tìm gõ – trong nỗi he hé kia, thơ anh đã vỡ tiếng, và anh đạp cửa bước ra ngoài! Vách nước đánh dấu sự vỡ và đạp ấy”. Và sau thanh âm “tiếng kẹt cửa”, “từ tập Vách nước trở đi, thơ Mai Văn Phấn cứ thế mà thẳng tiến” [32, 469].
Trong thế giới sáng tạo ấy, Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Đúng vậy, Chỉ là giấc mơ, Còn cậu hãy đứng đằng kia, biến tấu con quạ, ở những đỉnh cột, Hắn, Chuyện còn dài… không chỉ đơn thuần là sự hiện hữu của giấc mơ, ảo giác mà phản chiếu một cái nhìn nghịch dị, hài hước nhưng đầy tỉnh táo về một thế giới bị xô lệch. Ở đó, con người bị biến dạng, trở nên méo mó, sống trong nghi ngờ, bóng tối, khung cảnh đầy quạ và dự cảm chết chóc. Đó là một cuộc phản tỉnh mạnh mẽ, buộc con người phải mở to mắt nhìn lại mình, nhìn vạn vật và vũ trụ.
Có thể cảm nhận được, đứng chênh vênh nơi Vách nước, nghĩ về Hôm sau, thấy được và đột nhiên gió thổi trong Bầu trời không mái che, Mai Văn Phấn đã nhìn thấy những hoa giấu mặt và thổn thức cảm nhận “tất cả chúng ta Vừa sinh ra ở đó” để kích hoạt “những vùng tối đang ngủ yên”, để có cái nhìn tổng thể nhưng đa diện về cuộc đời - nơi chứa nhiều bi ai, lắm hoang mang, đầy rẫy nỗi sợ hãi. Nhưng trên hết thế giới ấy vẫn là nơi Mai Văn Phấn gửi gắm khát vọng về sự tái sinh, vẹn nguyên, thanh khiết, trong sạch và con người trở về bản ngã chân thật. Theo đó, thơ Mai Văn Phấn đã thực hiện cú xoay mình độc đáo. Nhà thơ đi từ lối thể hiện hồn hậu, chân thật mà đầy đam mê đến “bứt phá” với những đau đớn, trăn trở, giằng xé bằng thứ cảm xúc đa thanh rồi lại âm thầm “giải trừ mọi hoài nghi”, hướng trở về với “sự sống tự nhiên”, về chất thuần Việt của tâm thức người Việt: tâm tĩnh, hồn lặng hoà với cái khôn cùng của vũ trụ, vạn vật và hiện sinh, tái sinh bằng những hân hoan nồng nhiệt. Đó là “niềm mỏi mong sự sống vẹn toàn, giá trị thiêng liêng của hơi thở, của cánh hoa, tiếng chim, nhựa sống, của đất đai, của nước, ánh sáng, bóng tối, cơn mưa, tia nắng...” [12, 59].
Nếu ở một số tập như Hôm sau, và đột nhiên gió thổi, Bầu trời không mái che…, tính siêu thực được thể hiện khá đậm nét thì đến hoa giấu mặt và Vừa sinh ra ở đó, thơ Mai Văn Phấn nghiêng về tính tượng trưng. Bên cạnh đó, nhà thơ vẫn tiếp tục dung nạp những thủ pháp, kĩ thuật viết mới, phức tạp theo hướng hiện đại chủ nghĩa và hậu hiện đại chủ nghĩa. Kiểu viết “tự động tâm linh, những mê sảng của ý thức” vẫn đóng vai trò quan trọng. Câu thơ dài ngắn bất định, vần nhịp không là chất liệu chủ đạo tạo hiệu ứng đặc biệt cho thơ. Xuyên suốt các tập thơ là những chuỗi mảnh ghép, cắt dán của những “sự trỗi dậy của vô thức, tiềm thức”. Tác giả sử dụng nhiều sự huyễn hoặc, giấc mơ, ảo giác, tưởng tượng để phủ nhận những thứ cũ kĩ chật hẹp, làm “mài mòn đức tin” của con người với cuộc sống để gieo mầm sống cho hạt hy vọng nẩy nở tốt tươi trong mai sau.
Có thể khẳng định, thơ Mai Văn Phấn in khá đậm dấu ấn siêu thực. Tuy nhiên, nhìn lại thơ siêu thực của Mai Văn Phấn, chúng tôi vẫn thấy có một khoảng cách khá xa giữa những sáng tác của ông với trào lưu siêu thực gốc phương Tây nếu xét trên phương diện cơ sở triết - mỹ học, về cách nhìn thế giới và con người. Đều là sự suy tôn vô thức, ảo giác, mộng tưởng, là sự ảo hoá thường xuyên thực tại, nhưng một bên là phản ứng phủ nhận của một thế hệ trong thực tại tha hoá nghiệt ngã của một cuộc chiến tranh ở tầm thế giới, một đằng là tiếng nói mới mẻ khẳng định mình của một thế hệ khao khát đổi mới văn học Việt Nam trong thời mở cửa và hội nhập. Nói cách khác Mai Văn Phấn học chủ nghĩa siêu thực nhưng vẫn giữa được bản sắc của mình và tiếng nói dân tộc mình bằng chính những gì tiếp thụ được.
