Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) – Mai Thị Thảo
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Mai Thị Thảo
Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Văn Sơn
CẢM HỨNG TÔN GIÁO
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
HÀ NỘI, NĂM 2014
Tiến sỹ Chu Văn Sơn (trái) và Thạc sỹ Mai Thị Thảo
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tôn giáo, một hình thái ý thức xã hội, được hình thành và song hành cùng với quá trình tiến hóa, phát triển của lịch sử xã hội loài người. Tôn giáo và khái niệm tôn giáo ngày càng đa dạng, biến thiên, và vẫn khẳng định được vị thế, những giá trị của mình trong đời sống tâm linh cộng đồng, từng vùng miền, dân tộc. Những giá trị đó đã chi phối, thậm chí khuynh loát tinh thần, đời sống con người. Các giáo lý của tôn giáo nói chung đều chứa đựng giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới và nhân cách con người, hướng con người tới Chân – Thiện – Mĩ, tới những điều tốt đẹp, công bằng, bác ái, sống lương thiện hơn, hạnh phúc hơn trong cõi thế tục.
1.2. Mai Văn Phấn – con người âm thầm trong hành trình của những đổi mới, cách tân và sáng tạo đã mang lại cho thơ Việt đương đại một sinh khí mới, dáng vẻ mới. Ông đã tạo ra “một vùng tiểu khí hậu trong thơ” (Hữu Thỉnh, Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011). Ông là người luôn trăn trở, suy tư một cách nghiêm túc về nghề nghiệp. Vì thế, Mai Văn Phấn đã có những quan điểm tiến bộ, góp phần không nhỏ vào sự khai phóng cho nền văn học mới khi ông xác định cho mình một hướng đi mới, một trường thẩm mỹ mới.Với Mai Văn Phấn “thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng diễn tả…nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [33,14]. Vì vậy, qua các tác phẩm của mình, từ tập thơ đầu tay “giọt nắng” (Hội Liên hiệp VHNT TP. Hải Phòng, 1992), đến tập thơ mới nhất “vừa sinh ra ở đó” (Nxb. Hội Nhà văn, 2012), Mai Văn Phấn đã cho người đọc thấy được mạch nguồn vận động và sáng tạo không ngừng của một thi sĩ tài hoa, đặc biệt có tư tưởng trong lộ trình nghệ thuật của mình. Đây không chỉ là bước đột phá trong quá trình ông tự hoàn thiện và đổi mới mình, mà quan trọng hơn, đó còn là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đưa thơ bước đến đỉnh caocủa nghệ thuật đích thực. Đọc thơ Mai Văn Phấn trong mỗi thời kì, mỗi giai đoạn nhất định, người đọc không khỏi suy tư, trăn trở theo những khát vọng khơi mở thầm kín nơi ông. Nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn, trong bối cảnh thơ Việt sau 1975 với xu hướng vận động tự do hóa, dân chủ hóa để góp phần khẳng định những chuyển động sáng tạo mới trong thơ Việt Nam hiện đại.
1.3. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn chính là một cách nhìn mới, nhận thức mới trong sáng tác của ông, đã tạo nên những sắc màu riêng biệt thể hiện quan niệm, cách khai thác độc đáo về một thế giới bên ngoài thế giới thực tại. Hay nói đúng hơn, chính là cách nhà thơ tìm đến với một thực tại khác mà ở đó có sự xen kẽ giữa hư và thực. Qua đó, bộc lộ nỗ lực của thi sĩ trong việc kiến tạo một thế giới mới xuất phát từ điểm nhìn của đời sống thực tại.
Do vậy, chọn đề tài “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn”, người viết hi vọng sẽ khám phá thêm về những yếu tố cấu thành nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ, đồng thời, giúp người đọc hiểu thêm một khía cạnh mới trong nhận thức khám phá thế giới của một hồn thơ thi sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Trước hết, là những đánh giá ghi nhận những đóng góp của Mai Văn Phấn cho quá trình hiện đại hóa của văn học nước nhà, là nhà thơ cách tân hàng đầu trong nền thơ ca đương đại Việt Nam với sự sáng tạo không ngừng. Sự thống nhất chung đó có ở các bài viết của các tác giả Đình Kính, Cao Năm, Đỗ Quyên, Nguyễn Quang Thiều… Đặc biệt được nhấn mạnh một cách toàn diện và sâu sắc trong hai luận văn tốt nghiệp: “Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn” của Vũ Thị Thảo và “Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn” của Nguyễn Quang Hà.
Nhà văn Đình Kính trong bài mở đầu tại hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” đã nhấn mạnh: “Mai Văn Phấn là nhà thơ tiên phong sáng tạo theo hướng đổi mới, cách tân, định hình tư duy thẩm mĩ mới và anh đã được đánh giá cao” Đồng thời ở Mai Văn Phấn “ngoài sự tài hoa, đam mê, phông văn hóa, tri thức, sự kiên trì nhẫn nại trong sáng tạo, anh còn là nhà thơ dũng cảm và giàu bản lĩnh” [13, 6].
Bên cạnh đó, khi khẳng định về tố chất của người nghệ sĩ, Cao Năm đã không dè dặt trong việc một lần nữa nhấn mạnh ở bản lĩnh sáng tạo của một cây bút kiên định, giàu sức sống. “Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tạo”[13,18].
Cùng với dòng mạch vận động này, nhưng chủ yếu tiếp cận ở phương diện sáng tác và thành quả nghệ thuật của Mai Văn Phấn. Không thể không kể đến hai công trình nghiên cứu chi tiết, hệ thống ở phương diện nghệ thuật trong hai luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Hà và Vũ Thị Thảo. Điểm gặp gỡ của hai bài viết này là đều khẳng định những thành công và đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật trong các sáng tác của Mai Văn Phấn. Vũ Thị Thảo trong “Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn”, trên cơ sở phân tích quan niệm trong hành trình sáng tác của Mai Văn Phấn, từ đó có cái nhìn khái quát một cách có hệ thống về các phương diện nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, “Bằng con mắt quan sát tinh tế và có chiều sâu, Mai Văn Phấn nhìn vạn vật trong sự phồn sinh , hóa sinh bất định. Chính những quan niệm về thi ca, về thi nhân, về nhân sinh và thế giới nói trên đã chi phối hành trình sáng tạo nghệ thuật của ông” [44,116]. Còn Nguyễn Quang Hà trong “Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn” đã nhìn nhận xu thế cách tân trong thơ Việt nói chung và đặc biệt trong thơ Mai Văn Phấn. “Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ mới có thể chuyển tải được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng với nhiều cung bậc tình cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức, trách nhiệm với con người và cuộc sống, phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội” [3, 122].
