Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sỹ) - Vũ Thị Thảo

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

 





 

 

 



Vũ Thị Thảo
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Thế Hà





 

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ MAI VĂN PHẤN


 

 

 

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀ NẴNG -
2
012




MỞ ĐẦU

 

 

1. Lí do chọn đề tài


1.1. Phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam, đặc biệt là của thơ ca trong thế kỷ XX. Thơ Mới trước hết là cuộc thể nghiệm táo bạo, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lộ trình đổi mới trong lịch sử văn học Việt Nam, có ảnh hưởng mãnh liệt, cuộn xiết cho đến tận hôm nay và mãi sau này. Những thành tựu của Thơ Mới đã tồn tại như một thách thức lớn đối với các thế hệ thơ kế tiếp. Hiện vẫn rất nhiều nhà thơ hiện đại và cả đương đại chưa thể thoát khỏi từ trường của Thơ Mới. Tuy nhiên, ta có thể điểm xuyết một số gương mặt thi ca cách tân tiêu biểu qua các thời kỳ tiếp theo như một nỗ lực vượt thoát khỏi từ trường của Thơ Mới để tìm đến những giá trị mới, như Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Hoàng Hưng… Nói về những gương mặt cách tân tiên phong, nhà thơ Mai Văn Phấn đã nhận định: “Qua mỗi giai đoạn, một số nhà thơ đã tự phát và đơn độc khởi xướng cách tân, nhưng không trụ được trong dòng thác thói quen thẩm mỹ của đám đông lúc đó, bởi rất nhiều nguyên nhân như hoàn cảnh lịch sử, mặt bằng văn hoá bạn đọc và tài năng không đủ để độc sáng” [55, tr.382]. Thế hệ thơ cách tân sau 1975 ra đời trong một hoàn cảnh khác trước. Họ đã tạo ra sinh khí mới, đa dạng, phồn tạp hơn, chuyển động mãnh liệt hơn. Đặc biệt từ năm 1986, sự nghiệp Đổi mới đã tạo cơ hội cho văn học Việt Nam hội nhập nhiều hơn với thế giới, “đã xuất hiện số ít nhà thơ (trong và ngoài nước) có ý thức sâu sắc cách tân thơ Việt. Họ có chủ thuyết riêng biệt, chắc chắn và tự tin trên con đường đã chọn. Họ có đủ kiến thức thi ca, có nền tảng văn hóa và xã hội sâu rộng, có bản lĩnh khám phá và cả lòng dũng cảm, bình tĩnh trước sức ép công luận, dám chấp nhận đơn độc trên con đường mới, mở ra một  không gian thơ khác, tạo tiếng nói khác. Họ khác hẳn số đông từ nền tảng, lý tưởng thi ca đến cách biểu đạt ý tưởng, lập ngôn, cách tạo những chuyển động thi ảnh...” [55, tr.382 - 383]. Chúng ta có thể kể tên những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Inrasara, Trần Quang Quý, Tuyết Nga, Dương Kiều Minh, Đinh Thị Như Thúy… Và trong thời gian gần đây, đội ngũ các nhà thơ trẻ cách tân ngày càng đông, đã tạo được thế đứng vững chắc, dần khẳng định được vị thế của mình trong đời sống văn học đương đại. Trong số những gương mặt tiêu biểu cho dòng thơ cách tân sau năm 1975 hiện nay, Mai Văn Phấn là nhà thơ giàu bản lĩnh, dũng cảm, mang bản sắc sáng tạo riêng biệt. Mười hai tập thơ Mai Văn Phấn đã xuất bản, cuộc Hội thảo thơ Mai Văn Phấn & Đồng Đức Bốn (do Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Hải Phòng tổ chức tại Hải Phòng 15/ 5/ 2011), các giải thưởng văn học uy tín dành cho Mai Văn Phấn... đã khẳng định vị thế quan trọng của nhà thơ trong đời sống văn học Việt Nam hiện nay.

1.2. PGS. TS. Đào Duy Hiệp, người
đã dành nhiều thời gian nghiên cứu say mê và khoa học các tác phẩm thơ Mai Văn Phấn, có nêu nhận định: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [28, tr.75]. Còn nhà thơ Đỗ Quyên trong một tham luận rất công phu gửi đến Hội thảo thơ Mai Văn Phấn (15/ 5/ 2011) đã khẳng định một cách không do dự rằng: “Mai Văn Phấn là một trong những tác giả có một không hai, với sự cải cách đa phong cách nhất và thuyết phục nhất của thơ Việt đầu thế kỷ 21” [28, tr.204 - 205].

