MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
2. Lịch sử vấn đề:
3. Đối tượng và phạm
vi nghiên cứu:
4. Phương pháp nghiên
cứu:
5. Đóng góp của luận
văn:
6. Cấu trúc luận văn:
CHƯƠNG 1: THƠ MAI VĂN
PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Quá trình đổi
mới thơ đương đại:
1.2. Mai Văn Phấn và
những chặng đường sáng tạo:
1.2.1. Những chặng
đường sáng tạo thơ:
1.2.2. Quan niệm nghệ
thuật:
1.3. Thơ Mai Văn Phấn
trong xu thế cách tân của thơ đương đại:
CHƯƠNG 2: CẢM QUAN
THẨM MỸ VÀ CẢM HỨNG HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Cảm quan thẩm mỹ
trong thơ Mai Văn Phấn:
2.1.1. Cái đẹp: cội
nguồn của sự sống:
2.1.2. Cái đẹp thuần
Việt mang tính dân tộc:
2.1.3. Cái đẹp mang
tính tôn giáo:
2.2. Cảm hứng hiện
sinh trong thơ Mai Văn Phấn:
2.2.1. Một thế giới
siêu nghiệm:
2.2.2. Con người –
trung tâm của cái vô cùng:
2.2.3. Cái tôi ý thức
và vô thức:
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỘC
ĐÁO VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1. Các hình ảnh
mang tính biểu tượng:
3.1.1. Hình ảnh đất
đai, sông nước, cỏ cây:
3.1.2. Hình ảnh ánh
sáng, ban mai, ngọn lửa:
3.1.3. Hình ảnh người
mẹ, người tình:
3.2. Cấu trúc bài
thơ:
3.2.1. Thể thơ:
3.2.2. Tổ chức đoạn
thơ, câu thơ:
3.3. Ngôn ngữ thơ:
3.3.1. Ngôn ngữ thơ
siêu thực:
3.3.2. Ngôn ngữ thơ
giản dị, đời thường:
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ths. Nguyễn Thị Hương Giang (giữa), GS.TS. Lê Văn Lân (bên phải) cùng hội đồng chấm luận
văn thạc sỹ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do
chọn đề tài:
1.1. Trong
bài viết Hãy đọc lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh họa, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng cần phải chủ
trương khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận sự đa dạng để
cho văn nghệ một khoảng đất rộng rãi hơn nữa. Chính bởi những đòi hỏi cần phải
thoát ra khỏi một nền văn nghệ minh họa, thoát ra cái hành lang vừa hẹp vừa
thấp đó, sự đổi mới và cách tân xuất hiện như một nhu cầu thiết yếu.
Sau năm
1975, nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đa dạng và phong phú về nội dung, mới lạ về mặt hình thức. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp đã chỉ ra các khuynh hướng nổi bật của thơ sau 1975 như xu
hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi tráng về số phận của dân tộc, xu
hướng trở về với các tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật; xu
hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực; xu
hướng hiện đại và hậu hiện đại.
Căn cứ
vào những biểu hiện về quan điểm thơ, cách sử dụng thi ảnh cũng như cấu trúc
văn bản thơ, có thể thấy dòng thơ sau 1975 vừa bảo tồn những giá trị thơ ca
truyền thống lại vừa có những cách tân táo bạo. Tuy nhiên, ngay trong sự bảo
tồn giá trị thơ ca truyền thống cũng bắt đầu manh nha những đổi mới cả về mặt
nội dung và hình thức nghệ thuật như trong thơ của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn,…
Khuynh hướng cách tân nổi bật lên là hai xu hướng: cách tân về nội dung, thể
tài như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn,
Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh,… và cách tân về mặt
hình thức ngôn ngữ thi ca như Dương Tường, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng… Theo
khuynh hướng cách tân, người nghệ sĩ đi sâu khai thác những tầng vỉa của đời
sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức chìm trong bản ngã, bản năng sống, giúp con
người nhận ra diện mạo của mình từ những mảng mờ tối của tâm hồn. Cấu trúc thi
pháp cũ bị phá vỡ, các nhà thơ đã rút bỏ “khả năng biểu vật, biểu thái, biểu
niệm của thực từ, hư hóa thực từ bằng cách đẩy chúng vào cấu trúc mới, phát
sinh nghĩa trong cú pháp hơn là nghĩa trong từ vựng, buộc chúng phải sống đời
sống hư từ” [13; tr.140]. Khuynh hướng cách tân đã mang lại cho thơ một diện
mạo hoàn toàn mới, phong phú và phức tạp.
1.2. Trong
thời gian gần đây, thơ Mai Văn Phấn đã dần được giới nghiên cứu, phê bình nói
riêng và độc giả nói chung đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ cái mới bao giờ cũng khó
chấp nhận trong khi Mai Văn Phấn luôn coi sự cách tân thơ là phương châm sáng
tạo nghệ thuật trong suốt hành trình sống cùng thơ ca. Chính ông cũng đã từng
phát biểu rằng một thi sĩ đích thực phải là người phải biết làm ra những bài
thơ biết phản bội mình. Nghệ sĩ phải là người liên tục vượt thoát qua những
cuộc vong thân để hoàn thiện mình. Cho đến thời điểm này, Mai Văn Phấn đã tìm được
một chỗ đứng vững chãi trên thi đàn Việt Nam. Thành công trong sáng tác của ông
được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như Giải thưởng văn học
Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995; Giải thưởng cuộc
thi thơ của báo Người Hà Nội năm
1994, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập Bầu trời không mái che năm
2010.
Với sức
sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn liên tục cho xuất bản nhiều tập thơ ấn tượng,
được giới thiệu tại nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, Anh,
Pháp… đồng thời có nhiều tập thơ song ngữ phát hành trên hệ thống sách online
Amazon. Thơ ông vừa đa dạng trong thể tài lại vừa sáng tạo trong lối diễn đạt.
Vì những
lí do trên, luận văn muốn đi sâu tìm hiểu về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn, đặc
biệt là những sáng tác của nhà thơ từ sau năm 2000 mà cụ thể ở ba tập Bầu
trời không mái che, hoa giấu mặt (tên tập thơ này, tác
giả không viết hoa) và Vừa sinh ra từ đó nhằm đưa ra một cách nhìn tổng quan về thơ
ông trong giai đoạn hiện nay đồng thời thấy được những đóng góp của nhà thơ
trong tiến trình cách tân thơ đương đại.
2. Lịch
sử vấn đề:
Mai Văn
Phấn là một cây bút cách tân tiêu biểu trong dòng thơ sau 1975. Tác phẩm của
ông từ khi xuất hiện đã thu hút sự chú ý của công chúng và giới nghiên cứu phê
bình. Có thể nói, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá lớn, đa dạng ở
nhiều thể loại như giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo luận,
nghiên cứu, phê bình,… Tuy nhiên, theo như nhà thơ Đỗ Quyên cho rằng, trước Hội
thảo thơ về Mai Văn Phấn diễn ra tại Hải Phòng vào ngày 15/05/2011 thì trong số
60 bài viết về thơ ông, hầu như chưa thấy các bài phê bình học thuật mà chủ yếu
trong số đó là các bài viết mang tính chất điểm sách, giới thiệu chân dung nhà
thơ hay những bài tranh luận chung chung, cảm tính hoặc mới chỉ đi vào khám phá
một hoặc số ít phương diện đặc điểm nghệ thuật thơ ông. Từ đó đến nay, cũng đã
có nhiều bài nghiên cứu, tiểu luận, tham luận đánh giá về vị trí và giá trị của
thơ Mai Văn Phấn trong tiến trình thơ đương đại.
Sau đây, tôi
xin lược thuật lại một số công trình nghiên cứu, các ý kiến đánh giá, phê bình
thơ Mai Văn Phấn:
* Những bài nghiên cứu, đánh giá chung về thơ Mai Văn
Phấn:
Nhằm đánh
giá đúng giá trị cũng như chỗ đứng của thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ
đương đại, tháng 5/2013, một hội thảo thơ mang tên “Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công” đã được tổ
chức tại Hải Phòng. Tại đây, nhiều bài tham luận, nghiên cứu đã được trình bày.
Nhà văn Đình Kính trong bài mở đầu tại Hội thảo đã nhấn mạnh: “Mai Văn Phấn là
nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình tư duy thẩm
mỹ mới và anh đã được đánh giá cao” [29; tr.6]. Khi khẳng định về tố chất người
nghệ sĩ, Cao Năm đã không hề dè dặt trong việc đề cao bản lĩnh sáng tạo của một
cây bút kiên định và giàu sức sống: “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng
động và sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo” [29; tr.18].
Trong bài
Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo
thơ, PGS.TS. Đào Duy Hiệp có kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ
đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót
ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột
mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [29; tr.75]. Còn Trần Thiện Khanh lại
đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của Mai Văn
Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho
thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho
sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm
chuyển đổi” [29; tr.501].
Đánh giá
về những cách tân, đổi mới thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong bài viết Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ Hậu -
hiện - đại đã nhấn mạnh: “Nếu có một nhà thơ nào đó đang luôn tự đổi mới
thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo
tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ-tình-cổ-điển, anh “bay” thẳng một
mạch vào hậu-hiện-đại rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của
thơ-cách-tân” [29; tr.420]. Theo ông, mỗi bài thơ đều là một thể nghiệm mới,
một phát hiện mới mang lại những bất ngờ từ mỗi câu thơ và ta không thể đoán
định nhà thơ sẽ viết tiếp những gì ở câu thơ kế tiếp.
Nhà thơ
Thi Hoàng trong bài viết Cách tân như là
đẩy thơ vượt qua tai họa đã cho rằng trên con đường dấn thân đi tìm nẻo
khác cho thơ mình, cái nẻo càng ít dấu chân, thậm chí chưa có dấu chân ai đó
càng tốt, Mai Văn Phấn đã dằn mình để cho sự mạo hiểm thắng sự sợ hãi và chấp
nhận những đau xé, cơn đau siêu thực hành hạ anh có khi còn hơn những cơn đau
hiện thực…. Tác giả bài viết cũng đã chỉ ra dưới bề sâu của tâm lý sáng tạo,
Mai Văn Phấn đang cố gắng để không bị
ràng buộc vào bất cứ một phương pháp sáng tác nào. Anh đã huy động cả hình thức
và nội dung cùng ghé vai đưa thơ lên cao hơn cái nền chung của thói quen đọc
thơ ở người đọc và hy vọng tìm ra thi pháp của mình.
Trong bài
viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn,
PGS.TS. Hồ Thế Hà đã đưa ra quan điểm của mình: “Mai Văn Phấn là một hiện tượng
riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là một hiện tượng riêng, liên tục lấp
lánh và mới lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé
nhỏ của chính người thơ mà anh tự gọi là “vong thân” tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó của mình
để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một trạng
thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm cho
thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động, không ngừng phá và thay” [29;
tr.227].
Thế giới
nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới khó nắm bắt mà như nhà nghiên
cứu Văn Giá trong bài viết Thơ sinh ra để
nói về niềm hi vọng của con người đã khẳng định: “Bề bộn về số lượng: 370
bài. Bề bộn về ý tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát,
đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những
bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên gọi được ra khuôn mặt của nhà thơ Mai
Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ
ai” [29; tr.528]. “Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên
niềm hi vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự sống,
thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng
chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn
đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng
tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất
định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự
sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là còn khiến con người ta có quyền
hi vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy
vọng không bao giờ ngơi nghỉ nơi con người” [29; tr.529].
Nghiên
cứu về thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn của lý thuyết nhân học vi mô trong nghiên
cứu văn hóa và phê bình văn học, hai nhà nghiên cứu Ngô Hương Giang và Nguyễn
Thanh Tâm đã cho ra mắt cuốn sách Mai Văn Phấn, hành trình thơ vào cõi khác (2015).
Ở đây, hai tác giả đã có những nghiên cứu chuyên sâu về những chuyển biến tư
tưởng, quá trình thay đổi nhận thức của bản thân tác giả và những tác động của
nó đến thơ. Hai tác giả trẻ đã đưa ra những chú giải thơ Mai Văn Phấn, đi sâu
lí giải hiện tượng thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn quan niệm về sáng tạo và sự
diễn giải kinh nghiệm tri thức bằng lời đồng thời tổng kết hành trình thơ của
nhà thơ trong khuynh hướng chung của nền thơ Việt Nam đương đại.
Mục đích
của cuốn sách mà tác giả muốn hướng đến là nhận diện đúng đối tượng, phê phán
cái đúng, cái sai, đánh giá đúng đóng góp của nhà thơ trong sự phát triển của
thơ đương đại. “Với Mai Văn Phấn, bằng những gì thơ ca đã trình diện, kháng cự
khủng hoảng thơ bằng cách liên tục vong thân, phủ định chính mình để kiến tạo
hệ hình thẩm mỹ khác” [13; tr.186]. “Từ kháng cự khủng hoảng thơ đến kháng cự
khủng hoảng tư tưởng, hành trình thơ Mai Văn Phấn còn cho thấy khát vọng hướng
đến tự do sống và sáng tạo. Sự vượt thoát liên tục để làm mới thơ, để được sống
nhiều hơn vừa là thái độ với thơ vừa là thái độ đối với cuộc đời” [13; tr.186].
* Những bài nghiên cứu về ba tập Bầu trời không mái che, hoa
giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó:
Bầu trời
không mái che, hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó là những tập thơ
mới nhất được Mai Văn Phấn giới thiệu đến người đọc. Sau đây, tôi xin điểm qua
một số nhận định hay về giá trị và sức hấp dẫn từ ba tập thơ.
Nhà phê
bình Nguyễn Thanh Tâm trong bài Lập thể
của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu
trời không mái che đã nhận
định: “Thơ Mai Văn Phấn quyến rũ người đọc không phải ở sự mượt mà du dương của
vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình
ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức tưởng tượng, những chồng chất đan cài,
lồng hiện của hình ảnh và hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được
dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người
ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra
được” [29; tr.395].
Cũng trên
tinh thần bàn luận về tập Bầu trời không mái che, Lê Vũ đã cho
rằng: “Bầu trời không mái che, ba phần chia biệt nhưng là một thể
thống nhất trong cái nhìn đậm màu sắc tâm linh của Mai Văn Phấn về thế giới mà
nổi lên là mối quan hệ giữa thiên nhiên và người, giữa động và tĩnh, giữa sinh
và tử, giữa tình và dục […] Mai Văn Phấn đã gói tất cả ý niệm của mình bằng kỹ
thuật đồng hiện, chuyển dịch không/thời gian: ánh sáng và bóng tối, quá khứ và
hiện tại, pha trộn những lát cắt ngày sống với nhịp điệu đêm nồng nàn… đồng
thời chuyển dịch cái nhìn của cái tôi: khi thành kính, khi hưng phấn, khi hưng
phấn, khi lơ mơ, khi nghẹn ngào, khi mệt mỏi, lọ mọ chán với buồn, cả ngờ vực,
sợ hãi, phân vân” [54] .
Tập thơ hoa
giấu mặt đánh dấu một giai đoạn mới trong lộ trình thơ Mai Văn Phấn, là
cách ông tìm về cội nguồn thơ Việt với những vần thơ ngắn gọn, câu thơ tối giản
và hồn nhiên. Nguyễn Thị Bích Phụng khi nghiên cứu về cảm hứng hiện sinh trong
tập thơ này đã nhận xét thơ ba câu trong hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn có
hình thức gần giống thơ Haiku của Nhật nhưng mang nội hàm, hồn cốt thuần phác
thơ Việt và đã tạo những cảm thức hiện sinh đậm nét. Mỗi bài thơ ba câu của ông
là ánh chớp trong đêm tối, vừa lóe sáng cho người đi nhận biết đoạn đường phía
trước mà dấn bước; hoặc như vài ba đồ vật xếp lại gần nhau để gợi những liên
tưởng về nhân sinh, nhân thế, về thiên nhiên vũ trụ…. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn
Thanh Tâm trong công trình nghiên cứu Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác
đã cho rằng tập thơ chính là sự trở về với niềm an nhiên của sự sống nguyên
sinh trong lòng đời hôm nay, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm.
Nghiên
cứu về tập Vừa sinh ra ở đó, Lương Kim Phương trong bài viết Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng
đã khẳng định mười tám bài thơ có thể lay động người đọc bởi một ý niệm: con
người được liên tục tái sinh, hồi sinh, được sinh ra từ những vẻ đẹp bình dị
quanh mình.
* Những ý kiến trái chiều trong cách cảm về thơ Mai
Văn Phấn:
Thế giới
nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một cấu trúc phức tạp, đa diện và liên tục
biến đổi. Bởi vậy, mỗi độc giả đều tự tìm cho mình một con đường riêng, một
cách của riêng để bước vào lâu đài thơ ấy. Chính nhà thơ cũng kêu gọi khả năng
đồng sáng tạo nơi bạn đọc. Bởi vậy mà dư luận thơ Mai Văn Phấn cũng xuất hiện
nhiều ý kiến trái chiều. Bên cạnh những lời khen ngợi cũng đã xuất hiện nhiều
lời chỉ trích, thậm chí phê phán cực đoan thơ Mai Văn Phấn.
Đặc biệt,
việc tập thơ Bầu trời không mái che được nhận giải thưởng cao nhất của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 2010 đã gây ra nhiều tranh luận. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo
cùng với nhiều đồng nghiệp của mình như Nguyễn Hiếu, Nguyễn Hữu Quý,… đều thống
nhất tập thơ này của Mai Văn Phấn cùng với các tập thơ đoạt giải không phải các
tập thơ hay mà rất tầm thường, thậm chí còn không phải là thơ.
Đối với
Mai Văn Phấn, mỗi người đọc đến với thơ ông đều tự xây dựng cho mình một
thế giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc đáo. Bài thơ được
hoàn thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc về số đông độc
giả tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin
hãy coi như anh ta đã chết”. Vì vậy, không thể tránh khỏi những ý kiến trái
chiều, những cuộc tranh luận, trao đổi về giá trị các tập thơ của ông. Điều
đáng ghi nhận rằng, hướng các nhà nghiên cứu đánh giá cao thành tựu thơ Mai Văn
Phấn vẫn chiếm ưu thế. Đồng thời nhiều tác giả trước đây đã có lời chê bai thơ
ông thì sau này cũng đã có những đánh giá đúng đắn theo hướng tích cực. Những
cách tân trong thơ Mai Văn Phấn dù có đôi chút khó hiểu nhưng đây là những đổi
mới tích cực và đáng ghi nhận trong tiến trình thơ đương đại.
Trên đây,
tôi đã lược thuật những nghiên cứu đánh giá về thơ Mai Văn Phấn nói chung và ba
tập Bầu
trời không mái che, hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó nói
riêng. Mặc dù có nhiều bài nghiên cứu về đặc điểm thơ của ông nhưng tôi nhận
thấy đây là những bài viết mang tính phổ quát, đánh giá chung cho cả một chặng
đường thơ từ khi khởi nghiệp đến nay của nhà thơ mà chưa có công trình nghiên
cứu nào đi vào tìm hiểu cụ thể về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn từ sau khi
ông nhận giải thưởng của Hội nhà văn năm 2010. Bởi vậy, thông qua luận văn này,
tôi muốn đưa ra một cái nhìn cụ thể về những đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong
những năm đầu thập kỉ 10 của thế kỉ XIX thông qua khảo sát ba tập thơ Bầu
trời không mái che (2010), hoa giấu mặt (2012) và Vừa
sinh ra từ đó (2013).
3. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối
tượng nghiên cứu: Luận văn chọn Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn là đối
tượng nghiên cứu.
* Phạm
vi nghiên cứu:
Tìm hiểu
về đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm 2010, luận văn khảo sát các tập
thơ:
1. Bầu
trời không mái che, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2010.
2. hoa
giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2012.
3. Vừa
sinh ra từ đó, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2013.
4. Phương
pháp nghiên cứu:
Để thực
hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
* Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để đánh giá những yếu
tố cơ bản của đặc điểm thơ Mai Văn Phấn trong lộ trình thơ Việt đương đại.
* Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp giúp người viết thống kê những thi liệu
xuất hiện trong các tập thơ, từ đó đưa ra cách phân loại chúng một cách có hệ
thống.
* Phương pháp so sánh: Phương pháp giúp những viết nhận ra những đặc điểm
nổi bật của thơ Mai Văn Phấn so với các nhà thơ khác, làm nổi bật con đường thơ
mà nhà thơ đang đi.
* Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nhờ phương pháp này, người viết có khả năng đi sâu
vào từ chi tiết để khám phá ra sự độc đáo của cấu trúc diễn ngôn đồng thời có
cái nhìn tổng hợp để đúc rút ra những đặc điểm nổi bật trong thơ Mai Văn Phấn.
5. Đóng
góp của luận văn:
Luận văn
nêu lên một cách nhìn toàn diện về đặc
điểm thơ Mai Văn Phấn trong những năm gần đây, thông qua ba tập thơ mới
nhất được xuất bản của ông tính đến thời điểm này. Từ đó nhận diện phong
cách cũng như vị trí của nhà thơ trong lộ trình thơ đương đại.
6. Cấu
trúc luận văn:
Ngoài
phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba
chương:
Chương I: Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại.
Chương
II: Cảm quan thẩm mỹ và cảm hứng hiện sinh
trong thơ Mai Văn Phấn.
Chương
III: Những độc đáo về nghệ thuật trong thơ
Mai Văn Phấn.
CHƯƠNG I: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG
CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Quá trình đổi mới thơ đương đại:
Khi bàn luận
về sáng tạo nghệ thuật và cá tính của người nghệ sĩ, nhà văn Nguyễn Tuân đã cho
rằng: “Là người sống lỗi lạc, sống một cách đặc biệt không giống ai và không
cho ai bắt chước mình. Chết là mang cả cái bản chính đi chứ không để lại một
bản sao nào cả”. Lời phát biểu của Nguyễn Tuân đã nêu lên một quy luật tất yếu
của sáng tạo văn học và nghệ thuật, luôn luôn độc đáo, luôn luôn tạo sự khác
biệt và biết làm mới mình. Nhìn lại cả một chặng đường dài của văn học, ta
nhận thấy một cuộc lột xác gay gắt từ cái ta
của thơ cũ sang cái tôi nhỏ bé, mỏng
manh của Thơ mới, rồi lại từ những âu sầu, bi ai của thơ lãng mạn sang âm hưởng
hào hùng, bi tráng của một thời đại mà cả dân tộc đứng lên chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ đất nước. Mỗi một thời kì văn học nói chung và thơ ca nói riêng lại
đặt ra yêu cầu tự làm mới mình để phù hợp với hoàn cảnh của thời đại và tạo
nên những cá tính riêng độc đáo.
Bước ra
khỏi cuộc chiến tranh trường kì, bên cạnh những dư âm hào hùng của cuộc chiến
thắng, các nhà thơ cũng tự xoay mình, nhìn lại những đau thương, mất mát mà cả
dân tộc đang phải gánh chịu. Đứng trong tâm thế của kẻ thắng trận nhưng vẫn còn
đó là những hoang tàn, đổ nát của quê hương, là những đau thương của người mẹ
“khóc vì những đứa con, lần lượt ra đi mãi mãi”, là những thiếu thốn, nghèo
đói.
Tổ quốc hôm nay
Tuy gọi sống hoà bình
Nhưng mới chỉ là trang thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh
(Nhất
định thắng - Trần Dần)
Một câu
hỏi lớn đặt ra cũng là trăn trở của bao nhà thơ lúc đó: “Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào thơ?” (Nhất định
thắng - Trần Dần). Bởi vậy, thơ ca
giai đoạn sau 1975 mà đặc biệt là sau công cuộc đổi mới đã có nhiều bước chuyển
mình. Khác với thơ trước 1975, các nhà thơ tập trung hơn vào các giá trị thẩm
mĩ của thơ. Chiến tranh không chỉ được nhìn từ mặt trước, trong vẻ hào hùng,
tráng lệ mà còn được nhìn từ phía sau, từ những nỗi đau trĩu nặng và bao vết
thương nhức nhối khó lành. Từ thời điểm hiện tại, nhà thơ có cái nhìn sâu xa về
đất nước, về lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít những đau thương, bất hạnh. Ý
thức nói về bi kịch nhiều hơn đã khiến thơ ít dần giọng điệu ca tụng dễ dãi mà
chìm vào chiều sâu suy ngẫm của nhà thơ về nhân tình thế thái. Cùng viết về đất
nước nhưng đã vơi dần những hân hoan, ngợi ca:
Việt
Nam đất nước ta ơi
Mênh
mông biển lúa đâu trời đẹp hơn!
(Việt
Nam quê hương ta - Nguyễn Đình Thi)
Mà thay vào
đó là những ngẫm ngợi của một người “nhìn từ xa... Tổ quốc”:
Thời
hậu chiến ta vẫn người trong cuộc
xứ sở
phì nhiêu sao thật lắm ăn mày?
(Nhìn
từ xa... Tổ Quốc - Nguyễn Duy)
Nếu như thơ
trước 1975, các nhà thơ vẫn còn e ngại, dè dặt mỗi khi viết về những nỗi buồn
thì bước sang những năm đầu của thập kỉ 80, họ lại nói nhiều hơn về nỗi buồn
nhân sinh, những cảm nhận của cái tôi trước
sự xoay vần nghiệt ngã của thực tại. Cắt nghĩa về thực trạng này, nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Thơ
Việt Nam sau 1975 - diện mạo và khuynh hướng phát triển đã đưa ra hai lí do
lí giải: “thứ nhất, đó là nỗi buồn xuất phát từ thời thế: sự khủng hoảng về
niềm tin, sự bất an trước thời cuộc; thứ hai, trong nền kinh tế thị trường,
quan hệ người trở nên lỏng lẻo, con người vừa phải sống trong nhiều mối quan hệ
hơn nhưng cũng cô đơn hơn” [25; tr.380].
Dòng thơ
cách tân sau 1975 cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa tượng trưng và chủ
nghĩa siêu thực phương Tây. Các nhà thơ đã đưa những yếu tố siêu thực, phi lý,
phí tuyến tính của thơ hậu hiện đại phương Tây vào những bài thơ, bộc lộ những
mảng khuất lấp của đời sống, những vùng mờ của tâm linh. Cái tôi không chỉ được tìm hiểu trong mối
quan hệ với hiện thực, sự tương tác giữa cá nhân và hoàn cảnh mà còn được tìm
hiểu trong cấu trúc quan hệ với chính nó. Thơ đi sâu vào tính độc đáo của thân
phận, nhấn mạnh tính chủ thể hơn là khách thể. Nhà thơ không nhìn con người như
là một sinh linh bé bỏng giữa vũ trụ mà coi đó chính là một tiểu vũ trụ, trung
tâm của cái vô cùng. Tại đây, các nhà thơ đề cao lối viết tự động, có ý thức
chống lại các quy tắc sẵn có trong thơ, khước từ sự có mặt của tư duy duy lý
trong nghệ thuật. Nguyễn Bình Phương đã nói về những điều mơ hồ, rối rắm trong
lòng người bằng những câu thơ rối rắm, mơ hồ:
Tiếng
nói của em màu lam chuyển dần sang màu lục
Và
cuốn lên một cái cây chưa tỉnh táo
Cuốn
lên những quả chuông reo vang trận mưa rào
Ngân
nga giọng của trăng sao
(Em
vào hoa)
Đoạn thơ
trên không tuân thủ trật tự cấu trúc cú pháp thông thường với cách tổ chức ngôn
từ lạ, hình ảnh chuyển hoá liên tục từ trạng thái này sang trạng thái khác. Tuy
nhiên, không phải nhà thơ nào sử dụng lối viết tự động để đi sâu vào thế giới
tâm linh cũng được người đọc tiếp nhận. Thậm chí nhiều nhà phê bình đã lển
tiếng phủ nhận và cho đây là những vần thơ rối rắm và vô nghĩa. Song, đây là
những cách tân mới mẻ và cần được tôn trọng.
Song song
với những thay đổi về nội dung, hình thức thơ cũng có nhiều biến đổi linh hoạt
để phù hợp với yêu cầu của nội dung. Các thể thơ truyền thống như lục bát, năm
chữ, bảy chữ không còn ở dạng nguyên bản mà đã có sự biến thiên đáng kể về cấu
trúc, nhịp điệu. Tính điệu nói được gia tăng và cấu trúc thể loại dựa vào nhịp
nhiều hơn vần.
Tính hiện
đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của thơ tự do và thơ
văn xuôi so với các thể thơ khác. Đứng trước những thay đổi lớn của văn học,
thơ vừa tìm cách níu giữ những yếu tố hạt nhân mang tính thể loại, vừa mở rộng,
biến đổi chính nó để thích ứng với yêu cầu và điều kiện môi trường văn hoá mới.
Thực tế phản ánh rằng thơ hiện đại khó nhớ và khó thuộc hơn rất nhiều so với
thơ ca giai đoạn trước. Không còn xuất hiện nhiều câu thơ mang tính vần điệu
véo von mà thay vào đó là những câu thơ có phần khó hiểu, được viết theo lối
viết tự động. Thơ hiện đại thường tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây
dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng này đôi khi không dễ nhận ra bằng
cảm xúc và tư duy nghệ thuật thông thường. Các hình ảnh, hình tượng này đòi hỏi
người đọc phải giàu trải nghiệm và khả năng tiếp nhận cái siêu nghiệm trong
thơ. Đặc biệt, khi thơ cách tân sau 1975 có xu hướng đi sâu vào cái bản thể và
coi con người như một tiểu vũ trụ cần khám phá. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
tượng trưng, siêu thực phương Tây, các nhà thơ không còn thuyết minh, giải
thích nhiều mà để người đọc tự khám phá ý nghĩa nhân sinh ẩn sau cấu trúc thi
phẩm. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Tâm đã cho rằng quá trình giải mã thơ đương đại
cũng chính là quá trình khai phá bản thân mình. Bởi vậy, người đọc phải bằng
trải nghiệm của bản thân để tự tìm tòi và lí giải những phức tạp trong thể thơ
và cấu trúc thi phẩm.
Lao động thơ
trước hết là lao động chữ nghĩa. Chính những con chữ, qua cấu trúc nghệ thuật
của nhà thơ sẽ cho ta hiểu được chiều sâu và sự vang ngân của tình ý, giai điệu
và tư tưởng nghệ thuật của họ. Vì vậy, sự đổi mới trong thơ bao giờ cũng là sự
đổi mới đồng bộ giữa cái nhìn nghệ thuật sâu sắc và ngôn ngữ thơ. Nhìn chung,
ngôn ngữ thơ sau 1975 không còn êm mượt, réo rắt, véo von như thơ ca 1945 –
1975 mà trúc trắc hơn, phong phú hơn và giọng điệu cũng đa dạng hơn. Thơ đi sâu
vào cá nhân, hoà nhập vào cuộc sống thường ngày nên các nhà thơ có ý thức đưa
thứ ngôn ngữ giản dị, đời thường vào trong thơ. Bên cạnh đó, trong dòng thơ
cách tân sau 1975, các nhà thơ đã mạnh bạo đưa vào trong thơ những ngôn ngữ đậm
chất siêu thực. Điểm qua sáng tác của hầu hết các cây bút như Nguyễn Quang
Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn,... người đọc đều nhận thấy những dòng
ngôn ngữ mới lạ, từ ngữ được tỉnh lược tối đa để gia tăng tính biểu đạt cho
ngôn ngữ, buộc người đọc phải tư duy khi tiếp nhận thơ.
Đặc biệt, sự
xuất hiện của nhóm Dòng chữ (đối
ngược với nhóm Dòng nghĩa) cùng một
số thi phẩm ở cuối thập niên 80 của thế kỉ XX như Ngựa biển, Bóng chữ... đã nhận được nhiều quan tâm của công chúng.
Với tư tưởng làm thơ trước hết là làm chữ, những sáng tác của họ là một trong
những mũi nhọn đột phá vào quan niệm thơ truyền thống. Nhóm chủ trương đi tìm
một thứ ngôn ngữ mới, thay thế cho những ngôn ngữ thơ đã cũ, sáo mòn, đơn điệu,
đưa ngôn ngữ thơ về mới bản thể tự nhiên. Họ muốn làm tươi trẻ, hồi sinh lại
những con chữ bằng cách trả nó về với hình thức, sự khơi gợi và ám ảnh ngữ âm ban
đầu. Ngôn từ phải được xem như một đối tượng sáng tác, phải bộc lộ tất cả vẻ
đẹp tự thân nó.
Như vậy,
diện mạo thơ sau 1975 đã có những cách tân, thay đổi mạnh bạo cả về nội dung và
nghệ thuật. Bên cạnh những cây bút bước ra từ thời chiến như Trần Dần, Hoàng
Cầm, Phùng Cung,... còn là sự xuất hiện của nhiều gương mặt trẻ như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,
Inrasara, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly,... Mỗi người đều có một
cách nhìn riêng, một giọng điệu riêng và một hướng đi riêng nhưng tựu chung lại
đều là sự khẳng định mạnh mẽ của cái tôi cá nhân và nỗ lực cách tân thơ Việt.
1.2.
Mai Văn Phấn và những chặng đường sáng tạo:
1.2.1. Những chặng đường sáng tạo thơ:
Mai Văn Phấn là nhà thơ thuộc thế hệ
hậu chiến, một trong những cây bút xuất sắc của dòng thơ cách tân sau
1975. Những tác phẩm của ông đã góp phần không nhỏ trong cuộc cách
tân thơ ca. Nhà thơ sinh năm 1955 tại một làng quê thuộc huyện Kim Sơn,
Ninh Bình. Mảnh đất với bề sâu truyền thống lịch sử và đặc thù văn
hóa Thiên chúa giáo đã in đậm vào tâm trí nhà thơ, tạo nên những
trang viết giàu chất ám ảnh và cảm hứng tâm linh, tôn giáo. Từ nhỏ,
cái mộng văn chương đã ấp ủ trong lòng nhà thơ. Ông yêu thơ và làm thơ
từ khi còn là cậu bé mười sáu, mười bảy tuổi. Bài thơ đầu tay Hoa xoan ghi dấu lại những ngày
tháng sống và chiến đấu gian khổ trong quân ngũ của Mai Văn Phấn.
Song, cũng từ đây, nhà thơ bắt đầu có những trăn trở về con đường thơ
của mình, muốn xóa đi tất cả những quan niệm, hiểu biết về thơ ca
trước đó. Không thể có thơ hay khi mà tác giả không tự xây dựng cho
mình một cá tính, một bản sắc riêng trong thế giới tinh thần. Sau
mười sáu năm khoanh tay đứng ngoài cuộc thơ, Mai Văn Phấn đã tìm cho
mình một giọng thơ riêng, tinh tế với những cảm xúc sâu lắng và vẻ
đẹp trắc ẩn của ngôn từ. Để từ đó, nhà thơ cho ra đời hàng loạt các
tập thơ ấn tượng: Giọt nắng (thơ, 1992), Gọi
xanh (thơ 1995), Cầu nguyện ban mai (thơ, 1997), Nghi
lễ nhận tên (thơ, 1999), Người cùng thời (trường ca,
1999), Vách nước (thơ, 2003), Hôm sau (thơ, 2009), và
đột nhiên gió thổi (thơ, 2009. Tác giả không viết hoa tên tập thơ
này), Bầu trời không mái che (thơ, 2010), hoa giấu mặt (thơ,
2012), Vừa sinh ra từ đó (thơ, 2013)… Thơ Mai Văn Phấn hiện được
dịch ra nhiều thứ tiếng và giới thiệu tại nhiều quốc gia như Anh
quốc, Hoa Kì, Thái Lan, Indonesia, Thụy Điển,… Thành công trong sáng
tác thơ ông đã được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín
như: Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần
báo Người Hà Nội năm 1994,
Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ năm 1995, chuỗi giải
thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Hải Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập thơ Bầu
trời không mái che năm 2010.
1.2.1.1.
Giai đoạn từ khởi nghiệp đến năm 1995:
Đây là giai đoạn mở đầu cho hành trình
thơ của Mai Văn Phấn, đánh dấu bằng sự ra đời của hai tập thơ: Giọt
nắng (1992) và Gọi xanh (1995). Chủ đề thường xoay
quanh tình yêu đôi lứa, tình yêu đất nước, thiên nhiên, là những chủ đề có tính
truyền thống. Thể thơ đa phần là thể lục bát truyền thống:
Con chim bay vút lên không
Để lại gió với cánh đồng rộng thênh
(Không đề I - Giọt nắng)
Mặc dù chưa thoát khỏi hệ hình thi pháp
truyền thống nhưng tập thơ đánh dấu sự trở lại của Mai Văn Phấn sau mười sáu
năm nghỉ bút cũng đã thể hiện phần nào những đổi mới, hướng đi mới của nhà thơ
trên hành trình sáng tạo. Thể lục bát truyền thông bị phá vỡ, trật tự cấu trúc
bị đảo ngược:
Nhoà tan anh với mung lung
Em là giếng gió trong lòng anh
Nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì
Hư vô thành thật cũng vì yêu em!
(Em xa - Giọt
nắng)
Thể 6/8 đã được cấu trúc lại dưới dạng
6/6/8/8. Cảm giác lạ lẫm khởi sinh từ những định dạng như thế này. Nhà phê bình
Phạm Xuân Nguyên trong lời giới thiệu tuyển tập Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn đã
nhận xét: "Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người
thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất
hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình
nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung
phá"[42; tr.8].
Ngoài ra, thơ giai đoạn này cũng xuất hiện hình thức mới
lạ như kiểu thơ vắt dòng:
Có giọt sương lạnh giá
Rơi xuống hồn anh đang
Lẫm chẫm vào xốn xang
Cho lòng mềm tơ lụa.
(Chân thật – Giọt nắng)
Cách đổi mới hình thức văn bản này đã có từ
Thơ mới trong những trạng thái tràn đầy của xúc cảm. Vắt dòng tạo nên sự tràn
nhịp đồng thời cũng thể hiện sự thách thức, hoài nghi những hình thức biểu đạt
mỹ cảm cũ trong các thể thơ truyền thống, hướng tới việc tự do hơn trong triển
khai cảm xúc và tư duy.
Với quan niệm mỗi bài thơ là một dự phóng
kinh nghiệm riêng biệt, Mai Văn Phấn cũng sáng tạo ra những hình ảnh khác lạ,
độc đáo trong một không gian đa chiều:
Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục,
để tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si.
Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng
trong ánh sáng bảy màu lung linh huyền ảo để những bóng tối kia cũng mang hình
ống sáo cho tôi ghé môi khắc khoải thổi vào.
(Viết
cho cây sáo - Gọi xanh)
Hình thức thơ khá tự do, vần được giải phóng
bởi sự phá vỡ cấu trúc thể loại quen thuộc. Mặc dù thơ vẫn mang hơi hướng
truyền thống nhưng những sáng tác trong giai đoạn đầu cũng cho thấy, Mai Văn
Phấn đã dũng cảm là người bước lạc nhịp ra khỏi dàn dồng ca, để tự khai phá một
con đường mới.
1.2.1.2.
Giai đoạn từ 1995 đến 2000:
Với sức sáng tạo thi ca hết sức dồi dào, Mai
Văn Phấn liên tục cho ra đời các tập thơ. Mỗi đứa con tinh thần ra đời lại đánh
dấu một bước chuyển mình lớn của nhà thơ trên hành trình sáng tạo, hành trình
"tự phản bội mình". Giai đoạn này, ông lần lượt giới thiệu đến bạn
đọc ba tập: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường ca
Người
cùng thời (1999).
Nhà thơ Lê Xuân Đố cho rằng thơ Mai Văn Phấn
giai đoạn này đã bứt phá cách tân thi pháp với “nhiều cách nói và mở rộng biên
độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc và bản tính con người hiện đại và
phát hiện những vẻ đẹp tiềm ẩn của tình yêu và cuộc sống” [29; tr.283].