Như vậy, có thể nói trên đây đã dẫn ra một vài ý kiến tiêu biểu cho cách nhìn nhận, đánh giá những đóng góp tích cực cũng như những thành công trên con đường tìm kiếm nghệ thuật đích thực của Mai Văn Phấn. Tuy các bài viết chưa thể bao quát hết được các phương diện đánh giá về các sáng tác của ông, nhưng với mỗi cách nhìn, mỗi quan niệm cho ta một mảnh ghép quan trọng để hoàn thiện dần bức chân dung về thơ và đời của nhà thơ Mai Văn Phấn.
2.2. Bên cạnh những tình cảm yêu mến, sự trân trọng và đón nhận nồng nhiệt, còn có những ý kiến trái chiều trong hành trình sáng tác của thơ ông. Đó là những nhận xét phê phán cực đoan của các nhà thơ, các nhà phê bình trước những thành tựu được ghi nhận trong thơ Mai Văn Phấn.
Rõ ràng, thơ Mai Văn Phấn “bên cạnh những thành công thì thơ ông còn nhiều điều dang dở. Trước hết, thơ Mai Văn Phấn, có những bài thơ gây khó hiểu cho bạn đọc. Với niềm say mê cách tân thơ, nhiều khi nhà thơ quá sa đà vào việc thể nghiệm những cái mới nên thơ ông trở nên rối rắm, khó hiểu” [44, 119]. Đây có lẽ là cái nhìn biện chứng hơn cả đối với một thế giới thơ mà ở đó nhà thơ tạo ra nhiều “cánh cửa” để bạn đọc có thể tiếp cận ở nhiều chiều kích khác nhau. Ở đó, họ thực sự tự do, “nó không có chỗ cho sự ù lì, dễ dãi…đọc thơ anh trước hết cần sự đồng cảm, tháo gỡ những quan niệm cũ về thơ vẫn nằm ẩn sâu trong mỗi người, cần vươn tới những tìm kiếm mới, giá trị mới”…[13, 2].
Nói tóm lại, dù đánh giá ở phương diện nào thì cũng không thể phủ nhận được những giá trị và đóng góp của thơ Mai Văn Phấn. Thơ Mai Văn Phấn vẫn giành được những ưu ái và đánh giá cao bởi những cây bút uy tín, chuyên nghiệp trên văn đàn hiện nay
Nhà thơ Dương Kiều Minh với “cuộc trở về “tâm không” trong tập “Bầu trời không mái che” của nhà thơ Mai Văn Phấn” nhấn mạnh đến sự hồi sinh cùng biểu tượng trong thơ ông, “Bầu trời không mái che – một cuộc hoàn nguyên để tái sinh ngoạn mục, một cuộc một cuộc lộn trở về với bản thể người trong bản thể của vũ trụ”, rồi khi nhắc đến hình ảnh biểu tượng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, nhà nghiên cứu đã khẳng định “bông cúc hiện ra như ánh sáng của sự giác ngộ, của giải thoát trên lối về độc đáo của cuộc kiếm tìm” [13, 23].
Nhà văn Đặng Thân trong “hành trình cỏ cây xuyên tâm linh”, cũng bước đầu nhìn nhận, đánh giá những hình ảnh biểu tượng: hoa sen biểu tượng phật giáo; bông cúc biểu tượng cho một thế giới tâm linh thanh sạch; và đặc biệt “hình ảnh cỏ là cội rễ tâm linh Mai Văn Phấn” [13, 65].
Nhà thơ Đỗ Minh Tuấn trong bài “Mai Văn Phấn và thi pháp mộng du xuyên thế giới”, đã đánh giá những bài thơ hay của Mai Văn Phấn trên bình diện tôn giáo, “những bài hay nhất của anh đã thể hiện cuộc luân hồi thi ca và tái sinh thi ca trong cõi vô thường tam thiên thế giới của phật giáo thấm sâu vào cảm xúc của thi nhân” [13, 89].
Cụ thể hơn trong bài viết của Vũ Thị Thảo đã liệt kê một cách có hệ thống các hình ảnh biểu tượng tâm linh, chủ đề tâm linh trong thơ Mai Văn Phấn, có thể nói “ ý niệm tâm linh giống như luồng ánh sáng linh thiêng soi rọi, phủ ngập lộ trình thơ Mai Văn Phấn” [44, 55].
Điểm qua một vài bài viết trên, chúng ta có thể thấy được, vấn đề“Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn” chưa được nhìn nhận như là một vấn đề trọng tâm mà mới chỉ tồn tại dưới những nhận xét lẻ tẻ trong các bài nghiên cứu. Các tác giả đã bắt đầu tiếp cận ở phương diện tâm linh, hình ảnh – biểu tượng tôn giáo. Trên cơ sở hệ thống hóa các bài viết có liên quan, người nghiên cứu sẽ cố gắng phân tích, lí giải, đánh giá vấn đề “cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn” trên bình diện sâu và rộng hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ sáng tác thơ của Mai Văn Phấn gồm các tác phẩm đã xuất bản: Giọt nắng (thơ, Hội Liên hiệp VHNT TP. Hải Phòng, 1992); Gọi xanh (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1995); Cầu nguyện ban mai (thơ, Nxb. Hải Phòng, 1997); Nghi lễ nhận tên (thơ, Nxb. Hải Phòng, 1999); Người cùng thời (trường ca, Nxb. Hải Phòng, 1999); Vách nước (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2003); Hôm sau (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2009); và đột nhiên gió thổi (thơ, Nxb. Văn học, 2009); Bầu trời không mái che (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2010); hoa giấu mặt (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2012); Vừa sinh ra ở đó (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2013). Đặc biệt luận văn còn tham khảo công trình Thơ tuyển Mai Văn Phấn (thơ cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2011). Từ đó, chúng tôi xác định tìm hiểu “cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn trên hai phương diện đó là thế giới hình tượng và các phương tiện nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp liên ngành
Bản chất của phương pháp này là người viết vận dụng một số tri thức liên ngành triết học, tôn giáo học, phân tâm học…nhằm lí giả các vấn đề văn học qua cái nhìn tôn giáo. Có thể nói, đây là phương pháp chủ đạo, có ý nghĩa quan trọng, xuyên suốt quá trình khai triển luận văn. Góp phần đáng kể vào việc làm sáng tỏ những vấn đề có ý nghĩa then chốt trong bài viết.
