image advertisement
image advertisement





























 

Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Nguyễn Thị Hương Giang

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN









Nguyễn Thị Hương Giang
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Văn Lân







ĐẶC ĐIỂM THƠ MAI VĂN PHẤN

  






Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2015







MỤC  LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU:         
   

1. Lí do chọn đề tài:     

2. Lịch sử vấn đề:    

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:     

4. Phương pháp nghiên cứu:    

5. Đóng góp của luận văn:        

6. Cấu trúc luận văn:    

 

CHƯƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

 

1.1. Quá trình đổi mới thơ đương đại:   

1.2. Mai Văn Phấn và những chặng đường sáng tạo:     

1.2.1. Những chặng đường sáng tạo thơ:          

1.2.2. Quan niệm nghệ thuật:   

1.3. Thơ Mai Văn Phấn trong xu thế cách tân của thơ đương đại:           

 

CHƯƠNG 2: CẢM QUAN THẨM MỸ VÀ CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 

2.1. Cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn:

2.1.1. Cái đẹp: cội nguồn của sự sống:  

2.1.2. Cái đẹp thuần Việt mang tính dân tộc:     

2.1.3. Cái đẹp mang tính tôn giáo:        

2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn:

2.2.1. Một thế giới siêu nghiệm:

2.2.2. Con người – trung tâm của cái vô cùng:

2.2.3. Cái tôi ý thức và vô thức:

 

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỘC ĐÁO VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 

3.1. Các hình ảnh mang tính biểu tượng:

3.1.1. Hình ảnh đất đai, sông nước, cỏ cây:

3.1.2. Hình ảnh ánh sáng, ban mai, ngọn lửa:

3.1.3. Hình ảnh người mẹ, người tình:

3.2. Cấu trúc bài thơ:

3.2.1. Thể thơ: 

3.2.2. Tổ chức đoạn thơ, câu thơ:

3.3. Ngôn ngữ thơ:

3.3.1. Ngôn ngữ thơ siêu thực:

3.3.2. Ngôn ngữ thơ giản dị, đời thường:

 

PHẦN KẾT LUẬN

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 


 

 

Ths. Nguyễn Thị Hương Giang (giữa), GS.TS. Lê Văn Lân (bên phải) cùng hội đồng chấm luận văn thạc sỹ





 

PHẦN MỞ ĐẦU

 

1. Lý do chọn đề tài:

 

1.1. Trong bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng cần phải chủ trương khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận sự đa dạng để cho văn nghệ một khoảng đất rộng rãi hơn nữa. Chính bởi những đòi hỏi cần phải thoát ra khỏi một nền văn nghệ minh họa, thoát ra cái hành lang vừa hẹp vừa thấp đó, sự đổi mới và cách tân xuất hiện như một nhu cầu thiết yếu.

 

Sau năm 1975, nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực, đa dạng và phong phú về nội dung, mới lạ về mặt hình thức. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra các khuynh hướng nổi bật của thơ sau 1975 như xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc, xu hướng trở về với các tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật; xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực; xu hướng hiện đại và hậu hiện đại.

 

Căn cứ vào những biểu hiện về quan điểm thơ, cách sử dụng thi ảnh cũng như cấu trúc văn bản thơ, có thể thấy dòng thơ sau 1975 vừa bảo tồn những giá trị thơ ca truyền thống lại vừa có những cách tân táo bạo. Tuy nhiên, ngay trong sự bảo tồn giá trị thơ ca truyền thống cũng bắt đầu manh nha những đổi mới cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật như trong thơ của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,… Khuynh hướng cách tân nổi bật lên là hai xu hướng: cách tân về nội dung, thể tài như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,… và cách tân về mặt hình thức ngôn ngữ thi ca như Dương Tường, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng… Theo khuynh hướng cách tân, người nghệ sĩ đi sâu khai thác những tầng vỉa của đời sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức chìm trong bản ngã, bản năng sống, giúp con người nhận ra diện mạo của mình từ những mảng mờ tối của tâm hồn. Cấu trúc thi pháp cũ bị phá vỡ, các nhà thơ đã rút bỏ “khả năng biểu vật, biểu thái, biểu niệm của thực từ, hư hóa thực từ bằng cách đẩy chúng vào cấu trúc mới, phát sinh nghĩa trong cú pháp hơn là nghĩa trong từ vựng, buộc chúng phải sống đời sống hư từ” [13; tr.140]. Khuynh hướng cách tân đã mang lại cho thơ một diện mạo hoàn toàn mới, phong phú và phức tạp.

 

1.2. Trong thời gian gần đây, thơ Mai Văn Phấn đã dần được giới nghiên cứu, phê bình nói riêng và độc giả nói chung đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ cái mới bao giờ cũng khó chấp nhận trong khi Mai Văn Phấn luôn coi sự cách tân thơ là phương châm sáng tạo nghệ thuật trong suốt hành trình sống cùng thơ ca. Chính ông cũng đã từng phát biểu rằng một thi sĩ đích thực phải là người phải biết làm ra những bài thơ biết phản bội mình. Nghệ sĩ phải là người liên tục vượt thoát qua những cuộc vong thân để hoàn thiện mình. Cho đến thời điểm này, Mai Văn Phấn đã tìm được một chỗ đứng vững chãi trên thi đàn Việt Nam. Thành công trong sáng tác của ông được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như Giải thưởng văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995; Giải thưởng cuộc thi thơ của báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập Bầu trời không mái che năm 2010.

 

Với sức sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn liên tục cho xuất bản nhiều tập thơ ấn tượng, được giới thiệu tại nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, Anh, Pháp… đồng thời có nhiều tập thơ song ngữ phát hành trên hệ thống sách online Amazon. Thơ ông vừa đa dạng trong thể tài lại vừa sáng tạo trong lối diễn đạt.

 

Vì những lí do trên, luận văn muốn đi sâu tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn, đặc biệt là những sáng tác của nhà thơ từ sau năm 2000 mà cụ thể ở ba tập Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt (tên tập thơ này, tác giả không viết hoa) Vừa sinh ra từ đó nhằm đưa ra một cách nhìn tổng quan về thơ ông trong giai đoạn hiện nay đồng thời thấy được những đóng góp của nhà thơ trong tiến trình cách tân thơ đương đại.

 

2. Lịch sử vấn đề:

 

Mai Văn Phấn là một cây bút cách tân tiêu biểu trong dòng thơ sau 1975. Tác phẩm của ông từ khi xuất hiện đã thu hút sự chú ý của công chúng và giới nghiên cứu phê bình. Có thể nói, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá lớn, đa dạng ở nhiều thể loại như giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo luận, nghiên cứu, phê bình,… Tuy nhiên, theo như nhà thơ Đỗ Quyên cho rằng, trước Hội thảo thơ về Mai Văn Phấn diễn ra tại Hải Phòng vào ngày 15/05/2011 thì trong số 60 bài viết về thơ ông, hầu như chưa thấy các bài phê bình học thuật mà chủ yếu trong số đó là các bài viết mang tính chất điểm sách, giới thiệu chân dung nhà thơ hay những bài tranh luận chung chung, cảm tính hoặc mới chỉ đi vào khám phá một hoặc số ít phương diện đặc điểm nghệ thuật thơ ông. Từ đó đến nay, cũng đã có nhiều bài nghiên cứu, tiểu luận, tham luận đánh giá về vị trí và giá trị của thơ Mai Văn Phấn trong tiến trình thơ đương đại.

 

Sau đây, tôi xin lược thuật lại một số công trình nghiên cứu, các ý kiến đánh giá, phê bình thơ Mai Văn Phấn:

 

* Những bài nghiên cứu, đánh giá chung về thơ Mai Văn Phấn:

 

Nhằm đánh giá đúng giá trị cũng như chỗ đứng của thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại, tháng 5/2013, một hội thảo thơ mang tên “Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” đã được tổ chức tại Hải Phòng. Tại đây, nhiều bài tham luận, nghiên cứu đã được trình bày. Nhà văn Đình Kính trong bài mở đầu tại Hội thảo đã nhấn mạnh: “Mai Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình tư duy thẩm mỹ mới và anh đã được đánh giá cao” [29; tr.6]. Khi khẳng định về tố chất người nghệ sĩ, Cao Năm đã không hề dè dặt trong việc đề cao bản lĩnh sáng tạo của một cây bút kiên định và giàu sức sống: “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo” [29; tr.18].

 

Trong bài Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo thơ, PGS.TS. Đào Duy Hiệp có kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [29; tr.75]. Còn Trần Thiện Khanh lại đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của Mai Văn Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm chuyển đổi” [29; tr.501].

 

Đánh giá về những cách tân, đổi mới thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong bài viết Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ Hậu - hiện - đại đã nhấn mạnh: “Nếu có một nhà thơ nào đó đang luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ-tình-cổ-điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu-hiện-đại rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ-cách-tân” [29; tr.420]. Theo ông, mỗi bài thơ đều là một thể nghiệm mới, một phát hiện mới mang lại những bất ngờ từ mỗi câu thơ và ta không thể đoán định nhà thơ sẽ viết tiếp những gì ở câu thơ kế tiếp.

 

Nhà thơ Thi Hoàng trong bài viết Cách tân như là đẩy thơ vượt qua tai họa đã cho rằng trên con đường dấn thân đi tìm nẻo khác cho thơ mình, cái nẻo càng ít dấu chân, thậm chí chưa có dấu chân ai đó càng tốt, Mai Văn Phấn đã dằn mình để cho sự mạo hiểm thắng sự sợ hãi và chấp nhận những đau xé, cơn đau siêu thực hành hạ anh có khi còn hơn những cơn đau hiện thực…. Tác giả bài viết cũng đã chỉ ra dưới bề sâu của tâm lý sáng tạo, Mai Văn Phấn đang cố gắng  để không bị ràng buộc vào bất cứ một phương pháp sáng tác nào. Anh đã huy động cả hình thức và nội dung cùng ghé vai đưa thơ lên cao hơn cái nền chung của thói quen đọc thơ ở người đọc và hy vọng tìm ra thi pháp của mình.

 

Trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, PGS.TS. Hồ Thế Hà đã đưa ra quan điểm của mình: “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là một hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính người thơ mà anh tự gọi là “vong thân”  tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một trạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động, không ngừng phá và thay” [29; tr.227].

 

Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới khó nắm bắt mà như nhà nghiên cứu Văn Giá trong bài viết Thơ sinh ra để nói về niềm hi vọng của con người đã khẳng định: “Bề bộn về số lượng: 370 bài. Bề bộn về ý tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên gọi được ra khuôn mặt của nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai” [29; tr.528]. “Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên niềm hi vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là còn khiến con người ta có quyền hi vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ nơi con người” [29; tr.529].

 

Nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lý thuyết nhân học vi mô trong nghiên cứu văn hóa và phê bình văn học, hai nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm đã cho ra mắt cuốn sách Mai Văn Phấn, hành trình thơ vào cõi khác (2015). Ở đây, hai tác giả đã có những nghiên cứu chuyên sâu về những chuyển biến tư tưởng, quá trình thay đổi nhận thức của bản thân tác giả và những tác động của nó đến thơ. Hai tác giả trẻ đã đưa ra những chú giải thơ Mai Văn Phấn, đi sâu lí giải hiện tượng thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn quan niệm về sáng tạo và sự diễn giải kinh nghiệm tri thức bằng lời đồng thời tổng kết hành trình thơ của nhà thơ trong khuynh hướng chung của nền thơ Việt Nam đương đại.

 

Mục đích của cuốn sách mà tác giả muốn hướng đến là nhận diện đúng đối tượng, phê phán cái đúng, cái sai, đánh giá đúng đóng góp của nhà thơ trong sự phát triển của thơ đương đại. “Với Mai Văn Phấn, bằng những gì thơ ca đã trình diện, kháng cự khủng hoảng thơ bằng cách liên tục vong thân, phủ định chính mình để kiến tạo hệ hình thẩm mỹ khác” [13; tr.186]. “Từ kháng cự khủng hoảng thơ đến kháng cự khủng hoảng tư tưởng, hành trình thơ Mai Văn Phấn còn cho thấy khát vọng hướng đến tự do sống và sáng tạo. Sự vượt thoát liên tục để làm mới thơ, để được sống nhiều hơn vừa là thái độ với thơ vừa là thái độ đối với cuộc đời” [13; tr.186].

 

* Những bài nghiên cứu về ba tập Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt Vừa sinh ra từ đó:

 

Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt Vừa sinh ra từ đó là những tập thơ mới nhất được Mai Văn Phấn giới thiệu đến người đọc. Sau đây, tôi xin điểm qua một số nhận định hay về giá trị và sức hấp dẫn từ ba tập thơ.

 

Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm trong bài Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến rũ người đọc không phải ở sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức tưởng tượng, những chồng chất đan cài, lồng hiện của hình ảnh và hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [29; tr.395].

 

Cũng trên tinh thần bàn luận về tập Bầu trời không mái che, Lê Vũ đã cho rằng: “Bầu trời không mái che, ba phần chia biệt nhưng là một thể thống nhất trong cái nhìn đậm màu sắc tâm linh của Mai Văn Phấn về thế giới mà nổi lên là mối quan hệ giữa thiên nhiên và người, giữa động và tĩnh, giữa sinh và tử, giữa tình và dục […] Mai Văn Phấn đã gói tất cả ý niệm của mình bằng kỹ thuật đồng hiện, chuyển dịch không/thời gian: ánh sáng và bóng tối, quá khứ và hiện tại, pha trộn những lát cắt ngày sống với nhịp điệu đêm nồng nàn… đồng thời chuyển dịch cái nhìn của cái tôi: khi thành kính, khi hưng phấn, khi hưng phấn, khi lơ mơ, khi nghẹn ngào, khi mệt mỏi, lọ mọ chán với buồn, cả ngờ vực, sợ hãi, phân vân” [54] .

 

Tập thơ hoa giấu mặt đánh dấu một giai đoạn mới trong lộ trình thơ Mai Văn Phấn, là cách ông tìm về cội nguồn thơ Việt với những vần thơ ngắn gọn, câu thơ tối giản và hồn nhiên. Nguyễn Thị Bích Phụng khi nghiên cứu về cảm hứng hiện sinh trong tập thơ này đã nhận xét thơ ba câu trong hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn có hình thức gần giống thơ Haiku của Nhật nhưng mang nội hàm, hồn cốt thuần phác thơ Việt và đã tạo những cảm thức hiện sinh đậm nét. Mỗi bài thơ ba câu của ông là ánh chớp trong đêm tối, vừa lóe sáng cho người đi nhận biết đoạn đường phía trước mà dấn bước; hoặc như vài ba đồ vật xếp lại gần nhau để gợi những liên tưởng về nhân sinh, nhân thế, về thiên nhiên vũ trụ…. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tâm trong công trình nghiên cứu Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác đã cho rằng tập thơ chính là sự trở về với niềm an nhiên của sự sống nguyên sinh trong lòng đời hôm nay, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm.

 

Nghiên cứu về tập Vừa sinh ra ở đó, Lương Kim Phương trong bài viết Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng đã khẳng định mười tám bài thơ có thể lay động người đọc bởi một ý niệm: con người được liên tục tái sinh, hồi sinh, được sinh ra từ những vẻ đẹp bình dị quanh mình.

 

* Những ý kiến trái chiều trong cách cảm về thơ Mai Văn Phấn:

 

Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một cấu trúc phức tạp, đa diện và liên tục biến đổi. Bởi vậy, mỗi độc giả đều tự tìm cho mình một con đường riêng, một cách của riêng để bước vào lâu đài thơ ấy. Chính nhà thơ cũng kêu gọi khả năng đồng sáng tạo nơi bạn đọc. Bởi vậy mà dư luận thơ Mai Văn Phấn cũng xuất hiện nhiều ý kiến trái chiều. Bên cạnh những lời khen ngợi cũng đã xuất hiện nhiều lời chỉ trích, thậm chí phê phán cực đoan thơ Mai Văn Phấn.

 

Đặc biệt, việc tập thơ Bầu trời không mái che được nhận giải thưởng cao nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 đã gây ra nhiều tranh luận. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cùng với nhiều đồng nghiệp của mình như Nguyễn Hiếu, Nguyễn Hữu Quý,… đều thống nhất tập thơ này của Mai Văn Phấn cùng với các tập thơ đoạt giải không phải các tập thơ hay mà rất tầm thường, thậm chí còn không phải là thơ.

 

Đối với Mai Văn Phấn, mỗi người đọc đến với thơ ông đều tự xây dựng cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc đáo. Bài thơ được hoàn thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc về số đông độc giả tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin hãy coi như anh ta đã chết”. Vì vậy, không thể tránh khỏi những ý kiến trái chiều, những cuộc tranh luận, trao đổi về giá trị các tập thơ của ông. Điều đáng ghi nhận rằng, hướng các nhà nghiên cứu đánh giá cao thành tựu thơ Mai Văn Phấn vẫn chiếm ưu thế. Đồng thời nhiều tác giả trước đây đã có lời chê bai thơ ông thì sau này cũng đã có những đánh giá đúng đắn theo hướng tích cực. Những cách tân trong thơ Mai Văn Phấn dù có đôi chút khó hiểu nhưng đây là những đổi mới tích cực và đáng ghi nhận trong tiến trình thơ đương đại.

 

Trên đây, tôi đã lược thuật những nghiên cứu đánh giá về thơ Mai Văn Phấn nói chung và ba tập Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt Vừa sinh ra từ đó nói riêng. Mặc dù có nhiều bài nghiên cứu về đặc điểm thơ của ông nhưng tôi nhận thấy đây là những bài viết mang tính phổ quát, đánh giá chung cho cả một chặng đường thơ từ khi khởi nghiệp đến nay của nhà thơ mà chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào tìm hiểu cụ thể về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn từ sau khi ông nhận giải thưởng của Hội nhà văn năm 2010. Bởi vậy, thông qua luận văn này, tôi muốn đưa ra một cái nhìn cụ thể về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm đầu thập kỉ 10 của thế kỉ XIX thông qua khảo sát ba tập thơ Bầu trời không mái che (2010), hoa giấu mặt (2012) và Vừa sinh ra từ đó (2013).

 

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

 

* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn chọn Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn là đối tượng nghiên cứu.

 

* Phạm vi nghiên cứu:

 

Tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm 2010, luận văn khảo sát các tập thơ:

 

1. Bầu trời không mái che, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2010.

 

2. hoa giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2012.

 

3. Vừa sinh ra từ đó, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2013.

 

4. Phương pháp nghiên cứu:

 

Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

 

* Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá những yếu tố cơ bản của đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong lộ trình thơ Việt đương đại.

 

* Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp giúp người viết thống kê những thi liệu xuất hiện trong các tập thơ, từ đó đưa ra cách phân loại chúng một cách có hệ thống.

 

* Phương pháp so sánh: Phương pháp giúp những viết nhận ra những đặc điểm nổi bật của thơ Mai Văn Phấn so với các nhà thơ khác, làm nổi bật con đường thơ mà nhà thơ đang đi.