Có thể khẳng định rằng, thơ Mai Văn Phấn đã nhận được rất nhiều cảm tình của các bạn đồng nghiệp, của giới phê bình chuyên nghiệp với khá nhiều bài viết có chất lượng, mang tính học thuật cao và đa dạng, phong phú ở nội dung thể hiện. Tuy nhiên, ở giai đoạn trước, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn ít mang tính học thuật, chủ yếu ở dạng điểm sách và giới thiệu chân dung... Mặt khác, ngay ở nhiều bài báo, tiểu luận, phê bình… được đánh giá cao cũng rơi vào kiểu nhận định về thơ Mai Văn Phấn mang tính chất chung chung, cảm tính hoặc mới chỉ đi vào khám phá một hoặc số ít phương diện, đặc điểm nghệ thuật thơ ông.

1.3. Người viết cho rằng, để xứng đáng với những đóng góp của thơ Mai Văn Phấn, chúng ta đang rất cần có những công trình nghiên cứu dài hơi, chi tiết, cụ thể hơn về thơ ông để có thể lột tả một cách toàn diện, đầy đủ những nét riêng, nét độc đáo, sự cách tân đầy sáng tạo trong thơ Mai Văn Phấn và tường minh hơn nữa trong việc xác tín những đóng góp của thơ ông cho nền văn học nước nhà, đồng thời sớm định danh, định tính khuynh hướng thơ của các nhà thơ cách tân hiện nay và trong tương lai.

Với sức viết dồi dào và phong phú, Mai Văn Phấn đã tạo nên một phong cách thơ riêng biệt trong dòng thơ cách tân sau 1975. Thơ Mai Văn Phấn là đề tài có nhiều vấn đề rất cần đi sâu tìm hiểu. Vì thế, chọn và nghiên cứu đề tài “Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn”, chúng tôi mong muốn lí giải một tư duy nghệ thuật, tìm hiểu các phương diện khả dĩ làm nên giá trị nội dung và nghệ thuật thơ ông. Đồng thời, tác giả luận văn cũng muốn đóng góp một phần khiêm tốn vào việc định hình, định vị  một giá trị thơ ca đương đại sau Đổi mới.

Đó chính là những lí do mà chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài
“Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn”.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu


Mai Văn Phấn là một hiện tượng thơ khá mới mẻ, phức tạp. Có lẽ chính vì thế mà ngay khi Mai Văn Phấn vừa cho xuất hiện trên thi đàn “những đứa con tinh thần” đầu tiên của mình thì nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình đã dành cho người thơ này một sự chào đón nồng nhiệt. Đặc biệt là giai đoạn từ năm 2009 đến nay, khi Mai Văn Phấn liên tiếp công bố 3 tập thơ mới là
Hôm sau, và đột nhiên gió thổiBầu trời không mái che với nhiều thể nghiệm mới về thi pháp thì giới phê bình cả trong và ngoài nước đều ngạc nhiên trước sức sáng tạo dồi dào, mạnh mẽ của nhà thơ.

Có thể nói, số lượng bài viết về thơ Mai Văn Phấn khá lớn. Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, tính cho đến thời điểm này đã có đến hơn một trăm bài viết về thơ ông ở nhiều thể loại: giới thiệu sách, giới thiệu chân dung nhà thơ, thảo luận, nghiên cứu, khảo cứu, phê bình... Tuy nhiên, chúng tôi tán thành ý kiến của nhà thơ Đỗ Quyên rằng, trước khi Hội thảo thơ về Mai Văn Phấn diễn ra tại Hải Phòng (15/ 5/ 2011) thì trong số khoảng hơn 60 bài viết về thơ ông, hầu như chưa thấy các bài phê bình học thuật mà chủ yếu trong số đó là các bài viết mang tính chất điểm sách, giới thiệu chân dung nhà thơ hoặc những bài tranh luận, thảo luận xung quanh các giải thơ mà Mai Văn Phấn đã đạt được.

Sau đây, chúng tôi xin được điểm lại một số hướng nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn trong suốt 3 thập niên qua.

2.1. Nghiên cứu, đánh giá theo xu hướng khẳng định sự thành công của thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cách tân sau 1975


Đi theo hướng nghiên cứu này có các tác giả như Nguyễn Việt Chiến, Kim Chuông, Nguyễn Đức Hạnh, Đào Duy Hiệp, Inrasara, Đình Kính, Trần Thiện Khanh, Hoài Khánh, Đỗ Quyên, Nguyễn Quang Thiều. Hầu hết trong số họ đều thống nhất với nhau ở quan điểm, thơ Mai Văn Phấn là một đóng góp lớn cho quá trình hiện đại hóa của văn học nước nhà và Mai Văn Phấn đồng thời cũng là nhà thơ cách tân hàng đầu trong nền thơ đương đại Việt Nam. Dưới đây là một số nhận định tiêu biểu.

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định rằng: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ - tình – cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân” [28, tr.420].

Nhà thơ Đỗ Quyên trong bài tham luận gửi đến Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn có viết: “Những sáng tạo của Mai Văn Phấn đã đặt ông vào vị trí những nhà thơ hàng đầu của nền thơ đương đại Việt Nam” [28, tr.130].