4.2.Phương pháp hệ thống
Phương pháp này cho phép người nghiên cứu xem xét những bình diện, những yếu tố cơ bản làm nên ý nghĩa, đặc điểm những cái nhìn, cách cảm, cách nghĩ về tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn. Để từ đó hệ thống thành một chỉnh thể nghệ thuật với cấu trúc và quy luật nội tại riêng.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Với phương pháp này sẽ được xem xét dựa trên sự tương đồng về mặt giá trị, giúp người viết xắp xếp một cách có hệ thống những hình ảnh, biểu tượng xuất hiện nhiều lần như một phương tiện quan trọng biểu hiện cho cách nhìn của nhà thơ. Để từ đó người nghiên cứu sẽ xác lập, xâu chuỗi các biểu hiện đa dạng của các yếu tố trong thơ Mai Văn Phấn.
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Người viết sử dụng phương pháp này để thiết lập hệ thống luận điểm. Trên cơ sở làm rõ những nét độc đáo về cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn để có cái nhìn khái quát về hành trình thơ ông. Từ đó, làm cơ sở khái quát chung về những dấu ấn mới trong cách nhìn của thi sĩ.
4.5. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Trên cơ sở lí giải các yếu tố, các phương diện đặc biệt trong thơ ông, từ đó so sánh, đối chiếu những cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa của Mai Văn Phấn với các nhà thơ cùng thời để tìm ra dấu ấn riêng biệt của Mai Văn Phấn.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, hệ thống về “Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn”.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn có những chương sau:
Chương 1: Cảm hứng tôn giáo và sự hình thành cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 2: Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, nhìn từ thế giới hình tượng
Chương 3: Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, nhìn từ các phương tiện nghệ thuật
CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG TÔN GIÁO VÀ SỰ HÌNH THÀNH
CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết về tôn giáo và cảm hứng tôn giáo
1.1.1. Tôn giáo
Ra đời hàng ngàn năm nay, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của toàn thể nhân loại. Đến với tôn giáo là đến với thế giới của cái đẹp, cái thiêng và sự thánh thiện, nó giúp tâm hồn con người bình yên, thanh thản. Không phải ngẫu nhiên mà từ xưa đến nay tôn giáo luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong các lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là văn học. Trên thế giới có rất nhiều các loại hình tôn giáo khác nhau, mỗi tôn giáo mang một màu sắc, một nét đẹp riêng, tạo thành một bản âm hưởng đa thanh, đa sắc, từ đó đã có rất nhiều cách hiểu về tôn giáo khác nhau. Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiều. Ở mỗi góc độ cho chúng ta một cách nhìn, một cảm nhận ở nhiều khía cạnh.
Trước hết là những quan điểm về tôn giáo được đánh giá từ những mặt hạn chế. Nói đúng hơn đó là những cách nhìn nhận, đánh giá chưa toàn diện, hoàn chỉnh về tôn giáo vì họ chưa nhìn thấy bản chất xã hội của nó. Tiêu biểu đó là những ý kiến đánh giá của các nhà triết học trước Mác.
Từ chủ nghĩa duy tâm đa khẳng định tôn giáo như một hiện tượng nằm ngoài hiện thực khách quan, không phụ thuộc vào hiện thực khách quan mà là “một sức mạnh kì bí thuộc “tinh thần” tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người”[38, 17].
Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con người”.
Trong các nhà triết học duy vật trước Mác, thì L.Phoiơbắc (1804 – 1872) là người có quan điểm tiến bộ về tôn giáo, khi ông xác định được đúng đắn mối quan hệ giữa thần thánh và con người. Ông cho rằng: “không phải thượng đế sáng tạo ra con người mà ngược lại, chính con người đã sáng tạo ra thượng đế theo mẫu hình của mình”[33, 18]. Tuy nhiên với sự tiến bộ này ông vẫn không nhìn thấy bản chất xã hội của tôn giáo. Hạn chế này cũng bộc lộ rõ ở quan điểm của nhà phân tâm học người Áo Singmund Freud (1856 -1939) – người xem hình thức tôn giáo đầu tiên là tô tem giáo, xác định: “Tôn giáo là sản phẩm của vô thức, là “sự thăng hoa”, “niềm hân hoan” của người nguyên thủy trong tục “ăn thịt vật tổ”.
Như vậy, với những cách nhìn nhận, đánh giá còn hạn chế như trên đã không cho chúng ta thấy được bản chất đích thực của tôn giáo.
Sau này khi khoa học ngày càng phát triển, quan điểm Mácxit về Tôn giáo, với cái nhìn biện chứng đã khẳng định, tôn giáo không phải là sản phẩm của thần thánh, là cái siêu nhiên, thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Tôn giáo là hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội chịu sự quy định của đời sống vật chất. C.Mác cho rằng không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo, “tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa”, chính vì vậy mà “tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự… Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[21, 570]. Như vậy, bản chất xã hội của tôn giáo đến đây đã được làm sáng rõ.