 

* Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhờ phương pháp này, người viết có khả năng đi sâu vào từ chi tiết để khám phá ra sự độc đáo của cấu trúc diễn ngôn đồng thời có cái nhìn tổng hợp để đúc rút ra những đặc điểm nổi bật trong thơ Mai Văn Phấn.

 

5. Đóng góp của luận văn:

 

Luận văn nêu lên một cách nhìn toàn diện về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm gần đây, thông qua ba tập thơ mới nhất được xuất bản của ông tính đến thời điểm này. Từ đó nhận diện phong cách cũng như vị trí của nhà thơ trong lộ trình thơ đương đại.

 

6. Cấu trúc luận văn:

 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương:

 

Chương I: Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại.

 

Chương II: Cảm quan thẩm mỹ và cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn.

 

Chương III: Những độc đáo về nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.

 

 

 

 

CHƯƠNG I: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

 

 

1.1. Quá trình đổi mới thơ đương đại:

 

Khi bàn luận về sáng tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, nhà văn Nguyễn Tuân đã cho rằng: “Là người sống lỗi lạc, sống một cách đặc biệt không giống ai và không cho ai bắt chước mình. Chết là mang cả cái bản chính đi chứ không để lại một bản sao nào cả”. Lời phát biểu của Nguyễn Tuân đã nêu lên một quy luật tất yếu của sáng tạo văn học và nghệ thuật, luôn luôn độc đáo, luôn luôn tạo sự khác biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả một chặng đường dài của văn học, ta nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ cái ta của thơ cũ sang cái tôi nhỏ bé, mỏng manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm hưởng hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói riêng lại đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại và tạo nên những cá tính riêng độc đáo.

 

Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn đó là những hoang tàn, đổ nát của quê hương, là những đau thương của người mẹ “khóc vì những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo đói.

 

Tổ quốc hôm nay

Tuy gọi sống hoà bình

Nhưng mới chỉ là trang thứ nhất

Chúng ta còn muôn việc rối tinh

(Nhất định thắng - Trần Dần)

 

Một câu hỏi lớn đặt ra cũng là trăn trở của bao nhà thơ lúc đó: “Đất nước khó khăn này sao không thấm được vào thơ?” (Nhất định thắng -  Trần Dần). Bởi vậy, thơ ca giai đoạn sau 1975 mà đặc biệt là sau công cuộc đổi mới đã có nhiều bước chuyển mình. Khác với thơ trước 1975, các nhà thơ tập trung hơn vào các giá trị thẩm mĩ của thơ. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước, trong vẻ hào hùng, tráng lệ mà còn được nhìn từ phía sau, từ những nỗi đau trĩu nặng và bao vết thương nhức nhối khó lành. Từ thời điểm hiện tại, nhà thơ có cái nhìn sâu xa về đất nước, về lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít những đau thương, bất hạnh. Ý thức nói về bi kịch nhiều hơn đã khiến thơ ít dần giọng điệu ca tụng dễ dãi mà chìm vào chiều sâu suy ngẫm của nhà thơ về nhân tình thế thái. Cùng viết về đất nước nhưng đã vơi dần những hân hoan, ngợi ca:

 

Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn!

(Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)

 

Mà thay vào đó là những ngẫm ngợi của một người “nhìn từ xa... Tổ quốc”:

 

Thời hậu chiến ta vẫn người trong cuộc

xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày?

(Nhìn từ xa... Tổ Quốc - Nguyễn Duy)

 

Nếu như thơ trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết về những nỗi buồn thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói nhiều hơn về nỗi buồn nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước sự xoay vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát triển đã đưa ra hai lí do lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi buồn xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về niềm tin, sự bất an trước thời cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, quan hệ người trở nên lỏng lẻo, con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [25; tr.380].

 

Dòng thơ cách tân sau 1975 cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực phương Tây. Các nhà thơ đã đưa những yếu tố siêu thực, phi lý, phí tuyến tính của thơ hậu hiện đại phương Tây vào những bài thơ, bộc lộ những mảng khuất lấp của đời sống, những vùng mờ của tâm linh. Cái tôi không chỉ được tìm hiểu trong mối quan hệ với hiện thực, sự tương tác giữa cá nhân và hoàn cảnh mà còn được tìm hiểu trong cấu trúc quan hệ với chính nó. Thơ đi sâu vào tính độc đáo của thân phận, nhấn mạnh tính chủ thể hơn là khách thể. Nhà thơ không nhìn con người như là một sinh linh bé bỏng giữa vũ trụ mà coi đó chính là một tiểu vũ trụ, trung tâm của cái vô cùng. Tại đây, các nhà thơ đề cao lối viết tự động, có ý thức chống lại các quy tắc sẵn có trong thơ, khước từ sự có mặt của tư duy duy lý trong nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương đã nói về những điều mơ hồ, rối rắm trong lòng người bằng những câu thơ rối rắm, mơ hồ:

 

Tiếng nói của em màu lam chuyển dần sang màu lục

Và cuốn lên một cái cây chưa tỉnh táo

Cuốn lên những quả chuông reo vang trận mưa rào

Ngân nga giọng của trăng sao

(Em vào hoa)

 

Đoạn thơ trên không tuân thủ trật tự cấu trúc cú pháp thông thường với cách tổ chức ngôn từ lạ, hình ảnh chuyển hoá liên tục từ trạng thái này sang trạng thái khác. Tuy nhiên, không phải nhà thơ nào sử dụng lối viết tự động để đi sâu vào thế giới tâm linh cũng được người đọc tiếp nhận. Thậm chí nhiều nhà phê bình đã lển tiếng phủ nhận và cho đây là những vần thơ rối rắm và vô nghĩa. Song, đây là những cách tân mới mẻ và cần được tôn trọng.

 

Song song với những thay đổi về nội dung, hình thức thơ cũng có nhiều biến đổi linh hoạt để phù hợp với yêu cầu của nội dung. Các thể thơ truyền thống như lục bát, năm chữ, bảy chữ không còn ở dạng nguyên bản mà đã có sự biến thiên đáng kể về cấu trúc, nhịp điệu. Tính điệu nói được gia tăng và cấu trúc thể loại dựa vào nhịp nhiều hơn vần.

 

Tính hiện đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của thơ tự do và thơ văn xuôi so với các thể thơ khác. Đứng trước những thay đổi lớn của văn học, thơ vừa tìm cách níu giữ những yếu tố hạt nhân mang tính thể loại, vừa mở rộng, biến đổi chính nó để thích ứng với yêu cầu và điều kiện môi trường văn hoá mới. Thực tế phản ánh rằng thơ hiện đại khó nhớ và khó thuộc hơn rất nhiều so với thơ ca giai đoạn trước. Không còn xuất hiện nhiều câu thơ mang tính vần điệu véo von mà thay vào đó là những câu thơ có phần khó hiểu, được viết theo lối viết tự động. Thơ hiện đại thường tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng này đôi khi không dễ nhận ra bằng cảm xúc và tư duy nghệ thuật thông thường. Các hình ảnh, hình tượng này đòi hỏi người đọc phải giàu trải nghiệm và khả năng tiếp nhận cái siêu nghiệm trong thơ. Đặc biệt, khi thơ cách tân sau 1975 có xu hướng đi sâu vào cái bản thể và coi con người như một tiểu vũ trụ cần khám phá. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực phương Tây, các nhà thơ không còn thuyết minh, giải thích nhiều mà để người đọc tự khám phá ý nghĩa nhân sinh ẩn sau cấu trúc thi phẩm. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm đã cho rằng quá trình giải mã thơ đương đại cũng chính là quá trình khai phá bản thân mình. Bởi vậy, người đọc phải bằng trải nghiệm của bản thân để tự tìm tòi và lí giải những phức tạp trong thể thơ và cấu trúc thi phẩm.

 

Lao động thơ trước hết là lao động chữ nghĩa. Chính những con chữ, qua cấu trúc nghệ thuật của nhà thơ sẽ cho ta hiểu được chiều sâu và sự vang ngân của tình ý, giai điệu và tư tưởng nghệ thuật của họ. Vì vậy, sự đổi mới trong thơ bao giờ cũng là sự đổi mới đồng bộ giữa cái nhìn nghệ thuật sâu sắc và ngôn ngữ thơ. Nhìn chung, ngôn ngữ thơ sau 1975 không còn êm mượt, réo rắt, véo von như thơ ca 1945 – 1975 mà trúc trắc hơn, phong phú hơn và giọng điệu cũng đa dạng hơn. Thơ đi sâu vào cá nhân, hoà nhập vào cuộc sống thường ngày nên các nhà thơ có ý thức đưa thứ ngôn ngữ giản dị, đời thường vào trong thơ. Bên cạnh đó, trong dòng thơ cách tân sau 1975, các nhà thơ đã mạnh bạo đưa vào trong thơ những ngôn ngữ đậm chất siêu thực. Điểm qua sáng tác của hầu hết các cây bút như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn,... người đọc đều nhận thấy những dòng ngôn ngữ mới lạ, từ ngữ được tỉnh lược tối đa để gia tăng tính biểu đạt cho ngôn ngữ, buộc người đọc phải tư duy khi tiếp nhận thơ.

 

Đặc biệt, sự xuất hiện của nhóm Dòng chữ (đối ngược với nhóm Dòng nghĩa) cùng một số thi phẩm ở cuối thập niên 80 của thế kỉ XX như Ngựa biển, Bóng chữ... đã nhận được nhiều quan tâm của công chúng. Với tư tưởng làm thơ trước hết là làm chữ, những sáng tác của họ là một trong những mũi nhọn đột phá vào quan niệm thơ truyền thống. Nhóm chủ trương đi tìm một thứ ngôn ngữ mới, thay thế cho những ngôn ngữ thơ đã cũ, sáo mòn, đơn điệu, đưa ngôn ngữ thơ về mới bản thể tự nhiên. Họ muốn làm tươi trẻ, hồi sinh lại những con chữ bằng cách trả nó về với hình thức, sự khơi gợi và ám ảnh ngữ âm ban đầu. Ngôn từ phải được xem như một đối tượng sáng tác, phải bộc lộ tất cả vẻ đẹp tự thân nó.

 

Như vậy, diện mạo thơ sau 1975 đã có những cách tân, thay đổi mạnh bạo cả về nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh những cây bút bước ra từ thời chiến như Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Cung,... còn là sự xuất hiện của nhiều gương mặt trẻ  như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Inrasara, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly,... Mỗi người đều có một cách nhìn riêng, một giọng điệu riêng và một hướng đi riêng nhưng tựu chung lại đều là sự khẳng định mạnh mẽ của cái tôi cá nhân và nỗ lực cách tân thơ Việt.

 

1.2. Mai Văn Phấn và những chặng đường sáng tạo:

 

1.2.1. Những chặng đường sáng tạo thơ:

 

Mai Văn Phấn là nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong những cây bút xuất sắc của dòng thơ cách tân sau 1975. Những tác phẩm của ông đã góp phần không nhỏ trong cuộc cách tân thơ ca. Nhà thơ sinh năm 1955 tại một làng quê thuộc huyện Kim Sơn, Ninh Bình. Mảnh đất với bề sâu truyền thống lịch sử và đặc thù văn hóa Thiên chúa giáo đã in đậm vào tâm trí nhà thơ, tạo nên những trang viết giàu chất ám ảnh và cảm hứng tâm linh, tôn giáo. Từ nhỏ, cái mộng văn chương đã ấp ủ trong lòng nhà thơ. Ông yêu thơ và làm thơ từ khi còn là cậu bé mười sáu, mười bảy tuổi. Bài thơ đầu tay Hoa xoan ghi dấu lại những ngày tháng sống và chiến đấu gian khổ trong quân ngũ của Mai Văn Phấn. Song, cũng từ đây, nhà thơ bắt đầu có những trăn trở về con đường thơ của mình, muốn xóa đi tất cả những quan niệm, hiểu biết về thơ ca trước đó. Không thể có thơ hay khi mà tác giả không tự xây dựng cho mình một cá tính, một bản sắc riêng trong thế giới tinh thần. Sau mười sáu năm khoanh tay đứng ngoài cuộc thơ, Mai Văn Phấn đã tìm cho mình một giọng thơ riêng, tinh tế với những cảm xúc sâu lắng và vẻ đẹp trắc ẩn của ngôn từ. Để từ đó, nhà thơ cho ra đời hàng loạt các tập thơ ấn tượng: Giọt nắng (thơ, 1992), Gọi xanh (thơ 1995), Cầu nguyện ban mai (thơ, 1997), Nghi lễ nhận tên (thơ, 1999), Người cùng thời (trường ca, 1999), Vách nước (thơ, 2003), Hôm sau (thơ, 2009), và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009. Tác giả không viết hoa tên tập thơ này), Bầu trời không mái che (thơ, 2010), hoa giấu mặt (thơ, 2012), Vừa sinh ra từ đó (thơ, 2013)… Thơ Mai Văn Phấn hiện được dịch ra nhiều thứ tiếng và giới thiệu tại nhiều quốc gia như Anh quốc, Hoa Kì, Thái Lan, Indonesia, Thụy Điển,… Thành công trong sáng tác thơ ông đã được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ năm 1995, chuỗi giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập thơ Bầu trời không mái che năm 2010.

 

1.2.1.1. Giai đoạn từ khởi nghiệp đến năm 1995:

 

Đây là giai đoạn mở đầu cho hành trình thơ của Mai Văn Phấn, đánh dấu bằng sự ra đời của hai tập thơ: Giọt nắng (1992) và Gọi xanh (1995). Chủ đề thường xoay quanh tình yêu đôi lứa, tình yêu đất nước, thiên nhiên, là những chủ đề có tính truyền thống. Thể thơ đa phần là thể lục bát truyền thống:

 

Con chim bay vút lên không

Để lại gió với cánh đồng rộng thênh

(Không đề I - Giọt nắng)

 

Mặc dù chưa thoát khỏi hệ hình thi pháp truyền thống nhưng tập thơ đánh dấu sự trở lại của Mai Văn Phấn sau mười sáu năm nghỉ bút cũng đã thể hiện phần nào những đổi mới, hướng đi mới của nhà thơ trên hành trình sáng tạo. Thể lục bát truyền thông bị phá vỡ, trật tự cấu trúc bị đảo ngược:

 

Nhoà tan anh với mung lung

Em là giếng gió trong lòng anh

Nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì

Hư vô thành thật cũng vì yêu em!

(Em xa - Giọt nắng)

 

Thể 6/8 đã được cấu trúc lại dưới dạng 6/6/8/8. Cảm giác lạ lẫm khởi sinh từ những định dạng như thế này. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trong lời giới thiệu tuyển tập Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn đã nhận xét: "Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá"[42; tr.8].

 

Ngoài ra, thơ giai đoạn này cũng xuất hiện hình thức mới lạ như kiểu thơ vắt dòng:

 

Có giọt sương lạnh giá

Rơi xuống hồn anh đang

Lẫm chẫm vào xốn xang

Cho lòng mềm tơ lụa.

(Chân thật – Giọt nắng)

 

Cách đổi mới hình thức văn bản này đã có từ Thơ mới trong những trạng thái tràn đầy của xúc cảm. Vắt dòng tạo nên sự tràn nhịp đồng thời cũng thể hiện sự thách thức, hoài nghi những hình thức biểu đạt mỹ cảm cũ trong các thể thơ truyền thống, hướng tới việc tự do hơn trong triển khai cảm xúc và tư duy.

 

Với quan niệm mỗi bài thơ là một dự phóng kinh nghiệm riêng biệt, Mai Văn Phấn cũng sáng tạo ra những hình ảnh khác lạ, độc đáo trong một không gian đa chiều:

 

Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si.

Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng trong ánh sáng bảy màu lung linh huyền ảo để những bóng tối kia cũng mang hình ống sáo cho tôi ghé môi khắc khoải thổi vào.

(Viết cho cây sáo - Gọi xanh)

 

Hình thức thơ khá tự do, vần được giải phóng bởi sự phá vỡ cấu trúc thể loại quen thuộc. Mặc dù thơ vẫn mang hơi hướng truyền thống nhưng những sáng tác trong giai đoạn đầu cũng cho thấy, Mai Văn Phấn đã dũng cảm là người bước lạc nhịp ra khỏi dàn dồng ca, để tự khai phá một con đường mới.

 

1.2.1.2. Giai đoạn từ 1995 đến 2000:

 

Với sức sáng tạo thi ca hết sức dồi dào, Mai Văn Phấn liên tục cho ra đời các tập thơ. Mỗi đứa con tinh thần ra đời lại đánh dấu một bước chuyển mình lớn của nhà thơ trên hành trình sáng tạo, hành trình "tự phản bội mình". Giai đoạn này, ông lần lượt giới thiệu đến bạn đọc ba tập: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường ca Người cùng thời (1999).

 

Nhà thơ Lê Xuân Đố cho rằng thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này đã bứt phá cách tân thi pháp với “nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc và bản tính con người hiện đại và phát hiện những vẻ đẹp tiềm ẩn của tình yêu và cuộc sống” [29; tr.283].

 

Nhìn mặt ao đầm biết mùa thu nghìn tuổi. lũ cá mại cờ, đòng đong cung quăng chẳng chịu già đi. Trong kí ức chúng luôn giật mình và bơi khe khẽ.

(Kí sự mùa thu - Cầu nguyện ban mai)

 

Nghi lễ nhận tên là một tập thơ mang tính bước ngoặt trong hành trình thơ của Mai Văn Phấn bởi những dự cảm trong các tập thơ trước đến đây dần được định hình. “quả thực, từ Giọt nắng, Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai đến Nghi lễ nhận tên, Mai văn Phấn đã có một nhận thức về chính những chuyển động trong cấu trúc tư duy nghệ thuật cũng như hình thái thơ mà anh muốn tìm kiếm” [42; tr.41].

 

Tuy nhiên, đặc trưng thơ ông giai đoạn này tập trung ở trường ca Người cùng thời, xuất bản năm 1999. Tác phẩm gồm mười chương, thể hiện nhiều quan niệm mới lạ của tác giả về con người và thế giới bằng những hình thức mới lạ, cấu trúc câu, nhịp điệu và ý tưởng khác biệt, những kết cấu mảng khối bị phá vỡ. Trung tâm của trường ca tập trung ở ba chương III, VI, IX với tên gọi lần lượt là Cộng hưởng I, Cộng hưởng II Cộng hưởng III.

 

Thời gian nghệ thuật trong trường ca là thời gian của quá khứ, của hiện tại và tương lai. Nhà thơ trân trọng quá khứ với ý niệm: “dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói”.

 

Xuyên suốt những sáng tác nghệ thuật của Mai Văn Phấn là tinh thần “Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!”. Cùng với tư tưởng này là hàng loạt hình ảnh truyền tải những suy tưởng về cội nguồn dân tộc, về tổ quốc thông qua hình tượng trống đồng và những biểu tượng quen thuộc của quá khứ.

 

- Mỏ nhọn con chim nào vừa mổ vào ban mai/ lại lặng lẽ nằm yên trên mặt trống.