Th.S. Trần Thiện Khanh
lại đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của Mai Văn Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm chuyển đổi” [28, tr.501].

2.2. Nghiên cứu, đánh giá theo xu hướng đi sâu vào khai thác thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

Hướng nghiên cứu này thu hút sự quan tâm của một số lượng lớn các nhà nghiên cứu, phê bình như Văn Chinh, Nguyễn Hoàng Đức, Văn Giá, Hồ Thế Hà, Inrasara, Nguyễn Tham Thiện Kế,
Vi Thùy Linh, Phạm Xuân Nguyên, Đỗ Quyên, Đặng Văn Sinh, Nguyễn Thanh Tâm, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Đức Tùng, Lê Vũ... Nhưng để chỉ ra một quan điểm thống nhất ở họ thì quả thật là một thách thức đối với bất cứ ai. Bởi lẽ, mỗi nhà nghiên cứu lại tìm đến thi giới Mai Văn Phấn với những tâm thế, phương diện, địa hạt khác nhau cùng những cách cảm, cách nghĩ cũng khác nhau.

Một số nhà nghiên cứu dành mối quan tâm đặc biệt cho sự chuyển biến trên các bình diện nội dung và nghệ thuật trong suốt hành trình thơ Mai Văn Phấn.


Nhà văn Văn Chinh cho rằng: Hành trình thơ Mai Văn Phấn là hành trình của sự trở về với bộ đôi song bước: ở bình diện nội dung, đó là “sự trở về với bản thể hồn nhiên, trở về với bản lai diện mục của nhân sinh diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt hơn nhiều” [28, tr.524] và ở bình diện nghệ thuật, đó là “quá trình vùng thoát khỏi các bãi lầy của các trường phái nghệ thuật để trở về với truyền thống, với cổ điển” [28, tr.524].

Còn
nhà thơ Nguyễn Hoàng Đức lại đề cập đến sự thay đổi bút pháp thơ Mai Văn Phấn qua các giai đoạn sáng tác: “... Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như lông hồng” [11, tr.35].

Ý kiến của PGS. TS. Văn Giá
đã giúp bạn đọc nhận ra cái khó trong việc tiếp cận thơ Mai Văn Phấn: “Thế giới thơ Mai Văn Phấn khá bề bộn. Bề bộn về số lượng: 370 bài (Thơ tuyển Mai Văn Phấn, NXB HNV, 2011). Bề bộn về ý tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên, để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai” [28, tr.528].

Th.S. Nguyễn Thanh Tâm
đã góp thêm một ý tưởng trong việc lí giải tư duy và mĩ cảm của Mai Văn Phấn: Sự hoài nghi và chối từ trật tự, mĩ cảm cũ, sự trực nhận của cảm giác và tâm thế của con người trong bối cảnh sống chất ngất rủi ro đã hướng tư duy và mĩ cảm của tác giả vào từ trường hậu hiện đại.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
thì luôn bị ám ảnh về cái thi giới Mai Văn Phấn. Bởi lẽ, hiện thực trong đó “là hiện thực của những giấc mơ, của những câm lặng, của tưởng tượng và khát vọng. Hiện thực này trong nghệ thuật được sinh ra để hé lộ cho ta thấy một đời sống tâm linh, và nó tìm cách cứu vớt sự tuyệt vọng của một hiện thực khác mà con người đang phải đương đầu” [69, tr.3].

Một số tác giả khác lại quan tâm nghiên cứu ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn. Họ đều thống nhất ở quan điểm cho rằng, Mai Văn Phấn đã tạo ra được một cách diễn đạt hoàn toàn mới và ở một góc độ nào đó ông đã tạo được một thứ ngôn ngữ thơ mới (sự xóa nhòa ranh giới giữa ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ văn xuôi và ngôn ngữ đời thường).

PGS. TS. Hồ Thế Hà trong bài viết
Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn đã có một cách tiếp cận khá mới mẻ từ thế giới hình tượng và ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn. Tác giả này cho rằng: “Mai Văn Phấn đang xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thi ca mà vẫn được gọi là ngôn ngữ thi ca (langue poétique), nghĩa là anh luôn thay đổi hệ ngôn từ để chúng làm tiền trạm cho cảm xúc và suy nghĩ của mình để không trở nên xa lạ với mọi người” [28, tr.227].

Còn theo nhà thơ Đỗ Quyên: “Chúng ta đang bàn đến một thi giới gần như không có vốn từ vựng riêng và lạ. Nếu lướt nhẹ trên vài câu vài bài, sẽ tưởng đây là tay viết bình dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không phải tra từ điển Việt – Việt! Không khó hiểu với từng bài lẻ nếu có được vốn tối thiểu của luật câu cú tiếng Việt...” [28, tr. 187].