Còn Ph.Ăngghen trong công trình nghiên cứu của mình đã làm rõ bản chất của tôn giáo trên cơ sở xem tôn giáo như là một hình thái ý thức xã hội, vì thế với ông Tôn giáo như là một sự phản ánh hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Trong quá trình tìm hiểu, đánh giá dựa trên nhiều điểm nhìn khác nhau, chúng tôi có thể đưa ra một vài nhận định về tôn giáo - một lĩnh vực hết sức phức tạp trong đời sống tâm linh của con người. Để có thể hiểu đầy đủ về tôn giáo cần phải chú ý:
Thứ nhất, Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô hình. Cả hai thế giới ấy luôn tồn tại xung quanh cuộc sống con người
Thứ hai, Trong đời sống xã hội có những hiện tượng phức tạp mà con người không thể giải thích được, con người hướng những điều không thể lí giải đó đến với niềm tin tâm linh vào thần thánh. Tôn giáo là nơi thể hiện sự gắn kết giữa con người với thần linh. Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng để yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy, Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Bên cạnh cách hiểu về nội hàm khái niệm, thì khi nói về tôn giáo chúng ta không thể không nhắc tới tác động to lớn của nó lên đời sống con người, đây chính là điều làm nên sức sống vĩnh hằng của tôn giáo trong quá trình đi lên của xã hội. Tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người mà trước hết là sự giải thoát về mặt tâm hồn. Trong cuộc sống, những trạng thái thái tâm lí mang tính tiêu cực như cô đơn, bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi, chán chường dễ dẫn con người đến với tôn giáo để mong được sự an ủi, che chở, cứu giúp. Tôn giáo như “thuốc phiện” làm giảm nỗi đau khổ của con người trong cuộc sống hiện thực. Mặc dù chỉ là “hạnh phúc hư ảo”, “mặt trời hoang tưởng” xoay xung quanh con người nhưng tôn giáo hấp dẫn kì lạ. Tôn giáo nhiều khi là phương tiện khá hữu hiệu giúp con người cân bằng sự hẫng hụt tâm lí, giải thoát nỗi cô đơn, bất hạnh diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Bởi trong đời sống mà con người đang tồn tại, con người không chỉ tiếp xúc với cái hiện hữu mà còn tiếp xúc với cả vô số những cái vô hình, trừu tượng, không thể lí giải được bằng lí trí, mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm thức, linh cảm. Trong thế giới của tâm thức và linh cảm đó, chỉ có niềm tin vào đấng siêu nhiên, cứu giúp của thần thánh mới có thể giúp con người lí giải những điều khó hiểu và vượt qua được những trở ngại trong cuộc sống. Với tinh thần tự nguyện, những khoảnh khắc mà con người sống với tôn giáo là lúc tâm hồn họ cảm thấy thanh thản, thoải mái nhất.
Thứ hai, trong xã hội hiện đại, khi cuộc sống ngày càng phức tạp, tôn giáo trở thành điểm tựa vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện điều chỉnh nhân cách con người. Ý thức tôn giáo có thể được xem là những phương thức giúp con người cân bằng, điều hòa tâm lý, tình cảm, cấu trúc nhân cách. Như chúng ta đã biết, ý thức tôn giáo thường gắn liền với những linh cảm, tâm cảm, những hiện tượng tâm lí chập chờn giữa hai vùng ý thức và vô thức, tiềm thức. Xã hội hiện đại với cơ chế vận hành mang tính duy lí cao độ có xu hướng biến con người thành một thực thể trừu tượng, máy móc, đôi khi là sự vô cảm, lạnh nhạt trong đời sống tinh thần. Việc duy trì cõi phi duy lí đầy bí mật – một thế giới nằm ngoài thế giới thực tại mà ở đó không có những sự khắt khe, công thức duy lí, sẽ là một “liều thuốc” tốt giúp hạn chế, ngăn chặn những hành vi đạo đức, thể hiện “tâm hồn con người đã chết”, đó là những con người cạn kiệt về nhân cách, phẩm chất người. Điều này đã được PGS.TS.Nguyễn Hồng Dương – viện trưởng viện nghiên cứu tôn giáo đã khẳng định trong một chuyên khảo về tôn giáo: “Tôn giáo nào cũng khuyên con người – tín đồ, làm lành, lánh dữ, tích đức, hành thiện, yêu người, cho người đói ăn, cho kẻ khát uống. Tôn giáo dạy con người tu thân, tề gia, đưa ra những chuẩn mực trong quan hệ vua – tôi, cha – con, vợ - chồng, thầy – trò. Hầu hết các nội dung trên là những lời răn dạy của đấng sáng tạo tôn giáo (chúa trời, phật, thánh Ala), trở thành quy chuẩn, mô phạm điều chỉnh hành vi của con người, tín đồ”[20, 3]. Chính vì vậy mà chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tỏ thái độ tôn trọng và đề cao vai trò của tôn giáo và người sáng lập tôn giáo: “Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và Chúa Giê Su đều giống nhau. Thích Ca và Giê Su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng”.
Mặt khác, trong sự tác động của tôn giáo lên đời sống con người bên cạnh những mặt tích cực vừa nói ở trên thì vẫn còn tồn tại những hạn chế, tiêu cực. Trước hết, khi con người coi tôn giáo như là một sự “đền bù hư ảo” thì sẽ làm giảm đi ý chí, nghị lực của con người, hạn chế sự phát triển của tư duy khoa học, tạo nên thái độ sống nhẫn nhục. Niềm tin tâm linh không phải là điểm tựa để con người cố gắng mà họ lại tin tưởng thái quá vào sự cứu giúp của thần thánh hạn chế sự phấn đấu của bản thân để vượt qua những khó khăn, thử thách của cuộc sống, con người không có ý thức chủ động, tích cực xây dựng cuộc sống hạnh phúc nơi trần gian mà lại hi vọng ở một cuộc sống sau khi chết. Thứ hai, Nhiều khi tôn giáo là thứ rượu mạnh, là men say dễ cho con người ta có thái độ mù quáng và hành vi cuồng tín, con người dễ lâm vào tình trạng mê tín dị đoan. Tôn giáo còn bị một số người lợi dụng để cầu lợi. Họ biến không gian tôn giáo linh thiêng thành nơi buôn thần bán thánh. Ở nước ta, tự do tín ngưỡng và tự do không gian tín ngưỡng là quyền của mỗi công dân, nên những kẻ xấu và các thế lực thù địch đã lợi dụng để chống phá nước ta.
Tuy nhiên với những hạn chế kể trên không hề làm giảm đi những giá trị to lớn mà tôn giáo mang lại trong cuộc sống con người, nó chỉ góp phần tạo nên sự hoàn thiện, đa diện trong cách nhìn nhận, đánh giá về tôn giáo.
Như vậy, tôn giáo với tất cả những cách hiểu, cách đánh giá khác nhau trong một bức tranh đầy đủ gồm cả những mặt mạnh và mặt yếu đã làm nên sự đa diện nhưng cũng không kém phần phức tạp. Trong quá trình vận động và đi lên của xã hội tôn giáo sẽ mãi là một thành phần góp nên “tiếng nói tích cực” vào sự phát triển toàn diện của xã hội.