 

- Bao bình minh sinh ra có hình bọc trứng/ Hoàng hôn nào mang khuôn mặt Âu Cơ.

 

Những hình ảnh thơ gợi lên một chặng đường dài của lịch sử, hiện tại tiếp nối quá khứ, con người hiện đại nhớ về thuở hồng hoang với mẹ Âu Cơ mang bọc trăm trứng, nhớ về truyền thống văn hoá in lại trên mặt trống đồng.  Khát vọng của tổ tiên truyền vọng đến tận ngày hôm nay.

 

- Tiếng chuông mùa xuân ấp lên vòm ngực âm u hang động, vọng tiếng tổ tiên khàn đặc gọi tên mình.

 

- Hạt giống để dành được gieo vãi. Ta cũng gieo vãi vầng trán ta vào chân mây hi vọng.

 

- Muôn mép chân trời có bàn tay người xưa và người nay níu giữ.

 

Với dung lượng lớn (10 chương), mỗi chương của trường ca đều được triển khai theo những mạch vỉa của không gian và thời gian dịch chuyển với biên độ rộng lớn.

 

1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay:

 

PGS.TS. Văn Giá đã nhận định về thơ Mai Văn Phấn: “Chặng thứ hai là cả một nỗ lực bứt phá, giờ đây không trọng tự tình nữa mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha để rồi phát huy rõ rệt ở chặng thứ ba” [29; tr.529]. Đây là giai đoạn sáng tác đầy tự tin và gặt hái được nhiều thành công của Mai Văn Phấn trong suốt những chặng đường thơ ca. Ngoài tập Vách nước (2003) thì chỉ trong vòng bốn năm, nhà thơ đã liên tiếp công bố 5 tập thơ: Hôm sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), hoa giấu mặt (2012), Vừa sinh ra từ đó (2013). Điều này không chỉ gây ấn tượng bởi sức sáng tạo dồi dào và phong phú mà còn bởi những cách tân thi ca táo bạo và độc đáo. Nhà thơ đã liên tục tái sinh cho mình những mảnh đất thi ca màu mỡ, phì nhiêu để từ đó khởi sinh nên những đứa con tinh thần mới và lạ.

 

Điều gây ấn tượng mạnh với độc giả là những hình ảnh, liên tưởng đậm chất tượng trưng, siêu thực. Không còn dấu vết của thi ca truyền thống với giọng ngân nga, réo rắt: Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai như trong giai đoạn đầu mà thay vào đó là những câu thơ lạ. Trong địa hạt của thơ, càng sáng tạo bao nhiêu lại càng khó tiếp nhận bấy nhiêu. Đọc thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này, người đọc khó có thể lấy những kinh nghiệm cá nhân để lí giải mà phải lấy cái bản thể, tự ngã để cảm nhận, giải mã thơ. Nhiều câu thơ được viết theo lối tự động, thoảng qua cảm tưởng như một sự ghép nối phi logic chuỗi các từ ngữ, hình ảnh:

 

Bông hồng sớm nay mình anh thấy

Tiếng chim hót tỉnh giấc

Tạ ơn con đường dẫn anh đi

Mây trên cao

Lá cây rơi

Cả những gì chưa hiện hữu

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Tuy nhiên, nó lại là biểu hiện rõ nét cho sự cách tân thơ của Mai Văn Phấn. Bằng những vần thơ khoáng đạt, hình ảnh thơ mới lạ, mạnh mẽ, những ý tưởng độc đáo, nhà thơ đã tự tái tạo cho mình những mảnh đất màu mỡ để từ đó có những vụ mùa nặng hạt, những đứa con tinh thần độc đáo.

 

Bầu trời không mái che là tập thơ đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 đồng thời cũng là bước đánh dấu sự phát triển của thơ Mai Văn Phấn trên hành trình hướng đến một thế giới nghệ thuật vô cùng, vô tận, không có ranh giới, không có mái che. Tập thơ gồm ba phần: Cửa Mẫu, Mùa trăng và Hình đám cỏ. Cửa Mẫu gồm có chín khúc, mỗi khúc đều được gắn với những hiện tượng, quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông: sinh – lão – bệnh – tử. Cấu trúc này không mới nhưng độc đáo ở cách thể hiện, mỗi khúc hé mở những bí mật của vũ trụ. Chín phân đoạn là một hành trình của đời người: thưở sơ sinh (I, II), dần lớn lên (III), đấu tranh để sinh tồn (IV, V), già lão và bệnh tật run rẩy những khấn nguyện (VI, VII), những hoài niệm ấu thơ (VIII), lời kinh cầu siêu thoát (IX). Phần thứ hai mang tên Mùa trăng, thể hiện sự ức chế, thèm khát một mùa ái ân, giao hợp với nhau. Hình đám cỏ với chín nhịp được phân lập khiến người đọc thực sự bị lạc vào một thế giới mà ở đó tất cả hình ảnh, hình tượng được tạo nên bởi trí tưởng tượng và những cảm nhận chủ quan của chủ thể sáng tạo. Nó khác xa với nguyên mẫu đời thực và được cảm nhận dưới góc nhìn lập thể của nhà thơ.

 

hoa giấu mặt (2012) gây ấn tượng với người đọc trước hết ở thể thơ ba câu ngắn gọn, súc tích. Tập thơ chính là sự trở về với niềm an nhiên của sự sống, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm. Cảm thức về sự vô thường hiện lên khi con người đứng giữa những khoảng khắc của thời gian, của sự sống diệu kì và thiêng liêng.

 

Vừa sinh ra ở đó (2013) dựng lên một thế giới tinh khiết, trong lành nguyên sơ, nguyên thủy; một thế giới vừa được sinh ra hay vừa được tái tạo. Con người cùng cỏ cây, chim muông hòa đồng, hồn nhiên trong một nhịp sống mới, một bầu sinh quyển vừa được thanh tẩy. Tập thơ biểu hiện rõ nét những ý niệm của nhà thơ về thế giới, sự sống và nhân sinh.

 

Trong những năm gần đây, nhiều tập thơ của Mai Văn Phấn đã được dịch sang tiếng nước ngoài để giới thiệu với bạn đọc quốc tế. Một số tập thơ song ngữ được xuất bản dưới dạng sách điện tử Epud trên Amazon như: Những hạt giống của đêm và ngày – Seeds of Night and Day; Những nguyên âm trong sương sớm - Zanore në vesë; Buông tay cho trời rạng – Out of the dark...

 

Nhìn tổng quan lại hành trình thơ của Mai Văn Phấn, ta thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo thơ ca và những quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Trở lại sau mười sáu năm dừng bút, ông đã xác lập cho mình một con đường thơ độc đáo. Các sáng tác đã thể hiện sự cách tân, đổi mới, từ chỗ nghiêng về truyền thống đến những bứt phá mạnh mẽ trong cách xây dựng cấu trúc thơ, sử dụng hệ thống hình ảnh, biểu tượng,… Mỗi tập thơ ra đời là một hành trình rời xa cái tha nhân để tìm về với cái bản thể, tự ngã của con người.

 

1.2.2. Quan niệm về nghệ thuật:

 

“Mai Văn Phấn bắt đầu làm thơ ở cái tuổi mà sự chín chắn trong kinh nghiệm sống đã cho phép lí trí của anh tìm ra một lối đi, một cách nhìn cuộc sống đủ lớn để xác định cho mình một thế giới nghệ thuật riêng biệt” [13; tr.103]. Mỗi đứa con tinh thần ra đời đều là một sự khẳng định mạnh mẽ những quan niệm nghệ thuật của nhà thơ, thể hiện sự cách tân táo bạo trong những bước tiến của thi ca. Những quan niệm về nghệ thuật được Mai Văn Phấn thể hiện trực tiếp qua các bài tiểu luận văn học, trả lời phỏng vấn hoặc khéo léo gián tiếp qua các sáng tác thơ. Nhà phê bình Trần Thiện Khanh đã viết: “Về phương diện lí thuyết, có bao nhiêu người sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho cùng, mọi quan niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình độ nhận thức khác nhau của người cầm bút về văn học” [29; tr.507]. Có bao nhiêu nhà thơ là bấy nhiêu con đường sáng tạo đến với thi ca.

 

Khi bàn luận về một bài thơ hay, Mai Văn Phấn cho rằng: “Thơ hay thường bất ngờ, chăm chú đi tìm không dễ thấy. Cái đọng lại trước hết khi đọc một bài thơ là cốt cách thi sĩ. Theo tôi, việc luyện cốt quan trọng hơn luyện chữ. Ở những nhà thơ lớn, cốt cách hiện lên rõ ngay ở những vấn đề tưởng như không đáng nói, như không có gì để nói. Những nhà thơ lớn ấy, tuy sống và viết ở những thời gian, không gian hay chính thể khác biệt nhưng họ vẫn gặp nhau trong cách lí giải những vấn đề lớn, khá đồng nhất và cụ thể” [42; tr.440]. Mỗi bài thơ hay đều có khả năng khiến cho người đọc thông tuệ và cao thượng hơn.

 

Chức năng của văn học nói chung và thơ ca nói riêng là hướng con người đến cái Đẹp. Ngoài mục đích tuyên truyền, mô phỏng hay diễn tả hiện thực cuộc sống, thơ còn tìm cách đặt tên lại sự vật và định hình lại thế giới. “Văn chương là hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm văn học trước hết quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy” [42; tr.448]. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã từng nhận xét: “Thơ ca, đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con đường vĩnh cửu của nó, (…) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con người trần tục của nhà thơ với con người sáng tạo ra anh ta” [5; tr.15]. Như vậy, thơ ca luôn hướng con người đến với cái đẹp, nó mang trong mình sứ mệnh cao cả là cứu rỗi con người và thế giới.

 

Đối với nhà thơ, thơ ca càng sáng tạo, càng biến ảo bao nhiêu lại càng đem lại sự chân thực bấy nhiêu. “Hiện thực trong thơ được hiện hữu trên một mặt phẳng cong. Không gian ấy giúp người viết đồng hành được với quá khứ, hiện tại và tương lai đa chiều và đa tầng. Nhà thơ khi viết, không nên bận tâm viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng” [42; tr.339].

 

Sáng tạo thơ ca là quá trình vượt thoát khỏi cá tính, hay nhà thơ thường gọi là những cuộc “vong thân”. Đó là một cuộc vượt thoát chính bản thân mình, tự phủ định những cái đã làm, phải coi cái mình đã viết là cái đã cũ thì mới mong đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật. “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một người nghệ sĩ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên một mảnh đất đã cỗi cằn” [42; tr.339]. Mai Văn Phấn cho rằng nhà thơ phải khác với một người nghệ nhân hay thợ thủ công, muốn tiếp tục tồn tại trên địa hạt của thi ca thì phải luôn tái sinh trong những bài thơ khác. Từ đó, nhà thơ kêu gọi khả năng đồng sáng tạo ở độc giả. Mỗi người đọc đến với thơ đều tự xây dựng cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc đáo. Bài thơ được hoàn thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc về số đông độc giả tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin hãy coi như anh ta đã chết”. Như vậy, mỗi tác phẩm văn học khi ra đời đều tồn tại độc lập với người nghệ sĩ.

 

Nói đến cuộc sống, Mai Văn Phấn cho rằng: “Hiện thực trong thơ là luồng phát sáng ra từ bài thơ, để ta cảm nhận được bản chất và sự tế vi của đời sống thực” [42; tr.454]. Còn mỗi bài thơ là “một dự phóng, một kinh nghiệm riêng biệt. Ví như hình ảnh cụ thể của bông hoa, con sóng, bước chân… chỉ mang đến cho bài thơ một kinh nghiệm cụ thể rồi vĩnh viễn biến mất. Không cần chuẩn bị bởi không mang theo thứ gì trong hành trình sáng tạo” [42; tr.454]. Có thể thấy đời với thơ là một, trùng khớp với nhau mà nói như nhà phê bình Ngô Hương Giang thì thơ là đời của một cõi tinh lọc còn đời là một bài thơ chưa được gọt rũa. Cuộc sống luôn luôn vận động và biến thiên, lòng người ngày càng đa đoan phức tạp nên đòi hỏi thơ cũng cần phải được đổi mới, sáng tạo. Hiện thực trong tác phẩm văn học phải là một siêu hiện thực, không còn là hiện thực khách quan mà đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà thơ, tùy thuộc chặt chẽ vào sự trải nghiệm, vốn sống và nền tảng văn hóa. Mỗi nhà thơ là một nhà văn hóa, tự trang bị cho mình kiến thức tổng hợp ở mọi lĩnh vực.

 

Đổi mới thi pháp chính là một cuộc cách mạng giữa nội dung và hình thức, tránh hình thức bình cũ rượu mới hoặc ngược lại. “Nội dung phải là chất liệu đã mang một hình thức được xác định và hình thức không bao giờ tồn tại độc lập với nội dung của chính nó” [42; tr.456]. Hình thức được “chuyển hóa từ nội dung, đó mới là đổi mới thực sự” [42; tr.457]. Cách mạng thi ca cần phải gắn liền sáng tạo những hình thức mới với một nội dung mới. Soi chiếu vào những sáng tác của Mai Văn Phấn để minh chứng cho quan niệm trên, người đọc nhận thấy trong thơ là những vấn đề mang tính thời sự như lý tưởng sống của thế hệ mới, vấn đề ý thức hệ hay quan niệm về tự do, công bằng,… ẩn trong những hình thức mới có tiết tấu nhanh, cách diễn đạt dứt khoát, tối giản…

 

Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Mai Văn Phấn là nhà thơ luôn có ý thức đổi mới thi ca, đổi mới phương pháp sáng tác cũng như tạo sự đa dạng trong thể tài. Những quan niệm về nghệ thuật cũng như nhận thức sứ mệnh người nghệ sĩ đã phản ánh phần nào phẩm chất cũng như phong cách riêng của nhà thơ trong dòng chảy thơ đương đại.

 

1.3. Thơ Mai Văn Phấn trong xu thế cách tân của thơ đương đại:

 

Trở lại sau mười sáu năm dừng bút, Mai Văn Phấn đã nhanh chóng hòa nhập vào xu thế cách tân của thơ hiện đại đồng thời cũng tìm cho mình một cách nói riêng. Với quan niệm không “thâm canh triền miên trên một mảnh đất đã cỗi cằn”, ông đã liên tục có những cuộc vong thân, tự làm mới mình để cho ra đời những sáng tạo thi ca độc đáo. Đọc thơ Mai Văn Phấn, ta thấy hiện rõ lên một nhu cầu có tính thường trực, đó là phải liên tục sáng tạo như là phương thức duy nhất để khẳng định sự hiện diện của nhà thơ giữa cuộc đời và giữa những bề bộn của văn chương.

 

Thơ Mai Văn Phấn từ buổi đầu dù còn chút gần gũi với thơ ca truyền thống nhưng ông đã có ý thức giã từ giọng điệu cũ, nhịp điệu cũ để xây dựng những hình ảnh khoáng đạt, lạ lẫm. Cảm xúc thơ trôi chảy một cách tự nhiên, trong trẻo nhưng không đơn tuyến, dễ dãi mà luôn đòi hỏi người đọc phải tư duy, suy nghĩ và tự tái tạo lại thế giới thơ cho riêng mình. Đọc thơ ông, ta cảm nhận được những hoài nghi, lo âu và sợ hãi: “Chân tay ta vừa rút khỏi những huyễn hoặc giấc mơ… Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm sàng…” (Cộng hưởng II - Trường ca Người cùng thời). Nhưng cũng từ chính những hoài nghi đó mà nhà thơ đã tự phản nghiệm, tự phản bội mình để ráo riết tìm ra một lối đi mới cho thơ.

 

Trong xu thế hiện đại hóa thơ ca, nhiều cây viết trẻ có xu hướng thổi vào thơ ngọn gió hậu hiện đại, vận dụng những lí thuyết về chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng phương Tây thì Mai Văn Phấn lại có xu hướng đưa thơ ca về với tiếng nói thuần khiết, như nhiên nhất của con người. Đây là một trong số ít các nhà thơ có khả năng liên tục cách tân, vượt thoát và thể nghiệm trong đời sống thơ Việt Nam đương đại. Liên tục vong thân, luôn luôn tự phủ định chính mình, nhà thơ đã hiện diện ở hầu hết địa hạt của các phương pháp sáng tác, các phạm trù giá trị thẩm mỹ. Chính ông cũng đã tâm sự: “Sau khi băng qua những “sa mạc” như Siêu thực, tượng trưng, thơ Ngôn ngữ, Tân hình thức, Hậu hiện đại, Tân cổ điển,… tôi thấy sao chúng ta không tự tìm lấy một khuynh hướng mà phải lệ thuộc vào thằng Tây? Khuyng hướng ấy bên ngoài họ đã xếp vào viện bảo tàng từ thế kỉ trước, trong khi chúng ta vẫn lúng túng tranh cãi… Vậy “thong dong” là cách tôi tìm về với cội nguồn thi ca, để cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn nhiên, tối giản, trong trẻo nhất” [42; tr.451]. Bởi vậy, mỗi tập thơ của Mai Văn Phấn đều là một sự trở về với truyền thống, là nơi tha nhân gặp lại cái bản thể, tự ngã. Quá trình cách tân thơ ông cũng chính là cách nhà thơ tìm về cội nguồn dân tộc bằng tâm thế con người đương đại, với cách nhìn mới, mang hệ quy chiếu thẩm mỹ mới. Giọng thơ xóa nhòa ranh giới ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ đời sống của con người hiện đại; ngôn ngữ tối giản, trong sáng nhưng các thi ảnh chuyển động với tốc độ lớn, dứt khoát. Sáng tạo thơ được xem như một sự trở về, trở về với những giá trị căn cốt của con người.

 

Về chủ đề, thể tài, Mai Văn Phấn đã “gom tụ trong mình những xác cảm phong phú của đời sống con người đương đại: âu lo, hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng với các vấn đề tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hóa, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến, tha hương, trở về,…” [13; tr.153]. Những bước tiến trên lộ trình thơ Mai Văn Phấn cho thấy sự chuyển dịch nhanh nhạy về thế giới quan, nhân sinh quan và quan niệm thơ gắn liền với sự trải nghiệm cuộc sống.

 

Nghệ thuật càng sáng tạo bao nhiêu thì lại càng khó tiếp nhận bấy nhiêu. Thơ Mai Văn Phấn xuất hiện khiến không ít độc giả phải ngỡ ngàng vì cách viết quá lạ, quá mới. Bên cạnh những đánh giá tích cực thì cũng xuất hiện nhiều ý kiến trái chiều. Nhiều nhà phê bình đã phản ứng quyết liệt, lên tiếng phủ nhận, cho đây là những vần thơ rối rắm vô nghĩa. Tuy nhiên, đây là những cách tân cần được tôn trọng và đánh giá đúng mực.