Cũng trên tinh thần đó, nhà văn Đặng Văn Sinh trong một bài viết về tập thơ
Bầu trời không mái che của Mai Văn Phấn đã nhận xét: “Cũng như “Mùa trăng”, ngôn ngữ diễn đạt của “Hình đám cỏ” thoát khỏi cấu trúc mô hình truyền thống, triệt để sử dụng loại câu không chủ ngữ, đảo ngược chức năng cú pháp, đưa ngôn ngữ thơ vào đời thường, hạ phóng thơ từ tháp ngà đến với quảng đại công chúng” [28, tr.118].

Bên cạnh đó, lại có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến những hình ảnh mang tính biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn. Họ đã chỉ ra rằng: hình ảnh
cây cỏ, ban mai, ngọn lửa, đất đai, ánh sángngười tình là những hình ảnh có sức ám ảnh lớn và xuất hiện lặp đi lặp lại trong thơ Mai Văn Phấn.

PGS. TS. Văn Giá
nhận định: “Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ Mai Văn Phấn, có ba hình ảnh cô đọng nhất, chụm nhất nên trở thành tiêu biểu nhất: Đất đai, Ánh sáng và Người tình (được gọi là Em). Cả ba hình ảnh này đều nằm trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động của chúng” [28, tr.534 – 535].

Còn PGS. TS. Đào Duy Hiệp viết: “Nước cùng những đồng vị
mưa, sóng, sương, hơi nước... xuất hiện nhiều trong thơ Mai Văn Phấn, nhất là ở giai đoạn sau” [28, tr.66].

Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
lại khai thác thơ Mai Văn Phấn với các ý tưởng và các triết lý nhân sinh thông qua hình ảnh của cây cỏ: Qua hình ảnh ngọn cỏ, Mai Văn Phấn tung hoành thể hiện các ý tưởng và các triết lý nhân sinh bằng nhiều thủ pháp, tu từ, ẩn dụ, so sánh thị giác, cảm giác... Và hoàn toàn làm chủ các kỹ thuật đó trong việc khai triển Thi pháp của từng trường đoạn sáng tác mà vẫn giữ được trường thuần cảm để dẫn tới một sắc thái tự nhiên... như Cỏ [28, tr.373].

Trong khi
nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên thì lại tìm thấy trong thơ Mai Văn Phấn rất nhiều những ban maingọn lửa: “Thơ Mai Văn Phấn nhiều những ban mai. Cái nguyên sơ trong trẻo của buổi đầu ngày, khi bóng đêm qua ánh sáng tới, mang ý nghĩa khải thị, hồi sinh. (...) Có ban mai là có ánh sáng. Ánh sáng chống lại sự quên lãng, sự chôn vùi, sự tàn úa. Ánh sáng thức dậy những vùng nhớ, những trăn trở, những tìm kiếm. Con đường thơ của Mai Văn Phấn là hành trình đi tới ban mai” [44, tr.39].

Một nhóm tác giả khác lại tập trung khai thác những nét đặc sắc trong địa hạt thơ tình của Mai Văn Phấn. Họ đều thống nhất ở quan điểm cho rằng,  Mai Văn Phấn đã làm mới đề tài tình yêu muôn thuở bằng nội lực phong phú, phóng dật và rất độc đáo của riêng mình.

Nhà thơ Nguyễn Hoàng Đức đã từng nhận định
: “Tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn không đơn giản là chiếc giường hoan lạc. Mà đó là một quá trình như nụ ra hoa, rồi hoa ra quả. Những nụ hôn có thể hiện lên như khao khát của hiện tại, những khao khát đó bắt nguồn từ hang thẳm cô đơn, đòi sống, đòi yêu và đòi gieo hạt. Rồi cuối cùng đòi được giang tay đón hài nhi chào đời từ giữa cơn đau tràn đầy hạnh phúc. Một cơn đau vĩ đại như sự trở dạ của Càn – Khôn muốn làm nên một cuộc sinh thành khai thiên lập địa” [28, tr.360].

Trong khi đó, nhà thơ Vi Thùy Linh lại chỉ ra sự khác biệt trong thơ tình yêu của Mai Văn Phấn: “Chưa có ai coi sự gần gũi trong tình yêu là
nghi lễ, chỉ có Mai Văn Phấn. Trong thơ anh, ái ân trở thành nghi lễ giao linh thiêng liêng của con người; nghi lễ đầu tiên và cuối cùng” [37, tr.4].

Còn
nhà thơ Đỗ Quyên lại xem xét thơ tình yêu của Mai Văn Phấn ở một góc độ khác: “... Anh luôn chuyển hình tượng thành các trạng thái của tình ái và tâm thức linh nghiệm. Trạng thái, chứ không phải tình cảm. Đọc thơ của người – đang – yêu này, thêm một lần ta hiểu hai chữ thanh tân nơi tình yêu đôi lứa. Cống hiến mới của nhà thơ là đã thanh tân hóa cái địa hạt tưởng khô cũ, giáo điều: Đó là tâm linh và siêu thoát” [28, tr.188].