1.1.2. Cảm hứng tôn giáo
Khởi nguồn cho sự đam mê để làm nên thành công không thể thiếu đi cảm hứng sáng tạo. Trong từ điển thuật ngữ văn học đã khẳng định, cảm hứng chính là: “Trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với tư tưởng xác định một sự đánh giá nhất định gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận” [5, 45]. Có thể nói, cảm hứng là một yếu tố quyết định trong những công trình nghệ thuật, nghệ thuật đích thực bắt nguồn từ những cảm hứng nảy sinh trong những điều kiện cụ thể. Cũng như, quá trình sáng tạo của nhà văn bắt đầu từ khi nảy sinh những dự đồ rồi sau đó là quá trình nảy sinh những quan niệm mang tư tưởng sáng tạo của tác phẩm văn học. Những tư tưởng ấy gắn liền với sự thụ cảm của nhà văn với cuộc sống dưới hình thức cảm xúc. Cảm hứng là một trạng thái hưng phấn cao độ của người nghệ sĩ do việc chiếm lĩnh được bản chất đối tượng mà họ phản ánh. Khi ấy những tia chớp sáng tạo sẽ bùng cháy những chất liệu hiện thực. Đó chính là những giây phút thăng hoa của tư duy sáng tạo trong người nghệ sĩ, hay nói khác đi cảm hứng bao giờ cũng gắn với tính nghệ thuật dù tự giác hay không tự giác.
Cảm hứng nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ đời sống chân chính, phải “sống hết mình” với cuộc sống thiên nhiên, cuộc sống con người thì mới có những cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc và chân thật. Tuy nhiên, cảm hứng tự nó chưa phải là tác phẩm mà còn phải nhờ vào tài năng của người nghệ sĩ: “biết rút ra được từ trong cả một khối kiến thức và ấn tượng những sự việc, những hình tượng, những chi tiết đập vào trí người nhất, điển hình nhất và phú cho chúng những lời hết sức chính xác, rực rỡ truyền cảm” (Theo M.Gorki)
Cảm hứng đưa người làm thơ đến với thơ và rung động thơ thật sự, nhưng để làm nên sức sống của tác phẩm, người nghệ sĩ không chỉ rung động với mình mà còn phải truyền sự rung động đó đến với người đọc, tạo sự truyền cảm đặc biệt. Khi nói cảm hứng là chân thực bởi vì cảm hứng đó xuất phát từ tiếng hát chân thực của trái tim mới tìm con đường nhanh nhất đến với trái tim độc giả mà thôi.
Nghiên cứu cảm hứng nói chung, đặc biệt cảm hứng tôn giáo trong thơ, đã cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ về đối tượng mà người nghệ sĩ quan tâm, cũng như toàn bộ xúc động, suy tư của người nghệ sĩ ấy trước đối tượng. Xét cho cùng, các cảm hứng đều được nảy sinh trong ý thức con người, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên tâm hồn của người nghệ sĩ làm nảy sinh những tình cảm chân thành. Cảm hứng sáng tác vừa là cuộc hành trình nhọc nhằn, vừa là sự nghỉ ngơi thư thái trong tâm hồn nghệ sĩ, nó buộc người nghệ sĩ vào trạng thái lao động nghiêm túc, cẩn trọng bằng niềm say mê, bằng tất cả niềm hứng khởi. Chính vì thế, khi tiếp xúc với tôn giáo – một thế giới tâm linh đầy huyền bí, nâng giấc tâm hồn người nghệ sĩ với những khát khao được chinh phục, khám phá những ngọn nguồn sâu kín. Trong thế giới tâm linh đầy phức tạp ấy, cách nhìn nhận, thể hiện của người nghệ sĩ rất đa dạng nhưng tựu chung đều muốn vươn tới miền tâm thức phi hiện thực.
Ở Mai Văn Phấn, dù là con chiên của đạo Thiên Chúa, nhưng tâm hồn ông không hề giành riêng cho bức tường thành Thiên chúa, bởi trong con người ấy không hề có sự phân biệt giữa tôn giáo mình và tôn giáo người. Mai Văn Phấn không hề dè dặt trong việc đem những từ ngữ, hình ảnh của nhiều tôn giáo khác nhau vào trong thơ mình, đặc biệt là ngôn ngữ của đạo Phật. Cảm hứng tôn giáo mang tính chất hỗn giao thể hiện rõ trong sáng tác của ông, càng về những sáng tác ở giai đoạn sau dấu ấn này ngày càng in đậm. Tôn giáo của Mai Văn Phấn là cảm quan, cảm xúc về những điều thiêng, về cái đẹp hiện tồn và linh ẩn trong cõi thế tục, là khát vọng lý tưởng tìm đến Chân- Thiện- Mỹ trong hành trình sáng tạo của ông.
1.2. Cảm hứng tôn giáo trong văn học Việt Nam
1.2.1. Mối quan hệ giữa tôn giáo và thi ca
Từ xa xưa, tôn giáo và thi ca có mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhau, cùng hướng tới thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng nhìn chung cả hai đều tìm đến với lối tư duy có sự tham gia của cảm xúc, tưởng tượng đồng thời dựa nhiều vào hình tượng tôn giáo và thơ ca đã từng thống nhất, hòa quyện vào nhau trong tư duy nguyên hợp của con người cổ đại. Không ít nhà nghiên cứu đã nhận định rằng, những bài thơ đầu tiên của nhân loại có lẽ là những bài ca nghi lễ, những lời xưng tụng thần linh. Ở những buổi đầu sơ khai ấy giữa con người và thần linh có mối quan hệ gần gũi và để thể hiện mối liên hệ đó trong năng lực sáng tạo của mình con người đã đưa tôn giáo vào thơ ca một cách linh hoạt. Có nhiều nhà nghiên cứu đã xem thơ ca như một thứ tôn giáo giúp thanh lọc tâm hồn con người, cứu rỗi con người trong một thế giới đầy tội lỗi. Họ đến với nghệ thuật bằng một niềm tin thiêng liêng – niềm tin tôn giáo và như được khai sáng dưới ánh sáng của đức tin màu nhiệm. Vì thế, không chỉ những nghệ sĩ là môn đồ của một tôn giáo cụ thể mới có thể làm nên được những vần thơ tôn giáo, mà cả những nghệ sĩ không là môn đồ của một tôn giáo nào cũng làm nên những tác phẩm tôn giáo tuyệt diệu chỉ cần họ là người có “tín tâm”. Điều này đã được TS. Chu Văn Sơn xác định ở dạng thức thứ hai của thơ tôn giáo, đó là dạng ẩn chìm “kẻ viết có tín tâm nhưng không hề là tín đồ của bất cứ giáo phái hiện hành nào, tôn giáo chỉ đơn thuần như một cảm quan, một cái nhìn nghệ thuật về thực tại. Nó tồn tại trong thơ và bằng thơ, chứ không thể xé rào ra ngoài thơ để thành tôn giáo của thế tục. Rabindranath Tagore gọi đó là “tôn giáo của nhà thơ”” [39, 2].