 

 

 

 

CHƯƠNG 2: CẢM QUAN THẨM MỸ VÀ CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN


2.1. Cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn:

 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng cho rằng mục đích đầu tiên và sau cùng của nghệ thuật và văn học là mang đến cái hay, cái đẹp cho đời người. Tự thân nó không có mầm mống của một sự mưu toan nào cả, hãy cho nó thanh thản tự do và mãi mãi là hiện thân của điều thiện, của cái đẹp. Các tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn luôn nuôi dưỡng trong nó cái đẹp - phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học. Văn học muôn đời bao giờ cũng là sự gắn liền, song hành của ba yếu tố chân - thiện - mỹ.

 

Bất cứ một người nghệ sĩ chân chính nào cũng đặt ra cho mình một lí tưởng thẩm mỹ, một quan niệm nghệ thuật riêng để từ đó phấn đấu vươn đến nó. Với Mai Văn Phấn, quan niệm về nghệ thuật của ông luôn gắn liền với quan niệm về cái đẹp. “Văn chương là hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm văn học trước hết quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy” [42, tr.448]. “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả… nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [42; tr.454]. Quan niệm nghệ thuật này được nhà thơ thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của mình thông qua cách lựa chọn thể tài, các chuỗi hình tượng và biểu tượng, cách sử dụng ngôn ngữ… Khảo sát và nghiên cứu văn bản thơ trong ba tập Bầu trời không mái che (2010), hoa giấu mặt (2012)Vừa sinh ra từ đó (2013), tôi nhận thấy cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn có những đặc điểm nổi bật như: Cái đẹp: cội nguồn của sự sống; Cái đẹp thuần Việt, mang tính dân tộc; Cái đẹp của đời sống tâm linh, mang đậm tính tôn giáo. Những đặc trưng này đã góp phần quan trọng tạo nên dấu ấn riêng cho những sáng tạo của nhà thơ trong giai đoạn thứ ba này.

 

2.1.1. Cái đẹp: cội nguồn của sự sống:

 

Nhà phê bình Văn Giá cho rằng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là “một thế giới phồn sinh động cựa và luân chuyển hóa hóa sinh vô hồi vô hạn với tất cả vẻ bí ẩn và mầu nhiệm nhất đã tràn vào thơ anh, thống ngự thơ anh, chiếm ngôi trị vì, không nhượng bộ. Bằng một cách tự nhiên nhất, thơ Phấn đã biểu đạt thế giới này trong trạng thái đó, và coi đó là hiện thân của cái Đẹp” [29, tr.534].

 

Bằng cảm quan thẩm mỹ của mình, nhà thơ liên tục khai phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong của sự sống, từ đó xây dựng lên một thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định mà ở đó mọi sự vật đều trong trạng thái nguyên sơ, mới mẻ, như nhiên, như vừa mới sinh ra. Nhìn mọi vật bằng nhãn quan phồn sinh, thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới của sự viên mãn và thuần khiết, của sự sinh sôi nảy nở, màu mỡ và phì nhiêu, muôn loài cộng sinh. Ngay từ những tập thơ đầu tiên, tác giả đã có ý muốn tôn vinh trạng thái sinh nở, mang thai, ái ân như:

 

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc muôn vàn cỏ non

(Tản mạn về cỏ - Cầu nguyện ban mai)

 

Nhà thơ luôn coi đó là những biểu hiện đẹp nhất của sự sống nơi trần thế bởi nó  không chỉ là quy luật sinh tồn mang tính chất tự nhiên mà còn góp phần tái sinh một thế giới mới. Đến tập Bầu trời không mái che, Mai Văn Phấn dựng lên một bầu trời đa tầng, một thế giới không có “mái che”, luôn rộng mở, khoáng đạt và bất tận bởi ánh sáng của sự sống và vũ trụ bao la. Tập thơ liên tục hiện các hình ảnh mùa màng, cỏ cây, đất đai thể hiện sự sinh sôi, nảy nở vĩnh hằng của thế giới:

 

Đây là thời khắc ái ân

Thắp sáng lãnh địa bóng tối

Mùa phồn sinh thụ phấn kết hạt

Mặn nồng thiêm thiếp trăng khuya

(Mùa trăng - Bầu trời không mái che)

 

Mọi hình ảnh, sự vật trong thơ Mai Văn Phấn đều có xu hướng cựa động, nhân đôi và hướng về phía ánh sáng: bóng đêm bị hút hết, trái cây chín rục, cây tre cây trúc thêm đốt, đống lửa bùng lên, con còng lột xác,... Khoảnh khắc ái ân được mô tả một cách thiêng liêng và diệu kì, làm bừng sáng cả lãnh địa, bóng tối lùi xa dần để nhường chỗ cho ánh sáng, cho sự sống. Thậm chí, chỉ trong một câu thơ, người đọc cũng cảm nhận được nhịp thở của sự sống, hành trình thụ phấn đến kết hạt, tương đương như hành trình của một kiếp người.

 

Hôn em hút hết bóng đêm

Vừa nứt trái cây chín rục

Cây trúc cây tre thêm đốt

Đống lửa bùng lên bởi những que đời

Một con còng trước bình minh lột xác

(Nhịp VI – Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Nhãn quan phồn sinh hướng về thiên nhiên thực chất là hướng về con người, hướng về đời sống nhân thế. Hình ảnh em trong thơ Mai Văn Phấn là hiện thân của đất đai, mùa màng tươi tốt và sự gieo trồng và anh là nỗi khao khát đón nhận sự gieo trồng của em. Với một cái nhìn mang tính lý tưởng hóa, hành động giao hợp trong tình yêu được nhà thơ ví như một nghi lễ thiêng liêng và trang trọng. Nơi đó, con người cảm nhận được những nồng nàn mà tình yêu mang lại “chạm vào anh biết viên sỏi rất mềm, cọng rơm khô trĩu nặng, sợi tóc thở nhẹ”:

 

Tìm miệng anh gieo hạt

Gió níu chân tay đất dịu dàng

Lao xuống vực

(Đỉnh gió - Vừa sinh ra từ đó)

 

Tái tạo một thế giới phồn sinh, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên hình tượng Mẫu - người mẹ, khởi nguồn của sự sống. Mẫu mang một sức mạnh vĩ đại, là nguồn gốc sinh tạo ra loài người cũng như vạn vật cỏ cây.

 

Trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện rất nhiều những tính từ chỉ trạng thái, cảm giác về sự sung mãn và tràn trề năng lượng: căng tràn nhựa mật, ứ căng dòng nhựa, chật căng mầm hạt, bạt ngàn cây lá, lá mầm che mặt đất xum xuê. Các động từ chỉ hoạt động sinh nở, phát triển như nứt vỡ vỏ cây, chồi lên thành lộc biếc, rộ lên từng đợt lá non, vui vào nhau hạt mầm bé nhỏ, đọt mầm bật dậy,…

 

Một thế giới phồn sinh, hóa sinh, luôn luôn trong trạng thái sinh nở và tái tạo những mầm sống mới. Vẻ đẹp trong thơ của Mai Văn Phấn nằm ở sự trong trẻo, nguyên khôi của sự sống, vạn vật lúc nào cũng mới mẻ, ban sơ như thể “vừa sinh ra từ đó”. Nhà thơ vẽ lên trước mắt người đọc những khoảng không gian thiên nhiên thuần khiết và trong trẻo bằng những gam màu nhẹ nhàng và tinh tế. Đó là không gian làng quê thanh bình trong nắng sớm, “một viên cuội nhỏ nằm trên phiến đá cao/ Không chớt mắt trong tinh khôi yên tĩnh”. Đó là không gian của nắng hây hây, của ánh ngày reo trong đất, của ban mai, bình minh, của những con chim bay đi trong buổi sớm:

 

Một bông cỏ may vừa nở

Ánh sáng phát ra từ đó

Bình minh đang phát ra từ đó

Soi rõ chân đồi, lối ra bìa rừng

Những con chim bay đi buổi sớm

(Nơi cội nguồn thế giới - Vừa sinh ra từ đó)

 

Nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng cứ lặp đi lặp lại trong các tập thơ như ánh sáng, ban mai, bình minh, đất, cỏ cây,... Nó gợi đến một cuộc sống mới như vừa được sinh tạo ra, vừa mới bắt đầu. Cái đẹp hoàn mỹ nhất đôi khi không phải là thứ được rèn rũa qua thử thách mà là cái đẹp mang hơi thở trinh nguyên và ban sơ nhất, thanh sạch nhất. Thời khắc đẹp nhất trong ngày là lúc bình minh, lúc hừng đông, khi mà “nắng sớm đang phủ lên đỉnh núi/ làm trong suốt lòng đất, lòng cây”. Thời khắc đẹp nhất trong năm là lúc gặp mùa xuân. Nơi đẹp nhất trên cõi trần gian là “nơi cội nguồn thế giới”, là nơi mà “tất cả chúng ta vừa sinh ra từ đó”.

 

Ngày mới trong thơ Mai Văn Phấn mang một vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết:

 

Hừng đông

Miệng con chim non

Hớp những đám mây

(Ngày mới – hoa giấu mặt)

 

Bài thơ chỉ vẻn vẹn gói gọn trong ba câu với những nét vẽ giản đơn nhưng đủ để nhà thơ tái hiện lại cái trong lành, tinh khiết và thanh sạch của không gian. Cái đẹp mà tác giả hướng đến đôi khi chỉ là sự mỏng manh của đám mây hay sự ngỡ ngàng của con chim non trước cuộc đời. Với những cảm nhận tinh tế, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên một thế giới căng tràn nhựa sống của sự sinh sôi nảy nở, của những gì ban sơ nhất, của những thứ dường như chỉ mới bắt đầu sự sống.

 

Trong không gian ấy, con người hướng về thiên nhiên như hướng về những gì thuần khiết nhất:

 

Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ thể, nước quả óng vàng loang chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát thơm. Tưởng tượng em nhặt anh lên hít hà, cắn ngập lớp vỏ mịn. Nâng niu không vỡ hạt. Bao bọc. Chờ mưa phùn gieo anh nơi đất ẩm.

(Giấc mơ cây - Vừa sinh ra từ đó)

 

Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định, đa tầng mà ở đó muôn loài cộng sinh chen chúc đầy hoan lạc. Nó mang một vẻ đẹp tinh khôi của thuở uyên nguyên, khi trái đất mới bắt đầu sự sống. Sự viên mãn nảy nở và sự thuần khiết là hai đặc tính thẩm mĩ gắn liền với nhau, tạo nên nét đặc thù của thế giới thơ Mai Văn Phấn.

 

2.1.2. Cái đẹp thuần Việt, mang tính dân tộc:

 

Trong tiểu luận Thơ, giá trị cần đến, Mai Văn Phấn khẳng định: “Hơi thở Việt được hiểu như là một hệ thống sinh thái, tập hợp nhiều thực thể độc lập nhưng liên quan với nhau, bắt nguồn từ cội rễ văn hóa và bản sắc dân tộc. Tạo nên một nền thơ hiện đại, làm phong phú tính truyền thống là nhiệm vụ cốt tử của mỗi nhà thơ” [42; tr.375]. Mặc dù luôn có những đổi mới, cách tân, tìm ra những cái khác mới hơn so với cái khác đã cũ nhưng nhà thơ cũng luôn có ý thức tiếp thụ tinh hoa văn hóa dân tộc. Trên tất cả những cách tân, tìm tòi và khai phá mới về mặt kĩ thuật, nhà thơ luôn khao khát đưa cảm xúc về với cái bản thể tự nhiên nhất của con người, hướng đến một lối viết tự động, “tự nhiên như đi trên đất”. Bởi vậy mà sau khi băng qua những vùng “sa mạc” như siêu thực, tượng trưng, hậu hiện đại,… nhà thơ lại tìm về với cội nguồn của thi ca để cảm xúc được trôi chảy một cách hồn nhiên và trong trẻo nhất. Cái đẹp trong thơ Mai Văn Phấn nằm ở chính sự trong trẻo của cảm xúc mà ở đó, nhà thơ như được tìm về với cội nguồn dân tộc, cảm nhận được những vẻ đẹp thuần Việt. “Thuần Việt” là một thuật ngữ mang tính quy ước nhiều hơn là một khái niệm hàn lâm, khoa học; thường được nhà thơ nhắc đến trong nhiều bài phỏng vấn cũng như tiểu luận văn học. Tác giả luôn có ý thức hướng đến những cái đẹp mang tính hồn cốt, bản sắc văn hóa của dân tộc, những điều giản dị và thân quen trong cuộc sống. Trong tiểu luận Thơ Việt Nam đương đại buổi ra đi và trở về, Mai Văn Phấn cho rằng: “Tôi hâm mộ ai đó dám bước đi và biết quay về trên cội nguồn thơ Việt, với tâm thức của thời đại, biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà không đánh mất bản chất tâm hồn Việt, vốn trong sáng, chân thành, bao dung mà rất hiện sinh, tinh tế trong cảm nhận, nhân bản hồn hậu trong nghĩ suy về phận người” [42; tr.385].

 

Với quan niệm tìm về với cội nguồn dân tộc, hướng tới một thế giới tinh thần lí tưởng và thuần Việt, nhà thơ không có ý định xác lập lại một thế giới cũ kĩ, lạc hậu và cổ hủ mà thay vào đó là những không gian văn hóa mang vẻ đẹp bình dị, gần gũi và truyền thống. Bằng cảm xúc hồn nhiên và trong trẻo nhất, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên một trường thẩm mỹ lí tưởng mà ở đó người đọc dễ dàng nhận thấy một con người nặng lòng với những giá trị văn hóa, hướng về đời sống tâm linh với cái tâm thanh tịnh. Nhiều nét văn hóa cổ truyền của dân tộc được một lần sống lại như không gian nghi lễ, hầu đồng, nhiều địa danh lịch sử cũng được ghi dấu trong thơ gợi nhắc thời quá khứ hào hùng đã qua của dân tộc. Từ con mắt của người hiện đại, Mai Văn Phấn đã tìm về với những nét đẹp nguồn cội, một thế giới tinh thần thuần Việt.

 

Cái đẹp thuần Việt mang tính dân tộc trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện trước hết ở việc nhà thơ tìm về với cội nguồn dân tộc. Những nét đẹp văn hóa hay những sự kiện, dấu mốc lịch sử hào hùng đã qua được tác giả khéo léo đưa vào trong thơ với niềm tự hào sâu sắc:

 

Nở trên đỉnh núi

Thản nhiên trong gió lạnh

Mây bay

Bảy trăm năm trước

Đức - Phật – Hoàng - Trần Nhân Tông

Cúi đầu đi qua

(Bông hoa Yên Tử - Vừa sinh ra từ đó)

 

Trong cuộc hành hương tìm về đất Phật, cả “em và tôi”, “các con và mọi người” đều cúi đầu nhớ về những người xưa. Không gian thấm đẫm sự trang nghiêm và trong lành nơi cửa Phật với hình ảnh của nhà vua Trần Nhân Tông bảy trăm năm trước đã rũ bỏ ngai vàng và quyền lực để một lòng hướng về cái tâm thanh tịnh. Bông hoa trên đỉnh núi vừa mang vẻ mỏng manh, yếu ớt nhưng lại có sức sống dai dẳng, thản nhiên đứng trong gió lạnh. Đó là một vẻ đẹp bình dị, gần gũi và mãnh liệt.

 

Nhà thơ luôn đề cao, nặng lòng với những giá trị văn hóa, đạo lý truyền thống dân tộc. Nhiều bài thơ như Lên chùa, Ra vườn chùa xem cắt cỏ, Ngày giỗ Tổ, Tạ ơn, Thanh minh, Hóa vàng,… để tái hiện những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc.

 

Nét nổi bật trong quan niệm thẩm mỹ của Mai Văn Phấn là nhà thơ có xu hướng phục dựng những nét văn hóa xưa cũ, những không gian nghệ thuật gắn liền với tập tục của dân tộc. Cái đẹp trong thơ thuộc về một quá khứ cổ xưa mà ở đó, con người chung sống hòa hợp, hạnh phúc dưới bàn tay che chở của Mẫu. Dấu ấn văn hóa của người Việt hiện lên rất rõ khi tác giả mô tả, tái hiện lại không gian nghi lễ hầu đồng. Trong quan niệm của người Việt cổ, Mẫu là khởi nguồn của sự sống trên thế gian, là đấng sáng thế đầy quyền năng và là biểu trưng cho quy luật sinh tồn. Bởi vậy, tập tục thờ Mẫu thể hiện lòng thành tâm của dân tộc đối với bà mẹ đã hoài thai, sinh ra đưa con mang dáng dấp Con Người. Đây là một nét đẹp trong văn hóa cổ truyền của dân tộc. Khúc 9 trong Cửa Mẫu, Mai Văn Phấn đã tái hiện lại một không gian nghi lễ quen thuộc của người Việt với trống chiêng bát cửu và những lời kinh cầu siêu thoát:

 

trống chiêng bát cửu

mở hội long đình

múa hát cao xanh

công đồng tứ phủ

mở lòng đệ tử

bao dung mắt nhìn

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Không gian buổi lễ với những nghi thức hầu đồng khiến con người được thăng hoa, quên đi những lo âu trong cuộc sống để một lòng hướng về cội nguồn. Hình tượng Mẫu vừa là một nét văn hóa trong tâm linh đồng thời cũng là hiện thân của quá khứ, của Tổ tiên loài người. Chính vì vậy mà thờ Mẫu cũng chính là một hình thức gợi nhắc nguồn cội. Tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là phong tục tập quán có từ lâu đời, được hun đúc trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, là nền tảng đạo đức trong cách ứng xử giữa con người với con người. Hướng về Mẫu là nhu cầu tự thân của mỗi người.

 

Với ước muốn được trở về với “bản chất tâm hồn Việt” như lời Mai Văn Phấn đã từng tâm sự, nhà thơ đã tạo dựng cho thơ những không gian nghệ thuật bình dị, thân quen và rất mực thanh tịnh:

 

Thu về em ấp

Cốm non lãng đãng sương giăng

Khăn áo ấy mịn màng da thịt

Dâng heo may lên trời

Nhịp cốm giã rộn mùa thóc nếp

Thúng mủng dần sàng vỏ trấu hây hây

Trái bưởi thơm dịu nắng hanh

Thanh khiết chùm hoa mộc

Giữa đất trời ngó sen sau mưa

Da diết nhớ từng vòng cuộn xiết

Lá sen xanh ủ cốm em anh

Chín nẫu chân mây mùa hạ

Đêm ái ân lặng phắc ngọn đèn

Trái hồng đượm trong hương cốm nõn.