Nhìn
mặt ao đầm biết mùa thu nghìn tuổi. lũ cá mại cờ, đòng đong cung quăng chẳng
chịu già đi. Trong kí ức chúng luôn giật mình và bơi khe khẽ.
(Kí sự mùa thu - Cầu nguyện ban mai)
Nghi lễ nhận tên là một tập thơ mang tính bước ngoặt trong hành trình thơ
của Mai Văn Phấn bởi những dự cảm trong các tập thơ trước đến đây dần được định
hình. “quả thực, từ Giọt nắng, Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai đến Nghi
lễ nhận tên, Mai văn Phấn đã có một nhận thức về chính những chuyển
động trong cấu trúc tư duy nghệ thuật cũng như hình thái thơ mà anh muốn tìm
kiếm” [42; tr.41].
Tuy nhiên, đặc trưng thơ ông giai đoạn này
tập trung ở trường ca Người cùng thời, xuất bản năm 1999.
Tác phẩm gồm mười chương, thể hiện nhiều quan niệm mới lạ của tác giả về con
người và thế giới bằng những hình thức mới lạ, cấu trúc câu, nhịp điệu và ý
tưởng khác biệt, những kết cấu mảng khối bị phá vỡ. Trung tâm của trường ca tập
trung ở ba chương III, VI, IX với tên gọi lần lượt là Cộng hưởng I, Cộng hưởng II và
Cộng hưởng III.
Thời gian nghệ thuật trong trường ca là thời
gian của quá khứ, của hiện tại và tương lai. Nhà thơ trân trọng quá khứ với ý
niệm: “dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói”.
Xuyên suốt những sáng tác nghệ thuật của Mai
Văn Phấn là tinh thần “Muôn năm con
người! Muôn năm thiên nhiên!”. Cùng với tư tưởng này là hàng loạt hình ảnh
truyền tải những suy tưởng về cội nguồn dân tộc, về tổ quốc thông qua hình
tượng trống đồng và những biểu tượng quen thuộc của quá khứ.
- Mỏ
nhọn con chim nào vừa mổ vào ban mai/ lại lặng lẽ nằm yên trên mặt trống.
- Bao
bình minh sinh ra có hình bọc trứng/ Hoàng hôn nào mang khuôn mặt Âu Cơ.
Những hình ảnh thơ gợi lên một chặng đường
dài của lịch sử, hiện tại tiếp nối quá khứ, con người hiện đại nhớ về thuở hồng
hoang với mẹ Âu Cơ mang bọc trăm trứng, nhớ về truyền thống văn hoá in lại trên
mặt trống đồng. Khát vọng của tổ tiên
truyền vọng đến tận ngày hôm nay.
- Tiếng chuông mùa xuân ấp lên vòm ngực âm u hang động,
vọng tiếng tổ tiên khàn đặc gọi tên mình.
- Hạt giống để dành được gieo vãi. Ta cũng gieo vãi vầng
trán ta vào chân mây hi vọng.
- Muôn mép chân trời có bàn tay người xưa và người nay
níu giữ.
Với dung lượng lớn (10 chương), mỗi chương
của trường ca đều được triển khai theo những mạch vỉa của không gian và thời
gian dịch chuyển với biên độ rộng lớn.
1.2.1.3.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay:
PGS.TS. Văn Giá đã nhận định về thơ Mai
Văn Phấn: “Chặng thứ hai là cả một nỗ lực bứt phá, giờ đây không
trọng tự tình nữa mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa
ý. Ở chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha để
rồi phát huy rõ rệt ở chặng thứ ba” [29; tr.529]. Đây là giai đoạn
sáng tác đầy tự tin và gặt hái được nhiều thành công của Mai Văn
Phấn trong suốt những chặng đường thơ ca. Ngoài tập Vách nước (2003) thì
chỉ trong vòng bốn năm, nhà thơ đã liên tiếp công bố 5 tập thơ: Hôm
sau (2009), và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che
(2010), hoa giấu mặt (2012), Vừa sinh ra từ đó (2013). Điều
này không chỉ gây ấn tượng bởi sức sáng tạo dồi dào và phong phú mà
còn bởi những cách tân thi ca táo bạo và độc đáo. Nhà thơ đã liên
tục tái sinh cho mình những mảnh đất thi ca màu mỡ, phì nhiêu để từ
đó khởi sinh nên những đứa con tinh thần mới và lạ.
Điều gây ấn tượng mạnh với độc giả là
những hình ảnh, liên tưởng đậm chất tượng trưng, siêu thực. Không còn
dấu vết của thi ca truyền thống với giọng ngân nga, réo rắt: Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng
mị biết ngồi với ai như trong giai đoạn đầu mà thay vào đó là
những câu thơ lạ. Trong địa hạt của thơ, càng sáng tạo bao nhiêu lại
càng khó tiếp nhận bấy nhiêu. Đọc thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này,
người đọc khó có thể lấy những kinh nghiệm cá nhân để lí giải mà
phải lấy cái bản thể, tự ngã để cảm nhận, giải mã thơ. Nhiều câu
thơ được viết theo lối tự động, thoảng qua cảm tưởng như một sự ghép
nối phi logic chuỗi các từ ngữ, hình ảnh:
Bông hồng sớm nay mình anh thấy
Tiếng chim hót tỉnh giấc
Tạ ơn con đường dẫn anh đi
Mây trên cao
Lá cây rơi
Cả những gì chưa hiện hữu
(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)
Tuy nhiên, nó lại là biểu hiện rõ nét
cho sự cách tân thơ của Mai Văn Phấn. Bằng những vần thơ khoáng đạt,
hình ảnh thơ mới lạ, mạnh mẽ, những ý tưởng độc đáo, nhà thơ đã
tự tái tạo cho mình những mảnh đất màu mỡ để từ đó có những vụ
mùa nặng hạt, những đứa con tinh thần độc đáo.
Bầu trời không mái che là tập thơ đạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam
năm 2010 đồng thời cũng là bước đánh dấu sự phát triển của thơ Mai
Văn Phấn trên hành trình hướng đến một thế giới nghệ thuật vô cùng,
vô tận, không có ranh giới, không có mái che. Tập thơ gồm ba phần: Cửa Mẫu, Mùa trăng và Hình đám cỏ. Cửa Mẫu gồm có chín khúc, mỗi khúc đều được gắn với
những hiện tượng, quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông: sinh –
lão – bệnh – tử. Cấu trúc này không mới nhưng độc đáo ở cách thể
hiện, mỗi khúc hé mở những bí mật của vũ trụ. Chín phân đoạn là
một hành trình của đời người: thưở sơ sinh (I, II), dần lớn lên (III),
đấu tranh để sinh tồn (IV, V), già lão và bệnh tật run
rẩy những khấn nguyện (VI, VII), những hoài niệm ấu thơ
(VIII),
lời kinh cầu siêu thoát (IX). Phần thứ hai mang tên Mùa trăng, thể hiện sự ức chế,
thèm khát một mùa ái ân, giao hợp với nhau. Hình đám cỏ với chín nhịp được phân lập khiến người đọc
thực sự bị lạc vào một thế giới mà ở đó tất cả hình ảnh, hình
tượng được tạo nên bởi trí tưởng tượng và những cảm nhận chủ quan
của chủ thể sáng tạo. Nó khác xa với nguyên mẫu đời thực và được
cảm nhận dưới góc nhìn lập thể của nhà thơ.
hoa giấu mặt (2012) gây ấn tượng với người đọc trước hết ở thể
thơ ba câu ngắn gọn, súc tích. Tập thơ chính là sự trở về với niềm
an nhiên của sự sống, hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm. Cảm
thức về sự vô thường hiện lên khi con người đứng giữa những khoảng
khắc của thời gian, của sự sống diệu kì và thiêng liêng.
Vừa sinh ra ở đó (2013) dựng lên một thế giới tinh khiết, trong
lành nguyên sơ, nguyên thủy; một thế giới vừa được sinh ra hay vừa
được tái tạo. Con người cùng cỏ cây, chim muông hòa đồng, hồn nhiên
trong một nhịp sống mới, một bầu sinh quyển vừa được thanh tẩy. Tập
thơ biểu hiện rõ nét những ý niệm của nhà thơ về thế giới, sự
sống và nhân sinh.
Trong những năm gần đây, nhiều tập thơ
của Mai Văn Phấn đã được dịch sang tiếng nước ngoài để giới thiệu
với bạn đọc quốc tế. Một số tập thơ song ngữ được xuất bản dưới
dạng sách điện tử Epud trên Amazon như: Những hạt giống của đêm và ngày –
Seeds of Night and Day; Những nguyên âm trong sương sớm - Zanore në vesë; Buông tay cho trời rạng – Out of the dark...
Nhìn tổng quan lại hành
trình thơ của Mai Văn Phấn, ta thấy rõ sự trưởng thành trong sáng tạo
thơ ca và những quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Trở lại sau mười
sáu năm dừng bút, ông đã xác lập cho mình một con đường thơ độc đáo.
Các sáng tác đã thể hiện sự cách tân, đổi mới, từ chỗ nghiêng về
truyền thống đến những bứt phá mạnh mẽ trong cách xây dựng cấu trúc
thơ, sử dụng hệ thống hình ảnh, biểu tượng,… Mỗi tập thơ ra đời là
một hành trình rời xa cái tha nhân để tìm về với cái bản thể, tự
ngã của con người.
1.2.2. Quan niệm về nghệ thuật:
“Mai Văn Phấn bắt đầu làm thơ ở cái
tuổi mà sự chín chắn trong kinh nghiệm sống đã cho phép lí trí của
anh tìm ra một lối đi, một cách nhìn cuộc sống đủ lớn để xác định
cho mình một thế giới nghệ thuật riêng biệt” [13; tr.103]. Mỗi đứa con
tinh thần ra đời đều là một sự khẳng định mạnh mẽ những quan niệm
nghệ thuật của nhà thơ, thể hiện sự cách tân táo bạo trong những
bước tiến của thi ca. Những quan niệm về nghệ thuật được Mai Văn Phấn
thể hiện trực tiếp qua các bài tiểu luận văn học, trả lời phỏng
vấn hoặc khéo léo gián tiếp qua các sáng tác thơ. Nhà phê bình Trần
Thiện Khanh đã viết: “Về phương diện lí thuyết, có bao nhiêu người
sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho cùng, mọi quan
niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình độ nhận thức
khác nhau của người cầm bút về văn học” [29; tr.507]. Có bao nhiêu nhà
thơ là bấy nhiêu con đường sáng tạo đến với thi ca.
Khi bàn luận về một bài thơ hay, Mai Văn
Phấn cho rằng: “Thơ hay thường bất ngờ, chăm chú đi tìm không dễ thấy.
Cái đọng lại trước hết khi đọc một bài thơ là cốt cách thi sĩ. Theo
tôi, việc luyện cốt quan trọng hơn luyện chữ. Ở những nhà thơ lớn,
cốt cách hiện lên rõ ngay ở những vấn đề tưởng như không đáng nói,
như không có gì để nói. Những nhà thơ lớn ấy, tuy sống và viết ở
những thời gian, không gian hay chính thể khác biệt nhưng họ vẫn gặp
nhau trong cách lí giải những vấn đề lớn, khá đồng nhất và cụ thể”
[42; tr.440]. Mỗi bài thơ hay đều có khả năng khiến cho người đọc thông
tuệ và cao thượng hơn.
Chức năng của văn học nói chung và thơ
ca nói riêng là hướng con người đến cái Đẹp. Ngoài mục đích tuyên
truyền, mô phỏng hay diễn tả hiện thực cuộc sống, thơ còn tìm cách
đặt tên lại sự vật và định hình lại thế giới. “Văn chương là hành
trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm văn học trước hết quay lại hoàn
thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn
ấy” [42; tr.448]. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã từng nhận xét: “Thơ ca,
đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống
lên con đường vĩnh cửu của nó, (…) là sự xác lập anh với thiên nhiên,
với xã hội, với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là
xác lập con người trần tục của nhà thơ với con người sáng tạo ra anh
ta” [5; tr.15]. Như vậy, thơ ca luôn hướng con người đến với cái đẹp,
nó mang trong mình sứ mệnh cao cả là cứu rỗi con người và thế giới.
Đối với nhà thơ, thơ ca càng sáng tạo,
càng biến ảo bao nhiêu lại càng đem lại sự chân thực bấy nhiêu. “Hiện
thực trong thơ được hiện hữu trên một mặt phẳng cong. Không gian ấy
giúp người viết đồng hành được với quá khứ, hiện tại và tương lai
đa chiều và đa tầng. Nhà thơ khi viết, không nên bận tâm viết cho ai mà
chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan
niệm riêng” [42; tr.339].
Sáng tạo thơ ca là quá trình vượt
thoát khỏi cá tính, hay nhà thơ thường gọi là những cuộc “vong thân”.
Đó là một cuộc vượt thoát chính bản thân mình, tự phủ định những
cái đã làm, phải coi cái mình đã viết là cái đã cũ thì mới mong
đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật. “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn
một người nghệ sĩ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần
một tiết mục gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai
thâm canh triền miên trên một mảnh đất đã cỗi cằn” [42; tr.339]. Mai Văn
Phấn cho rằng nhà thơ phải khác với một người nghệ nhân hay thợ thủ
công, muốn tiếp tục tồn tại trên địa hạt của thi ca thì phải luôn
tái sinh trong những bài thơ khác. Từ đó, nhà thơ kêu gọi khả năng
đồng sáng tạo ở độc giả. Mỗi người đọc đến với thơ đều tự xây
dựng cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc
đáo. Bài thơ được hoàn thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc
về số đông độc giả tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn
thành sứ mệnh, xin hãy coi như anh ta đã chết”. Như vậy, mỗi tác phẩm
văn học khi ra đời đều tồn tại độc lập với người nghệ sĩ.
Nói đến cuộc sống, Mai Văn Phấn cho
rằng: “Hiện thực trong thơ là luồng phát sáng ra từ bài thơ, để ta
cảm nhận được bản chất và sự tế vi của đời sống thực” [42; tr.454].
Còn mỗi bài thơ là “một dự phóng, một kinh nghiệm riêng biệt. Ví như
hình ảnh cụ thể của bông hoa, con sóng, bước chân… chỉ mang đến cho
bài thơ một kinh nghiệm cụ thể rồi vĩnh viễn biến mất. Không cần chuẩn
bị bởi không mang theo thứ gì trong hành trình sáng tạo” [42; tr.454].
Có thể thấy đời với thơ là một, trùng khớp với nhau mà nói như nhà
phê bình Ngô Hương Giang thì thơ là đời của một cõi tinh lọc còn đời
là một bài thơ chưa được gọt rũa. Cuộc sống luôn luôn vận động và
biến thiên, lòng người ngày càng đa đoan phức tạp nên đòi hỏi thơ
cũng cần phải được đổi mới, sáng tạo. Hiện thực trong tác phẩm văn
học phải là một siêu hiện thực, không còn là hiện thực khách quan
mà đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà thơ, tùy thuộc
chặt chẽ vào sự trải nghiệm, vốn sống và nền tảng văn hóa. Mỗi
nhà thơ là một nhà văn hóa, tự trang bị cho mình kiến thức tổng hợp
ở mọi lĩnh vực.
Đổi mới thi pháp chính là một cuộc
cách mạng giữa nội dung và hình thức, tránh hình thức bình cũ rượu
mới hoặc ngược lại. “Nội dung phải là chất liệu đã mang một hình
thức được xác định và hình thức không bao giờ tồn tại độc lập với
nội dung của chính nó” [42; tr.456]. Hình thức được “chuyển hóa từ
nội dung, đó mới là đổi mới thực sự” [42; tr.457]. Cách mạng thi ca
cần phải gắn liền sáng tạo những hình thức mới với một nội dung
mới. Soi chiếu vào những sáng tác của Mai Văn Phấn để minh chứng cho
quan niệm trên, người đọc nhận thấy trong thơ là những vấn đề mang
tính thời sự như lý tưởng sống của thế hệ mới, vấn đề ý thức hệ
hay quan niệm về tự do, công bằng,… ẩn trong những hình thức mới có
tiết tấu nhanh, cách diễn đạt dứt khoát, tối giản…
Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Mai
Văn Phấn là nhà thơ luôn có ý thức đổi mới thi ca, đổi mới phương pháp sáng tác
cũng như tạo sự đa dạng trong thể tài. Những quan niệm về nghệ thuật cũng như
nhận thức sứ mệnh người nghệ sĩ đã phản ánh phần nào phẩm chất cũng như phong
cách riêng của nhà thơ trong dòng chảy thơ đương đại.
1.3.
Thơ Mai Văn Phấn trong xu thế cách tân của thơ đương đại:
Trở lại sau mười sáu năm dừng bút, Mai
Văn Phấn đã nhanh chóng hòa nhập vào xu thế cách tân của thơ hiện
đại đồng thời cũng tìm cho mình một cách nói riêng. Với quan niệm
không “thâm canh triền miên trên một mảnh đất đã cỗi cằn”, ông đã liên
tục có những cuộc vong thân, tự làm mới mình để cho ra đời những
sáng tạo thi ca độc đáo. Đọc thơ Mai Văn Phấn, ta thấy hiện rõ lên một nhu
cầu có tính thường trực, đó là phải liên tục sáng tạo như là phương thức duy
nhất để khẳng định sự hiện diện của nhà thơ giữa cuộc đời và giữa những bề bộn
của văn chương.
Thơ Mai Văn Phấn từ buổi đầu dù còn
chút gần gũi với thơ ca truyền thống nhưng ông đã có ý thức giã từ
giọng điệu cũ, nhịp điệu cũ để xây dựng những hình ảnh khoáng đạt,
lạ lẫm. Cảm xúc thơ trôi chảy một cách tự nhiên, trong trẻo nhưng
không đơn tuyến, dễ dãi mà luôn đòi hỏi người đọc phải tư duy, suy
nghĩ và tự tái tạo lại thế giới thơ cho riêng mình. Đọc thơ ông, ta
cảm nhận được những hoài nghi, lo âu và sợ hãi: “Chân tay ta vừa rút khỏi những
huyễn hoặc giấc mơ… Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái
chết lâm sàng…” (Cộng hưởng II -
Trường ca Người cùng thời). Nhưng cũng từ chính những hoài nghi đó mà nhà
thơ đã tự phản nghiệm, tự phản bội mình để ráo riết tìm ra một lối đi mới cho
thơ.
Trong xu thế hiện đại hóa thơ ca, nhiều
cây viết trẻ có xu hướng thổi vào thơ ngọn gió hậu hiện đại, vận
dụng những lí thuyết về chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng phương Tây
thì Mai Văn Phấn lại có xu hướng đưa thơ ca về với tiếng nói thuần
khiết, như nhiên nhất của con người. Đây là một trong số ít các nhà thơ có
khả năng liên tục cách tân, vượt thoát và thể nghiệm trong đời sống thơ Việt
Nam đương đại. Liên tục vong thân, luôn luôn tự phủ định chính mình, nhà thơ đã
hiện diện ở hầu hết địa hạt của các phương pháp sáng tác, các phạm trù giá trị
thẩm mỹ. Chính ông cũng đã tâm sự: “Sau khi băng qua những “sa mạc” như
Siêu thực, tượng trưng, thơ Ngôn ngữ, Tân hình thức, Hậu hiện đại, Tân
cổ điển,… tôi thấy sao chúng ta không tự tìm lấy một khuynh hướng mà
phải lệ thuộc vào thằng Tây? Khuyng hướng ấy bên ngoài họ đã xếp
vào viện bảo tàng từ thế kỉ trước, trong khi chúng ta vẫn lúng túng
tranh cãi… Vậy “thong dong” là cách tôi tìm về với cội nguồn thi ca,
để cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn nhiên, tối
giản, trong trẻo nhất” [42; tr.451]. Bởi vậy, mỗi tập thơ của Mai Văn
Phấn đều là một sự trở về với truyền thống, là nơi tha nhân gặp
lại cái bản thể, tự ngã. Quá trình cách tân thơ ông cũng chính là
cách nhà thơ tìm về cội nguồn dân tộc bằng tâm thế con người đương
đại, với cách nhìn mới, mang hệ quy chiếu thẩm mỹ mới. Giọng thơ
xóa nhòa ranh giới ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ đời sống của con người
hiện đại; ngôn ngữ tối giản, trong sáng nhưng các thi ảnh chuyển động
với tốc độ lớn, dứt khoát. Sáng tạo thơ được xem như một sự trở về, trở
về với những giá trị căn cốt của con người.