2.3. Những ý kiến đa chiều trong cách cảm, cách nghĩ về thơ Mai Văn Phấn

Thơ Mai Văn Phấn có ngôn ngữ đa thanh, đồng thời đa chiều trong thiết kế không gian và phức hợp trong từng tầng bậc cảm xúc. Có thể ví thơ ông như ngôi nhà với nhiều “cánh cửa”, mỗi bạn đọc đều có thể tìm cho mình chiếc “chìa khóa riêng” để vào trong đó. Do vậy, dư luận về thơ Mai Văn Phấn thường rất nhiều chiều, có những ý kiến trái ngược nhau cũng là điều dễ hiểu.

Không chỉ nhận được những lời khen ngợi một chiều, thơ Mai Văn Phấn còn tạo ra nhiều ý kiến khác nhau trong cách cảm, cách nghĩ của khá nhiều bạn đồng nghiệp và bạn đọc. Nhất là sau khi Mai Văn Phấn nhận được các giải thưởng về thơ như: giải nhì cuộc thi thơ của Báo Người Hà Nội với bài thơ
Nghi Tàm; giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi thơ và truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn năm 1995 với các bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba Đồng LộcNhật ký đô thị hóa và sau nữa, khi tập Thơ viết (bao gồm sáng tác của nhiều cây bút, trong đó có Mai Văn Phấn, sách do NXB Thanh Niên ấn hành năm 2001) ra mắt bạn đọc, đã xuất hiện nhiều lời chỉ trích, thậm chí phê phán một cách cực đoan thơ Mai Văn Phấn của các nhà thơ, các nhà phê bình như Nguyễn Hoàng Đức, Đặng Huy Giang, Dương Kiều Minh, Nguyễn Hoàng Sơn.

Nhà thơ Nguyễn Hoàng Đức trong bài viết
Giải thưởng có đồng nghĩa với đỉnh cao cho rằng, việc trao giải cao cho các tác giả trong cuộc thi thơ và truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ - Hội nhà văn năm 1995 là chưa thỏa đáng: “... Về chất lượng, xét như thể phát hiện những nốt son cho giải, thì những giải thưởng khá chính đáng, nhưng xét như là cuộc thi nhằm đọc ra tên tác giả cho nền thơ – thì chưa đạt đến mức kỳ vọng” [10, tr.13].

Còn nhà thơ Đặng Huy Giang nhận định: tập
Thơ viết chính là “Một trò chơi hình thức đang được bày ra. Không luật lệ. Không rào trước đón sau. Không cần ai hiểu. Cũng không cần hiểu ai” [12, tr.11]. Cũng trong bài viết này, Đặng Huy Giang đã chỉ trích thơ Mai Văn Phấn một cách nặng nề: “Mười bài tập mùa xuân thì đích thị là mười câu vọng cổ có “xuống xề” rồi. Nó chỉ khác kiểu “xuống xề” một chút là dài hơi hơn, rối rắm hơn, hổ lốn hơn, vô nghĩa hơn, không làm chủ được câu chữ hơn. (...) Xin lỗi Mai Văn Phấn vì tôi không thể chép trọn vẹn khổ thơ trong bài thơ trên của ông. Một vì tôi đã mỏi tay. Hai vì tôi cũng không muốn bạn đọc mỏi mắt mỏi mồm mà không “hấp thụ” được món tạp chất của ông. Ông hơi vất vả khi dồn 133 từ trong một khuôn “khổ” thơ, mà cuối cùng chỉ để chốt lại ở ...tiếng sấm nổ gọi mùa hoa gạo đơn giản thế thôi ư? Nhưng công bằng mà nói, ông cũng là người chăm chỉ, nhiệt thành, có công ức hiếp từ ngữ” [12, tr.11].

Có thể nói, trong suốt bài viết, Đặng Huy Giang đã phê phán các tác giả của tập thơ
Thơ viết, trong đó có thơ Mai Văn Phấn hết sức nặng nề và gay gắt. Bài viết này đã không nhận được sự đồng tình của rất nhiều người yêu thơ và các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu nhất là sự phản ứng mạnh mẽ của PGS. TS. Phạm Quang Trung trong bài báo Nghĩ từ “Những ngón tay dị dạng” của Đặng Huy Giang.

Nhà thơ Dương Kiều Minh thì lại trao đổi về sự chưa “xứng tầm” của 2 bài thơ đoạt giải trong cuộc thi thơ và truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ - Hội nhà văn năm 1995 là
Mười nén nhang ở ngã ba Đồng LộcNhật ký đô thị hóa của Mai Văn Phấn.