Như vậy, thơ ca và tôn giáo đều song tồn trong thế giới tâm linh, tưởng tượng, dựa vào lý trí và cảm xúc để tác động vào người tiếp nhận. Hơn nữa dù là tình cảm tôn giáo hay tình cảm thẩm mỹ của văn học nghệ thuật đều nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh, là nơi gửi gắm tinh thần của con người. Tất nhiên tình cảm tôn giáo và tình cảm thẩm mỹ không phải là một. Con người xuất phát từ niềm tin thiêng liêng với sự kính tín, tín ngưỡng nên mới có tôn giáo (Religion). Tôn giáo tồn tại và hiện diện là do con người sáng lập ra và vì con người. Vì vậy chủ nghĩa nhân văn tôn giáo là nguồn cảm hứng cho văn học nói chung, đặc biệt thơ ca, đồng cảm với con người trong văn chương.
Quan hệ giữa tôn giáo và thi ca còn biểu hiện ở sự nương tựa, “cộng sinh” ảnh hưởng lẫn nhau. Tôn giáo có thể tác động đến sự chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời, về con người của nhà thơ cũng như những phương thức tổ chức thế giới nghệ thuật. Theo đó, một mặt tư duy tôn giáo ý nghĩa như một công cụ để người nghệ sĩ “nhân loại hóa thơ mình”. Tức là nó đóng vai trò cơ chế tư tưởng chuyển những giá trị riêng tư, cá nhân, dân tộc, khu vực thành những giá trị chung, thế giới nhân loại. Tôn giáo đẩy mạnh khả năng suy tưởng của con người trước những câu hỏi mang tính bản thể luận, “những vấn đề cuối cùng” (chữ của Bakhtin) của cõi nhân sinh: Ta là ai? Sống là gì? Chết là gì? Con người tồn tại như thế nào trong thế giới này?... Mặt khác, “tư duy tôn giáo còn là một công cụ hữu hiệu để nâng cách cho trực giác nghệ thuật tuyệt vời của nhà thơ bay cao, bay xa vào cõi siêu hình”. Những hình ảnh tưởng tượng kì ảo, linh diệu, những mô típ, chủ đề, ẩn dụ, giàu sức gợi, cả giọng điệu đầy sức mê hoặc trong các kinh điển tôn giáo qua sự sáng tạo, nhào nặn lại của thi sĩ hiện lên với một sắc thái thẩm mỹ đặc biệt.
Đồng thời, tôn giáo như đối tượng quan tâm và mô tả của thơ ca. Tôn giáo là nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật. Còn thơ ca lại được sử dụng như một hình thức để tôn giáo thể hiện các giáo lý, giáo luật. Những bài kinh ca, những cuốn sách ghi chép lại những triết lý tôn giáo đều được thể hiện một cách độc đáo, sáng tạo dưới những bài thơ, những câu thơ dài ngắn khác nhau, vừa tinh túy mà lại thể hiện được chất văn chương nhẹ nhàng. Vì vậy, có thể nói thơ ca và tôn giáo không chỉ có quan hệ với nhau về nội dung mà còn cả hình thức thể hiện. Nhờ thơ ca mà các hình thức của tôn giáo hiện lên sinh động và hấp dẫn hơn, không đơn nhất. Giáo lý của tôn giáo vô cùng sâu sắc và khó hiểu cho nên việc sử dụng những hình thức của thơ ca làm cho tôn giáo gần gũi hơn và dễ thấu hiểu hơn. Tôn giáo còn giúp cho người nghệ sĩ cân bằng lại những khủng hoảng về mặt tinh thần của con người trong thời đại văn minh vật chất, giúp con người có niềm tin để sống tốt hơn.
Lịch sử thơ ca nhân loại đã ghi nhận nhiều những tên tuổi nghệ sĩ tiếp thu sáng tạo tinh hoa của tôn giáo, tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc sắc, một cách nhìn nhận mới mẻ về tôn giáo. Đã từng có một Boris Pasternak (Nga) với sự tái tạo lại những tượng trưng ky – tô giáo để thể hiện những cảm quan sâu sắc về lịch sử, về kiếp người. Rồi đến một Kô-un (Hàn Quốc) với dòng thơ Thiền hiện đại. Ngược dòng lịch sử, trong nền văn học Ấn Độ đã từng có một nhà thơ vĩ đại R. Tagore – người làm lừng danh văn học châu Á với giải Nobel cao quý. Trong thơ Tagore niềm tin vào đấng tối cao của tôn giáo mang một ý niệm hoàn toàn mới mẻ. Thượng đế không còn trừu tượng siêu hình mà trở nên gần gũi sống động với nhiều hình hài, dáng vẻ khác nhau. Trong nhiều bài thơ, thượng đế đã hiện lên như một người bạn, mang lại niềm vui sống tràn đầy, bất tận, là nguồn cảm hứng vô biên cho sáng tạo. Người có mặt ở khắp nơi, trong nỗi buồn, niềm vui, con người đều tìm đến Người để chia sẻ… [8, 62]
Nói tóm lại, những phân tích trên đây đã phần nào cho chúng ta thấy mối quan hệ giữa tôn giáo và thi ca hết sức phong phú, đa dạng. Nó không chỉ ảnh hưởng trong tư tưởng, trong tư duy nghệ thuật và cả trong lối thể hiện. Trong đó, tính chất hướng nội của tư duy và sự xuất hiện của một thế giới biểu tượng là những đặc trưng cơ bản. Tuy nhiên, mức độ của sự giao thoa, ảnh hưởng lại phụ thuộc nhiều vào đặc trưng thể loại, kiểu nhà thơ. Nhưng dù ở góc độ nào chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng giữa tôn giáo và thi ca có một sự gắn kết mật thiết. Tôn giáo vừa như là một chất liệu, vừa là cái đích đến của nghệ thuật, còn thơ ca trong vai trò hình thức thể hiện đã mang lại những sức sống mới, những điệu hồn mới làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú và tươi đẹp hơn. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định, tôn giáo và nghệ thuật như đôi cánh nâng đỡ tâm hồn con người trong suốt cuộc hành trình từ thuở hồng hoang đến buổi hiện đại. Các dân tộc có thể khác nhau về vô vàn đặc điểm nhưng đều gặp gỡ ở dấu ấn sâu sắc của tôn giáo và nghệ thuật, đó là hằng số chung của nhân loại. Nói như thế không có nghĩa là tôn giáo và nghệ thuật có vị trí như nhau trong đời sống của các dân tộc. Tùy thuộc vào dân tộc tính, vùng miền mà vai trò của hai chiếc cánh này dài rộng, tương trợ, bổ sung và thay thế khác nhau. Nếu như đối với người Ấn Độ “tôn giáo đọc cho văn học chép”, thì đối với dân tộc ta “thơ chính là tôn giáo”.