Về chủ đề, thể tài, Mai Văn Phấn đã “gom tụ
trong mình những xác cảm phong phú của đời sống con người đương đại: âu lo,
hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng với các vấn đề tâm
linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hóa, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến,
tha hương, trở về,…” [13; tr.153]. Những bước tiến trên lộ trình thơ Mai Văn
Phấn cho thấy sự chuyển dịch nhanh nhạy về thế giới quan, nhân sinh quan và
quan niệm thơ gắn liền với sự trải nghiệm cuộc sống.
Nghệ thuật càng sáng tạo bao nhiêu thì
lại càng khó tiếp nhận bấy nhiêu. Thơ Mai Văn Phấn xuất hiện khiến
không ít độc giả phải ngỡ ngàng vì cách viết quá lạ, quá mới. Bên
cạnh những đánh giá tích cực thì cũng xuất hiện nhiều ý kiến trái
chiều. Nhiều nhà phê bình đã phản ứng quyết liệt, lên tiếng phủ
nhận, cho đây là những vần thơ rối rắm vô nghĩa. Tuy nhiên, đây là
những cách tân cần được tôn trọng và đánh giá đúng mực.
CHƯƠNG 2: CẢM QUAN THẨM MỸ VÀ CẢM HỨNG HIỆN
SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn:
Nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn đã từng cho rằng mục đích đầu tiên và sau cùng của nghệ thuật
và văn học là mang đến cái hay, cái đẹp cho đời người. Tự thân nó không có mầm
mống của một sự mưu toan nào cả, hãy cho nó thanh thản tự do và mãi mãi là hiện
thân của điều thiện, của cái đẹp. Các tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn luôn
nuôi dưỡng trong nó cái đẹp - phạm trù cơ bản và trung tâm của mỹ học. Văn học
muôn đời bao giờ cũng là sự gắn liền, song hành của ba yếu tố chân - thiện -
mỹ.
Bất cứ một
người nghệ sĩ chân chính nào cũng đặt ra cho mình một lí tưởng thẩm mỹ, một
quan niệm nghệ thuật riêng để từ đó phấn đấu vươn đến nó. Với Mai Văn Phấn,
quan niệm về nghệ thuật của ông luôn gắn liền với quan niệm về cái đẹp. “Văn
chương là hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm văn học trước hết quay
lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy”
[42, tr.448]. “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả…
nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [42; tr.454]. Quan
niệm nghệ thuật này được nhà thơ thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của mình
thông qua cách lựa chọn thể tài, các chuỗi hình tượng và biểu tượng, cách sử
dụng ngôn ngữ… Khảo sát và nghiên cứu văn bản thơ trong ba tập Bầu
trời không mái che (2010), hoa
giấu mặt (2012) và Vừa sinh ra từ đó (2013),
tôi nhận thấy cảm quan thẩm mỹ trong thơ Mai Văn Phấn có những đặc điểm nổi bật
như: Cái đẹp: cội nguồn của sự sống; Cái đẹp thuần Việt, mang tính dân tộc; Cái đẹp của đời sống tâm linh, mang đậm tính
tôn giáo. Những đặc trưng này đã góp phần quan trọng tạo nên dấu ấn riêng
cho những sáng tạo của nhà thơ trong giai đoạn thứ ba này.
2.1.1. Cái
đẹp: cội nguồn của sự sống:
Nhà phê bình
Văn Giá cho rằng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là “một thế giới phồn sinh
động cựa và luân chuyển hóa hóa sinh vô hồi vô hạn với tất cả vẻ bí ẩn và mầu
nhiệm nhất đã tràn vào thơ anh, thống ngự thơ anh, chiếm ngôi trị vì, không
nhượng bộ. Bằng một cách tự nhiên nhất, thơ Phấn đã biểu đạt thế giới này trong
trạng thái đó, và coi đó là hiện thân của cái Đẹp” [29, tr.534].
Bằng cảm
quan thẩm mỹ của mình, nhà thơ liên tục khai phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên
trong của sự sống, từ đó xây dựng lên một thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định
mà ở đó mọi sự vật đều trong trạng thái nguyên sơ, mới mẻ, như nhiên, như vừa
mới sinh ra. Nhìn mọi vật bằng nhãn quan phồn sinh, thế giới trong thơ Mai Văn
Phấn là thế giới của sự viên mãn và thuần khiết, của sự sinh sôi nảy nở, màu mỡ
và phì nhiêu, muôn loài cộng sinh. Ngay từ những tập thơ đầu tiên, tác giả đã
có ý muốn tôn vinh trạng thái sinh nở, mang thai, ái ân như:
Ghé
môi vào miệng thời gian
Cho
hơi thở mọc muôn vàn cỏ non
(Tản
mạn về cỏ - Cầu nguyện ban mai)
Nhà thơ luôn
coi đó là những biểu hiện đẹp nhất của sự sống nơi trần thế bởi nó không chỉ là quy luật sinh tồn mang tính chất
tự nhiên mà còn góp phần tái sinh một thế giới mới. Đến tập Bầu
trời không mái che, Mai Văn Phấn dựng lên một bầu trời đa tầng, một thế
giới không có “mái che”, luôn rộng mở, khoáng đạt và bất tận bởi ánh sáng của sự
sống và vũ trụ bao la. Tập thơ liên tục hiện các hình ảnh mùa màng, cỏ cây, đất
đai thể hiện sự sinh sôi, nảy nở vĩnh hằng của thế giới:
Đây
là thời khắc ái ân
Thắp
sáng lãnh địa bóng tối
Mùa
phồn sinh thụ phấn kết hạt
Mặn
nồng thiêm thiếp trăng khuya
(Mùa
trăng - Bầu trời không mái che)
Mọi hình
ảnh, sự vật trong thơ Mai Văn Phấn đều có xu hướng cựa động, nhân đôi và hướng
về phía ánh sáng: bóng đêm bị hút hết, trái cây chín rục, cây tre cây trúc thêm
đốt, đống lửa bùng lên, con còng lột xác,... Khoảnh khắc ái ân được mô tả một
cách thiêng liêng và diệu kì, làm bừng sáng cả lãnh địa, bóng tối lùi xa dần để
nhường chỗ cho ánh sáng, cho sự sống. Thậm chí, chỉ trong một câu thơ, người
đọc cũng cảm nhận được nhịp thở của sự sống, hành trình thụ phấn đến kết hạt,
tương đương như hành trình của một kiếp người.
Hôn
em hút hết bóng đêm
Vừa
nứt trái cây chín rục
Cây
trúc cây tre thêm đốt
Đống
lửa bùng lên bởi những que đời
Một
con còng trước bình minh lột xác
(Nhịp
VI – Hình đám cỏ - Bầu trời không mái
che)
Nhãn quan
phồn sinh hướng về thiên nhiên thực chất là hướng về con người, hướng về đời
sống nhân thế. Hình ảnh em trong thơ
Mai Văn Phấn là hiện thân của đất đai, mùa màng tươi tốt và sự gieo trồng và anh là nỗi khao khát đón nhận sự gieo
trồng của em. Với một cái nhìn mang
tính lý tưởng hóa, hành động giao hợp trong tình yêu được nhà thơ ví như một
nghi lễ thiêng liêng và trang trọng. Nơi đó, con người cảm nhận được những nồng
nàn mà tình yêu mang lại “chạm vào anh biết viên sỏi rất mềm, cọng rơm khô trĩu
nặng, sợi tóc thở nhẹ”:
Tìm
miệng anh gieo hạt
Gió
níu chân tay đất dịu dàng
Lao
xuống vực
(Đỉnh
gió - Vừa sinh ra từ đó)
Tái tạo một
thế giới phồn sinh, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên hình tượng Mẫu - người mẹ,
khởi nguồn của sự sống. Mẫu mang một sức mạnh vĩ đại, là nguồn gốc sinh tạo ra
loài người cũng như vạn vật cỏ cây.
Trong thơ
Mai Văn Phấn xuất hiện rất nhiều những tính từ chỉ trạng thái, cảm giác về sự
sung mãn và tràn trề năng lượng: căng
tràn nhựa mật, ứ căng dòng nhựa, chật căng mầm hạt, bạt ngàn cây lá, lá mầm che
mặt đất xum xuê. Các động từ chỉ hoạt động sinh nở, phát triển như nứt vỡ vỏ cây, chồi lên thành lộc biếc, rộ
lên từng đợt lá non, vui vào nhau hạt
mầm bé nhỏ, đọt mầm bật dậy,…
Một thế giới
phồn sinh, hóa sinh, luôn luôn trong trạng thái sinh nở và tái tạo những mầm
sống mới. Vẻ đẹp trong thơ của Mai Văn Phấn nằm ở sự trong trẻo, nguyên khôi
của sự sống, vạn vật lúc nào cũng mới mẻ, ban sơ như thể “vừa sinh ra từ đó”.
Nhà thơ vẽ lên trước mắt người đọc những khoảng không gian thiên nhiên thuần
khiết và trong trẻo bằng những gam màu nhẹ nhàng và tinh tế. Đó là không gian
làng quê thanh bình trong nắng sớm, “một viên cuội nhỏ nằm trên phiến đá cao/
Không chớt mắt trong tinh khôi yên tĩnh”. Đó là không gian của nắng hây hây,
của ánh ngày reo trong đất, của ban mai, bình minh, của những con chim bay đi
trong buổi sớm:
Một
bông cỏ may vừa nở
Ánh
sáng phát ra từ đó
Bình
minh đang phát ra từ đó
Soi
rõ chân đồi, lối ra bìa rừng
Những
con chim bay đi buổi sớm
(Nơi
cội nguồn thế giới - Vừa sinh ra từ đó)
Nhiều hình
ảnh mang tính biểu tượng cứ lặp đi lặp lại trong các tập thơ như ánh sáng, ban
mai, bình minh, đất, cỏ cây,... Nó gợi đến một cuộc sống mới như vừa được sinh
tạo ra, vừa mới bắt đầu. Cái đẹp hoàn mỹ nhất đôi khi không phải là thứ được
rèn rũa qua thử thách mà là cái đẹp mang hơi thở trinh nguyên và ban sơ nhất,
thanh sạch nhất. Thời khắc đẹp nhất trong ngày là lúc bình minh, lúc hừng đông,
khi mà “nắng sớm đang phủ lên đỉnh núi/ làm trong suốt lòng đất, lòng cây”.
Thời khắc đẹp nhất trong năm là lúc gặp mùa xuân. Nơi đẹp nhất trên cõi trần
gian là “nơi cội nguồn thế giới”, là nơi mà “tất cả chúng ta vừa sinh ra từ
đó”.
Ngày mới trong thơ Mai Văn Phấn mang một vẻ
đẹp tinh khôi, thanh khiết:
Hừng
đông
Miệng
con chim non
Hớp
những đám mây
(Ngày
mới – hoa giấu mặt)
Bài thơ chỉ
vẻn vẹn gói gọn trong ba câu với những nét vẽ giản đơn nhưng đủ để nhà thơ tái
hiện lại cái trong lành, tinh khiết và thanh sạch của không gian. Cái đẹp mà
tác giả hướng đến đôi khi chỉ là sự mỏng manh của đám mây hay sự ngỡ ngàng của
con chim non trước cuộc đời. Với những cảm nhận tinh tế, Mai Văn Phấn đã xây
dựng lên một thế giới căng tràn nhựa sống của sự sinh sôi nảy nở, của những gì
ban sơ nhất, của những thứ dường như chỉ mới bắt đầu sự sống.
Trong không
gian ấy, con người hướng về thiên nhiên như hướng về những gì thuần khiết nhất:
Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ thể, nước quả
óng vàng loang chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát thơm. Tưởng
tượng em nhặt anh lên hít hà, cắn ngập lớp vỏ mịn. Nâng niu không vỡ hạt. Bao
bọc. Chờ mưa phùn gieo anh nơi đất ẩm.
(Giấc mơ cây - Vừa
sinh ra từ đó)
Thế giới
trong thơ Mai Văn Phấn là một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định, đa tầng
mà ở đó muôn loài cộng sinh chen chúc đầy hoan lạc. Nó mang một vẻ đẹp tinh
khôi của thuở uyên nguyên, khi trái đất mới bắt đầu sự sống. Sự viên mãn nảy nở
và sự thuần khiết là hai đặc tính thẩm mĩ gắn liền với nhau, tạo nên nét đặc
thù của thế giới thơ Mai Văn Phấn.
2.1.2. Cái
đẹp thuần Việt, mang tính dân tộc:
Trong tiểu
luận Thơ, giá trị cần đến, Mai Văn
Phấn khẳng định: “Hơi thở Việt được hiểu như là một hệ thống sinh thái, tập hợp
nhiều thực thể độc lập nhưng liên quan với nhau, bắt nguồn từ cội rễ văn hóa và
bản sắc dân tộc. Tạo nên một nền thơ hiện đại, làm phong phú tính truyền thống
là nhiệm vụ cốt tử của mỗi nhà thơ” [42; tr.375]. Mặc dù luôn có những đổi mới,
cách tân, tìm ra những cái khác mới hơn so với cái khác đã cũ nhưng nhà thơ
cũng luôn có ý thức tiếp thụ tinh hoa văn hóa dân tộc. Trên tất cả những cách
tân, tìm tòi và khai phá mới về mặt kĩ thuật, nhà thơ luôn khao khát đưa cảm
xúc về với cái bản thể tự nhiên nhất của con người, hướng đến một lối viết tự
động, “tự nhiên như đi trên đất”. Bởi vậy mà sau khi băng qua những vùng “sa
mạc” như siêu thực, tượng trưng, hậu hiện đại,… nhà thơ lại tìm về với cội
nguồn của thi ca để cảm xúc được trôi chảy một cách hồn nhiên và trong trẻo
nhất. Cái đẹp trong thơ Mai Văn Phấn nằm ở chính sự trong trẻo của cảm xúc mà ở
đó, nhà thơ như được tìm về với cội nguồn dân tộc, cảm nhận được những vẻ đẹp
thuần Việt. “Thuần Việt” là một thuật ngữ mang tính quy ước nhiều hơn là một
khái niệm hàn lâm, khoa học; thường được nhà thơ nhắc đến trong nhiều bài phỏng
vấn cũng như tiểu luận văn học. Tác giả luôn có ý thức hướng đến những cái đẹp
mang tính hồn cốt, bản sắc văn hóa của dân tộc, những điều giản dị và thân quen
trong cuộc sống. Trong tiểu luận Thơ Việt
Nam đương đại buổi ra đi và trở về, Mai Văn Phấn cho rằng: “Tôi hâm mộ ai
đó dám bước đi và biết quay về trên cội nguồn thơ Việt, với tâm thức của thời
đại, biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà không đánh mất bản
chất tâm hồn Việt, vốn trong sáng, chân thành, bao dung mà rất hiện sinh, tinh
tế trong cảm nhận, nhân bản hồn hậu trong nghĩ suy về phận người” [42; tr.385].
Với quan
niệm tìm về với cội nguồn dân tộc, hướng tới một thế giới tinh thần lí tưởng và
thuần Việt, nhà thơ không có ý định xác lập lại một thế giới cũ kĩ, lạc hậu và
cổ hủ mà thay vào đó là những không gian văn hóa mang vẻ đẹp bình dị, gần gũi
và truyền thống. Bằng cảm xúc hồn nhiên và trong trẻo nhất, Mai Văn Phấn đã xây
dựng lên một trường thẩm mỹ lí tưởng mà ở đó người đọc dễ dàng nhận thấy một
con người nặng lòng với những giá trị văn hóa, hướng về đời sống tâm linh với
cái tâm thanh tịnh. Nhiều nét văn hóa cổ truyền của dân tộc được một lần sống
lại như không gian nghi lễ, hầu đồng, nhiều địa danh lịch sử cũng được ghi dấu
trong thơ gợi nhắc thời quá khứ hào hùng đã qua của dân tộc. Từ con mắt của
người hiện đại, Mai Văn Phấn đã tìm về với những nét đẹp nguồn cội, một thế
giới tinh thần thuần Việt.
Cái đẹp
thuần Việt mang tính dân tộc trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện trước hết ở
việc nhà thơ tìm về với cội nguồn dân tộc. Những nét đẹp văn hóa hay những sự
kiện, dấu mốc lịch sử hào hùng đã qua được tác giả khéo léo đưa vào trong thơ
với niềm tự hào sâu sắc:
Nở
trên đỉnh núi
Thản
nhiên trong gió lạnh
Mây
bay
Bảy
trăm năm trước
Đức -
Phật – Hoàng - Trần Nhân Tông
Cúi
đầu đi qua
(Bông
hoa Yên Tử - Vừa sinh ra từ đó)
Trong cuộc
hành hương tìm về đất Phật, cả “em và tôi”, “các con và mọi người” đều cúi đầu
nhớ về những người xưa. Không gian thấm đẫm sự trang nghiêm và trong lành nơi
cửa Phật với hình ảnh của nhà vua Trần Nhân Tông bảy trăm năm trước đã rũ bỏ
ngai vàng và quyền lực để một lòng hướng về cái tâm thanh tịnh. Bông hoa trên
đỉnh núi vừa mang vẻ mỏng manh, yếu ớt nhưng lại có sức sống dai dẳng, thản
nhiên đứng trong gió lạnh. Đó là một vẻ đẹp bình dị, gần gũi và mãnh liệt.
Nhà thơ luôn
đề cao, nặng lòng với những giá trị văn hóa, đạo lý truyền thống dân tộc. Nhiều
bài thơ như Lên chùa, Ra vườn chùa xem cắt cỏ, Ngày giỗ Tổ, Tạ ơn, Thanh minh, Hóa vàng,… để tái hiện những nét văn hóa
cổ truyền của dân tộc.
Nét nổi bật
trong quan niệm thẩm mỹ của Mai Văn Phấn là nhà thơ có xu hướng phục dựng những
nét văn hóa xưa cũ, những không gian nghệ thuật gắn liền với tập tục của dân
tộc. Cái đẹp trong thơ thuộc về một quá khứ cổ xưa mà ở đó, con người chung
sống hòa hợp, hạnh phúc dưới bàn tay che chở của Mẫu. Dấu ấn văn hóa của người
Việt hiện lên rất rõ khi tác giả mô tả, tái hiện lại không gian nghi lễ hầu
đồng. Trong quan niệm của người Việt cổ, Mẫu là khởi nguồn của sự sống trên thế
gian, là đấng sáng thế đầy quyền năng và là biểu trưng cho quy luật sinh tồn.
Bởi vậy, tập tục thờ Mẫu thể hiện lòng thành tâm của dân tộc đối với bà mẹ đã
hoài thai, sinh ra đưa con mang dáng dấp Con Người. Đây là một nét đẹp trong
văn hóa cổ truyền của dân tộc. Khúc 9 trong Cửa
Mẫu, Mai Văn Phấn đã tái hiện lại một không gian nghi lễ quen thuộc của
người Việt với trống chiêng bát cửu và những lời kinh cầu siêu thoát:
trống
chiêng bát cửu
mở
hội long đình
múa
hát cao xanh
công
đồng tứ phủ
mở
lòng đệ tử
bao
dung mắt nhìn
(Cửa
Mẫu - Bầu trời không mái che)
Không gian
buổi lễ với những nghi thức hầu đồng khiến con người được thăng hoa, quên đi
những lo âu trong cuộc sống để một lòng hướng về cội nguồn. Hình tượng Mẫu vừa
là một nét văn hóa trong tâm linh đồng thời cũng là hiện thân của quá khứ, của
Tổ tiên loài người. Chính vì vậy mà thờ Mẫu cũng chính là một hình thức gợi
nhắc nguồn cội. Tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là phong tục tập quán có
từ lâu đời, được hun đúc trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, là nền
tảng đạo đức trong cách ứng xử giữa con người với con người. Hướng về Mẫu là
nhu cầu tự thân của mỗi người.