1.3. Cơ sở hình thành dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa của Việt Nam sau 1975
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một trang mới cho lịch sử đất nước nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng. Công cuộc đổi mới ấy đã làm thay đổi diện mạo đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội mà còn làm tác động trực tiếp đến đời sống văn hóa xã hội cũng như văn học nghệ thuật. Những tác động này khiến văn nghệ cũng mang tính toàn cầu hoá, tức không chỉ kế thừa những nét đẹp truyền thống mà phải đánh thức những khát vọng sáng tạo trên bước đường hội nhập quốc tế.
Có thể thấy, những thay đổi về hoàn cảnh lịch sử - xã hội nước ta, đặc biệt từ sau 1986 đã thể hiện những nhu cầu mới của văn nghệ sĩ trên các chặng đường sáng tạo. Số phận cá nhân được quan tâm, ý thức cá nhân được đề cao, khiến thơ hướng về đào sâu hiện thực với những bề bộn, phức tạp, đi sâu khám phá thế giới bên trong tâm hồn con người.
Cùng với xu hướng đưa thơ về gần với hơi thở và đi sâu vào vùng vô thức của con người, các nhà thơ cũng đề cao chức năng mới của thơ ca: chức năng thẩm mỹ. Nhờ đó, các nhà thơ mạnh dạn sáng tạo bằng những lối viết hiện đại, các khuynh hướng đa dạng làm hình thức, ngôn ngữ, bút pháp trong thi ca đương đại trở nên phong phú, độc đáo hơn; tạo bước tiến mới mẻ cho sự cách tân văn học Việt Nam ở thời điểm hiện tại.
1.3.2. Sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ đổi mới
Lực lượng nòng cốt của nền thơ đương đại Việt Nam là thế hệ nhà thơ đổi mới. Khái niệm “thế hệ nhà thơ đổi mới” ở đây là một cách diễn đạt mang tính quy ước – lịch sử, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ cầm bút sau 1975 và thành danh chủ yếu vào thời Đổi mới (sau 1986), một thế hệ có nhiều tìm tòi, cách tân trong quan niệm và thi pháp thơ, chứ không phải là một khái niệm lý luận cố định, chặt chẽ. Như vậy, “đổi mới” vừa là một định ngữ để xác định thời gian xuất hiện của thế hệ nhà thơ này, đồng thời cũng là một cách để “định danh, định tính” về họ. Trên thực tế, thế hệ nhà thơ đổi mới bao gồm nhiều thế hệ cầm bút khác nhau, có những khác biệt nhất định về độ tuổi, quan niệm sáng tạo, xuất hiện kế tiếp và song song trong quãng thời gian sau 1986 đến nay. Điểm chung giữa họ là những quan niệm, tư tưởng tìm tòi, đổi mới, cách tân thi ca mạnh mẽ. Cũng trên thực tế, nhiều sáng tác của thế hệ nhà thơ Đổi mới có thể đã xuất hiện trước đó nhưng sau 1986 mới được công bố và được dư luận chú ý rộng rãi (chẳng hạn nhóm thơ “Dòng chữ” với những cây bút tiêu biểu như Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Cầm, Lê Đạt…).
Với ý nghĩa đó, những tác giả thuộc xu hướng đổi mới bao gồm nhiều thế hệ cầm bút nối tiếp nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Ý Nhi, Thi Hoàng, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Irasara... Nối tiếp là sự ra đời của thế hệ nhà thơ trẻ như Nguyễn Quyến, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Vĩnh Tiến, Ly Hoàng Ly, Trần Nguyễn Anh, Văn Cầm Hải, Nguyễn Thị Từ Huy,… Họ là thế hệ sáng tạo sung sức và khao khát làm mới thơ ca dựa trên sự kế thừa truyền thống, từ nội dung đến hình thức bằng những giọng điệu hào sảng, tự do, mạnh mẽ đôi khi quái/lạ. Nhưng trên lãnh địa thi ca của mình, các tác giả ấy luôn muốn nhận thức thế giới bằng con mắt đa chiều, thoát khỏi lối tư duy truyền thống, những quan niệm sáng tạo tù túng, xơ cứng. Họ muốn phơi bày hiện thực đời sống thực sự bị khuất đằng sau lớp vỏ hiện thực hiện tại (dù hiện thực ấy có khi phải nhìn từ con mắt vô thức, trực giác,tâm linh…). Họ dám chấp nhận thử thách, sẵn sàng phiêu lưu vào những con đường sáng tạo, băng qua những “sa mạc khuynh hướng” nhằm đưa lại diện mạo mới cho thơ Việt.
1.3.3. Những tìm tòi theo hướng chủ nghĩa siêu thực trong thơ Việt hiện đại
Chủ nghĩa siêu thực không chỉ có sức hấp dẫn đặc biệt ở Pháp, ở phương Tây mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Nó cũng có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nền văn học hiện đại Việt Nam. Trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, tuy chủ nghĩa siêu thực không phát triển thành một trào lưu nghệ thuật mạnh mẽ như ở phương Tây, nhưng khá nhiều nhà thơ đã sử dụng lối viết siêu thực chủ nghĩa và đã đạt được những thành công đáng chú ý.