(Cốm hương - Bầu trời không mái che)

 

Nhắc đến cốm là nghĩ đến một món ăn mang tính dân tộc, đậm hơi thở của xứ Bắc Bộ. Bài thơ vừa mang cái hương của trái bưởi, của chùm hoa, của trái hồng đượm, hương cốm nõn vừa mang cái sắc của chân mây mùa hạ, của đất trời sau mưa, lại có những thanh âm rộn ràng của thúng mủng dần sàng hay cái tĩnh lặng của những đêm ái ân. Mọi sự vật mà tác giả cảm nhận được đều mang một vẻ đẹp tinh khiết, khôi nguyên nhất, đẹp nhất: trái bưởi thơm dịu, chùm hoa thành khiết, ngó sen sau mưa, trái hồng đượm, hương cốm nõn. Nhà thơ đã khéo léo chọn những thức quà đặc trưng cho mùa thu Bắc Bộ, gợi lên một không gian sinh động và truyền thống của nền văn minh lúa nước, giản dị và thân quen, gần gũi và hồn hậu.

 

Ngoài ra, cái đẹp mang hồn Việt trong thơ Mai Văn Phấn còn được thể hiện qua lời kêu gọi con người phải hướng đến cái tâm thanh tịnh, gìn giữ cốt cách. Cuộc sống đô thị xô bồ ập đến đang làm con người quay cuồng trong guồng máy công nghiệp, bởi vậy mà việc giữ vững những nét đẹp trong tâm hồn dân tộc luôn là một yêu cầu lớn.

 

Cánh hoa sen

Ngay ngắn rơi xuống

Vũng bùn

(Cốt cách – hoa giấu mặt)

 

Khi con người ý thức được việc mài rũa nhân cách, tu tâm dưỡng tính thì “cốt cách” sẽ luôn được khẳng định dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cánh hoa sen thanh khiết và cao sang dù rơi xuống vũng bùn vẫn giữ nguyên tinh thần của nó. Tiếp nhận bài học của cha ông xưa: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, Mai Văn Phấn đã nêu lên một bài học lớn về việc bảo vệ nhân cách và tâm hồn Việt.

 

Như vậy, trong xu thế vận động và cách tân thơ, Mai Văn Phấn ngày càng có ý thức tìm kiếm một vẻ đẹp thuần Việt, mang tinh thần và cốt cách dân tộc. Cái đẹp trong thơ ông là sự tìm về với cội nguồn dân tộc, nặng lòng với các giá trị văn hóa truyền thống, những điều giản dị và thân quen của làng quê hay hướng con người đến cái tâm thanh tịnh. Thẩm mỹ trong thơ vừa mang hơi thở truyền thống lại vừa kết hợp với nhịp chảy của đời sống đương đại.

 

2.1.3. Cái đẹp mang tính tôn giáo:

 

Với một vốn sống dày dặn và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ, Mai Văn Phấn góp thêm vào làng thơ một cảm quan thẩm mỹ mới, khẳng định nguồn cảm hứng tôn giáo là dồi dào và vô tận của thơ ca. Trong bài Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo, nhà thơ Nguyễn Hiệp đã ghi lại tâm sự của ông: “Tôi sinh ra trong một gia đình theo đạo thiên chúa, từ nhỏ tôi rất ngoan đạo, thuộc kinh bổn, thông thạo kinh Tân ước và Cựu ước, các sách thánh, mê hát thánh ca… Sau này khi du học ở Liên Xô cũ (1983 – 1984), tôi đã gặp vợ tôi bây giờ, một người theo đạo Phật. Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người yêu tôi nữa. Khi nghiên cứu các giáo lí của các tôn giáo lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng: Thượng đế chỉ có một. Và chắc chắn chúng ta được sinh ra và bị chi phối bởi một Đấng – Toàn – Năng. Đấng – Toàn – Năng cho con người biết được gần đúng khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông qua các hình thức tôn giáo mà thôi” [17]. Qua lời phát biểu đó, có thể thấy gia đình và quê hương chính là ngọn nguồn, là nền tảng vững chắc để Mai Văn Phấn có thể tìm thấy nguồn cảm hứng bất tận trong tôn giáo và đưa nó vào thơ một cách nhuần nhuyễn và ý nhị.

 

Sinh ra tại miền quê Ninh Bình, cái nôi của Thiên chúa giáo, tâm hồn ông đã thấm đẫm tư tưởng của một con chiên ngoan đạo. Lại thêm sự đam mê, yêu thích với Phật giáo và vốn am hiểu với nhiều tôn giáo khác như đạo Hindu, đạo Mẫu,… Mai Văn Phấn đang mang đến nhiều sự sáng tạo trong cách nhìn về tôn giáo.

 

Cái đẹp trong đời sống tôn giáo trước hết được nhà thơ thể hiện trong cách tái hiện lại văn hóa thờ Mẫu, phục dựng lại không gian nghi lễ, hầu đồng quen thuộc. Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và nguyên thủy bởi nó có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu hệ trong đó người mẹ, người vợ giữ một vị trí quan trọng trong gia đình. Sự phát triển mạnh mẽ của tín ngưỡng này xuất phát từ tính nhân văn, tính nghệ thuật và khả năng đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người.

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện sự tôn vinh, thờ phụng những vị thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo và che chở, bao bọc sự sống của con người hay những vị thần được lịch sử hóa như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Quốc Mẫu Âu Cơ, Vương Mẫu (tương truyền là mẹ Thánh Gióng), Linh Sơn Thánh Mẫu… Hoặc cũng có thể là những bậc anh hùng dân tộc khi còn sống đã đem tài năng giúp dân, giúp nước và khi mất họ hiển linh phù trợ cho con người được bình an, hạnh phúc.

 

Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu là cái tâm hướng thiện, biết đối nhân xử thế. Người Việt luôn tin rằng Mẫu là mẹ, luôn che chở, phù hộ con người gặp nhiều may mắn, có sức mạnh và niềm tin để vượt qua vận hạn, đem lại cuộc sống bình yên và sung túc. Thờ Mẫu vừa là một tín ngưỡng tôn giáo, vừa là một nét đẹp trong văn hóa Việt.

 

Cũng từ đó, hình ảnh Mẫu trong thơ Mai Văn Phấn luôn giữ vai trò là người mẹ khởi sinh ra muôn loài, là khởi nguồn của mọi sự sống trên thế gian. Trong bài Cửa Mẫu (Bầu trời không mái che), nhà thơ đã tái hiện lại hành trình cuộc đời của một con người, sống dưới sự bao bọc và chở che của Mẫu. Hình tượng Mẫu biểu trưng của cảnh trời đất lúc khai thiên lập địa. Vũ trụ lúc ấy tối tăm mù mịt, là một khối hỗn độn vô hướng của nước, của lửa và của những sinh vật bán khai. Giữa buổi hồng hoang ấy, bà mẹ hoài thai sinh ra đứa con mang dáng dấp Con Người. Bởi vậy mà Mẫu được coi là khởi nguyên khởi thủy của vạn vật, đại diện cho sự che chở, bao bọc đồng thời cũng đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở và trù phú.

 

Mẫu nâng niu con ánh trăng

Tiếng chuyền cành, tiếng hú

Da thịt con yêu trải sâu đêm tối

Dựng tầng mây mưa nguồn.

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Hình tượng con ở đây không chỉ là khái niệm về con người mà còn bao hàm cả vũ trụ (ánh trăng, mây mưa nguồn, đêm tối, mặt trời, đáy nước, đàn chim, con nòng nọc, lá mầm,…). Mẫu là đấng toàn năng khi sinh thành ra con cũng là người trao cho con cẩm nang thoát hiểm. Trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, Mẫu luôn theo sát, nâng niu và bảo vệ, dẫn đường cho con vượt qua bao gian lao và thử thách, bao sóng to gió lớn của cuộc đời.

 

Con lặng lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước

Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh

Ngọn cây vươn mỏ con chim

Đang cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió.

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Không chỉ yêu thương, nâng niu mà Mẫu còn là người chỉ bảo, dẫn đường cho con những bước đi trong cuộc đời:

 

Chợt nhớ mùa nước lớn ngập tràn hang dế

Lóc bóc tiếng bong bóng phun lên từng đợt

Cho con biết được đâu là của hang

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Vượt lên trên hết là quy luật sinh diệt của vạn vật do Mẫu tạo nên cho thế giới tự nhiên, dạy con thích ứng với hoàn cảnh :

 

Tiếng hạt vỡ trong ngực

Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi

Tập vỗ cánh, quạt gió vào lòng tối

Bật lá mầm bay đi thênh thang

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Cửa Mẫu bao gồm chín khúc, mỗi khúc đều được gắn với những hiện tượng tự nhiên, những quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông: sinh – lão - bệnh - tử. Cấu trúc này không mới nhưng độc đáo ở cách thể hiện, mỗi khúc vừa hé mở lại vừa khép kín những bí mật của vũ trụ, tính tương đồng của nhân sinh trong giới hạn của cõi người, lúc thì như là sự giải thích, lúc lại như những câu sấm truyền tối nghĩa bằng thủ pháp ẩn dụ. Chín khúc cho ta hình dung về những chặng đường đời của con người dưới bàn tay che chở của người mẹ thiên nhiên. Một điểm khá đặc biệt trong bài thơ là sự đồng hiện của kiếp người thông qua hai hình tượng cha và con. Con là thời thơ ấu, là quá khứ, là kí ức của cha, còn cha là tương lai sau này của con. Con là sớm, là ban mai, bình mình, cha là lúc trời chiều, là hoàn hôn đêm tối.

 

Cơ thể cha tựa sông cạn, củi khô, hạt lép

Chùm quả nặng đung đưa gió mạnh. 

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Hai hình tượng này dìu đỡ nhau, bổ sung cho nhau để biểu đạt cho quy luật có sinh có tử của đời người. Cửa Mẫu không có thời gian và không gian cụ thể mà nó thường xuyên được đồng hiện, nhập nhòa với nhau, thời gian của quá khứ và thời gian của tương lai được kéo gần lại. Yếu tố triết lý được loại bỏ ngay từ đầu, thay vào đó là những nghiệm sinh được đúc rút qua quá trình sống của các thế hệ được di truyền lại. Như vậy, Mẫu được tôn vinh như là thủy tổ của muôn loài, Cửa Mẫu chính là khởi nguồn của sự sống trên hành tinh xanh. Hình tượng con ẩn dụ vạn vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn trong lịch sử tiến hóa.

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc đã được nhà thơ đưa vào thơ một cách nhuần nhị và khéo léo. Hình tượng Mẫu góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện thế giới hình tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn. Đó cũng là phương thức để nhà thơ đến gần với thế giới của tâm linh, tôn giáo, là nền tảng trong phương thức ứng xử của Con với Người, được thể hiện ở sự kính trọng, ngưỡng vọng đối với Đấng-sinh-thành. Phục dựng lại không gian tôn giáo đạo Mẫu, nhà thơ đã thành công trong việc tái hiện lại những vẻ đẹp trong văn hóa tâm linh của người Việt cổ, đề cao truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhớ về người mẹ đã sinh tạo ra muôn loài.

 

Bằng ngòi bút tài hoa và tình yêu đối với tôn giáo, Mai Văn Phấn đã khắc họa những nét đẹp trong văn hóa tâm linh vào thơ. Với ông, thơ được khởi phát từ cuộc đời và mang dấu ấn riêng của chủ thể sáng tác. Vì thế hiện hữu trong thơ ông là những quan niệm mang tính nhân sinh cao đẹp của nhà Phật, con người liên tục được hồi sinh và tái sinh theo tư tưởng Phật giáo. Chính nhà thơ cũng đã từng tâm sự rằng: “Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người yêu tôi nữa”. Cái đẹp trong thơ Mai Văn Phấn nằm ở chỗ nhà thơ không bao giờ coi cái kết là điểm dừng, là dấu kết thúc mà nó như một dấu mốc để hồi sinh, để sự sống từ đó lại tái sinh và tiếp diễn.

 

Theo quan niệm của Phật giáo, luân hồi là sự chuyển hóa của sự sống của một sinh vật qua nhiều kiếp theo sự tái sinh. Người Á Đông cho rằng sau khi chết, linh hồn của loài người cũng như loài vật hay loài cây cỏ cũng sẽ chuyển sinh từ cơ thể này sang cơ thể khác. Nói cách khác, luân hồi là sự chuyển sinh, chuyển hóa, đầu thai của linh hồn. Nhà Phật cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều tuân theo quy luật bất biến, cuộc đời con người phải trải qua nhiều kiếp, tái sinh trong nhiều kiếp sống. Sự hiện hữu của mỗi người là một cuộc sống dài vô tận gồm nhiều kiếp liên tiếp nhau, kiếp này kết thúc bằng cái chết để khởi đầu kiếp sau bằng việc sinh ra.

 

Tiếp thu tư tưởng Phật giáo, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên một thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định mà ở đó mọi vật luôn sinh sôi, nảy nở. Ý nghĩa đức tin về một đời sống tái sinh và hồi sinh cũng có nhiều điểm gặp gỡ với quan niệm muốn được đầu thai sống một kiếp sống khác tốt đẹp hơn và tươi sáng hơn của nhà Phật. Đối với nhà thơ, cái chết không phải là tận cùng của sự sống mà nó chỉ đơn giản là điểm trung gian giữa cuộc đời này và muôn vàn cuộc đời khác về sau. Cũng bởi tư tưởng con người và sự vật được tái sinh, luân hồi trong nhiều kiếp sống nên thế giới trong thơ Mai Văn Phấn lúc nào cũng ngập tràn sự sinh sôi, nảy nở, sự sống hiện lên từ những gì tàn tạ và héo úa nhất:

 

Bó gối những gốc cây

Nhắm mắt ngọn gió đồi

Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi

Ngày mai mặt đất này

Và thế giới sẽ đổi khác

(Mùa trăng - Bầu trời không mái che)

 

Thời khắc của sự tái sinh là thời khắc thiêng liêng nhất không chỉ của kiếp người mà còn của cả thế giới trù phú muôn loài. Trong tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo và Phật giáo, luôn quan niệm về thế giới thứ hai với một niềm tin mãnh liệt. Thiên chúa giáo cho rằng cuộc sống hiện tại chỉ là sự nương nhờ, tạm bợ còn cuộc sống sau khi chết mới là cuộc sống thực sự. Phật giáo lại đề cao sự tu nhân tích đức ở đời sống hiện đại để sau khi chết được đầu thai. Còn Mai Văn Phấn lại xem cái chết như là một sự khởi đầu mới, mở ra một sự sống mới, cứ hóa hóa sinh sinh, vô cùng vô tận. Chết chưa phải là chấm dứt mà nó còn là một khởi đầu mới. Bởi vậy, xuất hiện trong thơ ông không nhiều những chiều tàn, những hoàng hôn, bóng tối mà dày đặc những hình ảnh của ngày mới, của ban mai, bình minh:

 

Bình minh quét lớp sơn mỏng lên mặt đất. Bóng đêm vẫn còn nham nhở đâu đây, trong bóng cây, dưới gầm cầu, nơi quả chuông úp xuống, trong phòng kín, đường cổng ngầm chảy qua thành phố... Nấp trong cơ thể chúng ta, trong kí ức, lỗ tai, mái và trái tim đang đập. Nơi trũng cuống, khuất lấp, hoắm sâu thường là cạm bẫy, hiểm nguy, tăm tối... Tôi và mọi người hốt hoảng lên cao, trèo lên mái nhà, đi qua cầu, ngồi mũi thuyền... Mặt trời gần đứng bóng. Tôi vội vã dành một phút đứng lên bàn ghế, đu cây, bám lên mép cổng. Kê cao chân bằng bất kì vật gì, vài cuốn sách, cái gối, mẩu giấy vụn. Những chiếc dép không cùng cỡ, áo quần không đồng bộ vừa hốt hoảng chồng lên nhau trong ánh sáng chan hòa.

(Quang phổ - Vừa sinh ra từ đó)

 

Ý thơ là sự đấu tranh, xâm lấn của ánh sáng và bóng đêm, là quá trình đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ cái chết đến sự sống. Mặc dù bóng tối lan tỏa, bao trùm khắp nơi, từ bóng cây, gầm cầu, trong phòng kín... nhưng kết thúc là sự chiếm hữu của ánh sáng chan hòa. Cuộc sống lại bắt đầu, cuộc đời lại được tái sinh. Sau đêm là ánh sáng ban ngày, là bình minh tít tắp. Sau cái chết là một cuộc đời mới, vô thủy vô chung.

 

Bắt nguồn từ mỹ cảm tôn giáo nên thế giới trong thơ Mai Văn Phấn mang những nét đặc trưng riêng biệt. Trước hết, với quan niệm Mẫu là người khởi tạo ra vạn vật muôn loài, nhà thơ đã phục dựng lên những không gian văn hóa mạng đậm màu sắc dân tộc. Từ đó thể hiện sự ngưỡng vọng, kính trọng của con đối với người mẹ thiên nhiên, với Đấng sinh thành. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên lí tưởng về một không gian cựa động, mọi sinh vật luôn được tái sinh, hồi sinh qua nhiều kiếp sống. Cái chết không phải là điểm cuối cùng của cuộc đời mà chỉ là điểm trung gian, luân chuyển để sự sống từ đó được hồi sinh. Nhờ cảm quan tôn giáo mà thơ Mai Văn Phấn mang một màu sắc riêng biệt, cái đẹp trong thơ ông cũng luôn được tái sinh và nảy nở. Nhà thơ đã xác định nên một trường thẩm mỹ mới, một tư tưởng nhất quán về tôn giáo rằng thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều có chung mục đích là đưa con người đến bến thiện, đến với những giá trị chân - thiện - mỹ.

 

2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn:

 

Hiện sinh là sự tồn tại của con người, sự hiện diện mang tính cá thể đặc thù chứ không phải của chung tất cả loài người và cũng không quan tâm đến sự tồn tại của thế giới vật chất. Chủ nghĩa hiện sinh là từ dùng để nói về nghiên cứu của một nhóm các triết gia cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những người tuy khác nhau về học thuyết nhưng có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con người – không chỉ là chủ thể tư duy mà là cá thế sống, cảm xúc và hoạt động.