Với ước muốn
được trở về với “bản chất tâm hồn Việt” như lời Mai Văn Phấn đã từng tâm sự,
nhà thơ đã tạo dựng cho thơ những không gian nghệ thuật bình dị, thân quen và
rất mực thanh tịnh:
Thu
về em ấp
Cốm
non lãng đãng sương giăng
Khăn
áo ấy mịn màng da thịt
Dâng
heo may lên trời
Nhịp
cốm giã rộn mùa thóc nếp
Thúng
mủng dần sàng vỏ trấu hây hây
Trái
bưởi thơm dịu nắng hanh
Thanh
khiết chùm hoa mộc
Giữa
đất trời ngó sen sau mưa
Da
diết nhớ từng vòng cuộn xiết
Lá sen xanh ủ cốm em anh
Chín nẫu chân mây mùa hạ
Đêm ái ân lặng phắc ngọn đèn
Trái hồng đượm trong hương cốm nõn.
(Cốm hương - Bầu
trời không mái che)
Nhắc đến
cốm là nghĩ đến một món ăn mang tính dân tộc, đậm hơi thở của xứ Bắc Bộ. Bài
thơ vừa mang cái hương của trái bưởi, của chùm hoa, của trái hồng đượm, hương
cốm nõn vừa mang cái sắc của chân mây mùa hạ, của đất trời sau mưa, lại có
những thanh âm rộn ràng của thúng mủng dần sàng hay cái tĩnh lặng của những đêm
ái ân. Mọi sự vật mà tác giả cảm nhận được đều mang một vẻ đẹp tinh khiết, khôi
nguyên nhất, đẹp nhất: trái bưởi thơm dịu, chùm hoa thành khiết, ngó sen sau
mưa, trái hồng đượm, hương cốm nõn. Nhà thơ đã khéo léo chọn những thức quà đặc
trưng cho mùa thu Bắc Bộ, gợi lên một không gian sinh động và truyền thống của
nền văn minh lúa nước, giản dị và thân quen, gần gũi và hồn hậu.
Ngoài ra,
cái đẹp mang hồn Việt trong thơ Mai Văn Phấn còn được thể hiện qua lời kêu gọi
con người phải hướng đến cái tâm thanh tịnh, gìn giữ cốt cách. Cuộc sống đô thị
xô bồ ập đến đang làm con người quay cuồng trong guồng máy công nghiệp, bởi vậy
mà việc giữ vững những nét đẹp trong tâm hồn dân tộc luôn là một yêu cầu lớn.
Cánh hoa sen
Ngay ngắn rơi xuống
Vũng bùn
(Cốt cách – hoa
giấu mặt)
Khi con
người ý thức được việc mài rũa nhân cách, tu tâm dưỡng tính thì “cốt cách” sẽ
luôn được khẳng định dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cánh hoa sen thanh khiết và
cao sang dù rơi xuống vũng bùn vẫn giữ nguyên tinh thần của nó. Tiếp nhận bài
học của cha ông xưa: “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, Mai Văn Phấn đã nêu
lên một bài học lớn về việc bảo vệ nhân cách và tâm hồn Việt.
Như vậy,
trong xu thế vận động và cách tân thơ, Mai Văn Phấn ngày càng có ý thức tìm
kiếm một vẻ đẹp thuần Việt, mang tinh thần và cốt cách dân tộc. Cái đẹp trong
thơ ông là sự tìm về với cội nguồn dân tộc, nặng lòng với các giá trị văn hóa
truyền thống, những điều giản dị và thân quen của làng quê hay hướng con người
đến cái tâm thanh tịnh. Thẩm mỹ trong thơ vừa mang hơi thở truyền thống lại vừa
kết hợp với nhịp chảy của đời sống đương đại.
2.1.3.
Cái đẹp mang tính tôn giáo:
Với một
vốn sống dày dặn và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ, Mai Văn Phấn góp thêm
vào làng thơ một cảm quan thẩm mỹ mới, khẳng định nguồn cảm hứng tôn giáo là
dồi dào và vô tận của thơ ca. Trong bài Mai
Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo, nhà thơ Nguyễn Hiệp đã ghi lại tâm
sự của ông: “Tôi sinh ra trong một gia đình theo đạo thiên chúa, từ nhỏ tôi rất
ngoan đạo, thuộc kinh bổn, thông thạo kinh Tân ước và Cựu ước, các sách thánh,
mê hát thánh ca… Sau này khi du học ở Liên Xô cũ (1983 – 1984), tôi đã gặp vợ
tôi bây giờ, một người theo đạo Phật. Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và
cả sự chiều chuộng người yêu tôi nữa. Khi nghiên cứu các giáo lí của các tôn
giáo lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng: Thượng đế chỉ có một. Và chắc chắn
chúng ta được sinh ra và bị chi phối bởi một Đấng – Toàn – Năng. Đấng – Toàn –
Năng cho con người biết được gần đúng khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông qua
các hình thức tôn giáo mà thôi” [17]. Qua lời phát biểu đó, có thể thấy gia
đình và quê hương chính là ngọn nguồn, là nền tảng vững chắc để Mai Văn Phấn có
thể tìm thấy nguồn cảm hứng bất tận trong tôn giáo và đưa nó vào thơ một cách
nhuần nhuyễn và ý nhị.
Sinh ra
tại miền quê Ninh Bình, cái nôi của Thiên chúa giáo, tâm hồn ông đã thấm đẫm tư
tưởng của một con chiên ngoan đạo. Lại thêm sự đam mê, yêu thích với Phật giáo
và vốn am hiểu với nhiều tôn giáo khác như đạo Hindu, đạo Mẫu,… Mai Văn Phấn
đang mang đến nhiều sự sáng tạo trong cách nhìn về tôn giáo.
Cái đẹp
trong đời sống tôn giáo trước hết được nhà thơ thể hiện trong cách tái hiện lại
văn hóa thờ Mẫu, phục dựng lại không gian nghi lễ, hầu đồng quen thuộc. Ở Việt
Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và nguyên thủy bởi
nó có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu hệ trong đó người mẹ, người vợ giữ một vị
trí quan trọng trong gia đình. Sự phát triển mạnh mẽ của tín ngưỡng này xuất
phát từ tính nhân văn, tính nghệ thuật và khả năng đáp ứng nhu cầu tâm linh của
con người.
Tín
ngưỡng thờ Mẫu thể hiện sự tôn vinh, thờ phụng những vị thần gắn với các hiện
tượng tự nhiên, được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo và che chở, bao
bọc sự sống của con người hay những vị thần được lịch sử hóa như Thánh Mẫu Liễu
Hạnh, Quốc Mẫu Âu Cơ, Vương Mẫu (tương truyền là mẹ Thánh Gióng), Linh Sơn
Thánh Mẫu… Hoặc cũng có thể là những bậc anh hùng dân tộc khi còn sống đã đem
tài năng giúp dân, giúp nước và khi mất họ hiển linh phù trợ cho con người được
bình an, hạnh phúc.
Giá trị
cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu là cái tâm hướng thiện, biết đối nhân xử thế.
Người Việt luôn tin rằng Mẫu là mẹ, luôn che chở, phù hộ con người gặp nhiều
may mắn, có sức mạnh và niềm tin để vượt qua vận hạn, đem lại cuộc sống bình
yên và sung túc. Thờ Mẫu vừa là một tín ngưỡng tôn giáo, vừa là một nét đẹp
trong văn hóa Việt.
Cũng từ
đó, hình ảnh Mẫu trong thơ Mai Văn Phấn luôn giữ vai trò là người mẹ khởi sinh
ra muôn loài, là khởi nguồn của mọi sự sống trên thế gian. Trong bài Cửa Mẫu (Bầu trời không mái che),
nhà thơ đã tái hiện lại hành trình cuộc đời của một con người, sống dưới sự bao
bọc và chở che của Mẫu. Hình tượng Mẫu biểu trưng của cảnh trời đất lúc khai
thiên lập địa. Vũ trụ lúc ấy tối tăm mù mịt, là một khối hỗn độn vô hướng của
nước, của lửa và của những sinh vật bán khai. Giữa buổi hồng hoang ấy, bà mẹ
hoài thai sinh ra đứa con mang dáng dấp Con Người. Bởi vậy mà Mẫu được coi là
khởi nguyên khởi thủy của vạn vật, đại diện cho sự che chở, bao bọc đồng thời
cũng đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở và trù phú.
Mẫu nâng niu con ánh trăng
Tiếng chuyền cành, tiếng hú
Da thịt con yêu trải sâu đêm tối
Dựng tầng mây mưa nguồn.
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che)
Hình
tượng con ở đây không chỉ là khái
niệm về con người mà còn bao hàm cả vũ trụ (ánh trăng, mây mưa nguồn, đêm tối,
mặt trời, đáy nước, đàn chim, con nòng nọc, lá mầm,…). Mẫu là đấng toàn năng
khi sinh thành ra con cũng là người
trao cho con cẩm nang thoát hiểm.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, Mẫu luôn theo sát, nâng niu và bảo
vệ, dẫn đường cho con vượt qua bao
gian lao và thử thách, bao sóng to gió lớn của cuộc đời.
Con lặng lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước
Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh
Ngọn cây vươn mỏ con chim
Đang cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió.
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che)
Không chỉ
yêu thương, nâng niu mà Mẫu còn là người chỉ bảo, dẫn đường cho con những bước
đi trong cuộc đời:
Chợt nhớ mùa nước lớn ngập tràn hang dế
Lóc bóc tiếng bong bóng phun lên từng đợt
Cho con biết được đâu là của hang
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che)
Vượt lên trên hết là quy luật sinh diệt
của vạn vật do Mẫu tạo nên cho thế giới tự nhiên, dạy con thích ứng với hoàn
cảnh :
Tiếng hạt vỡ trong ngực
Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi
Tập vỗ cánh, quạt gió vào lòng tối
Bật lá mầm bay đi thênh thang
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che)
Cửa Mẫu
bao gồm chín khúc, mỗi khúc đều được gắn với những hiện tượng tự nhiên, những
quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông: sinh – lão - bệnh - tử. Cấu trúc
này không mới nhưng độc đáo ở cách thể hiện, mỗi khúc vừa hé mở lại vừa khép
kín những bí mật của vũ trụ, tính tương đồng của nhân sinh trong giới hạn của
cõi người, lúc thì như là sự giải thích, lúc lại như những câu sấm truyền tối
nghĩa bằng thủ pháp ẩn dụ. Chín khúc cho ta hình dung về những chặng đường đời
của con người dưới bàn tay che chở của người mẹ thiên nhiên. Một điểm khá đặc
biệt trong bài thơ là sự đồng hiện của kiếp người thông qua hai hình tượng cha
và con. Con là thời thơ ấu, là quá khứ, là kí ức của cha, còn cha là tương lai
sau này của con. Con là sớm, là ban mai, bình mình, cha là lúc trời chiều, là
hoàn hôn đêm tối.
Cơ thể cha tựa sông cạn, củi khô, hạt lép
Chùm quả nặng đung đưa gió mạnh.
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che)
Hai hình
tượng này dìu đỡ nhau, bổ sung cho nhau để biểu đạt cho quy luật có sinh có tử
của đời người. Cửa Mẫu không có thời
gian và không gian cụ thể mà nó thường xuyên được đồng hiện, nhập nhòa với
nhau, thời gian của quá khứ và thời gian của tương lai được kéo gần lại. Yếu tố
triết lý được loại bỏ ngay từ đầu, thay vào đó là những nghiệm sinh được đúc
rút qua quá trình sống của các thế hệ được di truyền lại. Như vậy, Mẫu được tôn
vinh như là thủy tổ của muôn loài, Cửa Mẫu chính là khởi nguồn của sự sống trên
hành tinh xanh. Hình tượng con ẩn dụ vạn vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn
trong lịch sử tiến hóa.
Tín
ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc đã được nhà thơ đưa vào thơ một cách nhuần nhị và
khéo léo. Hình tượng Mẫu góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện thế giới hình
tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn. Đó cũng là phương thức để nhà thơ đến
gần với thế giới của tâm linh, tôn giáo, là nền tảng trong phương thức ứng xử
của Con với Người, được thể hiện ở sự kính trọng, ngưỡng vọng đối với
Đấng-sinh-thành. Phục dựng lại không gian tôn giáo đạo Mẫu, nhà thơ đã thành
công trong việc tái hiện lại những vẻ đẹp trong văn hóa tâm linh của người Việt
cổ, đề cao truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhớ về người mẹ đã sinh tạo ra
muôn loài.
Bằng ngòi
bút tài hoa và tình yêu đối với tôn giáo, Mai Văn Phấn đã khắc họa những nét
đẹp trong văn hóa tâm linh vào thơ. Với ông, thơ được khởi phát từ cuộc đời và
mang dấu ấn riêng của chủ thể sáng tác. Vì thế hiện hữu trong thơ ông là những
quan niệm mang tính nhân sinh cao đẹp của nhà Phật, con người liên tục được hồi
sinh và tái sinh theo tư tưởng Phật giáo. Chính nhà thơ cũng đã từng tâm sự
rằng: “Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người yêu
tôi nữa”. Cái đẹp trong thơ Mai Văn Phấn nằm ở chỗ nhà thơ không bao giờ coi cái
kết là điểm dừng, là dấu kết thúc mà nó như một dấu mốc để hồi sinh, để sự sống
từ đó lại tái sinh và tiếp diễn.
Theo quan
niệm của Phật giáo, luân hồi là sự chuyển hóa của sự sống của một sinh vật qua
nhiều kiếp theo sự tái sinh. Người Á Đông cho rằng sau khi chết, linh hồn của
loài người cũng như loài vật hay loài cây cỏ cũng sẽ chuyển sinh từ cơ thể này sang
cơ thể khác. Nói cách khác, luân hồi là sự chuyển sinh, chuyển hóa, đầu thai
của linh hồn. Nhà Phật cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều tuân theo quy luật bất
biến, cuộc đời con người phải trải qua nhiều kiếp, tái sinh trong nhiều kiếp
sống. Sự hiện hữu của mỗi người là một cuộc sống dài vô tận gồm nhiều kiếp liên
tiếp nhau, kiếp này kết thúc bằng cái chết để khởi đầu kiếp sau bằng việc sinh
ra.
Tiếp thu
tư tưởng Phật giáo, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên một thế giới phồn sinh, hóa
sinh bất định mà ở đó mọi vật luôn sinh sôi, nảy nở. Ý nghĩa đức tin về một đời
sống tái sinh và hồi sinh cũng có nhiều điểm gặp gỡ với quan niệm muốn được đầu
thai sống một kiếp sống khác tốt đẹp hơn và tươi sáng hơn của nhà Phật. Đối với
nhà thơ, cái chết không phải là tận cùng của sự sống mà nó chỉ đơn giản là điểm
trung gian giữa cuộc đời này và muôn vàn cuộc đời khác về sau. Cũng bởi tư
tưởng con người và sự vật được tái sinh, luân hồi trong nhiều kiếp sống nên thế
giới trong thơ Mai Văn Phấn lúc nào cũng ngập tràn sự sinh sôi, nảy nở, sự sống
hiện lên từ những gì tàn tạ và héo úa nhất:
Bó gối những gốc cây
Nhắm mắt ngọn gió đồi
Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi
Ngày mai mặt đất này
Và thế giới sẽ đổi khác
(Mùa trăng - Bầu
trời không mái che)
Thời khắc
của sự tái sinh là thời khắc thiêng liêng nhất không chỉ của kiếp người mà còn
của cả thế giới trù phú muôn loài. Trong tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa giáo
và Phật giáo, luôn quan niệm về thế giới thứ hai với một niềm tin mãnh liệt.
Thiên chúa giáo cho rằng cuộc sống hiện tại chỉ là sự nương nhờ, tạm bợ còn
cuộc sống sau khi chết mới là cuộc sống thực sự. Phật giáo lại đề cao sự tu
nhân tích đức ở đời sống hiện đại để sau khi chết được đầu thai. Còn Mai Văn
Phấn lại xem cái chết như là một sự khởi đầu mới, mở ra một sự sống mới, cứ hóa
hóa sinh sinh, vô cùng vô tận. Chết chưa phải là chấm dứt mà nó còn là một khởi
đầu mới. Bởi vậy, xuất hiện trong thơ ông không nhiều những chiều tàn, những
hoàng hôn, bóng tối mà dày đặc những hình ảnh của ngày mới, của ban mai, bình minh:
Bình minh quét lớp sơn mỏng lên mặt đất.
Bóng đêm vẫn còn nham nhở đâu đây, trong bóng cây, dưới gầm cầu, nơi quả chuông
úp xuống, trong phòng kín, đường cổng ngầm chảy qua thành phố... Nấp trong cơ
thể chúng ta, trong kí ức, lỗ tai, mái và trái tim đang đập. Nơi trũng cuống,
khuất lấp, hoắm sâu thường là cạm bẫy, hiểm nguy, tăm tối... Tôi và mọi người
hốt hoảng lên cao, trèo lên mái nhà, đi qua cầu, ngồi mũi thuyền... Mặt trời
gần đứng bóng. Tôi vội vã dành một phút đứng lên bàn ghế, đu cây, bám lên mép
cổng. Kê cao chân bằng bất kì vật gì, vài cuốn sách, cái gối, mẩu giấy vụn.
Những chiếc dép không cùng cỡ, áo quần không đồng bộ vừa hốt hoảng chồng lên
nhau trong ánh sáng chan hòa.
(Quang phổ - Vừa
sinh ra từ đó)
Ý thơ là
sự đấu tranh, xâm lấn của ánh sáng và bóng đêm, là quá trình đi từ bóng tối đến
ánh sáng, từ cái chết đến sự sống. Mặc dù bóng tối lan tỏa, bao trùm khắp nơi,
từ bóng cây, gầm cầu, trong phòng kín... nhưng kết thúc là sự chiếm hữu của ánh
sáng chan hòa. Cuộc sống lại bắt đầu, cuộc đời lại được tái sinh. Sau đêm là
ánh sáng ban ngày, là bình minh tít tắp. Sau cái chết là một cuộc đời mới, vô
thủy vô chung.
Bắt nguồn
từ mỹ cảm tôn giáo nên thế giới trong thơ Mai Văn Phấn mang những nét đặc trưng
riêng biệt. Trước hết, với quan niệm Mẫu là người khởi tạo ra vạn vật muôn
loài, nhà thơ đã phục dựng lên những không gian văn hóa mạng đậm màu sắc dân
tộc. Từ đó thể hiện sự ngưỡng vọng, kính trọng của con đối với người mẹ thiên
nhiên, với Đấng sinh thành. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên lí tưởng về một
không gian cựa động, mọi sinh vật luôn được tái sinh, hồi sinh qua nhiều kiếp
sống. Cái chết không phải là điểm cuối cùng của cuộc đời mà chỉ là điểm trung
gian, luân chuyển để sự sống từ đó được hồi sinh. Nhờ cảm quan tôn giáo mà thơ
Mai Văn Phấn mang một màu sắc riêng biệt, cái đẹp trong thơ ông cũng luôn được
tái sinh và nảy nở. Nhà thơ đã xác định nên một trường thẩm mỹ mới, một tư
tưởng nhất quán về tôn giáo rằng thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều
có chung mục đích là đưa con người đến bến thiện, đến với những giá trị chân -
thiện - mỹ.