Ngay từ thời Thơ mới (1932 – 1945), có thể tìm thấy những điểm gần gũi trong quan niệm chủ nghĩa siêu thực với quan niệm sáng tạo được phát biểu trong những Lời tự Thơ điên và tựa tập Điêu tàn do chính hai tác giả Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên tự viết, tuyên ngôn Thơ của Xuân Thu Nhã Tập và Tuyên ngôn tượng trưng của Dạ Đài. Màu sắc siêu thực cũng thể hiện rõ trong sáng tác của nhiều nhà thơ mới, đặc biệt ở giai đoạn hậu kỳ, chẳng hạn Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Hàn Mặc Tử… Và đặc biệt là Hàn Mặc Tử. Thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều hình ảnh chập chờn giữa mộng - thực, giữa lung linh hư ảo và thực tế phũ phàng, thậm chí ngay trong cái thực vẫn bâng quơ hiện hình những cái tưởng tượng. Bởi vậy, thế giới thơ ông đầy những ảo giác dị thường: “Nước hóa thành trăng trăng ra nước/ Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm”. Có thể thấy đời sống vô thức kết hợp với những kĩ thuật của bút pháp tượng trưng đã tạo ra những câu thơ đậm chất siêu thực, khó lòng tách bạch thực - ảo: “Anh điên anh nói như người dại/ Van lạy không gian xóa những ngày”. Nhóm Xuân Thu nhã tập cũng đã chớm chạm đến “ngôi đền” siêu thực bằng thủ pháp cắt - dán - lắp - ghép để tạo nên những hình ảnh mới mẻ, lạ lẫm: “Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà/ Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm/ Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa” (Buồn xưa - Nguyễn Xuân Sanh). Tuy nhiên những “va đập chói loà của từ ngữ” vẫn còn khá hiếm hoi.
Có thể nói rằng, một số tác giả Thơ mới đã tìm đến với tiềm thức, giấc mơ, với những ảo ảnh, ảo giác ám ảnh nhằm phản ánh hiện thực theo cách riêng, khởi tạo từ một nhãn quan nghệ thuật độc đáo. Họ đề cao tiếng nói sâu thẳm của tâm linh, sáng tạo trong trạng thái “điên loạn”, nhìn cuộc sống dưới con mắt “điêu tàn” của người say, người mơ, người điên… nhằm giải toả những uất nghẹn, giải phóng thế giới tinh thần bị tù túng, trói buộc; bộc lộ tâm trạng bất mãn nhưng cũng đầy âu lo, bất lực trước cuộc đời. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân, ở Thơ mới, siêu thực cũng mới chỉ xuất hiện ở cấp độ bút pháp, và tính chất, sắc thái của nó cũng chỉ hiện diện đậm nhạt trong sáng tác của một số tác giả giai đoạn hậu kỳ chứ chưa thể trở thành một khuynh hướng, trường phái sáng tác như ở phương Tây.
Sau Thơ mới, do bối cảnh lịch sử có tính đặc thù, ở miền Bắc dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, những tìm tòi theo hướng siêu thực chủ nghĩa gần như không còn. Ở miền Nam, dưới chế độ Việt Nam cộng hòa, vẫn có khá nhiều cây bút tìm tòi, cách tân theo khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa và ta vẫn có thể thấy dấu ấn siêu thực đậm nét trong sáng tác của một số tác giả như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Ngô Kha…
Sau 1975, đặc biệt là sau 1986, bằng sự vận động tự thân, bằng khát vọng cách tân thơ Việt, nhằm bắt kịp xu hướng vận động của thơ ca thế giới, thế hệ nhà thơ hậu chiến và Đổi mới đã tìm đến với chủ nghĩa hiện đại như một tất yếu và điều này thể hiện rõ trong quan niệm của như thi pháp của nhiều tác giả: Thanh Thảo, Thi Hoàng, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, Phan Nhiên Hạo, Lê Vĩnh Tài, Inrasara…
Tóm lại, dẫu trải qua nhiều thời kỳ đứt đoạn nhưng những tìm tòi bút pháp theo hướng siêu thực chủ nghĩa đã trở thành một khuynh hướng khá mạnh mẽ trong thơ Việt Nam đương đại. Chúng tôi tin những tìm tòi, cách tân theo khuynh hướng này có thể đã có những ảnh hưởng, tác động tích cực đến ngòi bút Mai Văn Phấn.
1.3.4. Quan niệm sáng tạo của tác giả
1.3.4.1. Quan niệm của Mai Văn Phấn về thơ
Trong quá trình phát triển của mình, thơ ca Việt Nam đã tiếp nhận nhiều luồng gió mới từ các nền thơ ca khác nhau với những quan niệm mỹ học và hệ hình thi pháp đa dạng. Trên tinh thần học hỏi và sáng tạo ấy, mỗi nhà thơ đều có một định nghĩa về thơ cho riêng mình và đó thường là ngọn đôúc sáng cho đời thơ của người nghệ sĩ, được thể hiện trực tiếp thông qua phát ngôn và những đứa con tinh thần của họ. Từ truyền thống đến hiện đại, quan niệm về thơ cũng ít nhiều thay đổi. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến thức nhận của Mai Văn Phấn về thơ.