1.2.2. Sơ lược về cảm hứng tôn giáo trong văn học Việt Nam
Trong quá trình phát triển và ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống nhân loại, đặc biệt là ở các lĩnh vực tinh thần đã mang lại cho nghệ thuật thêm nguồn sống mới. Từ khi mới du nhập vào Việt Nam tôn giáo đã có những ảnh hưởng nhất định trong đời sống của con người. Từ đó, tôn giáo đi vào thơ ca, cũng như vào văn học nghệ thuật nói chung một cách tự nhiên, phổ biến, đó chính là nguồn cảm hứng bất tận để các văn nghệ sĩ hướng tới. Nền văn học chân chính là nền văn học hướng con người ta đến với sự trải nghiệm mọi cảm xúc trong đời sống, văn học làm giàu thêm đời sống tâm hồn của con người. Cũng như vậy, tôn giáo mở ra cho con người một thế giới khác một thế giới của đời sống tâm linh, tâm cảm, hướng con người đến với những giá trị siêu tại. Tôn giáo đến với văn học Việt Nam đã trải qua sự thanh lọc cho phù hợp với những tín ngưỡng dân tộc tạo nên một sắc thái riêng, khác biệt với thứ tôn giáo chính thống lúc ban đầu. Mặt khác, tôn giáo ảnh hưởng lên tâm hồn nhạy cảm của các nghệ sĩ cũng không thuần nhất. Vì vậy, sự cộng hưởng trong văn học được tạo nên từ sự giao thoa của nhiều hình thức tôn giáo khác nhau, văn học không phải chỉ thể hiện một loại tôn giáo nhất định mà mỗi tôn giáo được thể hiện trong mỗi thời kì văn học đậm nhạt khác nhau.
Trước hết là trong văn học dân gian, một nền văn học mang đậm màu sắc triết lí của dân tộc. Từ thần thoại, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng nhà phật. Có thể nói, đối với nền văn học nước ta thì Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu rộng và lâu bền nhất. Phật giáo là tôn giáo về con người và vì con người, hướng con người đến với tình yêu thương bao la, mênh mông, với tư tưởng “từ bi hỷ xả” và đặc biệt hướng đến những con người đau khổ. Trong văn học dân gian, có thể nói truyện cổ tích là bộ phận thể hiện rõ nhất tư tưởng nhà Phật. “Thạch Sanh”, “Tấm Cám” thể hiện giáo lý nhân quả - nghiệp báo, khuyên răn con người “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Hình ảnh ông Bụt trong các câu chuyện cổ tích đã hình tượng hóa tấm lòng cưu mang của người Việt bằng màu sắc phật giáo. Cùng với nó, thuyết luân hồi của đạo Phật đã trở thành chỗ dựa và phương tiện nghệ thuật, giúp cho tác giả dân gian thực hiện được ước mơ công bằng xã hội và liên tưởng thẩm mỹ một cách thuận lợi trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng sáng tạo. Điều này được minh chứng bằng sự kì diệu trong những tình tiết sáng tạo phi thực. Hình ảnh Tấm sống lại sau bao lần bị tiêu diệt và hóa thân thành chim vàng anh – xoan đào – khung cửi – cây thị, thể hiện ước mơ của nhân dân gửi gắm vào nhân vật Tấm. Tấm phải sống để hưởng hạnh phúc, để trừng trị những kẻ thù độc ác và mẹ con Tấm Cám nhất định phải đền tội. Đó cũng là quan niệm thiện ác và tinh thần lạc quan, niềm tin vào chân lý và công bằng của tâm thức người Việt trong truyện cổ tích. Cùng với truyện cổ tích, tục ngữ Việt Nam có nhiều giá trị nhân bản rút từ tư tưởng nhà Phật. Những kinh nghiệm về nhân sinh của dân tộc Việt Nam biểu hiện ở tục ngữ tiềm tang màu sắc phật giáo, chứa đựng triết lý nhân quả luân hồi nghiệp báo và cả về đức từ - bi – hỷ - xả. Nhìn chung, luân lý Phật giáo trong tục ngữ dễ hiểu, dễ cảm nhận, dạy con người biết sống đời sống tốt lành, lương thiện, “gần mực thì đen gần đèn thì rạng”, “thương người như thể thương thân”. Tinh thần Phật giáo trong tục ngữ là tổng hợp kết tinh của những triết lý dân gian có ý nghĩa nhân sinh cao đẹp thấm đượm tình người. Nguyên lý cao đẹp của Phật giáo trong tục ngữ nhằm thể hiện khát vọng của con người bình dân trong cuộc sống.
Như vậy, trong quan hệ ảnh hưởng với tinh thần phật giáo ta thấy ít nhiều văn học dân gian đã phản ánh một thái độ sống, có một sức tác động mãnh liệt trong đời sống tín ngưỡng, tạo nên một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản sắc dân tộc và tinh thần Phật giáo.