 

Thuyết hiện sinh được khởi nguồn từ Đức, sau du nhập vào Pháp và ảnh hưởng khắp châu Âu từ cuối thế kỉ XIX với các triết gia tiêu biểu như Friedrich Nietzche (1844 – 1900), Soren Kierkeggard (181 – 1855), Martin Heidegger (1889 – 1976), Karl Jasper (1883 – 1969)... Nó ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống văn học, làm hình thành hai trường phái văn chương: phái hữu thần và phái vô thần. Phái hữu thần chủ trương tìm về bản ngã chân thực của chính mình, họ cho rằng Chúa Trời được nhận biết chỉ nhờ thông quan niềm tin và sự tận hiến của cá nhân. Những mô tả dựa trên lí trí về Chúa Trời đều phi lí và không thích hợp. Tiêu chuẩn của chân lý là niềm đam mê mãnh liệt đến yếu tính của con người tìm kiếm nó, không có chân lý khách quan nào ngoài “sự chiếm hữu” của cá nhân. Phái này gồm hai nhà văn tiêu biểu là Gabriel Marcel và Jacques Maritain. Còn phái vô thần với các tên tuổi như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… lại nhìn con người hiện đại như một tạo vật suy đồi, không có tinh thần và hao mòn sinh lực, họ đang cố thoát ra khởi thực tại khủng khiếp của thân phận mình bằng một thứ triết học nông cạn và một thứ tôn giáo an thần. Phái này phản đối kịch liệt triết học truyền thốngvà chống lại Cơ đốc giáo như sự phủ nhận những giá trị hiện hữu trần thế

 

Tuy nhiên, dù theo trường phái hiện sinh vô thần hay bất khả tri luận, các nhà hiện sinh vẫn lấy mối quan tâm đến con người và các trải nghiệm chủ quan đưa lên hàng đầu; nhấn mạnh hiện sinh có trước bản chất, “đời sống nhân loại chỉ có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông qua kinh nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời” (Gordon E. Bigelow). Trong suốt cả một chặng đường đời, mỗi phút giây con người đều tồn tại và thu nhận những kinh nghiệm sống khác nhau thông qua sự dấn thân của anh ta vào cuộc đời, mang tính chất độc đáo, khác biệt hoàn toàn với mọi người. Lí trí của con người thường mềm yếu và bất toàn và có những khoảng tối trong đời sống con người mang đặc tính phi lí trí, bởi thế đó là nơi lí trí không thể nào thâm nhập. Triết học cổ điển phân chia con người bao gồm lí trí và tinh thần – phi lí trí nhưng chủ nghĩa hiện sinh khẳng định con người phải được nhìn nhận trong một thực thể toàn vẹn, không chỉ hàm chứa tri thực mà còn có cả những lo âu, tội lỗi và ước vọng quyền lực. Bởi thế, con người được nhìn dưới quan niệm này trở lên hết sức mơ hồ, huyền bí, vừa có thể hiểu được, vừa không hiểu được.

 

Soi chiếu vào trường hợp của Mai Văn Phấn, dấu ấn hiện sinh thể hiện tương đối đậm nét trong các thời kì gần đây. Những cảm thức này đã phá vỡ tính logic của sự kiện thời gian – con người hoàn toàn mù lẫn trong thời gian, hoàn toàn mất phương hướng, lạc loài, vô vọng cả không gian và thời gian, trật tự tuyến tính của tất cả các sự kiện không chỉ bị đảo lộn mà còn hoàn toàn bị phá vỡ. Có thể thấy, tâm thức hiện sinh là một phạm trù giàu có tiềm lực để nhà thơ có thể ẩn dật cái tôi cá nhân, cái tôi tiểu vũ trụ để tung hoành sáng tạo mà không bị kìm nén, chế ngự bởi bất cứ một lực cản nào. Nghiên cứu trong ba tập , tôi nhận thấy cảm thức hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên với ba đặc điểm chính: Thế giới siêu nghiệm; con người – trung tâm của cái vô cùng; cái tôi ý thức và vô thức.

 

2.2.1. Một thế giới siêu nghiệm:

 

Siêu nghiệm là những cảm giác được hình thành không cần trải qua những kinh nghiệm của đời sống thông thường. Nó vượt lên những cảm giác kinh nghiệm để dấn sâu, thể hiện đời sống tâm linh, vô thức, trực giác. Tuy nhiên, cần lưu ý sự khác biệt giữa cảm giác siêu nghiệm với cảm giác siêu việt - thần bí. Cảm giác siêu nghiệm không phải là cái không có thực, không tồn tại nhưng đó là sự tồn tại không thể quan sát trực tiếp bằng mắt thực của con người và vì thế kinh nghiệm không thể lí giải, không thể minh giải được. Nơi tồn tại những cảm giác siêu nghiệm không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm của tư duy nhưng lại được chứng ngộ bởi trực giác và tâm linh. Nó chính là những khoảng tối trong đời sống con người mà tư duy lí tính không thể chạm tới, không thể giải mã được.

 

Mai Văn Phấn sau khi đã băng qua nhiều vùng sa mạc rộng lớn của siêu thực, tượng trưng, hiện đại, tân cổ điển,... đã có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm sáng tác của những trường phá thơ hiện đại. Từ đó nhà thơ khao khát trở về cái bản thể để lí giải thế giới trong chiều sâu bản chất của nó, tìm về với nơi “bản ngã gặp gỡ tha nhân” (G. Marcel) để khai mở ra một thế giới đóng kín của trực giác. Bởi vậy mà trong các sáng tác của mình, nhà thơ đặc biệt chú ý đến tiếng nói vô thức, tâm linh, tìm hiểu cái tôi trong mối quan hệ với chính nó. Thơ là hình ảnh nội tâm về thế giới nội tâm, khước từ sự có mặt của tư duy duy lí trong nghệ thuật.

 

Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ tồn tại những không gian thực của cánh đồng, căn phòng, phố phường, dòng sông mà còn xuất hiện cả những mảng màu không gian hư ảo, huyền bí của những giấc mơ, những mộng mị của bóng người,... Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan đã nhận định: “Cho đến nay có thể anh (nhà thơ Mai Văn Phấn) là nhà thơ duy nhất trong thơ ca đương thời đã đưa vào thơ một cách có hệ thống và dày đặc đến thế những liên hệ siêu nghiệm, những hình ảnh siêu nghiệm [29; tr.292].

 

Những vong hồn còn mắc kẹt

Cùng ngọn cỏ

Vươn tay

[...]

Vong hồn nào chưa được bay lên

Còn trong vòng nghiệt ngã

Cơn đau đớn sát sinh

Hoang hoải mùi hăng cỏ sữa

(Ra vườn chùa xem cắt cỏ - Vừa sinh ra từ đó)

 

Thân con rỗng không

Hạc khô chiếc mõ chân tâm trì chú

(Lên chùa - Vừa sinh ra từ đó)

 

Chiều sâu tri giác của trực giác tâm linh, vô thức giúp cho con người nhận ra những vẻ đẹp đầy quyến rũ, ma mị và bí ẩn của thế giới mà một cái nhìn lí tính thông thường khó lòng đạt tới. Hình ảnh về những hồn ma, linh hồn mộng mị hay sâu thẳm trong thân xác “rỗng không” phải được cảm nhận bằng khoảng tối của tâm hồn, những phần phi lí trí. Từ đó, con người có thể lặn sâu xuống đáy bản thể để nhận ra sự tồn tại đích thực của mình giữa thế giới hư không. Trong cái không gian siêu nghiệm, vô thức ấy, nhà thơ cảm nhận được từng bước dịch chuyển của những vong hồn, nhìn nhận ra được cái vòng nghiệt ngã, đau đớn của cuộc đời.

 

Hướng tới một thế giới của những cảm giác siêu nghiệm, nhà thơ đặc biệt chú ý đến những trạng thái dịch chuyển mơ hồ, những phức hợp cảm giác mong manh, sự tương giao lạ lùng giữa hình ảnh, âm thanh, đường nét và sắc màu... Thế giới được soi chiếu bằng “con mắt nghiêng” nên những sự việc, hiện tượng bình thường của đời sống đều được vẽ bẳng những đường nét, mảng khối, màu sắc khác lạ:

 

Bước sơn dương gõ lên mặt đất

Thế giới từ nay không thể ngủ

Động rộn sương đêm

Cỏ cây, nắng mới

Núi cao

Chim chóc bay qua tảng đá xù xì

Sông cuộn xiết con cá động dục lóe sáng mặt nước

Mặt trời bên kia bức tường

Vòm cây, tổ chim hơi thở ban mai

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Những cảm giác siêu nghiệm ở đây không chỉ là cái được mô tả mà còn nằm ở cách mô tả. Cuộc sống thông thường được cảm nhận bằng vùng tâm linh sâu thẳm trong tâm hồn. Nhà thơ mượn cái vỏ vô thức để mô tả sự vật, bởi vậy mà bước sơn dương, cỏ cây, nắng mới, núi cao, chim chóc hay vòm cây, tổ chim tưởng chừng như là những sự vật rời rạc, tồn tại độc lập, không liên kết, không gắn quyện trong nhau nhưng thực chất mỗi sự hiện diện đó đều là một mảng cấu thành thế giới siêu thực, siêu nghiệm.

 

Đặc biệt, trong tập hoa giấu mặt, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên những không gian mang tính đặc trưng, tĩnh lặng và trong suốt, từ đó cảm nhận được những dự cảm lo âu, muộn phiền từ cuộc sống phồn tạp. “Nếu Bầu trời không mái che còn cồng kềnh, ngổn ngang biết bao vật liệu, biết bao nỗi niềm và không khỏi gợi lên cảm giác nặng nề thì hoa giấu mặt an nhiên, lặng lẽ, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm” [13; tr.92].

 

Ánh trăng từng sợi

Bện vào nhau

Bông mẫu đơn xuyên qua

(Con mắt nghiêng 18 – hoa giấu mặt)

 

Ánh trăng trong bài thơ mang vẻ mềm yếu, mỏng mảnh và có phần trống rỗng. Nó gợi nhắc một dạng không gian tĩnh lặng, tơ vương đến mơ hồ khiến ta lặng đi, như phải nín thở mới có thể cảm nhận hết được. Một trạng trái cảm thức về sự rỗng không, bện nhau nhau nhưng rời rạc, “bông mẫu đơn xuyên qua”. Tác giả chìm sâu vào những cảm giác siêu nghiệm để cảm nhận thế giới bằng vô thức. Thi ảnh xuất hiện tưởng chừng như có đôi chỗ rời rạc, mơ hồ nhưng đã góp phần thể hiện những mảng phi lý trí, những mảng tối trong tâm hồn con người. Nhiều bài thơ như Nước dòng, Lưỡi câu vô hình, Con mắt nghiêng 53,... cho thấy nhiều dự cảm lo âu, muộn phiền do cuộc sống mang lại.

 

Dấu ấn hiện sinh rõ nét khi nhà thơ đang từng bước khai mở cái bản ngã trong sâu thẳm con người - một thế giới bị đóng kín. Nhìn thế giới bằng con mắt siêu nghiệm, Mai Văn Phấn đã mô tả thế giới trong chiều sâu bản chất của nó. Đôi khi độc giả tiếp nhận không thể dùng những kinh nghiệm cá nhân đúc rút qua đời sống hàng ngày để lĩnh ngộ mà phải dùng đến cái tôi bản ngã để đồng cảm. Thế giới siêu nghiệm trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới của cái vô thức, thể hiện nhiều bất ổn, chông chênh trong đời sống.

2.2.2. Con người – trung tâm của cái vô cùng:

 

Với quan niệm mỗi sáng tạo thi ca đều là một cuộc vong thân, Mai Văn Phấn cho rằng: “Mỗi bài thơ tôi quan niệm là một dự phóng, một kinh nghiệm riêng biệt. Ví như hình ảnh cụ thể của bông hoa, con sóng, bước chân chỉ mang đến cho bài thơ một kinh nghiệm cụ thể rồi vĩnh viễn biến mất. Không cần chuẩn bị bởi không cần mang theo thứ gì trong hành trình sáng tạo” [42; tr.460]. Từ đó tác giả luôn đề cao tính cá thể và sự độc đáo, riêng biệt. Thơ ông cũng không phải là thứ ngôn ngữ dễ đọc, không thể cứ “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, lấy những kinh nghiệm cá nhân để nắm bắt ý nghĩa.

 

Dấu ấn hiện sinh rõ nét khi trong thơ Mai Văn Phấn luôn xuất hiện hình ảnh của con người mang tính cá nhân, cá thể. Ông không nhìn con người trong toàn bộ chỉnh thể với xã hội loài người mà nhìn nhận con người trong mối quan hệ với chính nó. Tác giả luôn đặt ra câu hỏi “tôi là ai” để từ đó nhận ra sự tồn tại đích thực của mình giữa thiên nhiên, vũ trụ. Cái tôi được khẳng định mạnh mẽ qua những động thái:

 

Tôi ở giữa

Những hệ quy chiếu

Những linh hồn hữu tri

Vô tri

Và chưa được đặt tên

[...]

Tôi xoay một trong hai

Đặt lại khoảng cách

[...]

Tôi thở sâu lòng biển

[...]

Tôi là cây cỏ

Ánh sáng kiếp trước

Vẽ trên toan trắng

(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó)

 

Nhà thơ chủ trương đi sâu khám phá và khẳng định cái tôi bản thể. Nhìn bên ngoài, con người chỉ là một sinh linh như mọi sinh linh khác nhưng nhìn từ bên trong, đó là cả một vũ trụ, là trung tâm của cái vô cùng. Từ đó, tác giả khám phá những vùng mờ tâm linh, những cá tính riêng biệt của con người.

 

TS. Chu Văn Sơn cho rằng thơ ca đương đại đang thực hiện một hành trình, hành trình trở về với cái tôi bản thể. Ông đặt ra một hệ suy luận: nếu cái tôi thời Thơ mới là cái tôi cá thể, cái tôi trong thơ ca cách mạng là cái tôi tập thể, đoàn thể thì cái tôi trong thơ đương đại là cái tôi bản thể. Nhận định này rất đúng với trường hợp của Mai Văn Phấn. Cái tôi cá thể soi mình vào mọi người để tìm lại chính mình còn cái tôi bản thể lại soi mình vào các giá trị mang tính phổ quát để tự nhận diện mình.

 

Hiện lên trong thơ Mai Văn Phấn là hình ảnh con người mệt mỏi trong cuộc sống công nghiệp và cần quay về với cái bản thể tự nhiên của mình, chiêm nghiệm cuộc sống bằng tâm trạng hồn nhiên của đứa trẻ lần đầu được khám phá thế giới.

 

Thiếu nữ lội qua suối

Mặt trời nhấp nhô mấy lần

Mới lặn

(Chiều tà – hoa giấu mặt)

 

Vẻ đẹp của người con gái trong độ thanh xuân được cảm nhận từ cái tôi bản thể đã làm thay đổi cả thời gian vũ trụ, khiến mặt trời nhấp nhô mấy lần, trời đất không còn tuân theo quy luật của muôn đời nữa.

 

Con bướm

chờ hoa sen nở

Đuổi không bay

(Con mắt nghiêng 33 – hoa giấu mặt)

 

Con bướm quẩn quanh, trực chờ bông hoa nở để tận hưởng hương thơm cũng giống như con người, luôn luôn khát khao cái đẹp tự nhiên, sống chết vì cái đẹp. Chính nhà thơ cũng đã từng ước muốn, hãy để cho thiên nhiên dạy chúng ta cách yêu.

 

Như vậy, dấu ấn hiện sinh thể hiện sắc nét khi nhà thơ đi sâu vào khai thác cái tôi bản thể, coi đó như một cá thể độc đáo và duy nhất, trung tâm của cái vô cùng. Từ đó, Mai Văn Phấn đã đưa người đọc trở về với niềm an nhiên của sự sống nguyên sinh trong lòng đời hôm nay.

 

2.2.3. Cái tôi  ý thức và vô thức:

 

Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định con người phải được thừa nhận trong thực thể trọn vẹn, không chỉ hàm chứa tri thức, ý thức mà còn có cả những vô thực, trực giác, những mảng tối trong tinh thần mà lý trí không thể chạm tới. Tư tưởng này cũng in hằn dấu ấn trong thơ Mai Văn Phấn khi ông xây dựng lên hình ảnh của cái tôi tự do vẫy vùng trong miền trực giác, tâm linh sâu thẳm.

 

Nói tới ý thức, ta thường nghĩ tới khả năng nhận thức thế giới một cách khách quan, nhạy bén và chuẩn xác thông qua sự chỉ dẫn của đầu óc con người. Nhận thức lý trí được hình thành dựa trên sự hoạt động của năm giác quan (thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác). Còn trực giác cho phép ta cảm nhận những gì mà năm giác quan không thể thấy, những thứ mà ý thức khó lòng có thể giải mã được. Những vô thức được sinh ra từ trực giác mạnh sẽ tạo ấn tượng mạnh, manh tinh thần tự do, không bị kìm nén bởi bất kì một quan niệm nào xuất phát từ ý thức.

 

Sự thống nhất giữa cái tôi ý thức và vô thức đã lý giải phần nào sự thành công trong thơ Mai Văn Phấn. Những cảm thức ấy được sinh ra “mang tinh thần tự do, biên độ của nó không giới hạn, thể tài không hạn định, trải nghiệm và triết luận không hạn hẹp, cảm thức về cá thể và vũ trụ, về chung và riêng từ những mặc nhiên của ý thức và vô thức” [45].

 

Cái tôi trong thơ không chỉ phản ánh hiện thức thông qua sự tri ngộ của ý thức, của lí trí tỉnh táo mà còn đi sâu vào thế giới hư ảo, linh thiêng của tâm linh con người với câu tụng niệm, tiếng chiêng, với nhang khói tỏa hương, cuộc hóa vàng, những linh hồn và cả những mảnh vỡ của ánh trăng trên cây... Tất cả tưởng như là phi lý nhưng rất có lý – cái lý ở bề sâu cảm giác tâm linh. Chỉ bằng những nhận thức sâu sắc của lý trí cùng với miền vô thức, cái tôi đã thể hiện được những hình ảnh vụt hiện. Cái vô thức bao giờ cũng hiện lên một cách không tự giác, phản ánh môi trường sống, quan niệm thẩm mĩ của thi nhân. Dấu ấn vô thức hiện lên rất rõ qua việc sáng tạo hình tượng trong hoa giấu mặt. Nhiều hình tượng thơ cứ trở đi trở lại ở nhiều bài thơ như tiếng chuông, con cá, ánh trăng hai cặp hoa - nước,... Theo thống kê, trong tập thơ này đã có 13 bài thơ xuất hiện hình ảnh của con cá với các trạng huống khác nhau như: cá quẫy, cá nhảy, linh hồn cá, cá lao vào cá, bụng con cá mổ, con cá giữa những dòng hải lưu... Những con cá đôi khi phải bơi ngửa, bơi ngược - những kiểu bơi bất thường, vất vả chống chọi lại với dòng hải lưu đầy bất trắc.

 

Cạn trơ hai bờ sông

Bụng con cá mổ

Phơi sương muối

(Nước ròng – hoa giấu mặt)

 

Con cá

Giữa những dòng hải lưu

Hao gày

(Phân vân – hoa giấu mặt).

 

Ngoài hình tượng con cá thì tiếng chuông xuất hiện trong ba tập thơ cũng tương đối nhiều. Lí giải về điều này, nhà thơ giải thích rằng quê hương ông ở Kim Sơn – Ninh Bình, gần nhà thờ đá nên tiếng chuông đã in dấu vào tiềm thức và ám ảnh vào vô thức.

 

Vọng tiếng chuông xua mây đen

(Thu đến - Bầu trời không mái che)

 

Hôn và cầm tay anh

Tiếng chuông gió phủ dầy

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Tiếng chuông gió

Rơi trong đêm những hạt sáng

(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó).

 

Những hình tượng trên thường xuyến xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn như một ám ảnh từ vô thức. Cái tôi trong thơ ông như đang sống trong khoảnh khắc sâu kín nhất của tâm hồn và là tiếng nói tự do của ý thức và vô thức.