Cùng với Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Bình Phương, Inrasara…, Mai Văn Phấn cũng là gương mặt cách tân thơ quyết liệt, với quan niệm về thơ riêng. Với Mai Văn Phấn, “thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả… nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [45, 454]. Xét về mặt ý tưởng, cảm hứng, thơ Mai Văn Phấn dù được viết theo bất kỳ khuynh hướng nào thì vẫn “luôn mang vẻ đẹp nguyên khởi, nhằm phục sinh, tái tạo thế giới, mãi đối lập với cái xấu và gian tà”; “quyền năng của thơ chính là sự tái tạo khả năng cảm xúc và suy tưởng, làm xuất hiện những giá trị tinh thần mới, một thế giới mới” [49]. Thi sỹ khẳng định: “Thơ ca là cầu nối, là bàn tay chân thành, giọng nói ấm áp để chúng ta tìm đến nhau, cảm thông, thấu hiểu nhau hơn. Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn...cũng như thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của dân tộc ấy. Chúng ta tựa vào thơ ca để ngày thêm hoàn thiện, thay đổi, lớn lên và bình đẳng giữa các dân tộc trên trái đất” [49; 1]. Không chỉ vậy, “trên hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp”, nhà thơ còn nhận ra tác động của văn chương với người nghệ sĩ, giúp “quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy” [45, 448].
Nói đến cùng, đổi mới không chỉ là đòi hỏi của thời đại mà còn là nhu cầu vận động tự thân của thi ca. Đổi mới thi pháp chính là “một cuộc cách mạng giữa nội dung và hình thức”[45, 456]. Xét một cách toàn diện, nội dung và hình thức phải tạo được mối liên kết mật thiết và chặt chẽ. Thực chất, trong thơ ca bao đời nay, hiện thực phản ánh vốn chẳng nhiều nét mới, vẫn là viết mối quan hệ giữa thiên nhiên vũ trụ và con người, về mối quan hệ giữa người với người, về nỗi buồn, sự cô đơn, những bộn bề lo toan thường nhật... Vậy, đổi mới thi ca chủ yếu bắt nguồn từ hình thức nghệ thuật. Trong quan niệm của Mai Văn Phấn, đổi mới thơ tức là “nội dung ấy phải được dung chứa trong hình thức mới của thi ca”, nghĩa là hình thức mới sẽ mang đến cho người đọc những cảm nhận tươi trong về bao nội dung không còn mới. Cụ thể hơn, “hình thức được chuyển hóa thành nội dung, đó mới là đổi mới thực sự. Nội dung mới trong thơ tôi là những quan tâm mang tính thời đại và thời sự, như lý tưởng sống của thế hệ trẻ, vấn đề ý thức hệ, quan niệm về tự do, công bằng, dân chủ...” [45, 456]. Vì thế, Mai Văn Phấn luôn tâm niệm: “Các khuynh hướng sáng tác đều rất cần và làm phong phú thêm cho nền thi ca của chúng ta. Hiện chúng ta vẫn còn hồ nghi vì còn quá ít tài năng cho những “thể nghiệm” được thuyết phục” [49, 439].
Cách tân là sự đổi mới về hình thức, về nghệ thuật biểu đạt; hơn thế đó phải là sự dũng cảm từ chối đồng hành với thi pháp truyền thống bằng cái tâm của người khao khát muốn thay đổi diện mạo thơ ca để chúng tiến gần thơ ca thế giới. Đây là vấn đề sống còn của thơ Việt đương đại. Mai Văn Phấn cũng thường nhấn mạnh cách thức đổi mới thi pháp. Ông cho rằng “Thơ ca càng ảo bao nhiêu càng đem lại sự chân thật bấy nhiêu”[45, 378]. Và đổi mới thi pháp còn góp phần “tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá” [45, 378]. Đề cao việc đổi mới và cách tân thi pháp thơ, thơ ca có thể “chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người đọc, tạo những không gian thơ đa dạng, thiết lập hệ quy chiếu mới trong cách tiếp cận tác phẩm. Sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển những giá trị đã định hình, mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá” [49, 423].
Thơ, cũng như văn học nghệ thuật, từ trong bản chất, luôn bám sát và phản ánh hiện thực đời sống. Mai Văn Phấn cũng như bao thi sĩ khác luôn khẳng định điều này. Nhưng, hiện thực đời sống đang được nói ở đây không phải chỉ là những gì mắt thấy tai nghe hằng ngày, mà phải là cái hiện thực đã được nghiền ngẫm, suy tư, lắng sâu bởi nội tâm, bởi cảm xúc sâu kín, bí ẩn bên trong, bởi ý thức và cả vô thức, trực giác của người nghệ sĩ. Đó chính là một siêu hiện thực.
Tuy nhiên, theo Mai Văn Phấn, những bức tranh hiện thực trong thơ cũng “không nên sa đà vào những vấn đề vụn vặt, tầm thường, câu khách... mà cần lý giải tận gốc rễ những căn nguyên hiện tượng đời sống, hoạch định chiến lược “mô hình” xã hội theo quan điểm riêng, cách nhìn riêng của nhà văn” [49, 446]. Và chỉ những ai biết “từ chối ve vuốt những sở thích của đám đông” thì người đó mới có thể tạo ra được hiện thực đời sống tự nhiên, chân thực, phong phú và ấn tượng: “Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng” [45; 400].