2.2. Cảm hứng hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn:
Hiện sinh
là sự tồn tại của con người, sự hiện diện mang tính cá thể đặc thù chứ không
phải của chung tất cả loài người và cũng không quan tâm đến sự tồn tại của thế
giới vật chất. Chủ nghĩa hiện sinh là từ dùng để nói về nghiên cứu của một nhóm
các triết gia cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những người tuy khác nhau về học
thuyết nhưng có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con người
– không chỉ là chủ thể tư duy mà là cá thế sống, cảm xúc và hoạt động.
Thuyết
hiện sinh được khởi nguồn từ Đức, sau du nhập vào Pháp và ảnh hưởng khắp châu
Âu từ cuối thế kỉ XIX với các triết gia tiêu biểu như Friedrich Nietzche (1844
– 1900), Soren Kierkeggard (181 – 1855), Martin Heidegger (1889 – 1976), Karl
Jasper (1883 – 1969)... Nó ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống văn học, làm hình
thành hai trường phái văn chương: phái hữu thần và phái vô thần. Phái hữu thần
chủ trương tìm về bản ngã chân thực của chính mình, họ cho rằng Chúa Trời được
nhận biết chỉ nhờ thông quan niềm tin và sự tận hiến của cá nhân. Những mô tả
dựa trên lí trí về Chúa Trời đều phi lí và không thích hợp. Tiêu chuẩn của chân
lý là niềm đam mê mãnh liệt đến yếu tính của con người tìm kiếm nó, không có
chân lý khách quan nào ngoài “sự chiếm hữu” của cá nhân. Phái này gồm hai nhà
văn tiêu biểu là Gabriel Marcel và Jacques Maritain. Còn phái vô thần với các
tên tuổi như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… lại nhìn con người
hiện đại như một tạo vật suy đồi, không có tinh thần và hao mòn sinh lực, họ
đang cố thoát ra khởi thực tại khủng khiếp của thân phận mình bằng một thứ
triết học nông cạn và một thứ tôn giáo an thần. Phái này phản đối kịch liệt
triết học truyền thốngvà chống lại Cơ đốc giáo như sự phủ nhận những giá trị
hiện hữu trần thế
Tuy
nhiên, dù theo trường phái hiện sinh vô thần hay bất khả tri luận, các nhà hiện
sinh vẫn lấy mối quan tâm đến con người và các trải nghiệm chủ quan đưa lên
hàng đầu; nhấn mạnh hiện sinh có trước bản chất, “đời sống nhân loại chỉ có thể
hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông qua kinh nghiệm
riêng biệt của anh ta về cuộc đời” (Gordon E. Bigelow). Trong suốt cả một chặng
đường đời, mỗi phút giây con người đều tồn tại và thu nhận những kinh nghiệm
sống khác nhau thông qua sự dấn thân của anh ta vào cuộc đời, mang tính chất
độc đáo, khác biệt hoàn toàn với mọi người. Lí trí của con người thường mềm yếu
và bất toàn và có những khoảng tối trong đời sống con người mang đặc tính phi
lí trí, bởi thế đó là nơi lí trí không thể nào thâm nhập. Triết học cổ điển
phân chia con người bao gồm lí trí và tinh thần – phi lí trí nhưng chủ nghĩa
hiện sinh khẳng định con người phải được nhìn nhận trong một thực thể toàn vẹn,
không chỉ hàm chứa tri thực mà còn có cả những lo âu, tội lỗi và ước vọng quyền
lực. Bởi thế, con người được nhìn dưới quan niệm này trở lên hết sức mơ hồ,
huyền bí, vừa có thể hiểu được, vừa không hiểu được.
Soi chiếu
vào trường hợp của Mai Văn Phấn, dấu ấn hiện sinh thể hiện tương đối đậm nét
trong các thời kì gần đây. Những cảm thức này đã phá vỡ tính logic của sự kiện
thời gian – con người hoàn toàn mù lẫn trong thời gian, hoàn toàn mất phương
hướng, lạc loài, vô vọng cả không gian và thời gian, trật tự tuyến tính của tất
cả các sự kiện không chỉ bị đảo lộn mà còn hoàn toàn bị phá vỡ. Có thể thấy,
tâm thức hiện sinh là một phạm trù giàu có tiềm lực để nhà thơ có thể ẩn dật
cái tôi cá nhân, cái tôi tiểu vũ trụ để tung hoành sáng tạo mà không bị kìm
nén, chế ngự bởi bất cứ một lực cản nào. Nghiên cứu trong ba tập , tôi nhận
thấy cảm thức hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên với ba đặc điểm chính:
Thế giới siêu nghiệm; con người – trung tâm của cái vô cùng; cái tôi ý thức và
vô thức.
2.2.1.
Một thế giới siêu nghiệm:
Siêu
nghiệm là những cảm giác được hình thành không cần trải qua những kinh nghiệm
của đời sống thông thường. Nó vượt lên những cảm giác kinh nghiệm để dấn sâu,
thể hiện đời sống tâm linh, vô thức, trực giác. Tuy nhiên, cần lưu ý sự khác
biệt giữa cảm giác siêu nghiệm với cảm giác siêu việt - thần bí. Cảm giác siêu
nghiệm không phải là cái không có thực, không tồn tại nhưng đó là sự tồn tại
không thể quan sát trực tiếp bằng mắt thực của con người và vì thế kinh nghiệm
không thể lí giải, không thể minh giải được. Nơi tồn tại những cảm giác siêu
nghiệm không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm của tư duy nhưng lại được chứng
ngộ bởi trực giác và tâm linh. Nó chính là những khoảng tối trong đời sống con
người mà tư duy lí tính không thể chạm tới, không thể giải mã được.
Mai Văn
Phấn sau khi đã băng qua nhiều vùng sa mạc rộng lớn của siêu thực, tượng trưng,
hiện đại, tân cổ điển,... đã có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm sáng tác của
những trường phá thơ hiện đại. Từ đó nhà thơ khao khát trở về cái bản thể để lí
giải thế giới trong chiều sâu bản chất của nó, tìm về với nơi “bản ngã gặp gỡ
tha nhân” (G. Marcel) để khai mở ra một thế giới đóng kín của trực giác. Bởi
vậy mà trong các sáng tác của mình, nhà thơ đặc biệt chú ý đến tiếng nói vô
thức, tâm linh, tìm hiểu cái tôi
trong mối quan hệ với chính nó. Thơ là hình ảnh nội tâm về thế giới nội tâm,
khước từ sự có mặt của tư duy duy lí trong nghệ thuật.
Thế giới
trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ tồn tại những không gian thực của cánh đồng,
căn phòng, phố phường, dòng sông mà còn xuất hiện cả những mảng màu không gian
hư ảo, huyền bí của những giấc mơ, những mộng mị của bóng người,... Nhà phê
bình Nguyễn Chí Hoan đã nhận định: “Cho đến nay có thể anh (nhà thơ Mai Văn
Phấn) là nhà thơ duy nhất trong thơ ca đương thời đã đưa vào thơ một cách có hệ
thống và dày đặc đến thế những liên hệ siêu nghiệm, những hình ảnh siêu nghiệm
[29; tr.292].
Những vong hồn còn mắc kẹt
Cùng ngọn cỏ
Vươn tay
[...]
Vong hồn nào chưa được bay lên
Còn trong vòng nghiệt ngã
Cơn đau đớn sát sinh
Hoang hoải mùi hăng cỏ sữa
(Ra vườn chùa xem cắt cỏ - Vừa sinh ra từ đó)
Thân con rỗng không
Hạc khô chiếc mõ chân tâm trì chú
(Lên chùa - Vừa
sinh ra từ đó)
Chiều sâu
tri giác của trực giác tâm linh, vô thức giúp cho con người nhận ra những vẻ
đẹp đầy quyến rũ, ma mị và bí ẩn của thế giới mà một cái nhìn lí tính thông
thường khó lòng đạt tới. Hình ảnh về những hồn ma, linh hồn mộng mị hay sâu
thẳm trong thân xác “rỗng không” phải được cảm nhận bằng khoảng tối của tâm
hồn, những phần phi lí trí. Từ đó, con người có thể lặn sâu xuống đáy bản thể
để nhận ra sự tồn tại đích thực của mình giữa thế giới hư không. Trong cái
không gian siêu nghiệm, vô thức ấy, nhà thơ cảm nhận được từng bước dịch chuyển
của những vong hồn, nhìn nhận ra được cái vòng nghiệt ngã, đau đớn của cuộc
đời.
Hướng tới
một thế giới của những cảm giác siêu nghiệm, nhà thơ đặc biệt chú ý đến những
trạng thái dịch chuyển mơ hồ, những phức hợp cảm giác mong manh, sự tương giao
lạ lùng giữa hình ảnh, âm thanh, đường nét và sắc màu... Thế giới được soi
chiếu bằng “con mắt nghiêng” nên những sự việc, hiện tượng bình thường của đời
sống đều được vẽ bẳng những đường nét, mảng khối, màu sắc khác lạ:
Bước sơn dương gõ lên mặt đất
Thế giới từ nay không thể ngủ
Động rộn sương đêm
Cỏ cây, nắng mới
Núi cao
Chim chóc bay qua tảng đá xù xì
Sông cuộn xiết con cá động dục lóe sáng mặt nước
Mặt trời bên kia bức tường
Vòm cây, tổ chim hơi thở ban mai
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che)
Những cảm
giác siêu nghiệm ở đây không chỉ là cái được mô tả mà còn nằm ở cách mô tả.
Cuộc sống thông thường được cảm nhận bằng vùng tâm linh sâu thẳm trong tâm hồn.
Nhà thơ mượn cái vỏ vô thức để mô tả sự vật, bởi vậy mà bước sơn dương, cỏ cây,
nắng mới, núi cao, chim chóc hay vòm cây, tổ chim tưởng chừng như là những sự
vật rời rạc, tồn tại độc lập, không liên kết, không gắn quyện trong nhau nhưng
thực chất mỗi sự hiện diện đó đều là một mảng cấu thành thế giới siêu thực,
siêu nghiệm.
Đặc biệt,
trong tập hoa giấu mặt, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên những không gian
mang tính đặc trưng, tĩnh lặng và trong suốt, từ đó cảm nhận được những dự cảm
lo âu, muộn phiền từ cuộc sống phồn tạp. “Nếu Bầu trời không mái che
còn cồng kềnh, ngổn ngang biết bao vật liệu, biết bao nỗi niềm và không khỏi
gợi lên cảm giác nặng nề thì hoa giấu mặt an nhiên, lặng lẽ,
hướng sâu vào cảnh giới của siêu nghiệm” [13; tr.92].
Ánh trăng từng sợi
Bện vào nhau
Bông mẫu đơn xuyên qua
(Con mắt nghiêng 18 – hoa giấu mặt)
Ánh trăng
trong bài thơ mang vẻ mềm yếu, mỏng mảnh và có phần trống rỗng. Nó gợi nhắc một
dạng không gian tĩnh lặng, tơ vương đến mơ hồ khiến ta lặng đi, như phải nín
thở mới có thể cảm nhận hết được. Một trạng trái cảm thức về sự rỗng không, bện
nhau nhau nhưng rời rạc, “bông mẫu đơn xuyên qua”. Tác giả chìm sâu vào những
cảm giác siêu nghiệm để cảm nhận thế giới bằng vô thức. Thi ảnh xuất hiện tưởng
chừng như có đôi chỗ rời rạc, mơ hồ nhưng đã góp phần thể hiện những mảng phi
lý trí, những mảng tối trong tâm hồn con người. Nhiều bài thơ như Nước dòng, Lưỡi câu vô hình, Con mắt nghiêng
53,... cho thấy nhiều dự cảm lo âu, muộn phiền do cuộc sống mang lại.
Dấu ấn
hiện sinh rõ nét khi nhà thơ đang từng bước khai mở cái bản ngã trong sâu thẳm
con người - một thế giới bị đóng kín. Nhìn thế giới bằng con mắt siêu nghiệm,
Mai Văn Phấn đã mô tả thế giới trong chiều sâu bản chất của nó. Đôi khi độc giả
tiếp nhận không thể dùng những kinh nghiệm cá nhân đúc rút qua đời sống hàng
ngày để lĩnh ngộ mà phải dùng đến cái tôi bản ngã để đồng cảm. Thế giới siêu
nghiệm trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới của cái vô thức, thể hiện nhiều bất
ổn, chông chênh trong đời sống.
2.2.2.
Con người – trung tâm của cái vô cùng:
Với quan
niệm mỗi sáng tạo thi ca đều là một cuộc vong thân, Mai Văn Phấn cho rằng: “Mỗi
bài thơ tôi quan niệm là một dự phóng, một kinh nghiệm riêng biệt. Ví như hình
ảnh cụ thể của bông hoa, con sóng, bước chân chỉ mang đến cho bài thơ một kinh
nghiệm cụ thể rồi vĩnh viễn biến mất. Không cần chuẩn bị bởi không cần mang
theo thứ gì trong hành trình sáng tạo” [42; tr.460]. Từ đó tác giả luôn đề cao
tính cá thể và sự độc đáo, riêng biệt. Thơ ông cũng không phải là thứ ngôn ngữ
dễ đọc, không thể cứ “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, lấy những kinh nghiệm cá
nhân để nắm bắt ý nghĩa.
Dấu ấn
hiện sinh rõ nét khi trong thơ Mai Văn Phấn luôn xuất hiện hình ảnh của con
người mang tính cá nhân, cá thể. Ông không nhìn con người trong toàn bộ chỉnh
thể với xã hội loài người mà nhìn nhận con người trong mối quan hệ với chính
nó. Tác giả luôn đặt ra câu hỏi “tôi là ai” để từ đó nhận ra sự tồn tại đích
thực của mình giữa thiên nhiên, vũ trụ. Cái tôi được khẳng định mạnh mẽ qua
những động thái:
Tôi ở giữa
Những hệ quy chiếu
Những linh hồn hữu tri
Vô tri
Và chưa được đặt tên
[...]
Tôi xoay một trong hai
Đặt lại khoảng cách
[...]
Tôi thở sâu lòng biển
[...]
Tôi là cây cỏ
Ánh sáng kiếp trước
Vẽ trên toan trắng
(Tĩnh lặng - Vừa
sinh ra từ đó)
Nhà thơ
chủ trương đi sâu khám phá và khẳng định cái tôi bản thể. Nhìn bên ngoài, con
người chỉ là một sinh linh như mọi sinh linh khác nhưng nhìn từ bên trong, đó
là cả một vũ trụ, là trung tâm của cái vô cùng. Từ đó, tác giả khám phá những
vùng mờ tâm linh, những cá tính riêng biệt của con người.
TS. Chu
Văn Sơn cho rằng thơ ca đương đại đang thực hiện một hành trình, hành trình trở
về với cái tôi bản thể. Ông đặt ra
một hệ suy luận: nếu cái tôi thời Thơ
mới là cái tôi cá thể, cái tôi trong thơ ca cách mạng là cái tôi tập thể, đoàn thể thì cái tôi trong thơ đương đại là cái tôi bản thể. Nhận định này rất đúng với
trường hợp của Mai Văn Phấn. Cái tôi
cá thể soi mình vào mọi người để tìm lại chính mình còn cái tôi bản thể lại soi mình vào các giá trị
mang tính phổ quát để tự nhận diện mình.
Hiện lên
trong thơ Mai Văn Phấn là hình ảnh con người mệt mỏi trong cuộc sống công
nghiệp và cần quay về với cái bản thể tự nhiên của mình, chiêm nghiệm cuộc sống
bằng tâm trạng hồn nhiên của đứa trẻ lần đầu được khám phá thế giới.
Thiếu nữ lội qua suối
Mặt trời nhấp nhô mấy lần
Mới lặn
(Chiều tà – hoa
giấu mặt)
Vẻ đẹp
của người con gái trong độ thanh xuân được cảm nhận từ cái tôi bản thể đã làm thay đổi cả thời gian vũ trụ, khiến mặt trời
nhấp nhô mấy lần, trời đất không còn tuân theo quy luật của muôn đời nữa.
Con bướm
chờ hoa sen nở
Đuổi không bay
(Con mắt nghiêng 33 – hoa giấu mặt)
Con bướm
quẩn quanh, trực chờ bông hoa nở để tận hưởng hương thơm cũng giống như con
người, luôn luôn khát khao cái đẹp tự nhiên, sống chết vì cái đẹp. Chính nhà
thơ cũng đã từng ước muốn, hãy để cho thiên nhiên dạy chúng ta cách yêu.
Như vậy,
dấu ấn hiện sinh thể hiện sắc nét khi nhà thơ đi sâu vào khai thác cái tôi bản thể, coi đó như một cá thể độc
đáo và duy nhất, trung tâm của cái vô cùng. Từ đó, Mai Văn Phấn đã đưa người
đọc trở về với niềm an nhiên của sự sống nguyên sinh trong lòng đời hôm nay.
2.2.3.
Cái tôi ý thức và vô thức:
Chủ nghĩa
hiện sinh khẳng định con người phải được thừa nhận trong thực thể trọn vẹn,
không chỉ hàm chứa tri thức, ý thức mà còn có cả những vô thực, trực giác,
những mảng tối trong tinh thần mà lý trí không thể chạm tới. Tư tưởng này cũng
in hằn dấu ấn trong thơ Mai Văn Phấn khi ông xây dựng lên hình ảnh của cái tôi
tự do vẫy vùng trong miền trực giác, tâm linh sâu thẳm.
Nói tới ý
thức, ta thường nghĩ tới khả năng nhận thức thế giới một cách khách quan, nhạy
bén và chuẩn xác thông qua sự chỉ dẫn của đầu óc con người. Nhận thức lý trí
được hình thành dựa trên sự hoạt động của năm giác quan (thị giác, thính giác,
xúc giác, vị giác và khứu giác). Còn trực giác cho phép ta cảm nhận những gì mà
năm giác quan không thể thấy, những thứ mà ý thức khó lòng có thể giải mã được.
Những vô thức được sinh ra từ trực giác mạnh sẽ tạo ấn tượng mạnh, manh tinh
thần tự do, không bị kìm nén bởi bất kì một quan niệm nào xuất phát từ ý thức.
Sự thống
nhất giữa cái tôi ý thức và vô thức
đã lý giải phần nào sự thành công trong thơ Mai Văn Phấn. Những cảm thức ấy
được sinh ra “mang tinh thần tự do, biên độ của nó không giới hạn, thể tài
không hạn định, trải nghiệm và triết luận không hạn hẹp, cảm thức về cá thể và
vũ trụ, về chung và riêng từ những mặc nhiên của ý thức và vô thức” [45].
Cái tôi trong thơ không chỉ phản ánh hiện
thức thông qua sự tri ngộ của ý thức, của lí trí tỉnh táo mà còn đi sâu vào thế
giới hư ảo, linh thiêng của tâm linh con người với câu tụng niệm, tiếng chiêng,
với nhang khói tỏa hương, cuộc hóa vàng, những linh hồn và cả những mảnh vỡ của
ánh trăng trên cây... Tất cả tưởng như là phi lý nhưng rất có lý – cái lý ở bề
sâu cảm giác tâm linh. Chỉ bằng những nhận thức sâu sắc của lý trí cùng với
miền vô thức, cái tôi đã thể hiện
được những hình ảnh vụt hiện. Cái vô thức bao giờ cũng hiện lên một cách không
tự giác, phản ánh môi trường sống, quan niệm thẩm mĩ của thi nhân. Dấu ấn vô
thức hiện lên rất rõ qua việc sáng tạo hình tượng trong hoa giấu mặt. Nhiều hình
tượng thơ cứ trở đi trở lại ở nhiều bài thơ như tiếng chuông, con cá, ánh trăng
hai cặp hoa - nước,... Theo thống kê, trong tập thơ này đã có 13 bài thơ xuất
hiện hình ảnh của con cá với các trạng huống khác nhau như: cá quẫy, cá nhảy,
linh hồn cá, cá lao vào cá, bụng con cá mổ, con cá giữa những dòng hải lưu...