Với thái độ chừng mực hơn,
Nguyễn Hoàng Sơn đã trình bày cách tiếp cận của mình đối với những bài thơ đoạt giải trong hai cuộc thi ngắn hạn của Báo Văn Nghệ: “Thơ đoạt giải năm 1995 của báo Văn Nghệ gây cho tôi một cảm giác thất vọng. Từ năm 1994 đến nay, thơ là lĩnh vực có nhiều cuộc tranh cãi nhất nhưng cái “lát cắt 95” này lại chẳng tương xứng chút nào với những lời đao to búa lớn người ta xưng tụng thơ” [60, tr.12]. Trong đó, tác giả bài viết đã chỉ rõ, bài thơ Nhật ký đô thị hóa của Mai Văn Phấn cũng chưa “xứng tầm” với giải thưởng. Ngay sau khi bài viết này được công bố, nhiều nhà nghiên cứu như Đào Duy Hiệp và Trần Ninh Hồ đã tham gia trao đổi lại với Nguyễn Hoàng Sơn về những vấn đề chưa thỏa đáng mà ông đặt ra. Nếu như Trần Ninh Hồ trong bài viết Lại ngẫm về cuộc thi thơ Văn Nghệ 1995 đi vào lí giải về các tiêu chí trao giải thưởng cho một cuộc thi thơ như là một lời giải đáp cho những thắc mắc của Nguyễn Hoàng Sơn thì PGS. TS. Đào Duy Hiệp trong bài viết Trao đổi cùng Nguyễn Hoàng Sơn về bài “Nhân hai cuộc thi ngắn hạn của Báo Văn nghệ” lại đưa ra những ý kiến trái ngược với Nguyễn Hoàng Sơn trong cách hiểu về các bài thơ đoạt giải.


Đặc biệt, trong thời gian gần đây, các diễn đàn văn chương trên mạng và báo chí đang nóng lên về việc tập thơ
Bầu trời không mái che của Mai Văn Phấn đã nhận được giải thưởng cao nhất của Hội nhà văn Việt Nam năm 2010 – 2011. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cùng với các đồng nghiệp của mình là Nguyễn Hiếu, Đỗ Ngọc Yên, Nguyễn Hữu Quý, Đỗ Hoàng... đều thống nhất rằng: tập thơ này của Mai Văn Phấn cùng với các tác phẩm thơ đoạt giải không phải là các tập thơ hay, xuất sắc mà rất tầm thường, thậm chí không đáng gọi là thơ. Trong khi đó, tác giả Ngô Quốc Phương, Liêu Thái, Vũ Hùng Anh cùng với Văn Chinh, Hàm Đan... đã có những bài viết trao đổi lại với các tác giả trên về những hiểu nhầm, hiểu sai và những đánh giá thiếu khách quan, quá cực đoan mà họ đã nêu ra, đồng thời khẳng định đó là những tác phẩm hoàn toàn xứng đáng nhận giải thưởng. Có thể nói, mỗi người viết đều mang những kinh nghiệm, kiến thức và suy luận riêng của mình để phán xử, thậm chí áp đặt lên những giá trị thi ca đã được Hội Nhà văn Việt Nam và công luận khẳng định. Một số tác giả trong số họ tỏ ra dị ứng, phản đối quyết liệt những giá trị mới của thi ca, nên có thái độ gay gắt, cực đoan, có lúc đi quá xa văn chương... Những người ủng hộ thường bình tĩnh khi tranh luận, lập luận khoa học, lôgic... đồng thời dựa trên lý luận cơ bản của học thuật. Cho đến thời điểm này, cuộc tranh luận vẫn chưa đi đến hồi kết.

Điều đáng lưu ý rằng, hướng các tác giả đánh giá cao thành tựu thơ Mai Văn Phấn vẫn chiếm ưu thế hơn. Ngay cả những tác giả trước đây đã không ngớt lời chê bai thơ ông thì sau khi các tập thơ kế tiếp của ông ra đời, họ đã kịp thời định giá lại chúng theo hướng tích cực. Như vậy, trải qua thời gian, thơ Mai Văn Phấn với những giá trị đích thực của nó ngày càng chiếm được cảm tình của các bạn yêu thơ và các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp.

Trên đây, chúng tôi đã điểm lại những bài viết, những nhận định khá sâu sắc và có giá trị về một số phương diện trong thơ Mai Văn Phấn. Nhìn chung, hầu hết các tác giả nêu trên đã góp phần quan trọng trong việc khám phá đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Nhưng quả thật, ngoài bài tham luận của nhà thơ Đỗ Quyên được coi là khá công phu với 61 trang in trong cuốn sách mang tên Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011), NXB Hội Nhà văn, thì chưa có bài viết, công trình nào đi vào khai thác một cách toàn diện và sâu sắc những đặc điểm nghệ thuật thơ ông. Vì thế, với sự gợi mở từ nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi chọn đề tài này nhằm nghiên cứu một cách hệ thống thơ Mai Văn Phấn. Trên cơ sở
lĩnh hội có chọn lọc các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết trước, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những kiến giải riêng với hy vọng góp một cách nhìn đầy đủ hơn, tiếp tục đi sâu hơn trong việc nghiên cứu về đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn và khẳng định những đóng góp của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại cũng như khẳng định sự thành công của thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cách tân của Việt Nam sau 1975.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu


Tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, luận văn khảo sát công trình
Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn, 2011, Hà Nội. Đây là tuyển tập được rút từ các tập thơ đã xuất bản: Giọt nắng (1992), NXB Hội Văn nghệ Hải Phòng; Gọi xanh (1995), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; Cầu nguyện ban mai (1997), NXB Hải Phòng; trường ca Người cùng thời (1999), NXB Hải Phòng; Vách nước (2003), NXB Hải Phòng; Hôm sau (2009), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; và đột nhiên gió thổi (2009), NXB Văn học, Hà Nội; Bầu trời không mái che (2010), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội và một số bài tiểu luận cùng rất nhiều bài trả lời phỏng vấn của Mai Văn Phấn được đăng trên các báo, tạp chí. Ngoài ra, luận văn còn tham khảo thêm tập thơ Nghi lễ nhận tên (1999), NXB Hải Phòng, tập thơ hoa giấu mặt (2012), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội và một số bài thơ Mai Văn Phấn mới sáng tác.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn trong tính chỉnh thể giữa nội dung và hình thức nhưng luận văn chỉ tập trung đi sâu vào những phương diện nổi bật làm thành giá trị riêng. Những yếu tố mờ nhạt, ít xuất hiện hoặc không chỉ có ở Mai Văn Phấn, chúng tôi sẽ điểm qua hoặc kết hợp bình chú để làm rõ những yếu tố chính.

Nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn, chúng tôi không tách rời, biệt lập mà đặt đối tượng trong mối liên hệ với các trào lưu văn học khác nhau, đặc biệt là các khuynh hướng cùng thời, vì văn học là một quá trình lịch sử - hiện thực, lịch sử - sáng tạo nên mỗi hiện tượng văn học đều phải được xem xét như là một vận động có tính định hướng của cả phong trào, trào lưu, nhất là khi ở Việt Nam, nền văn học có sự thống nhất cao về mục đích và quan niệm.

Luận văn cũng đi sâu nghiên cứu từng phương diện của đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn như: quan niệm nghệ thuật, hành trình sáng tạo, kiểu tư duy thơ, các chủ đề chính, các hình ảnh mang tính biểu tượng, ngôn ngữ, giọng điệu và các biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ đó, chúng tôi hy vọng sẽ có được cái nhìn khái quát, sâu sắc về đặc điểm nghệ thuật thơ ông.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

4.1. Phương pháp hệ thống

Phương pháp này cho phép người viết xem xét những bình diện, những yếu tố cơ bản của đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn trong một chỉnh thể nghệ thuật có cấu trúc và quy luật nội tại.

4.2. Phương pháp so sánh

Phương pháp này giúp người viết  khẳng định, lí giải các yếu tố, các phương diện của đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, đồng thời thông qua việc đối chiếu, so sánh với các tác giả khác để nhận rõ hơn bản sắc riêng, phong cách riêng, thi pháp riêng của thơ Mai Văn Phấn.

4.3. Phương pháp thống kê, phân loại


Phương pháp này giúp người viết tìm kiếm một cách có hệ thống những hình ảnh xuất hiện nhiều lần như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.

Các thao tác như: phân tích, tổng hợp, trao đổi, phỏng vấn trực tiếp nhà thơ và vận dụng lí thuyết thi pháp học trong quá trình triển khai các chương mục cũng được người viết sử dụng như là các thao tác bổ trợ.

5. Đóng góp của luận văn

Về mặt lý luận: luận văn cung cấp cho người đọc một cái nhìn khá toàn diện và khoa học về những đặc điểm nổi bật trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, từ đó nhận diện phong cách và vị trí của nhà thơ trong nền văn học đương đại Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: luận văn gợi mở thêm cho bạn đọc một cách nhìn về thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đổi mới, cách tân sau 1975, đồng thời ghi nhận đóng góp của ông và các nhà thơ cùng thế hệ trong quá trình làm phong phú thơ Việt đương đại khi hội nhập quốc tế và khu vực. Luận văn cũng bổ sung cho việc viết giáo trình chân dung văn học Mai Văn Phấn.

6. Cấu trúc luận văn


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Quan niệm nghệ thuật và hành trình sáng tạo thơ Mai Văn Phấn

Chương 2. Kiểu tư duy thơ, các chủ đề chính và các hình ảnh mang tính biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn

Chương 3. Ngôn ngữ, giọng điệu và các biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong thơ Mai Văn Phấn




 

 

CHƯƠNG 1

QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO THƠ MAI VĂN PHẤN


1.1. Quan niệm nghệ thuật

1.1.1. Quan niệm về thi ca


Trong suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Mai Văn Phấn là người luôn trăn trở và suy tư một cách nghiêm túc về nghề nghiệp. Ông phát ngôn các quan niệm về thơ không chỉ trong sáng tác mà còn cả trong các bài tiểu luận và trả lời phỏng vấn. Quả đúng như ý kiến của Th.S. Trần Thiện Khanh: “Về phương diện lý thuyết, có bao nhiêu người sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho cùng, mọi quan niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình độ nhận thức rất khác nhau của người cầm bút về văn học” [28, tr.507].