Trong công cuộc cách tân và làm mới thơ Việt, các nhà thơ luôn khao khát tạo ra một nền thơ Việt có bản sắc riêng, hòa nhập chứ không hòa tan vào thơ ca thế giới. Và thơ hiện đại là con đường thơ sáng tạo mang đậm dấu ấn cá nhân của mỗi một nhà thơ và góp tay tạo giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh tinh thần dám sống và sáng tạo, theo đuổi và trải nghiệm những cung đường mới trong thi pháp, Mai Văn Phấn luôn tự nhận thức việc phải biết “quay về trên cội nguồn thơ Việt” để lưu giữ tinh thần Việt cho thơ. Ông cho rằng người làm thơ chỉ có thể tìm thấy thành công khi “biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà không đánh mất bản chất tâm hồn Việt”. Đó phải là hồn thơ gắn với sự “sáng trong, chân thành, bao dung mà rất hiện sinh, tinh tế trong cảm nhận, nhân bản hồn hậu trong nghĩ suy về phận người…” [45, 385].
1.3.4.2. Quan niệm của Mai Văn Phấn về nhà thơ
Phàm đã là thi sỹ, ai cũng mong tác phẩm của mình được nhiều độc giả chia sẻ, nồng nhiệt chào đón. Mai Văn Phấn cũng vậy. Và trên thực tế, thơ ông cũng rất được chào đón bởi người đọc cảm được ý thức trách nhiệm của một người làm thơ luôn thường trực, ám ảnh trên câu chữ và sẵn sàng “chết như một nhà thơ”. Điều này thể hiện tâm niệm của nhà thơ về nghiệp văn chương và trách nhiệm mà mình đang gánh vác đồng thời giúp ông khởi tạo những không gian nghệ thuật độc đáo.
Để xây dựng được trường không gian thơ ấy, nhà thơ luôn ý thức rằng muốn đổi mới thi ca phải làm mới chính mình. Mai Văn Phấn từng phát biểu: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách chân thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa khóa trong một cái chợ” [49, 398]. Nhưng muốn làm thơ, nhất là thứ thơ mang trong mình hơi thở hiện đại, mới mẻ, Mai Văn Phấn cho rằng người làm thơ cần phải có bản lĩnh, sự quyết đoán mạnh mẽ: “bản lĩnh của nhà thơ trước hết là biết chấp nhận sự im lặng tạm thời từ phía người đọc” [49, 424]. Ông cũng giải thích rằng việc chấp nhận sự im lặng ấy không phải là cơn mưa thổi tắt nhiệt huyết mà là “ngọn lửa siêu nhiệt, giúp nhà thơ tạo ra những tác phẩm có phẩm chất vàng mười, đủ sức vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt của thời gian” [49, 424]. Khi đã nuôi đủ bản lĩnh, mỗi thi sĩ sẽ tự có ý thức tạo khuôn mặt luôn mới lạ trong hồn thơ, một cái tôi bản lĩnh đầy cá tính: “Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi, ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định” [49, 447 - 448]. Điều này đồng nghĩa với việc nhà thơ muốn làm mới mình thì phải “dám chấp nhận đơn độc trên con đường mới, mở ra một không gian thơ khác, tạo tiếng nói khác” [45, 382]. Mai Văn Phấn đã đi và trên hành trình của mình, thực sự người đọc luôn cảm thấy cảm giác cô đơn bất tận, quay quắt đôi lúc có cả hoài nghi, hoang mang gửi vào những suy tưởng về cuộc đời, về giá trị sống, về tương lai bàng bạc trên những dòng thơ. Tuy nhiên, đằng sau khoảng khắc “gieo mình xuống phù sa/ Bàng hoàng nghe tách vỏ”, ông vẫn tĩnh tâm “cúi nhặt từng chiếc lá rơi” và “chờ mùa xuân nảy mầm”. Sau mỗi đứa con tinh thần xuất hiện, ông lại phát hiện được thêm điều bí ẩn trong cách sáng tạo: “Tôi được bài thơ dạy lại mình cách viết” [45, 401].
Mai Văn Phấn cũng cho rằng, nhà thơ phải là người có trình độ, tức có kiến văn rộng rãi. Những kiến thức được tích đọng qua một quá trình tu dưỡng, rèn luyện, học hỏi ấy, đến một lúc nào đó, rất tự nhiên, nó sẽ “đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca”. Đồng thời, Mai Văn Phấn luôn để cao phẩm giá của người nghệ sĩ. Với ông, “phẩm cách của nhà thơ quyết định cốt cách thi ca”. Đây là cơ sở để một khi nhà thơ đã vững tin trong nhân cách chính mình thì sẽ không ngại lao vào bất cứ vấn đề gì, kể cả những vấn đề “vụn vặt”. Chính vì thế, điều kiện cần và đủ để trở thành một thi sĩ đúng nghĩa là luôn hướng đến sự hoàn thiện nhân cách.