Những con cá đôi khi phải bơi ngửa, bơi ngược - những kiểu bơi bất thường, vất
vả chống chọi lại với dòng hải lưu đầy bất trắc.
Cạn trơ hai bờ sông
Bụng con cá mổ
Phơi sương muối
(Nước ròng – hoa
giấu mặt)
Con cá
Giữa những dòng hải lưu
Hao gày
(Phân vân – hoa
giấu mặt).
Ngoài
hình tượng con cá thì tiếng chuông xuất hiện trong ba tập thơ cũng tương đối
nhiều. Lí giải về điều này, nhà thơ giải thích rằng quê hương ông ở Kim Sơn –
Ninh Bình, gần nhà thờ đá nên tiếng chuông đã in dấu vào tiềm thức và ám ảnh
vào vô thức.
Vọng tiếng chuông xua mây đen
(Thu đến - Bầu
trời không mái che)
Hôn và cầm tay anh
Tiếng chuông gió phủ dầy
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che)
Tiếng chuông gió
Rơi trong đêm những hạt sáng
(Tĩnh lặng - Vừa
sinh ra từ đó).
Những
hình tượng trên thường xuyến xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn như một ám ảnh từ
vô thức. Cái tôi trong thơ ông như
đang sống trong khoảnh khắc sâu kín nhất của tâm hồn và là tiếng nói tự do của
ý thức và vô thức.
Tiểu kết:
Với quan
niệm văn chương luôn phải đi tìm cái đẹp, Mai Văn Phấn thổi hồn mình vào thơ, tạo cho nó một sức
sống riêng, một vẻ đẹp riêng và lạ so với các nhà thơ đương đại. Thơ ca của ông
là hành trình đơn độc để tìm kiếm cái đẹp. Đó là cái đẹp của sự sinh nở, giao
hợp của muôn loài tạo nên một thế giới ngồn ngộn, đa tầng cộng sinh; cái đẹp
thuần Việt, mang tính dân tộc và đậm màu sắc tôn giáo.
Thơ Mai
Văn Phấn khó đọc, một phần bởi nhà thơ luôn tập trung đi sâu, khai thác chiều
sâu bản thể của con người. Thơ của ông chính là nơi bản ngã gặp gỡ với tha
nhân. Ở đó, dấu ấn hiện sinh hiện lên tương đối rõ nét khi nhà thơ xây dựng lên
một thế giới đầy những cảm giác siêu nghiệm, coi mỗi cá nhân như một vũ trụ ẩn
chứa đầy những bí ẩn. Thế giới, con người không chỉ được nhìn nhận thời gian ba
chiều: quá khứ - hiện tại – tương lai mà còn được soi chiếu trong đời sống tâm
linh phức tạp. Nhà thơ đi sâu khai phá những phần nội tâm bí ẩn, những vùng kín
của tâm hồn mà phần lí trí không thể nào chạm tới. Từ đó, người đọc dễ dàng
nhận thấy những ngổn ngang, phức tạp trong đời sống của con người hiện đại.
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỘC ĐÁO VỀ NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1. Các hình ảnh mang tính biểu tượng:
Văn học
không bao giờ là sự bê nguyên hiện thực cuộc sống và trong tác phẩm - thế giới
nghệ thuật trong tác phẩm là một thế giới hư cấu, giống thật chứ không phải
thật. Để tạo nên một thế giới như thế, người nghệ sĩ phải sử dụng nhiều yếu tố,
trong đó có những biểu tượng nghệ thuật. Biểu tượng nghệ thuật là những hình
ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa, gây được ấn tượng
sâu sắc với người đọc, là sự mã hóa cảm xúc, ý tưởng của chủ thể sáng tác. Điều
đó có nghĩa là biểu tượng phải bao gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nó
vừa mang một lớp nghĩa cố định nào đó đồng thời lại tiềm ẩn khả năng mở ra những
ý nghĩa khác trong sự cảm nhận của con người.
Đều mang
bản chất kí hiệu, tức là đều gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt nhưng cần
phân biệt rõ tính biểu tượng và tính tượng trưng. Tượng trưng thường chỉ gợi ra
một nghĩa cố định, khi nói đến nó người ta lập tức nghĩ ngay đến một nghĩa nào
đó, ví dụ như khi nói đến cây trúc, người ta lập tức nghĩ đến cốt cách của
người quân tử. Nếu như tượng trưng nghiêng về tính ổn định về mặt ý nghĩa, dễ
trở thành công thức ước lệ thì biểu tượng nghệ thuật lại luôn luôn đổi mới. Nó
vừa có xu hướng lưu giữ dấu ấn của lịch sử văn hóa lại vừa không thể tách rời
việc thể hiện tinh thần cá nhân của người nghệ sĩ.
Đọc thơ
Mai Văn Phấn, chúng ta dễ dàng nhận thấy hệ thống hình ảnh - biểu tượng xuyên
suốt hành trình sáng tác, được nhà thơ
dụng công xây dựng và biểu đạt rất rõ nét. Đó là những hình ảnh cứ trở đi trở
lại nhiều lần với dụng ý nghệ thuật riêng. Những biểu tượng này được nhà thơ
lấy cảm hứng từ truyền thống thơ ca dân tộc, tiếp thu những mẫu gốc trong kho
tàng văn hóa nhân loại đồng thời cũng mang đậm dấu ấn tư tưởng của tác giả.
Những hình ảnh mang tính biểu tượng xuất hiện trong ba tập thơ của Mai Văn Phấn
khá nhiều và đa dạng, có thể chia là ba nhóm chính: hình ảnh đất đai, sông nước, cỏ cây; hình ảnh ánh sáng, ban mai, ngọn lửa; hình ảnh người mẹ, người tình. Các biểu tượng này
đan cài, đồng hiện trong thơ một cách tích cực tạo thành một chuỗi biểu tượng
chồng xếp lên nhau, tạo nên một thế giới nghệ thuật đa tầng đa nghĩa và đầy
biến ảo.
3.1.1.
Hình ảnh đất đai, sông nước, cỏ cây:
3.1.1.1. Hình ảnh đất đai:
Trong tư
tưởng văn hóa của nhân loại, đất đai là biểu trưng cho người mẹ, mang tính mẫu
và gắn liền với sự sinh sôi, nảy nở của muôn loài. Theo thần thoại Hy Lạp, mẹ
đất Gaia sinh ra Bầu trời để che phủ khắp thế gian, là nơi trú ngụ của các vị
thần, đẻ ra núi Montaqne cao vút, sừng sững, biển Pontos mênh mông. Cũng chính
nữ thần đất mẹ đã sinh tạo ra loài người, rồi lại che chở, bảo vệ cho con người
qua hàng ngàn năm. Từ quan niệm đó, đất đai trở thành biểu tượng cho sự phồn
sinh, sự sinh sôi và nảy nở, nơi bắt nguồn của sự sống.
Khảo sát
qua ba tập thơ Bầu trời không mái che, hoa giấu mặt và Vừa sinh ra từ đó, có
thể thấy hình ảnh đất đai cùng với những đồng vị của nó xuất hiện với mật độ
dày đặc. Đất đai trong thơ Mai Văn Phấn trước hết mang ý nghĩa biểu tượng cho
sự sinh sôi của sự sống:
Con sơ sinh trên đất
Bơi qua sông con nòng nọng đứt đuôi
(Cửa Mẫu – Bầu
trời không mái che)
Bó gối những gốc cây
Nhắm mắt ngọn đồi gió
Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi
Ngày mai mặt đất này
Và thế giới sẽ đổi khác
(Mùa Trăng - Bầu
trời không mái che)
Rũ bỏ vỏ hạt tràn sương nắng. Tâm trái đất hút chùm rễ
non. Lá mầm che mặt đất. Gió bão có thể bẻ gẫy, sâu bọ có thể đục khoét, làm
mồi cho gia cầm, lưỡi cuốc, lưỡi mai vô tình có thể bằm nát nơi khởi đầu bạt
ngàn diệp lục, nơi đại thụ ngàn năm. Sự sống ra đời như ta khát khao vùi lưỡi
mềm vào thân thể nhau, như trời đất ùa xuống chật căng mầm hạt.
(Giấc mơ cây - Vừa
sinh ra từ đó)
Tác giả
thường xuyên sử dụng cặp hình ảnh đất - hạt giống như một sự gắn quện để tạo
nên sự sống phồn sinh. Thiên nhiên cũng như con người, luôn đẹp nhất trong
khoảnh khắc giao hợp để sinh tạo những mầm sống mới. Dù cho cuộc sống có khắc
nghiệt, khó khăn, gió bão bẻ gãy, sâu bọ đục khoét, lưỡi cuốc, lưỡi mai,...
nhưng đất vẫn vững chãi ôm ấp và chở che sự sống đang chớm sinh sôi, nảy nở.
Không chỉ
mang ý nghĩa như một người mẹ khởi sinh ra muôn loài, đất còn là nơi dung dưỡng
và bảo vệ sự sống:
Đặt con lên đất
Lòng sông đau xé thân đêm
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che)
Như vậy,
hình ảnh đất đai trong thơ Mai Văn Phấn được hiểu như một biểu tượng cho sự
phồn sinh, “nơi cội nguồn thế giới”, nơi bắt đầu của sự sống.
3.1.1.2. Hình ảnh sông nước:
Nước là
một dạng thức thực thể của thế giới, vốn được coi là “vật chất nguyên thủy” của
vũ trụ. Nước là nguồn sống tự nhiên quan trọng bậc nhất của loài người. Chính
vì thế những dòng sông lớn trên thế giới luôn luôn là khởi nguyên của các nền
văn minh lớn. “Những ý nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm
ưu thế: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này
thường gặp trong những tiểu thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình
tượng đa dạng nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất” [4; tr.709]. Nó là nguồn
gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả
năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và
đức hạnh. “Nước còn là nguồn gốc và phương tiện chuyển tải sự sống, là hình
tượng của hơi thở sự sống” [4; tr.710]. Nước được coi là biểu tượng phổ biến về
sự phì nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào.
Nước là biểu tượng của những năng lượng vô thức, của
những sức mạnh không định hình của tâm hồn, của những động cơ thầm kín và không
cảm nhận thấy. Nước còn trở thành biểu tượng của đời sống tinh thần và của
Thánh Linh, Chúa trời ban cho loài người. Nước của sự sống được coi là một biểu
tượng về nguồn gốc vũ trụ. Nước làm cho thanh khiết, chữa khỏi bệnh, làm trẻ
lại vì vậy đưa con người vào cõi vĩnh hằng. Bản thân nước có tính năng làm sạch
và cũng vì lý do đó, được coi là thiêng liêng. Vì thế, nước được dùng trong các
nghi lễ tắm gội, nước có hiệu lực xóa bỏ mọi lỗi lầm và mọi vết nhơ. Ngoài ra,
nước tượng trưng cho sự sống: nước hồi sinh mà con người tìm được trong cõi tối
tăm, có tính năng làm sống lại.
Trong thơ Mai Văn Phấn, nước và những đồng vị của nó
như sương, mưa, mây mùa, sông biển, sóng… xuất hiện với mật độ dày đặc và mang
nhiều tầng bậc ý nghĩa. Biểu
tượng này được nhà thơ dụng công xây dựng như một biểu tượng mẫu gốc để rồi từ
đó phái sinh ra các biểu tượng khác, tạo nên một thế giới dồi dào và tươi trẻ. Trước hết, nước trong thơ ông mang ý nghĩa biểu tượng của sự tái
sinh, của khả năng sinh sôi nảy nở của vạn vật. Nó là nguồn cung cấp dinh dưỡng
cho đất để từ đó khởi sinh lên những mầm sống mới:
Con hớp những giọt sương
(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)
Mạch nước khai thông dòng thác
Ướt bì bõm
Len qua hàng lúa trĩu bông
Em cũng kể giấc mơ
Không phải giếng mà con kênh đầy nước
Em chất lên từng bó lúa vàng
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che).
Đối với Mai Văn Phấn, cái chết được xem như một sự
khởi đầu mới, mở ra một sự sống mới, cứ thế hóa hóa sinh sinh, vô cùng vô tận.
Bởi vậy mà hình ảnh nước còn mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tái sinh, là điểm
tựa chở che cho sự sống mới được định hình.
Từng hạt mưa rây rây xuống cỏ
Đọt măng non căng mặt đất mềm
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che)
Nằm trong ý nghĩa biểu tượng văn hóa chung của nhân
loại, nước trong thơ Mai Văn Phấn còn mang ý nghĩa như một sự thanh tẩy, làm
sạch và xóa tan những bụi bặm, đen tối của cuộc đời.
Nước ấm nóng mở đầu nghi lễ thanh tẩy
Lăn trơn anh chuỗi hạt xổ tung
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che).
Sóng lớp lớp
Rửa chân
Con còng gió
(Con mắt nghiêng 16 – hoa giấu mặt)
Tuy nhiên, không dừng lại ở những ý nghĩa văn hóa lâu
đời của nhân loại, hình ảnh nước còn được phái sinh ở nhiều lớp nghĩa mới.
Trong nhiều bài thơ, nước không chỉ nơi nuôi dưỡng mầm sống, che chở cho sự
sống mới định hình mà nó còn là những hiểm nguy:
Con cá
Giữa dòng hải lưu
Hao gày
(Phân vân – hoa
giấu mặt)
Rõ ràng
trong bài thơ trên, dòng hải lưu - đồng vị của nước đại diện cho mối hiểm nguy
đe dọa đến sự sống của con cá, nó phải vất vả đối chọi với dòng hải lưu và môi
trường đầy bất trắc. Đó là một thế giới luôn rình rập và đầy rẫy những bất an.
Nước còn là môi trường xấu, xám đen khiến con người và muôn loài trở nên ngột
ngạt:
Nước đục
Cá lao vào cá
Mưa xuân
(Con mắt nghiêng 25 – hoa giấu mặt)
Mây xám
Biển đen
Cá ngoi mặt nước
(Con mắt nghiêng 72 – hoa giấu mặt)
Nước là mối hiểm nguy đồng thời cũng chính là môi
trường tôi luyện lòng dũng cảm của con người, vượt qua những sóng gió của cuộc
đời để hướng đến sự sống vĩnh hằng:
Chợt nhớ mùa nước lớn ngập tràn hang dế
Lóc bóc tiếng bong bóng phun lên từng đợt
Cho con biết được đâu là cửa hang…
(Cửa Mẫu - Bầu
trời không mái che).
Ngoài ra, hình ảnh nước trong thơ Mai Văn Phấn còn gợi
đến những cung bậc nồng nàn trong tình yêu nam nữ. Nước dịu dàng mà dai dẳng,
quấn quýt níu giữ đôi trai gái thuở mặn nồng :
Nước chảy
Cứ chảy
Giữ đôi ta lại
(Tỉnh dậy
trong mưa - Vừa sinh ra từ đó)
Như vậy, vượt lên ngoài khung ý nghĩa biểu tượng văn
hóa, nước trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ là nguồn sống, sự tái sinh và thanh
tẩy mà còn tượng trưng cho những môi trường khắc nghiệt mà con người phải trải
qua đồng thời cũng gợi đến tình yêu và tâm hồn của con người.
3.1.1.3. Hình ảnh cỏ:
Ngay từ
mở đầu bài viết Mai Văn Phấn - những chặng đường sáng tạo, PGS. TS Đào Duy Hiệp
đã chọn hai câu thơ: “Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với
ai” làm câu đề từ. Điều đó phần nào thể hiện ý nghĩa và vị trí của hình ảnh cỏ
cây trong hệ thống biểu tượng thơ Mai Văn Phấn. Hình ảnh cỏ xuất hiện khá nhiều
trong thơ ông ngay từ giai đoạn đầu mà theo thống kê của Nguyễn Tham Thiện Kế
thì “Mai Văn Phấn sở hữu dư một trăm linh một câu thơ về cỏ” [29; tr. 373].
Biểu tưởng này như một ám ảnh trong tâm thức sáng tạo của thi nhân.
Xưa
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”; người châu Âu
cũng có câu: “Cỏ dại thường không bao giờ chết” để khẳng định sức sống tiềm
tàng và mãnh liệt của cỏ. Tiếp thu tinh thần đó, hình ảnh cỏ trong thơ Mai Văn
Phấn trước hết thể hiện sức sống dồi dào, muôn đời và bất diệt. Ở giai đoạn thứ
ba trong hành trình sáng tạo, nhà thơ sử dụng hình ảnh này nhằm khẳng định tính
dục, sự sinh sản và sức khỏe của “cây đời”. Hình ảnh cỏ ở đây dù vẫn mang hơi
hướng mộng mị ở hai giai đoạn trước nhưng thấm đẫm dục tính nhân sinh:
Mưa cơ thể em sáng láng
Phởn phơ vũ điệu cỏ cây
[…]
Mặt cỏ phun nhuệ khí trùm lấp
Phấn khích giờ tạo lập thiên địa
Mùa mới đợi chờ cỏ xanh cắt sát gốc
Những móng vuốt tì chân cỏ bật căng
Cỏ non kinh động
Càng chồi lên mở lại những chân trời.
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che).
Nếu thơ
ca cổ điển xem cỏ là tượng trưng cho thân phận thấp hèn, bèo bọt dễ bị chà đạp,
vùi dập: “Rộng thương cỏ nội hoa hèn/ Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau”
(Nguyễn Du) thì cỏ trong thơ Mai Văn Phấn lại mang một sức sống mãnh liệt.
Không còn sự hoang tàn, héo úa mang thay vào đó là sự chói lòa của sự sống mới
được tái sinh:
Không phải nơi nào khác
Mà chính từ bông cỏ may kia
Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp
(Nơi cội nguồn thế giới - Vừa sinh ra từ đó)
Chính vẻ
đẹp bình dị, thân quen của bông cỏ may đã làm nên vẻ đẹp của một ngày hay của
cả thế giới. Từ trong cội nguồn thế giới phát ra một thứ ánh sáng của “bông cỏ
may vừa mở”, một vẻ đẹp hoang tàn, man dại và dai dẳng. Như vậy, biểu tượng cỏ
trong thơ mang ý nghĩa về tính dục, sự sinh sản và sức sống mãnh liệt, bất
diệt, muôn đời.
Tái hiện
một thế giới phồn sinh hóa sinh bất định, thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn
lúc nào cũng mơn mởn, ngập tràn sự sống, một sinh quyển tươi trẻ, mọi vật như
“vừa sinh ra từ đó”, từ nơi cội nguồn của thế giới.
3.1.2.
Hình ảnh ánh sáng, ban mai, ngọn lửa:
3.1.2.1. Hình ảnh ánh sáng:
Hình ảnh
ánh sáng xuất hiện trong thơ không nhiều nhưng các đồng vị của nó như cầu vồng,
ánh ngày, ngọn nến, ánh đuốc, ánh lân tinh, que diêm, than hồng, trăng sao… lại
chiếm số lượng rất lớn.
Ánh sáng
trong thơ Mai Văn Phấn được đặt trong thế đối lập với bóng tối để từ đó làm nổi
bật lên sức mạnh của ánh sáng trong vũ trụ. Nếu bóng tối đại diện cho sự hủy
diệt, héo mòn và chết chóc thì ánh sáng là sự sống, sự sinh sôi của muôn loài.
Một quy luật tất yếu là nơi đâu có ánh sáng thì nơi đó có sự sống, có sự phì
nhiêu, sinh nở, sự sống cuộn trào. Ở nhiều đoạn thơ, ánh sáng tưởng chừng như
bị bóng tối nuốt chửng, xâm chiếm nhưng cuối cùng, ánh sáng vẫn bừng lên, sự
sống cũng từ đó được hồi sinh:
Một ngày ánh sáng rút đi, mọi vật quanh ta chỉ là bóng
tối. Cánh đồng tối ôm giống lúa tối. Thủy triều tối cuốn đàn cá tối. Giọng đơn
ca tối trên nền nhạc tối. Lớp học tối nhầm lẫn giáo tình tối. Hồ sơ tối giấu
kho tài liệu tối. Đại lộ tối đổ về quảng trường tối. Cuộc diễu binh tối phô
trương vũ khí tối. Bàn tay tối buông con bồ câu tối… Vậy từ nay tôi tiết kiệm
và tàng trữ ánh sáng, tích lũy và khúc xạ ánh sáng, nâng niu và giành giật ánh
sáng, tôn kính và giấu bớt ánh sáng, yêu thương và ăn cắp ánh sáng, thanh sạch
và vươn trong ánh sáng. Trên cái nền giao tranh tối – sáng ấy, bản tính sẽ được
trỗi dậy và từ đó con người nhận diện ra chính mình.