Tiểu kết:

 

Với quan niệm văn chương luôn phải đi tìm cái đẹp, Mai Văn Phấn  thổi hồn mình vào thơ, tạo cho nó một sức sống riêng, một vẻ đẹp riêng và lạ so với các nhà thơ đương đại. Thơ ca của ông là hành trình đơn độc để tìm kiếm cái đẹp. Đó là cái đẹp của sự sinh nở, giao hợp của muôn loài tạo nên một thế giới ngồn ngộn, đa tầng cộng sinh; cái đẹp thuần Việt, mang tính dân tộc và đậm màu sắc tôn giáo.

 

Thơ Mai Văn Phấn khó đọc, một phần bởi nhà thơ luôn tập trung đi sâu, khai thác chiều sâu bản thể của con người. Thơ của ông chính là nơi bản ngã gặp gỡ với tha nhân. Ở đó, dấu ấn hiện sinh hiện lên tương đối rõ nét khi nhà thơ xây dựng lên một thế giới đầy những cảm giác siêu nghiệm, coi mỗi cá nhân như một vũ trụ ẩn chứa đầy những bí ẩn. Thế giới, con người không chỉ được nhìn nhận thời gian ba chiều: quá khứ - hiện tại – tương lai mà còn được soi chiếu trong đời sống tâm linh phức tạp. Nhà thơ đi sâu khai phá những phần nội tâm bí ẩn, những vùng kín của tâm hồn mà phần lí trí không thể nào chạm tới. Từ đó, người đọc dễ dàng nhận thấy những ngổn ngang, phức tạp trong đời sống của con người hiện đại.

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỘC ĐÁO VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN


3.1. Các hình ảnh mang tính biểu tượng:

 

Văn học không bao giờ là sự bê nguyên hiện thực cuộc sống và trong tác phẩm - thế giới nghệ thuật trong tác phẩm là một thế giới hư cấu, giống thật chứ không phải thật. Để tạo nên một thế giới như thế, người nghệ sĩ phải sử dụng nhiều yếu tố, trong đó có những biểu tượng nghệ thuật. Biểu tượng nghệ thuật là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa, gây được ấn tượng sâu sắc với người đọc, là sự mã hóa cảm xúc, ý tưởng của chủ thể sáng tác. Điều đó có nghĩa là biểu tượng phải bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nó vừa mang một lớp nghĩa cố định nào đó đồng thời lại tiềm ẩn khả năng mở ra những ý nghĩa khác trong sự cảm nhận của con người.

 

Đều mang bản chất kí hiệu, tức là đều gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt nhưng cần phân biệt rõ tính biểu tượng và tính tượng trưng. Tượng trưng thường chỉ gợi ra một nghĩa cố định, khi nói đến nó người ta lập tức nghĩ ngay đến một nghĩa nào đó, ví dụ như khi nói đến cây trúc, người ta lập tức nghĩ đến cốt cách của người quân tử. Nếu như tượng trưng nghiêng về tính ổn định về mặt ý nghĩa, dễ trở thành công thức ước lệ thì biểu tượng nghệ thuật lại luôn luôn đổi mới. Nó vừa có xu hướng lưu giữ dấu ấn của lịch sử văn hóa lại vừa không thể tách rời việc thể hiện tinh thần cá nhân của người nghệ sĩ.

 

Đọc thơ Mai Văn Phấn, chúng ta dễ dàng nhận thấy hệ thống hình ảnh - biểu tượng xuyên suốt hành trình  sáng tác, được nhà thơ dụng công xây dựng và biểu đạt rất rõ nét. Đó là những hình ảnh cứ trở đi trở lại nhiều lần với dụng ý nghệ thuật riêng. Những biểu tượng này được nhà thơ lấy cảm hứng từ truyền thống thơ ca dân tộc, tiếp thu những mẫu gốc trong kho tàng văn hóa nhân loại đồng thời cũng mang đậm dấu ấn tư tưởng của tác giả. Những hình ảnh mang tính biểu tượng xuất hiện trong ba tập thơ của Mai Văn Phấn khá nhiều và đa dạng, có thể chia là ba nhóm chính: hình ảnh đất đai, sông nước, cỏ cây; hình ảnh ánh sáng, ban mai, ngọn lửa; hình ảnh người mẹ, người tình. Các biểu tượng này đan cài, đồng hiện trong thơ một cách tích cực tạo thành một chuỗi biểu tượng chồng xếp lên nhau, tạo nên một thế giới nghệ thuật đa tầng đa nghĩa và đầy biến ảo.

 

3.1.1. Hình ảnh đất đai, sông nước, cỏ cây:

 

3.1.1.1. Hình ảnh đất đai:

 

Trong tư tưởng văn hóa của nhân loại, đất đai là biểu trưng cho người mẹ, mang tính mẫu và gắn liền với sự sinh sôi, nảy nở của muôn loài. Theo thần thoại Hy Lạp, mẹ đất Gaia sinh ra Bầu trời để che phủ khắp thế gian, là nơi trú ngụ của các vị thần, đẻ ra núi Montaqne cao vút, sừng sững, biển Pontos mênh mông. Cũng chính nữ thần đất mẹ đã sinh tạo ra loài người, rồi lại che chở, bảo vệ cho con người qua hàng ngàn năm. Từ quan niệm đó, đất đai trở thành biểu tượng cho sự phồn sinh, sự sinh sôi và nảy nở, nơi bắt nguồn của sự sống.

 

Khảo sát qua ba tập thơ Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt Vừa sinh ra từ đó, có thể thấy hình ảnh đất đai cùng với những đồng vị của nó xuất hiện với mật độ dày đặc. Đất đai trong thơ Mai Văn Phấn trước hết mang ý nghĩa biểu tượng cho sự sinh sôi của sự sống:

 

Con sơ sinh trên đất

Bơi qua sông con nòng nọng đứt đuôi

(Cửa Mẫu – Bầu trời không mái che)

 

Bó gối những gốc cây

Nhắm mắt ngọn đồi gió

Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi

Ngày mai mặt đất này

Và thế giới sẽ đổi khác

(Mùa Trăng - Bầu trời không mái che)

 

Rũ bỏ vỏ hạt tràn sương nắng. Tâm trái đất hút chùm rễ non. Lá mầm che mặt đất. Gió bão có thể bẻ gẫy, sâu bọ có thể đục khoét, làm mồi cho gia cầm, lưỡi cuốc, lưỡi mai vô tình có thể bằm nát nơi khởi đầu bạt ngàn diệp lục, nơi đại thụ ngàn năm. Sự sống ra đời như ta khát khao vùi lưỡi mềm vào thân thể nhau, như trời đất ùa xuống chật căng mầm hạt.

(Giấc mơ cây - Vừa sinh ra từ đó)

 

Tác giả thường xuyên sử dụng cặp hình ảnh đất - hạt giống như một sự gắn quện để tạo nên sự sống phồn sinh. Thiên nhiên cũng như con người, luôn đẹp nhất trong khoảnh khắc giao hợp để sinh tạo những mầm sống mới. Dù cho cuộc sống có khắc nghiệt, khó khăn, gió bão bẻ gãy, sâu bọ đục khoét, lưỡi cuốc, lưỡi mai,... nhưng đất vẫn vững chãi ôm ấp và chở che sự sống đang chớm sinh sôi, nảy nở.

 

Không chỉ mang ý nghĩa như một người mẹ khởi sinh ra muôn loài, đất còn là nơi dung dưỡng và bảo vệ sự sống:

 

Đặt con lên đất

Lòng sông đau xé thân đêm

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Như vậy, hình ảnh đất đai trong thơ Mai Văn Phấn được hiểu như một biểu tượng cho sự phồn sinh, “nơi cội nguồn thế giới”, nơi bắt đầu của sự sống.

3.1.1.2. Hình ảnh sông nước:

 

Nước là một dạng thức thực thể của thế giới, vốn được coi là “vật chất nguyên thủy” của vũ trụ. Nước là nguồn sống tự nhiên quan trọng bậc nhất của loài người. Chính vì thế những dòng sông lớn trên thế giới luôn luôn là khởi nguyên của các nền văn minh lớn. “Những ý nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này thường gặp trong những tiểu thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình tượng đa dạng nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất” [4; tr.709]. Nó là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh. “Nước còn là nguồn gốc và phương tiện chuyển tải sự sống, là hình tượng của hơi thở sự sống” [4; tr.710]. Nước được coi là biểu tượng phổ biến về sự phì nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào.

 

Nước là biểu tượng của những năng lượng vô thức, của những sức mạnh không định hình của tâm hồn, của những động cơ thầm kín và không cảm nhận thấy. Nước còn trở thành biểu tượng của đời sống tinh thần và của Thánh Linh, Chúa trời ban cho loài người. Nước của sự sống được coi là một biểu tượng về nguồn gốc vũ trụ. Nước làm cho thanh khiết, chữa khỏi bệnh, làm trẻ lại vì vậy đưa con người vào cõi vĩnh hằng. Bản thân nước có tính năng làm sạch và cũng vì lý do đó, được coi là thiêng liêng. Vì thế, nước được dùng trong các nghi lễ tắm gội, nước có hiệu lực xóa bỏ mọi lỗi lầm và mọi vết nhơ. Ngoài ra, nước tượng trưng cho sự sống: nước hồi sinh mà con người tìm được trong cõi tối tăm, có tính năng làm sống lại.

 

Trong thơ Mai Văn Phấn, nước và những đồng vị của nó như sương, mưa, mây mùa, sông biển, sóng… xuất hiện với mật độ dày đặc và mang nhiều tầng bậc ý nghĩa. Biểu tượng này được nhà thơ dụng công xây dựng như một biểu tượng mẫu gốc để rồi từ đó phái sinh ra các biểu tượng khác, tạo nên một thế giới dồi dào và tươi trẻ. Trước hết, nước trong thơ ông mang ý nghĩa biểu tượng của sự tái sinh, của khả năng sinh sôi nảy nở của vạn vật. Nó là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho đất để từ đó khởi sinh lên những mầm sống mới:

 

Con hớp những giọt sương

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Mạch nước khai thông dòng thác

Ướt bì bõm

Len qua hàng lúa trĩu bông

Em cũng kể giấc mơ

Không phải giếng mà con kênh đầy nước

Em chất lên từng bó lúa vàng

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che).

 

Đối với Mai Văn Phấn, cái chết được xem như một sự khởi đầu mới, mở ra một sự sống mới, cứ thế hóa hóa sinh sinh, vô cùng vô tận. Bởi vậy mà hình ảnh nước còn mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tái sinh, là điểm tựa chở che cho sự sống mới được định hình.

 

Từng hạt mưa rây rây xuống cỏ

Đọt măng non căng mặt đất mềm

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Nằm trong ý nghĩa biểu tượng văn hóa chung của nhân loại, nước trong thơ Mai Văn Phấn còn mang ý nghĩa như một sự thanh tẩy, làm sạch và xóa tan những bụi bặm, đen tối của cuộc đời.

 

Nước ấm nóng mở đầu nghi lễ thanh tẩy

Lăn trơn anh chuỗi hạt xổ tung

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che).

 

Sóng lớp lớp

Rửa chân

Con còng gió

(Con mắt nghiêng 16 – hoa giấu mặt)

 

Tuy nhiên, không dừng lại ở những ý nghĩa văn hóa lâu đời của nhân loại, hình ảnh nước còn được phái sinh ở nhiều lớp nghĩa mới. Trong nhiều bài thơ, nước không chỉ nơi nuôi dưỡng mầm sống, che chở cho sự sống mới định hình mà nó còn là những hiểm nguy:

 

Con cá

Giữa dòng hải lưu

Hao gày

(Phân vân – hoa giấu mặt)

 

Rõ ràng trong bài thơ trên, dòng hải lưu - đồng vị của nước đại diện cho mối hiểm nguy đe dọa đến sự sống của con cá, nó phải vất vả đối chọi với dòng hải lưu và môi trường đầy bất trắc. Đó là một thế giới luôn rình rập và đầy rẫy những bất an. Nước còn là môi trường xấu, xám đen khiến con người và muôn loài trở nên ngột ngạt:

 

Nước đục

Cá lao vào cá

Mưa xuân

(Con mắt nghiêng 25 – hoa giấu mặt)

 

Mây xám

Biển đen

Cá ngoi mặt nước

(Con mắt nghiêng 72 – hoa giấu mặt)

 

Nước là mối hiểm nguy đồng thời cũng chính là môi trường tôi luyện lòng dũng cảm của con người, vượt qua những sóng gió của cuộc đời để hướng đến sự sống vĩnh hằng:

 

Chợt nhớ mùa nước lớn ngập tràn hang dế

Lóc bóc tiếng bong bóng phun lên từng đợt

Cho con biết được đâu là cửa hang…

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che).

 

Ngoài ra, hình ảnh nước trong thơ Mai Văn Phấn còn gợi đến những cung bậc nồng nàn trong tình yêu nam nữ. Nước dịu dàng mà dai dẳng, quấn quýt níu giữ đôi trai gái thuở mặn nồng :

 

Nước chảy

Cứ chảy

Giữ đôi ta lại

(Tỉnh dậy trong mưa - Vừa sinh ra từ đó)

 

Như vậy, vượt lên ngoài khung ý nghĩa biểu tượng văn hóa, nước trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ là nguồn sống, sự tái sinh và thanh tẩy mà còn tượng trưng cho những môi trường khắc nghiệt mà con người phải trải qua đồng thời cũng gợi đến tình yêu và tâm hồn của con người.

 

3.1.1.3. Hình ảnh cỏ:

 

Ngay từ mở đầu bài viết Mai Văn Phấn - những chặng đường sáng tạo, PGS. TS Đào Duy Hiệp đã chọn hai câu thơ: “Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai” làm câu đề từ. Điều đó phần nào thể hiện ý nghĩa và vị trí của hình ảnh cỏ cây trong hệ thống biểu tượng thơ Mai Văn Phấn. Hình ảnh cỏ xuất hiện khá nhiều trong thơ ông ngay từ giai đoạn đầu mà theo thống kê của Nguyễn Tham Thiện Kế thì “Mai Văn Phấn sở hữu dư một trăm linh một câu thơ về cỏ” [29; tr. 373]. Biểu tưởng này như một ám ảnh trong tâm thức sáng tạo của thi nhân.

 

Xưa Nguyễn Trãi đã từng viết: “Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”; người châu Âu cũng có câu: “Cỏ dại thường không bao giờ chết” để khẳng định sức sống tiềm tàng và mãnh liệt của cỏ. Tiếp thu tinh thần đó, hình ảnh cỏ trong thơ Mai Văn Phấn trước hết thể hiện sức sống dồi dào, muôn đời và bất diệt. Ở giai đoạn thứ ba trong hành trình sáng tạo, nhà thơ sử dụng hình ảnh này nhằm khẳng định tính dục, sự sinh sản và sức khỏe của “cây đời”. Hình ảnh cỏ ở đây dù vẫn mang hơi hướng mộng mị ở hai giai đoạn trước nhưng thấm đẫm dục tính nhân sinh:

 

Mưa cơ thể em sáng láng

Phởn phơ vũ điệu cỏ cây

[…]

Mặt cỏ phun nhuệ khí trùm lấp

Phấn khích giờ tạo lập thiên địa

Mùa mới đợi chờ cỏ xanh cắt sát gốc

Những móng vuốt tì chân cỏ bật căng

Cỏ non kinh động

Càng chồi lên mở lại những chân trời.

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che).

 

Nếu thơ ca cổ điển xem cỏ là tượng trưng cho thân phận thấp hèn, bèo bọt dễ bị chà đạp, vùi dập: “Rộng thương cỏ nội hoa hèn/ Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” (Nguyễn Du) thì cỏ trong thơ Mai Văn Phấn lại mang một sức sống mãnh liệt. Không còn sự hoang tàn, héo úa mang thay vào đó là sự chói lòa của sự sống mới được tái sinh:

 

Không phải nơi nào khác

Mà chính từ bông cỏ may kia

Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp

(Nơi cội nguồn thế giới - Vừa sinh ra từ đó)

 

Chính vẻ đẹp bình dị, thân quen của bông cỏ may đã làm nên vẻ đẹp của một ngày hay của cả thế giới. Từ trong cội nguồn thế giới phát ra một thứ ánh sáng của “bông cỏ may vừa mở”, một vẻ đẹp hoang tàn, man dại và dai dẳng. Như vậy, biểu tượng cỏ trong thơ mang ý nghĩa về tính dục, sự sinh sản và sức sống mãnh liệt, bất diệt, muôn đời.

 

Tái hiện một thế giới phồn sinh hóa sinh bất định, thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn lúc nào cũng mơn mởn, ngập tràn sự sống, một sinh quyển tươi trẻ, mọi vật như “vừa sinh ra từ đó”, từ nơi cội nguồn của thế giới.

 

3.1.2. Hình ảnh ánh sáng, ban mai, ngọn lửa:

 

3.1.2.1. Hình ảnh ánh sáng:

 

Hình ảnh ánh sáng xuất hiện trong thơ không nhiều nhưng các đồng vị của nó như cầu vồng, ánh ngày, ngọn nến, ánh đuốc, ánh lân tinh, que diêm, than hồng, trăng sao… lại chiếm số lượng rất lớn.

 

Ánh sáng trong thơ Mai Văn Phấn được đặt trong thế đối lập với bóng tối để từ đó làm nổi bật lên sức mạnh của ánh sáng trong vũ trụ. Nếu bóng tối đại diện cho sự hủy diệt, héo mòn và chết chóc thì ánh sáng là sự sống, sự sinh sôi của muôn loài. Một quy luật tất yếu là nơi đâu có ánh sáng thì nơi đó có sự sống, có sự phì nhiêu, sinh nở, sự sống cuộn trào. Ở nhiều đoạn thơ, ánh sáng tưởng chừng như bị bóng tối nuốt chửng, xâm chiếm nhưng cuối cùng, ánh sáng vẫn bừng lên, sự sống cũng từ đó được hồi sinh:

 

Một ngày ánh sáng rút đi, mọi vật quanh ta chỉ là bóng tối. Cánh đồng tối ôm giống lúa tối. Thủy triều tối cuốn đàn cá tối. Giọng đơn ca tối trên nền nhạc tối. Lớp học tối nhầm lẫn giáo tình tối. Hồ sơ tối giấu kho tài liệu tối. Đại lộ tối đổ về quảng trường tối. Cuộc diễu binh tối phô trương vũ khí tối. Bàn tay tối buông con bồ câu tối… Vậy từ nay tôi tiết kiệm và tàng trữ ánh sáng, tích lũy và khúc xạ ánh sáng, nâng niu và giành giật ánh sáng, tôn kính và giấu bớt ánh sáng, yêu thương và ăn cắp ánh sáng, thanh sạch và vươn trong ánh sáng. Trên cái nền giao tranh tối – sáng ấy, bản tính sẽ được trỗi dậy và từ đó con người nhận diện ra chính mình.