1.3.4.3. Quan niệm của Mai Văn Phấn về người đọc
Trong đời sống luôn biến động, xã hội hiện đại ngày càng phân hóa sâu sắc và thị hiếu con người cũng thay đổi. Nếu thơ ca không chuyển mình đổi mới thì nó sẽ bị đào thải bởi nhiệm vụ chính của thơ ca là phục vụ cho cuộc sống con người. Một lí do khác là độc giả thời nay “có lối tư duy phổ quát, mạch lạc, tốc độ... họ luôn khao khát những giá trị mới lạ phù hợp với đời sống hiện đại” [45, 423]. Do đó, vấn đề cần thiết phải liên tục cách tân đổi mới thơ là vấn đề tất yếu mang tính sống còn và người đọc là một trong những nhân tố chính xác lập sự tồn tại và giá trị thực sự của thơ ca. Nói như Chế Lan Viên: “Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi/ Còn một nửa cho mùa thu làm lấy”(Sổ tay thơ). Đồng điệu với Chế Lan Viên, Mai Văn Phấn cũng nhận định tầm quan trọng của người đọc với thơ ca: “Quá trình sáng tạo chính là những cuộc cách mạng liên tiếp xẩy ra trong mỗi nhà thơ”, “nhiều khi phải chấp nhận những thất bại cay đắng. Quá trình vượt thoát khỏi những quan niệm cũ không chỉ đặt ra cho các nhà thơ mà cho cả người đọc. Phải là cuộc song hành, đồng bộ, nhà thơ và bạn đọc mới có thể gặp nhau, cùng kích hoạt những tác phẩm văn học có giá trị” [45,377-380].
Người đọc trở thành người đồng hành trong sáng tạo thơ ca và cũng là người khẳng định được giá trị và sức sống lâu bền của những thi phẩm. Điều này có nghĩa, nhà thơ chỉ đóng vai trò hoa tiêu, người dẫn đường, chỉ hướng chứ không đứng ra giải thích, tiếp nhận được gì và như thế nào còn phụ thuộc vào “tầm đón nhận” của độc giả. Và muốn thẩm thấu bài thơ, người đọc phải “dám từ bỏ mọi thói quen cũ, sẵn sàng đến với những giá trị mới một cách bình tĩnh, công bằng” và khi biết lằng nghe chính mình, biết lắng nghe thơ bằng một tâm thế mới thì “thơ sẽ hay hơn” [48]. Vậy nên, nếu nhà thơ muốn trở thành thi sĩ đúng nghĩa phải tôi rèn từ kiến thức, bản lĩnh đến nhân cách thì đây cũng là yêu cầu bắt buộc đối với người đọc khi thực hiện hoạt động tiếp nhận văn chương.
1.4. Những đóng góp và giới hạn của sự tìm tòi, cách tân theo hướng siêu thực chủ nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn
Trong Thơ Việt Nam sau 1975, tìm tòi và cách tân, Nguyễn Việt Chiến đã khẳng định: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay” thì “người đó phải là Mai Văn Phấn” [6, 420]. Viết về những tìm tòi nghệ thuật của Mai Văn Phấn, Inrasara cũng cho rằng: “Mai Văn Phấn là một trong rất hiếm hoi thi sĩ tự giải thoát được mình”[19]. Những đóng góp của những tìm tòi, cách tân theo hướng hiện đại chủ nghĩa, cụ thể là theo hướng siêu thực chủ nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn là không thể phủ nhận. Nó tạo nên sự mở rộng và đổi mới quan niệm thơ cũng như cách nghĩ và cách viết về thế giới của Mai Văn Phấn, góp phần tạo nên một không gian thơmở, đầy độc đáo của tác giả trong dòng chảy thơ Việt Nam đương đại. Nhìn rộng ra, theo chúng tôi, cách nghĩ và lối viết hiện đại này cũng có những tương tác, ảnh hưởng hết sức tích cực tới nhiều cây bút đương đại.
Tuy nhiên, trên thực tế, những tìm tòi, thể nghiệm cách tân của Mai Văn Phấn theo hướng siêu thực chủ nghĩa không phải lúc nào cũng đạt đến cái đích hiệu quả nghệ thuật như mong muốn. Thực lòng khen ngợi cũng nhiều nhưng tác giả Nguyễn Việt Chiến vẫn khẳng định thơ Mai Văn Phấn có lúc chứa đầy “những liên tưởng rắc rối (khiến người đọc thấy choáng váng sốc nhiều hơn là được thưởng ngoạn vẻ đẹp của thơ)” [6, 228].
Vũ Quần Phương cho rằng “trong mạch tư duy của anh (tức Mai Văn Phấn) có những bước nhảy - chính ở những bước nhảy này nhà thơ bộc lộ những cách tân về biểu hiện và cả phẩm chất của sức khái quát”. Nhưng ở nhiều bài thơ, ông thấy còn chưa ổn khi “thiếu tính logic ẩn giấu trong cốt lõi của chủ đề”, và khiến “bài thơ dễ bị gãy vụn”. Điều này “không gây kích thích cho trí tuệ, hứng thú cho khám phá mà chỉ cắt đứt giao lưu tác phẩm - bạn đọc”. Ở nhiều bài “ tứ không rõ, chỉ có các ý đặt cạnh nhau mà thôi, thiếu hô ứng. Lối thơ thiên về tư duy dễ sa vào nhược điểm này. Muốn khắc phục lại phải tìm về phía tình cảm” [54].