Với Mai Văn Phấn, “văn chương là hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm văn học trước hết quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ và định hướng cho chính nhà văn ấy” [55, tr.448]. “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả... nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [55, tr.454].

Không chỉ có thế, “Thơ ca, đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con đường vĩnh cửu của nó, (...) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con người trần tục của nhà thơ và con người sáng tạo của anh ta” [3, tr.15]. Qua nhận xét của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và qua tìm hiểu thơ Mai Văn Phấn, ta biết được thi nhân đã xác tín, thơ ca là cầu nối giữa nhà thơ và thế giới, thơ ca giúp cho con người trở nên cao quý, thánh thiện hơn, làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp hơn, thậm chí nó còn mang trong mình một sứ mệnh cao cả là cứu rỗi con người và thế giới:
"Nghiệp văn chương cực nhọc/ Chở bao nhiêu kiếp người/ Chúa cũng đã một thời/ Chết như người hành khất./ Máu chúa hòa nước sạch/ Rửa tội cho cộng đồng/ Ai như là Tám Bính?/ Tắm bằng nước mắt Ông" (Nguyên Hồng vào nhà thờ).

Nhưng đó là sứ mệnh tự thân, hết sức tự nhiên. Bởi chính ông đã từng nói: “lúc làm thơ tôi chẳng nghĩ cần phải có trách nhiệm hay sứ mạng gì cả” [55, tr.441].

Mai Văn Phấn cho rằng thơ ca mang trong nó tính tiên tri (dự báo) và cảnh báo. Và theo chúng tôi, tiên tri là cần thiết đối với bất cứ tác gia nào về ngày mai. Việc có thể “biến” một giấc mơ, một buổi chiều, một cái lưỡi người (chẳng hạn) thành một miếng thịt bò và cái khoảng không chúng ta đang sống trở thành một cái tủ lạnh khổng lồ. Đó chính là cảnh báo. Tính chất dự báo được thể hiện ở khá nhiều thi phẩm của Mai Văn Phấn mà bài thơ
Di chứng là một ví dụ tiêu biểu: "Người ta nói, dòng sông kia đã được tiệt trùng. Tôi thận trọng tắm rửa bằng những hương liệu quý. Lội xuống, nước đến đâu cơ thể tôi bầm đen đến đó, rồi mọc ra những sợi lông vũ. Thế là nửa người trong nước hóa thành chim. Nhưng tiếng hót phải thoát qua vòm họng và lưỡi. Từ đấy, miệng tôi luôn chống lại quán tính của phần bầm đen trong nước đã ngập chìm" (Di chứng).

Người làm thơ luôn có khát khao viết được những câu thơ/ bài thơ hay để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Vậy làm sao để có được thơ hay? Và đâu là tiêu chí đánh giá một bài thơ là hay/ dở? Theo Mai Văn Phấn, thơ hay không hạn chế ở đề tài, không quy định bởi trường phái, thể loại cũ và mới, truyền thống hay hiện đại, cũng không nhất thiết lệ thuộc vào vần điệu, tiết tấu, phải dễ thuộc, dễ nhớ mà cái hay của thơ được đánh giá ở nhiều khía cạnh, phương diện và góc độ khác nhau. Và cuối cùng, thơ hay/ dở còn tùy thuộc vào khả năng đồng sáng tạo của người đọc. Ông cho rằng: “Thơ hay có thể đến tình cờ với một số thi sỹ trong khoảnh khắc đốn ngộ, xuất thần... Nhưng đa số các nhà thơ có được thơ hay qua quá trình tu luyện, tích lũy kiến thức phong phú, một hành trình bới tìm “vỉa quặng” của tâm hồn, đợi đến khi chín muồi, cảm xúc sẽ chợt nhòa chợt hiện và nhà thơ, viết với tất cả sự choáng ngợp của mình” [55, tr.391].

Tuy nhiên, những câu thơ hay, tuyệt bút không phải là cái đích cuối cùng của Mai Văn Phấn mà ông hướng đến thiết lập một từ trường thơ. Tức là nhà thơ không tập trung vào các điểm chói sáng mà hướng đến những bài thơ hay trong quan hệ với chỉnh thể. Thi nhân cho rằng, đây chính là điểm khác biệt giữa thơ mới và thơ cũ.

Đặc biệt, Mai Văn Phấn luôn coi quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong thân”, một cuộc vượt thoát chính bản thân mình. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong nghệ thuật. Ông cho rằng, bài thơ mà nhà thơ viết ra không còn thuộc về anh ta nữa mà thuộc về độc giả. Và nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời: "Tôi quan niệm tác phẩm sau khi được công b