(Quang phổ - Vừa
sinh ra từ đó)
Trong
đoạn thơ trên, tác giả tái hiện cuộc phân tranh giữa ánh sáng và bóng tối mà ở
đó, người đọc tưởng chừng như sự thắng thế đang thuộc về với màn đêm, “mọi vật
quanh ta chỉ là bóng tối”. Nhưng cũng chính từ sự thắng thế đó, nhân vật tôi mang trong mình khao khát vươn lên
với ánh sáng, chạm tới sự sống, tôn thờ thứ ánh sáng thanh sạch.
Ánh sáng
Chẻ dọc thân cây
Bên này màu vàng
Nửa kia tím thẫm
Phía khác xù xì
Nhựa hai bên cũng khác
Trắng và đen
Nhắm mắt thở nhẹ
Cây đang lớn
Hai nửa cây cùng một màu hoa
Nở chi chít dọc lưỡi rìu ánh sáng
(Tĩnh lặng - Vừa
sinh ra từ đó)
Ánh sáng
hiện lên với vai trò là ranh giới đến phân biệt hai vùng tối – sáng, giữa “bên
này” màu vàng, nhẵn, trắng và “nửa kia” tím thẫm, xù xì. Nó như một ranh giới
mong manh chia cắt thân cây. Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối ở đây dường
như cũng chính là sự mâu thuẫn, giao tranh giữa phần Con ích kỉ, hẹp hòi với phần Người
trong trong sáng, lương thiện. Ánh sáng đóng vai trò như một lưỡi rìu công lý,
soi tỏ để con người biết đâu ra đường biên giữa thiện và ác.
Ánh sáng
không chỉ biểu tượng cho sự thanh sạch và cao quý mà còn là phương tiện thanh
tẩy tâm hồn. Ánh sáng bừng lên đồng nghĩa với sự sống ngời hiện, với việc con
người được thanh tẩy để trở về với giá trị chân - thiện - mỹ tự nhiên, những vẻ
đẹp vốn có mà tạo hóa đã ban tặng.
3.1.2.2. Hình ảnh ban mai:
Ban mai
là cái thuở nguyên sơ, trong trẻo của buổi đầu ngày, mang ý nghĩa hồi sinh, có
mặt trong rất nhiều sáng tác của Mai Văn Phấn. Nỗi khát khao, mong ngóng ánh
ban mai đã có trong rất tác phẩm của ông ngay từ những chặng đầu sáng tác như Kinh cầu ban mai, Cầu nguyện ban mai,… Hình ảnh này cùng với những đồng vị của nó như
hừng đông, nắng sớm, sớm mai, rạng đông, bình minh… cũng xuất hiện nhiều lần
trong chặng đường sáng tạo thứ ba này.
Ban mai
xuất hiện cũng là khi cuộc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối kết thúc, màn
đêm bị chôn vùi, mọi vật sẽ được tái sinh trong một sức sống mới và tiếp tục
sinh nở, phát triển dưới ánh sáng của ban mai. “Trong kinh thánh, từ này chỉ
thời khắc của những ân huệ thánh thần và công lí loài người. Nó tượng trưng cho
thời gian khi ánh sáng còn trong sạch, cho những sự khởi đầu chưa có gì là đồi
bại, hư hỏng, mất tín nhiệm. Ban mai là biểu tượng vừa của trong sạch, vừa của
hứa hẹn: đó là giờ phút của cuộc sống thiên đường. Đó là giờ phút của niềm tin
bản thân, ở người khác, ở cuộc đời” [4; tr. 51].
Ban mai
là ánh sáng của đất trời lúc ngày mới. Trong thơ Mai Văn Phấn, nó còn là ánh
sáng mang đến sự sống cho muôn loài, là hiện thân của sự sinh sôi nảy nở:
Hừng đông sinh muông thú, trái cây, tiếng động
Hoa lồng đèn, mai dạ thảo tươi dòng
Màu rạng đông chìm vào đất
Tan sóng lớn
Hắt vòm lá xanh
Con vành khuyên xóa mọi dấu vết
Ngực sơn dương mở lớn sau lưng hừng đông
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che)
Hừng đông
Miệng chim non
Hớp những đám mây
(Ngày mới – hoa
giấu mặt)
Không chỉ
vậy, ban mai trong thơ Mai Văn Phấn còn xuất hiện trong hình dạng nham nhở, méo
mó như một lời cảnh báo về nỗi nguy hiểm bất thường:
Cánh đồng đã gặt
Con cò tìm nơi đậu
Bình minh nham nhở
(Lại khởi đầu – hoa
giấu mặt).
Như vậy,
có thể thấy, đối với Mai Văn Phấn, ban mai của ngày mới mang đến sự sống cho
muôn loài, gắn với niềm hạnh phúc, may mắn và là hiện thân của sự sinh sôi, nảy
nở, sự tái sinh.
3.1.2.3. Hình ảnh ngọn lửa:
Ban mai
có thể đẩy lùi, xóa tan bóng đêm thì ngọn lửa lại soi tỏ bóng đêm. Nếu ban mai
là ánh sáng của đất trời, của thiên nhiên vũ trụ thì ngọn lửa là ánh sáng do
con người tạo ra. Ngọn lửa có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với loài người,
chỉ khi tìm ra lửa, con người mới chính thức bước vào nền văn minh mới. Chính
lửa đã giúp con người giã từ cuộc sống mê muội, tối tăm trước đó. Vì vậy, ngọn
lửa không chỉ mang đến sự sống mà còn tượng trưng cho nền văn minh của loài
người.
Ngọn lửa
trong thơ Mai Văn Phấn tượng trưng cho lòng ham sống, sự cuồng nhiệt của tuổi
trẻ, của tình yêu. Những đồng vị của lửa như ngọn nến, đèn lồng, đèn hoa đăng…
trong nhiều thời khắc khi được thắp lên tạo nên một khung cảnh nên thơ, một bầu
không khí lãng mạn. Nó gắn liền với khoảng khắc hạnh phúc, những thăng hoa
trong tình yêu:
Hôn em một lần thắp thêm ngọn nến
Đặt chúng bên nhau
Anh sợi tim nến
Lọn tóc sáng
Ý nghĩ làm ngọn lửa xòe
Nền nhà trôi đêm hoa đăng
Ai vừa thả mong ước
May mắn sớm mai
(Hình đám cỏ - Bầu
trời không mái che).
Không chỉ
mang ý nghĩa như một biểu tượng văn hóa, ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn còn
được phái sinh thành nhiều lớp nghĩa khác. Ngọn lửa đôi khi còn gắn liền với
những gào thét dữ dội của thiên nhiên, báo hiệu một biến cố lớn đang xảy ra.
Chẳng hạn như trong bài thơ Rời tay để
bạn đi, bày tỏ nỗi thương tiếc của tác giả đối với nhà thơ Dương Kiều Minh.
Câu thơ mở trái tim đau
Ngọn lửa thiêu đốt
Mỗi cuối thu
Những bờ sương nước…
(Rời tay để bạn đi - Vừa sinh ra từ đó)
Ngọn lửa
thiêu đốt trái tim của nhà thơ là ngọn lửa của tình bạn, của sự xót thương và
đau đớn khi mất đi một người bạn thơ. Nó gắn liền với tang thương của thiên
nhiên, gió sông Nhuệ thổi mạnh, khoảnh khắc cuối ban mai. mặt hồ ướt đẫm, lớp
lá thu già,...
Như vậy,
hình ảnh ngọn lửa trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ tượng trưng cho lòng ham
sống, sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ, những phút giây lãng mạn trong tình yêu mà
đôi khi nó còn thể hiện những thiếu khuyết hay sự mất mát của tình cảm.
3.1.3. Hình ảnh người mẹ, người tình:
3.1.3.1.
Hình ảnh người mẹ:
Trong thơ Mai Văn Phấn, Mẫu (người mẹ) đại
diện cho sự sinh sôi, nảy nở, trù phú. Mẫu còn là đấng toàn năng với các chức
năng sinh thành, che chở, bảo vệ, hướng dẫn và cùng con vượt qua bao sóng gió
của cuộc đời.
Trong quan niệm văn hóa của người Việt, thờ
Mẫu đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, mang lại cho con người sức
mạnh, niềm tin về sức khỏe, tài lộc, may mắn. Mẫu là biểu tượng của sự bao bọc
đồng thời cũng là đại diện của sự sinh sôi nảy nở, trù phú. Vì thế mỗi con
người khi cảm thấy cô đơn, mất niềm tin và cuộc sống đều tìm về Mẫu như tìm đến
thứ thanh cao và trong sáng của tâm hồn.
Mang theo niềm tin tâm linh ấy, Mai Văn Phấn
trong suốt hành trình thơ đã xây dựng lên hình tượng người mẹ với sức mạnh toàn
năng. Đặc biệt, trong phần Cửa Mẫu (Bầu
trời không mái che), nhà thơ đã tái hiện lại Mẫu với sức mạnh toàn
năng. Chính Mẫu là người đã khởi sinh ra muôn loài, lập thành vũ trụ bao la.
Người mẹ ấy đã hoài thai đứa con, rồi nâng niu, yêu thương:
Mẫu nâng niu con ánh trăng
Tiếng chuyền cành tiếng hú
Da thịt con yêu trải sâu đêm tối
Dựng tầng mây mưa nguồn
(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che).
Người ta tin rằng trong bất cứ thời điểm nào,
mọi hoàn cảnh của cuộc sống, Mẫu với nhiều sự hóa thân khác nhau luôn luôn theo
sát, nâng niu, bảo vệ và dẫn đường cho con vượt qua mọi khóc khăn, thử thách và
bão tố của cuộc đời.
Ngọn cây vươn mỏ con chim
Đang cúi xuống mớm vào miệng con
từng hớp gió
(Cửa Mẫu - Bầu trời không mái che)
Biểu tượng người mẹ trong thơ Mai Văn Phấn
mang ý nghĩa về sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật. Mẹ là người hoài thai ra đứa
con, cũng chính bao bọc, chở che, dẫn lối chỉ đường cho con trong suốt chặng
đường đời về sau.
3.1.3.2. Hình ảnh người tình:
Hình ảnh người tình xuất hiện rất nhiều trong
thơ Mai Văn Phấn với danh xưng em -
kẻ đang yêu đắm say, rạo rực và tình tứ:
Hôn em thật lâu, ghi dấu
Nơi đây. Giờ này
Đám mây kia xuống thấp
Buổi uyên nguyên trái đất quay
về.
(Tỉnh dậy trong mưa - Vừa sinh ra từ đó).
Tình yêu luôn có một tiếng nói riêng, một thứ
quyền lực riêng không thể giải thích được theo logic thông thường. Cái khoảnh
khắc diệu kì của nụ hôn với em dường
như làm xoay chuyển của đất trời, khiến đám mây như sà xuống gần hơn, vũ trụ
quay lại thuở nguyên sơ, tinh khôi ban đầu. Hình tượng người tình đã phần nào
thể hiện được những nồng nàn, hạnh phúc của tình yêu. Em là chốn bình yên để nhà thơ bám víu, nương tựa, trở về sau những
cơn phong ba bão táp, luôn luôn gắn bó, quyện hòa trong anh:
Kiếp
trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm
mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi
khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên
không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh níu để lại vết
bóng hoàng hôn…
(Buông
tay cho trời rạng - Vừa sinh ra từ đó)
Trong thơ, Mai Văn Phấn luôn hướng đến cái
đẹp của sự phồn sinh, hóa sinh, coi trạng thái sinh nở, giao phối là biểu hiện
đẹp nhất vì nó góp phần tái sinh một thế giới mới. Vì thế, hình tượng người
tình còn được tôn vinh như thiên thần trong trạng thái phồn sinh mà ở đó, thiên
tính mẫu và tính nữ hài hòa với nhau tạo nên một vẻ đẹp rạng ngời. Điều đặc
biệt ở nhà thơ khi viết về hình ảnh này là người tình trong thơ không hiện lên
như một thể tính gợi dục mà thánh thiện, tinh khiết nhưng không kém phần nóng
bỏng: “Đôi môi anh làm mỏ chim ong hút nhụy”. Người tình trở thành hình ảnh có
sức ám ảnh lớn trong sáng tạo nghệ thuật và cứu rỗi con người thoát khỏi mọi
đảo điên của cuộc đời. Đứng trước em,
nhà thơ chỉ nhận mình là con kiến cần được em
che chở:
Là con kiến nhỏ trong thế giới em
Có thể bị nghiền nát dưới tảng đá
vỡ
Dưới gót giày
Mũi khoan, lưỡi cuốc
Độ nóng que hàn
Tiếng rít từng bánh sắt
Bị thiêu rụi trong đám cháy rừng
Thành tro bụi giữa tầng sét đánh
Biết thế…
Vì biết thế
Nên đỉnh đồi
Hay tận hang sâu
Anh hóa thân thành muôn ngàn loài
kiến
Kiêu hãnh bò đi trên thân thể em
(Hình đám cỏ - Bầu trời không mái che)
Như vậy, qua con mắt của người nghệ sĩ, hình
tượng người tình thể hiện sự mãnh liệt, nồng nàn trong hạnh phúc lứa đôi, là
chốn bình yên cứu rỗi anh khỏi những đảo điên của cuộc đời.
3.2. Cấu
trúc bài thơ:
3.2.1. Thể thơ:
3.2.1.1.
Thơ tự do:
Trong tiến trình phát triển của văn học, thơ
tự do xuất hiện ngay từ thời kì nền thơ Việt Nam chuyển sang một thời đại mới –
“thời đại trong thi ca” mà mở đầu là phong trào Thơ mới. Đây được xem như một
bước tiến quan trọng của thơ trong công cuộc cách tân thể loại. Thơ tự do là
thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó là hợp thể phối xen các
đoạn thơ là theo các thể thơ khác nhau hoặc hoàn toàn tự do. Đặc điểm đáng chú
ý của thể thơ này là phá khổ và có thể mở rộng câu thơ, kéo dài câu thơ thành
hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng in, có thể sắp xếp thành các hình thức đặc biệt
để tô đậm như bậc thang hay vắt dòng… hoặc có thể xen kẽ các câu ngắn dài thoải
mái.
Theo GS. TS. Mã Giang Lân, thơ tự do chủ yếu
nói đến cấu trúc hình dáng của nó, số chữ trong câu không hạn định, có thể một
chữ đến mười chữ hoặc nhiều hơn. Số câu trong khổ thơ cũng không hạn định, có
thể một câu đến nhiều câu, gieo vần cũng rất linh động, tự do, có khi không có
vần mà chỉ có nhịp. Bởi vậy mà thơ tự do ra đời để đáp ứng nhu cầu diễn đạt
tình cảm, cung bậc cảm xúc không giới hạn của con người hiện đại, giải phóng
cảm xúc thoát khỏi những ràng buộc chặt chẽ của những quy tắc về hình thức.
Thơ tự do là thể thơ chiếm tỉ lệ cao nhất
trong các sáng tác của Mai Văn Phấn. Thông qua thể thơ này, tác giả thường
hướng nhãn quan về phản ánh hiện thực cuộc sống và khám phá đời sống bên trong
của con người. Chính nhờ khả năng linh hoạt trong biên độ mở trên từng dòng thơ
đã giúp nhà thơ chuyển tải những tư tưởng nghệ thuật và tạo nên được những quan
niệm thơ độc đáo. Thời gian nghệ thuật không chỉ được nhìn nhận ở ba chiều quá
khứ – hiện tại – tương lai mà có khi con người con được sống ở chiều thứ tư của
thời gian – chiều của đời sống tâm linh. Tiết tấu của những dòng thơ như bị dồn
nén lại, lúc gấp gáp, khi lại lắng đọng trong mạch nguồn cảm xúc của chủ thể
trữ tình. Nếu tách những đoạn thơ này thành những câu thơ ngắn gọn hoàn chỉnh
thì khó có thể thể hiện được cái tôi
phức hợp nhiều cảm xúc bâng khuâng, hồi hộp, ngỡ ngàng, lo âu và chồng chất dự
cảm:
Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
Triu… uýt… huýt… tu hìu
Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý
nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo
Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những con
sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
Triu… uýt… huýt… tu hìu
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy bây giờ tôi nghe rất
rõ.
(Con chào mào - Bầu trời không mái che)
Thơ tự do đôi khi không phải là một hình thức
được định trước trong quá trình sáng tác mà là sự tìm kiếm tất yếu khi tâm hồn
nhà thơ đạt đến độ nhuần chín trong tư tưởng, cảm xúc. Không chỉ tự do trong
câu thơ, thể thơ này còn được kéo dài biên độ của đoạn thơ, bài thơ. Trong
nhiều bài thơ, Mai Văn Phấn đã thoát khỏi phong cách lãng mạn và hiện thực đơn
tuyến để tự do bộc lộ nội dung, tư tưởng. Chẳng hạn, bài thơ Đá trong lòng suối không xuất hiện dấu
chấm câu, không vần, không đăng đối mà đơn thuần chỉ tuân theo nhịp đập của tâm
hồn để trình bày những tư tưởng thẩm mỹ của tác giả. Trong không gian đa chiều,
bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên sinh động, mang vẻ đẹp ban sơ, tinh
khôi: “dây hoa leo đường mòn”, “bóng cây xao động”, “mưa bụi bay lung tung”,
“mùi ổi chín thơm len lỏi”… Và tâm thế “nhắm mắt an nhiên”, “ở yên chỗ đó” như
là một thông điệp mà nhà thơ muốn gửi tới người đọc, hãy để cho vạn vật được
mang vẻ đẹp tự nhiên như tạo hóa đã ban tặng.
Thơ tự do là thể thơ phân dòng nhưng không
theo một thể thức xác định, một cấu trúc thơ xóa bỏ hết mọi sự ràng buộc bên
ngoài. Hình thức vắt dòng được xem là tương đối phổ biến trong thơ Mai Văn
Phấn. “Vắt dòng trước hết hoài nghi, thách thức những hình thức biểu đạt mỹ cảm
cũ trong các thể thơ truyền thống hướng tới việc tự do hơn trong triển khai cảm
xúc và tư duy” [13; tr.20].
Mạch nước nhỏ trong núi
Chảy đều
Xuống lòng hồ không tiếng động
(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó)
Những chỗ vắt dòng đôi khi níu con người vào
những miền nội cảm rất phức tạp của thế giới tinh thần:
Nâng cuốn sách
Tôi
Là một chữ.
(Tĩnh lặng - Vừa sinh ra từ đó)
Với ý thức tìm tòi và thể nghiệm những hình
thức biểu hiện của thơ tự do, Mai Văn Phấn đã tạo dựng được sự hấp dẫn riêng
trong thế giới nghệ thuật của mình, tái hiện được những góc cạnh của đời sống
và chiều sâu của văn hóa tâm linh.
3.2.1.2.
Thơ văn xuôi:
Theo Từ
điển văn học, thơ văn xuôi là một trong ba hình thức cơ bản của thơ xét về
phương diện tổ chức ngôn ngữ, là loại sáng tác dùng văn xuôi để biểu hiện một
nội dung tư tưởng tình cảm đầy chất thơ. Thơ văn xuôi khác với thơ tự do ở chỗ
không phân dòng cũng không dùng hình thức dòng thơ làm đơn vị nhịp điệu. “Chất
thơ của thơ văn xuôi cũng được tạo nên bởi cấu tứ và suy tưởng giàu sức khơi
gợi, bất ngờ, chất triết lý thâm thúy, thơ mộng” [14; tr.319].