Viết về tập Giọt nắng, Nguyễn Hữu Điện cũng chia sẻ những băn khoăn: “Với những bài dài, tuy số lượng không nhiều trong tập thơ, nhưng nhìn chung, ý bị dàn trải. Một đôi trường hợp, vì cố ý tạo cái lạ cho hình thức nên giọng thơ bị “ngái”, hình ảnh thơ dị dạng, nhoà nghĩa, không có khả năng bám vào ký ức” [9].
Phạm Quang Trung lại đưa nhận xét về trường ca Người cùng thời nói riêng và thơ theo hướng siêu thực của Mai Văn Phấn nói chung là “rất khó đọc” [69]. Tất nhiên, ông cũng nói rõ, muốn hiểu thơ của thi sĩ này “phải được trang bị một vốn văn hóa nhất định. Và cái quyết định hơn là còn phải dám gạt bỏ ra khỏi thị hiếu thẩm mỹ của mình những thiên kiến, định kiến cũ kỹ và lỗi thời. Nhờ vậy, ta mới chấp nhận những gì mới lạ”[69].
Xét về mặt thức nhận, thơ Mai Văn Phấn đôi khi còn “xa rời không gian thơ vốn được mở ra từ đầu bài thơ”. Đây là nhận xét của tác giả Nguyễn Thị Bích Phụng về tập thơ hoa giấu mặt. Tác giả vẫn có chút băn khoăn khi nghĩ đây là ý đồ tác giả nhưng vẫn cho rằng hướng viết “quá nhanh nhạy chạy theo dụng ý triết lý mà làm giảm bớt quá trình liên tưởng, rút ngắn sự lắng đọng cần thiết” đã làm người đọc “không đủ thời gian cảm nhận, chiêm nghiệm” [54].
Từ góc nhìn của bút pháp tạo hình, Inrasara phát biểu: “Các ẩn dụ có mặt dày và đậm trong thơ anh. Rất khó tiếp cận. Khó khăn cả với bộ phận độc giả chuyên nghiệp” bởi nhà thơ phát hiện “một văn bản văn chương đựng chứa khả năng mang tính tư duy cao hơn”. Vả Inrasara cũng gợi ý cách “giải mã” thơ Mai Văn Phấn, nhất là những thi phẩm mang hơi thở siêu thực, tượng trưng là hãy “tìm ý nghĩa tượng trưng ở phía các bề tối qua điệp điệp ẩn dụ trong thơ anh” [32, 239-241].
Như vậy, bên cạnh những ý kiến, nhận định ủng hộ và đồng thuận và hết sức trân trọng, đề cao với những tìm tòi, cách tân thơ theo hướng hiện đại chủ nghĩa của Mai Văn Phấn, cũng có một số ý kiến chỉ ra những giới hạn, hạn chế của những tìm tòi, cách tân đó. Những ý kiến đóng góp, phê bình này, nhìn từ góc độ nào đó, cũng cho thấy những thái độ đọc và tiếp nhận thơ Mai Văn Phấn một cách khách quan, khoa học và đó cũng là điều hết sức cần thiết với nghệ sỹ trong quá trình tìm tòi, sáng tạo.
Trên thực tế, là một nhà thơ có ý thức và bản lĩnh sáng tạo độc lập, bền bỉ, mạnh mẽ, một mặt Mai Văn Phấn không ngừng tìm tòi, học hỏi tinh hoa của các nền thơ thế giới, đặc biệt là những phương pháp sáng tác của các trường phái nghệ thuật phương Tây hiện đại trong đó có chủ nghĩa siêu thực. Nói như vậy cũng có nghĩa là bên cạnh chủ nghĩa siêu thực, ông còn mở rộng tiếp thu và vận dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật sáng tác khác. Trong thơ ông, còn có thể thấy dấu ấn của thơ lãng mạn, thơ tượng trưng, thơ tân hình thức… Tất nhiên, theo chúng tôi, dấu ấn của chủ nghĩa siêu thực là đậm nét nhất. Song cao vọng của nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc học tập tinh hoa thơ thế giới mà phải là đi từ việc học tập tiếp thu bên ngoài để rồi biến chúng trở thành nguồn năng lượng sáng tạo tự thân. Kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, phương Tây và phương Đông, ông muốn tìm kiếm một tiếng thơ “thuần Việt”. Và càng ngày, cao vọng đó càng hiện rõ trong những phát biểu của ông và quan trọng hơn là nó đã tượng hình thành thơ, thành những sản phẩm nghệ thuật có giá trị. Điều này khiến hành trình thơ ông, trong hiện tại, đang chuyển sang một hướng mới, tràn đầy năng lượng.