(Quang phổ - Vừa sinh ra từ đó)

 

Trong đoạn thơ trên, tác giả tái hiện cuộc phân tranh giữa ánh sáng và bóng tối mà ở đó, người đọc tưởng chừng như sự thắng thế đang thuộc về với màn đêm, “mọi vật quanh ta chỉ là bóng tối”. Nhưng cũng chính từ sự thắng thế đó, nhân vật tôi mang trong mình khao khát vươn lên với ánh sáng, chạm tới sự sống, tôn thờ thứ ánh sáng thanh sạch.

 

Ánh sáng

Chẻ dọc thân cây

Bên này màu vàng

Nửa kia tím thẫm

Phía khác xù xì

Nhựa hai bên cũng khác

Trắng và đen

Nhắm mắt thở nhẹ

Cây đang lớn

Hai nửa cây cùng một màu hoa

Nở chi chít dọc lưỡi rìu ánh sáng

(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó)

 

Ánh sáng hiện lên với vai trò là ranh giới đến phân biệt hai vùng tối – sáng, giữa “bên này” màu vàng, nhẵn, trắng và “nửa kia” tím thẫm, xù xì. Nó như một ranh giới mong manh chia cắt thân cây. Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối ở đây dường như cũng chính là sự mâu thuẫn, giao tranh giữa phần Con ích kỉ, hẹp hòi với phần Người trong trong sáng, lương thiện. Ánh sáng đóng vai trò như một lưỡi rìu công lý, soi tỏ để con người biết đâu ra đường biên giữa thiện và ác.

 

Ánh sáng không chỉ biểu tượng cho sự thanh sạch và cao quý mà còn là phương tiện thanh tẩy tâm hồn. Ánh sáng bừng lên đồng nghĩa với sự sống ngời hiện, với việc con người được thanh tẩy để trở về với giá trị chân - thiện - mỹ tự nhiên, những vẻ đẹp vốn có mà tạo hóa đã ban tặng.

 

3.1.2.2. Hình ảnh ban mai:

 

Ban mai là cái thuở nguyên sơ, trong trẻo của buổi đầu ngày, mang ý nghĩa hồi sinh, có mặt trong rất nhiều sáng tác của Mai Văn Phấn. Nỗi khát khao, mong ngóng ánh ban mai đã có trong rất tác phẩm của ông ngay từ những chặng đầu sáng tác như Kinh cầu ban mai, Cầu nguyện ban mai,… Hình ảnh này cùng với những đồng vị của nó như hừng đông, nắng sớm, sớm mai, rạng đông, bình minh… cũng xuất hiện nhiều lần trong chặng đường sáng tạo thứ ba này.

 

Ban mai xuất hiện cũng là khi cuộc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối kết thúc, màn đêm bị chôn vùi, mọi vật sẽ được tái sinh trong một sức sống mới và tiếp tục sinh nở, phát triển dưới ánh sáng của ban mai. “Trong kinh thánh, từ này chỉ thời khắc của những ân huệ thánh thần và công lí loài người. Nó tượng trưng cho thời gian khi ánh sáng còn trong sạch, cho những sự khởi đầu chưa có gì là đồi bại, hư hỏng, mất tín nhiệm. Ban mai là biểu tượng vừa của trong sạch, vừa của hứa hẹn: đó là giờ phút của cuộc sống thiên đường. Đó là giờ phút của niềm tin bản thân, ở người khác, ở cuộc đời” [4; tr. 51].

 

Ban mai là ánh sáng của đất trời lúc ngày mới. Trong thơ Mai Văn Phấn, nó còn là ánh sáng mang đến sự sống cho muôn loài, là hiện thân của sự sinh sôi nảy nở:

 

Hừng đông sinh muông thú, trái cây, tiếng động

Hoa lồng đèn, mai dạ thảo tươi dòng

Màu rạng đông chìm vào đất

Tan sóng lớn

Hắt vòm lá xanh

Con vành khuyên xóa mọi dấu vết

Ngực sơn dương mở lớn sau lưng hừng đông

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Hừng đông

Miệng chim non

Hớp những đám mây

(Ngày mới – hoa giấu mặt)

 

Không chỉ vậy, ban mai trong thơ Mai Văn Phấn còn xuất hiện trong hình dạng nham nhở, méo mó như một lời cảnh báo về nỗi nguy hiểm bất thường:

 

Cánh đồng đã gặt

Con cò tìm nơi đậu

Bình minh nham nhở

(Lại khởi đầu – hoa giấu mặt).

 

Như vậy, có thể thấy, đối với Mai Văn Phấn, ban mai của ngày mới mang đến sự sống cho muôn loài, gắn với niềm hạnh phúc, may mắn và là hiện thân của sự sinh sôi, nảy nở, sự tái sinh.

 

3.1.2.3. Hình ảnh ngọn lửa:

 

Ban mai có thể đẩy lùi, xóa tan bóng đêm thì ngọn lửa lại soi tỏ bóng đêm. Nếu ban mai là ánh sáng của đất trời, của thiên nhiên vũ trụ thì ngọn lửa là ánh sáng do con người tạo ra. Ngọn lửa có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với loài người, chỉ khi tìm ra lửa, con người mới chính thức bước vào nền văn minh mới. Chính lửa đã giúp con người giã từ cuộc sống mê muội, tối tăm trước đó. Vì vậy, ngọn lửa không chỉ mang đến sự sống mà còn tượng trưng cho nền văn minh của loài người.

 

Ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn tượng trưng cho lòng ham sống, sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ, của tình yêu. Những đồng vị của lửa như ngọn nến, đèn lồng, đèn hoa đăng… trong nhiều thời khắc khi được thắp lên tạo nên một khung cảnh nên thơ, một bầu không khí lãng mạn. Nó gắn liền với khoảng khắc hạnh phúc, những thăng hoa trong tình yêu:

 

Hôn em một lần thắp thêm ngọn nến

Đặt chúng bên nhau

Anh sợi tim nến

Lọn tóc sáng

Ý nghĩ làm ngọn lửa xòe

Nền nhà trôi đêm hoa đăng

Ai vừa thả mong ước

May mắn sớm mai

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che).

 

Không chỉ mang ý nghĩa như một biểu tượng văn hóa, ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn còn được phái sinh thành nhiều lớp nghĩa khác. Ngọn lửa đôi khi còn gắn liền với những gào thét dữ dội của thiên nhiên, báo hiệu một biến cố lớn đang xảy ra. Chẳng hạn như trong bài thơ Rời tay để bạn đi, bày tỏ nỗi thương tiếc của tác giả đối với nhà thơ Dương Kiều Minh.

 

Câu thơ mở trái tim đau

Ngọn lửa thiêu đốt

Mỗi cuối thu

Những bờ sương nước…

(Rời tay để bạn đi - Vừa sinh ra từ đó)

 

Ngọn lửa thiêu đốt trái tim của nhà thơ là ngọn lửa của tình bạn, của sự xót thương và đau đớn khi mất đi một người bạn thơ. Nó gắn liền với tang thương của thiên nhiên, gió sông Nhuệ thổi mạnh, khoảnh khắc cuối ban mai. mặt hồ ướt đẫm, lớp lá thu già,...

 

Như vậy, hình ảnh ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ tượng trưng cho lòng ham sống, sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ, những phút giây lãng mạn trong tình yêu mà đôi khi nó còn thể hiện những thiếu khuyết hay sự mất mát của tình cảm.

 

3.1.3. Hình ảnh người mẹ, người tình:

 

3.1.3.1. Hình ảnh người mẹ:

 

Trong thơ Mai Văn Phấn, Mẫu (người mẹ) đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở, trù phú. Mẫu còn là đấng toàn năng với các chức năng sinh thành, che chở, bảo vệ, hướng dẫn và cùng con vượt qua bao sóng gió của cuộc đời.

 

Trong quan niệm văn hóa của người Việt, thờ Mẫu đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, mang lại cho con người sức mạnh, niềm tin về sức khỏe, tài lộc, may mắn. Mẫu là biểu tượng của sự bao bọc đồng thời cũng là đại diện của sự sinh sôi nảy nở, trù phú. Vì thế mỗi con người khi cảm thấy cô đơn, mất niềm tin và cuộc sống đều tìm về Mẫu như tìm đến thứ thanh cao và trong sáng của tâm hồn.

 

Mang theo niềm tin tâm linh ấy, Mai Văn Phấn trong suốt hành trình thơ đã xây dựng lên hình tượng người mẹ với sức mạnh toàn năng. Đặc biệt, trong phần Cửa Mẫu (Bầu trời không mái che), nhà thơ đã tái hiện lại Mẫu với sức mạnh toàn năng. Chính Mẫu là người đã khởi sinh ra muôn loài, lập thành vũ trụ bao la. Người mẹ ấy đã hoài thai đứa con, rồi nâng niu, yêu thương:

 

Mẫu nâng niu con ánh trăng

Tiếng chuyền cành tiếng hú

Da thịt con yêu trải sâu đêm tối

Dựng tầng mây mưa nguồn

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che).

 

Người ta tin rằng trong bất cứ thời điểm nào, mọi hoàn cảnh của cuộc sống, Mẫu với nhiều sự hóa thân khác nhau luôn luôn theo sát, nâng niu, bảo vệ và dẫn đường cho con vượt qua mọi khóc khăn, thử thách và bão tố của cuộc đời.

 

Ngọn cây vươn mỏ con chim

Đang cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió

(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)

 

Biểu tượng người mẹ trong thơ Mai Văn Phấn mang ý nghĩa về sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật. Mẹ là người hoài thai ra đứa con, cũng chính bao bọc, chở che, dẫn lối chỉ đường cho con trong suốt chặng đường đời về sau.

 

3.1.3.2. Hình ảnh người tình:

 

Hình ảnh người tình xuất hiện rất nhiều trong thơ Mai Văn Phấn với danh xưng em - kẻ đang yêu đắm say, rạo rực và tình tứ:

 

Hôn em thật lâu, ghi dấu

Nơi đây. Giờ này

Đám mây kia xuống thấp

Buổi uyên nguyên trái đất quay về.

(Tỉnh dậy trong mưa - Vừa sinh ra từ đó).

 

Tình yêu luôn có một tiếng nói riêng, một thứ quyền lực riêng không thể giải thích được theo logic thông thường. Cái khoảnh khắc diệu kì của nụ hôn với em dường như làm xoay chuyển của đất trời, khiến đám mây như sà xuống gần hơn, vũ trụ quay lại thuở nguyên sơ, tinh khôi ban đầu. Hình tượng người tình đã phần nào thể hiện được những nồng nàn, hạnh phúc của tình yêu. Em là chốn bình yên để nhà thơ bám víu, nương tựa, trở về sau những cơn phong ba bão táp, luôn luôn gắn bó, quyện hòa trong anh:

 

Kiếp trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh níu để lại vết bóng hoàng hôn…

(Buông tay cho trời rạng - Vừa sinh ra từ đó)

 

Trong thơ, Mai Văn Phấn luôn hướng đến cái đẹp của sự phồn sinh, hóa sinh, coi trạng thái sinh nở, giao phối là biểu hiện đẹp nhất vì nó góp phần tái sinh một thế giới mới. Vì thế, hình tượng người tình còn được tôn vinh như thiên thần trong trạng thái phồn sinh mà ở đó, thiên tính mẫu và tính nữ hài hòa với nhau tạo nên một vẻ đẹp rạng ngời. Điều đặc biệt ở nhà thơ khi viết về hình ảnh này là người tình trong thơ không hiện lên như một thể tính gợi dục mà thánh thiện, tinh khiết nhưng không kém phần nóng bỏng: “Đôi môi anh làm mỏ chim ong hút nhụy”. Người tình trở thành hình ảnh có sức ám ảnh lớn trong sáng tạo nghệ thuật và cứu rỗi con người thoát khỏi mọi đảo điên của cuộc đời. Đứng trước em, nhà thơ chỉ nhận mình là con kiến cần được em che chở:

 

Là con kiến nhỏ trong thế giới em

Có thể bị nghiền nát dưới tảng đá vỡ

Dưới gót giày

Mũi khoan, lưỡi cuốc

Độ nóng que hàn

Tiếng rít từng bánh sắt

Bị thiêu rụi trong đám cháy rừng

Thành tro bụi giữa tầng sét đánh

Biết thế…

Vì biết thế

Nên đỉnh đồi

Hay tận hang sâu

Anh hóa thân thành muôn ngàn loài kiến

Kiêu hãnh bò đi trên thân thể em

(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)

 

Như vậy, qua con mắt của người nghệ sĩ, hình tượng người tình thể hiện sự mãnh liệt, nồng nàn trong hạnh phúc lứa đôi, là chốn bình yên cứu rỗi anh khỏi những đảo điên của cuộc đời.

 

3.2. Cấu trúc bài thơ:

 

3.2.1. Thể thơ:

 

3.2.1.1. Thơ tự do:

 

Trong tiến trình phát triển của văn học, thơ tự do xuất hiện ngay từ thời kì nền thơ Việt Nam chuyển sang một thời đại mới – “thời đại trong thi ca” mà mở đầu là phong trào Thơ mới. Đây được xem như một bước tiến quan trọng của thơ trong công cuộc cách tân thể loại. Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó là hợp thể phối xen các đoạn thơ là theo các thể thơ khác nhau hoặc hoàn toàn tự do. Đặc điểm đáng chú ý của thể thơ này là phá khổ và có thể mở rộng câu thơ, kéo dài câu thơ thành hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng in, có thể sắp xếp thành các hình thức đặc biệt để tô đậm như bậc thang hay vắt dòng… hoặc có thể xen kẽ các câu ngắn dài thoải mái.

 

Theo GS. TS. Mã Giang Lân, thơ tự do chủ yếu nói đến cấu trúc hình dáng của nó, số chữ trong câu không hạn định, có thể một chữ đến mười chữ hoặc nhiều hơn. Số câu trong khổ thơ cũng không hạn định, có thể một câu đến nhiều câu, gieo vần cũng rất linh động, tự do, có khi không có vần mà chỉ có nhịp. Bởi vậy mà thơ tự do ra đời để đáp ứng nhu cầu diễn đạt tình cảm, cung bậc cảm xúc không giới hạn của con người hiện đại, giải phóng cảm xúc thoát khỏi những ràng buộc chặt chẽ của những quy tắc về hình thức.

 

Thơ tự do là thể thơ chiếm tỉ lệ cao nhất trong các sáng tác của Mai Văn Phấn. Thông qua thể thơ này, tác giả thường hướng nhãn quan về phản ánh hiện thực cuộc sống và khám phá đời sống bên trong của con người. Chính nhờ khả năng linh hoạt trong biên độ mở trên từng dòng thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải những tư tưởng nghệ thuật và tạo nên được những quan niệm thơ độc đáo. Thời gian nghệ thuật không chỉ được nhìn nhận ở ba chiều quá khứ – hiện tại – tương lai mà có khi con người con được sống ở chiều thứ tư của thời gian – chiều của đời sống tâm linh. Tiết tấu của những dòng thơ như bị dồn nén lại, lúc gấp gáp, khi lại lắng đọng trong mạch nguồn cảm xúc của chủ thể trữ tình. Nếu tách những đoạn thơ này thành những câu thơ ngắn gọn hoàn chỉnh thì khó có thể thể hiện được cái tôi phức hợp nhiều cảm xúc bâng khuâng, hồi hộp, ngỡ ngàng, lo âu và chồng chất dự cảm:

 

Con chào mào đốm trắng mũ đỏ

Hót trên cây cao chót vót

Triu… uýt… huýt… tu hìu

 

Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ

Sợ chim bay đi

 

Vừa vẽ xong nó cất cánh

Tôi ôm khung nắng khung gió

Nhành cây xanh hối hả đuổi theo

 

Trong vô tăm tích tôi nghĩ

Lát nữa chào mào sẽ mổ những con sâu

Trái cây chín đỏ

Từng giọt nước

Thanh sạch của tôi

 

Triu… uýt… huýt… tu hìu

 

Chẳng cần chim lại bay về

Tiếng hót ấy bây giờ tôi nghe rất rõ.

(Con chào mào - Bầu trời không mái che)

 

Thơ tự do đôi khi không phải là một hình thức được định trước trong quá trình sáng tác mà là sự tìm kiếm tất yếu khi tâm hồn nhà thơ đạt đến độ nhuần chín trong tư tưởng, cảm xúc. Không chỉ tự do trong câu thơ, thể thơ này còn được kéo dài biên độ của đoạn thơ, bài thơ. Trong nhiều bài thơ, Mai Văn Phấn đã thoát khỏi phong cách lãng mạn và hiện thực đơn tuyến để tự do bộc lộ nội dung, tư tưởng. Chẳng hạn, bài thơ Đá trong lòng suối không xuất hiện dấu chấm câu, không vần, không đăng đối mà đơn thuần chỉ tuân theo nhịp đập của tâm hồn để trình bày những tư tưởng thẩm mỹ của tác giả. Trong không gian đa chiều, bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên sinh động, mang vẻ đẹp ban sơ, tinh khôi: “dây hoa leo đường mòn”, “bóng cây xao động”, “mưa bụi bay lung tung”, “mùi ổi chín thơm len lỏi”… Và tâm thế “nhắm mắt an nhiên”, “ở yên chỗ đó” như là một thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới người đọc, hãy để cho vạn vật được mang vẻ đẹp tự nhiên như tạo hóa đã ban tặng.

 

Thơ tự do là thể thơ phân dòng nhưng không theo một thể thức xác định, một cấu trúc thơ xóa bỏ hết mọi sự ràng buộc bên ngoài. Hình thức vắt dòng được xem là tương đối phổ biến trong thơ Mai Văn Phấn. “Vắt dòng trước hết hoài nghi, thách thức những hình thức biểu đạt mỹ cảm cũ trong các thể thơ truyền thống hướng tới việc tự do hơn trong triển khai cảm xúc và tư duy” [13; tr.20].

 

Mạch nước nhỏ trong núi

Chảy đều

Xuống lòng hồ không tiếng động

(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó)

 

Những chỗ vắt dòng đôi khi níu con người vào những miền nội cảm rất phức tạp của thế giới tinh thần:

 

Nâng cuốn sách

Tôi

Là một chữ.

(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó)

 

Với ý thức tìm tòi và thể nghiệm những hình thức biểu hiện của thơ tự do, Mai Văn Phấn đã tạo dựng được sự hấp dẫn riêng trong thế giới nghệ thuật của mình, tái hiện được những góc cạnh của đời sống và chiều sâu của văn hóa tâm linh.

 

3.2.1.2. Thơ văn xuôi:

 

Theo Từ điển văn học, thơ văn xuôi là một trong ba hình thức cơ bản của thơ xét về phương diện tổ chức ngôn ngữ, là loại sáng tác dùng văn xuôi để biểu hiện một nội dung tư tưởng tình cảm đầy chất thơ. Thơ văn xuôi khác với thơ tự do ở chỗ không phân dòng cũng không dùng hình thức dòng thơ làm đơn vị nhịp điệu. “Chất thơ của thơ văn xuôi cũng được tạo nên bởi cấu tứ và suy tưởng giàu sức khơi gợi, bất ngờ, chất triết lý thâm thúy, thơ mộng” [14; tr.319].