Nhìn một cách bao quát, có thể thấy những tìm tòi, cách tân theo hướng siêu thực chủ nghĩa đã giúp Mai Văn Phấn đạt đến những thành tựu nghệ thuật quan trọng trên hành trình sáng tạo của ông. Về điều này, nhà phê bình Lê Hồ Quang nhận xét: “Từ những tìm tòi mang tính truyền thống, Mai Văn Phấn bước thẳng sang khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa và cả hậu hiện đại chủ nghĩa, nhưng dường như vẫn chưa dừng lại trong những say sưa kiếm tìm, lật trở. Thế giới nghệ thuật thơ ông là một cấu trúc phức tạp, đa diện, liên tục biến đổi. Nó gây ấn tượng bởi sự nhất quán trong quan niệm sáng tạo, tính toàn khối và khả năng “bắt sóng” với nhiều chiều không gian thơ khác nhau. Nói đến thơ Mai Văn Phấn là nói đến cái nội lực chi phối tổng thể, cái “từ trường thẩm mĩ” được tạo ra hơn là các câu chữ riêng lẻ. Bởi vậy, thật không dễ cho người đọc - trong đó có tác giả bài viết này – khi tiếp cận, lí giải. Nhưng một khi vượt qua định kiến của thói quen thẩm mĩ, chấp nhận những quy ước mới của “luật chơi” sáng tạo vốn vô cùng đa dạng, có lẽ ta sẽ được đền bù xứng đáng. Ít nhất, trải nghiệm đọc ấy cũng giúp ta nhận ra sự rộng rãi không cùng của không gian sáng tạo và vẻ đẹp của sự phong phú trên những hành trình tinh thần của con người” [57].
Chương 2
DẤU ẤN CHỦ NGHĨA SIÊU THỰC TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN,
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN TỔ CHỨC HÌNH TƯỢNG
2.1. Những phương thức tổ chức hình tượng theo hướng siêu thực chủ nghĩa trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Đi sâu khai thác tiếng nói của vô thức, trực giác, tâm linh
Theo Từ điển Tiếng Việt, vô thức, trực giác, tâm linh là những khái niệm hoàn toàn thuộc về thế giới nội tâm, vô cùng khó nắm bắt. Nếu như vô thức được xem là “những gì ở mình mà bản thân con người hoàn toàn không ý thức được” [50, 1124] thì trực giác là “nhận thức trực tiếp, không phải bằng suy luận của lí trí” [50, 1054]. Và tâm linh là những gì thuộc về “tâm hồn, tinh thần”. Nói đúng hơn, tâm linh là một phần đặc biệt trong đời sống tinh thần con người. Nó thường được hiểu như một đời sống tinh thần đầy bí ẩn, đối lập với “ý thức” kiểu lý tính thuần túy. Nó bao gồm cái phi lý tính, cái tiềm thức, vô thức, bản năng thiên phú, cả trực cảm, linh giác và những khả năng bí ẩn của con người. Ngoài ra, tâm linh còn được hiểu như là “niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”, kết đọng ở những hình ảnh, biểu tượng, ý niệm tôn giáo.
Với các nhà siêu thực, khi kêu gọi giải phóng cái tôi khỏi “gông cùm lý trí”, họ tin tưởng hiện thực chân thực nhất chính là hiện thực đang nằm trong thế giới tinh thần, thuộc về cõi vô thức, trực giác thay vì hiện thực có được nhờ quan sát của ý thức và suy luận logic. Bởi theo họ, logic, lí trí đạo đức và mỹ học truyền thống “là sản phẩm quái gở của nền văn minh tư sản, cản trở khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ” [66]. Sản phẩm của hoạt động sáng tạo theo lối siêu thực chủ nghĩa này là sự cất tiếng của những ngột ngạt, ám ảnh bị đè nén, là sự hiện hình của một thực tại ở chiều sâu và xa hơn - một thế giới siêu thực. Đó là nỗ lực của thơ siêu thực muốn tìm đến cái “toàn nguyên” của hiện thực, kể cả những góc tối khuất nhất, sâu xa và mơ hồ nhất. Ấy là một phản ứng sáng tạo thẩm mỹ chứ không đơn thuần chỉ là một phản ứng chối bỏ hiện thực xã hội.
Thơ Mai Văn Phấn cũng “chan chứa cả trời vô thức”. Những ám thị phi lý tính che dấu trong một hình thức ngôn ngữ tưởng đơn giản những “mật mã” ở tầng sâu ý tưởng. Tiếng nói ấy đựng chứa những hình ảnh nằm ngoài ý thức con người, không thể tri nhận bằng lý trí thông thường.
Ngay từ những bài thơ đầu tay, thi sĩ họ Mai đã khao khát đi tìm tiếng thơ của riêng mình bằng tất cả đam mê sáng tạo. Người đọc có thể tìm thấy trong thơ ông thời kỳ này một tâm hồn trẻ trung đắm say hướng về con người, cuộc đời và tình yêu. Nhưng thoảng trong không khí lãng mạn, thi nhân vẫn để vô thức, tâm linh cất lời:
Nơi ấy da thịt em đã ngủ, bởi trong anh có tiếng tâm linh đang thì thầm:
Em lần theo bóng mây trôi
Thấm qua sóng lá vô hồi
Ðằm vào anh tiếng chim đôi bất ngờ
Làm vang lên những dây tơ vừa chùng.