Đến văn học trung đại, trong văn hóa nói chung, đặc biệt trong văn học với hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” (Nho – Phật – Đạo), khiến cho thơ văn thời trung đại thấm đẫm tinh thần tôn giáo. Thời kì đầu, Phật giáo vẫn là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Lịch sử văn học trung đại Việt Nam phải kể đến những vẻ đẹp kết tinh từ Phật giáo với văn chương. Biết bao kiệt tác của cha ông chuyên chở tinh thần nhân văn của đạo Phật, phản ánh niềm tin, khát vọng cao cả của con người. Trong thời kì văn học trung đại, thơ ca Lý –Trần luôn được nhắc đến như một sự thăng hoa của tinh thần Phật giáo. Với mạch nguồn cảm hứng từ giáo lý Thiền tông vô cùng đa dạng và phong phú, thơ Thiền đã thể hiện rõ vai trò của loại hình thơ chức năng: giái tỏa sự bừng ngộ và tạo ra sự trợ lực nhằm giác gộ thi nhân. Nhờ đạo Phật với các bia chùa, sách “Thiền uyển tập anh” đã lưu giữ phần nào các tác phẩm quý giá của văn học Lý Trần. Vì vậy, đạo Phật đã đóng góp công trạng cực kì quan trọng đối với sự phát triển cũng như sự bảo tồn của văn học nước nhà. Đến giai đoạn sau, từ truyện Kiều của Nguyễn Du, đến “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều… đều thấm đẫm tinh thần, giáo lý Phật giáo. Đặc biệt với “Cung oán ngâm khúc” là tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng, tác phẩm này cho thấy tâm tư của tác giả không chỉ thâm nhập ý tưởng siêu thoát của Phật – Lão mà còn bị níu kéo bởi triết lí nhập thế tích cực của nho giáo. Giai đoạn tiếp theo khoảng thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả từ Nho giáo. Nho giáo ảnh hưởng tới văn học Việt Nam với tư cách là một học thuyết tức là các quan điểm về thế giới, xã hội, con người, lý tưởng… Nho giáo một mặt khích lệ sự phát triển của văn chương khi tư tưởng Nho gia đề cao người có học, đề cao kẻ làm văn chương, mặt khác Nho giáo cũng kìm hãm nặng nề sự phát triển của văn học Nho giáo hình dung xã hội trong khuôn khổ của tam cương ngũ thường, đòi hỏi con người phải có trách nhiệm, có tình nghĩa… đã chi phối đến cảm xúc, cách suy nghĩ làm cho vấn đề được con người quan tâm hàng đầu là đạo đức. Hơn nữa, quan niệm của Nho giáo coi văn chương là để giáo hóa, có quan hệ với thế đạo, nhân tâm, phải có nội dung đạo lý. Nho giáo hướng văn học vào truyền đạt đạo lý chứ không phải để tả và kể, phản ánh hiện thực.
Thời kỳ văn học Việt Nam hiện đại, khi xã hội ngày càng phát triển, sự giao lưu, tiếp nhận ngày càng phong phú thì những luồng gió mới từ phương Tây đã mang đến cho nền văn hóa Việt Nam thêm nhiều điều mới mẻ. Tôn giáo trong văn học Việt Nam không còn là sự độc tôn của một dòng tôn giáo nào mà bắt đầu có sự hỗn giao của nhiều loại hình tôn giáo trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Một nền văn học tiếp thu và chịu ảnh hưởng của các tôn giáo không chỉ là từ Nho giáo, Phật giáo mà cả Thiên chúa giáo trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc. Viết về tôn giáo ở Việt Nam các tác phẩm các tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố nhân sinh, thể hiện sự am hiểu giáo lý tôn giáo. Do vậy, văn học viết về tôn giáo luôn là nguồn chất liệu để các nhà thơ, nhà văn khai thác. Trong đó, đáng kể nhất phải nói đến ở giai đoạn này là ánh sáng của Thiên chúa giáo đến từ phương Tây du nhập vào nước ta và nhanh chóng chiếm lĩnh đời sống tâm linh sâu kín, nhanh chóng trở thành chỗ dựa tinh thần to lớn để xoa dịu những nỗi đau cho con người. Hàn Mặc Tử - con người của những nỗi đau đớn, cô đơn tận cùng đã đến với tôn giáo trong tâm thức của một “kẻ có tín tâm”. Hàn Mặc Tử đã sống Đạo, chết Đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Hàn Mặc Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng ông đã vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” và người thi sĩ ấy đến với tôn giáo một cách rất tự nhiên. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: “Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mặc Tử. Tôi giám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn cảm hứng trong Đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm mà đến nay chưa mấy nhà thơ nào giám bước tới”. Nhận định mang ý nghĩa tiên tri này đã thể hiện sự linh ứng, khi càng về các giai đoạn sau các văn nghệ sĩ theo cách riêng của mình đã sử dụng tôn giáo như một nguồn cảm hứng vô biên để tạo nên những tác phẩm có giá trị không chỉ trong thơ mà cả ở văn xuôi. Nguyễn Xuân Khánh với “Mẫu thượng ngàn” và “Đội gạo lên chùa”, qua sự ảnh hưởng và cái nhìn của Nho, Phật và đạo Mẫu Việt Nam, ánh sáng của tôn giáo như được thổi thêm một hồn sống mới, thể hiện bút lực dồi dào và một tâm hồn nhạy cảm của nhà văn.
Tính chất hỗn giao của tôn giáo trong tâm hồn thi sĩ thể hiện rõ hơn trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Thể hiện một cách khám phá đời sống và con người theo một chiều hướng sâu sắc hơn. Khám phá con người ở chiều sâu bên trong, con người tinh thần, con người tâm linh, phát hiện ra những băn khoăn, day dứt, khủng hoảng tinh thần mà con người phải đối diện trong một xã hội mà các bảng thang giá trị đều bị đảo lộn. Đến Nguyễn Quang Thiều, xuất phát từ thi nhãn tôn giáo của nhà thơ, ông đã mang đến một thế giới hình tượng thấm đẫm cảnh quan tôn giáo. Để thể hiện tôn giáo trong sáng tác của mình, Nguyễn Quang Thiều đã “kì bí hóa sự sống, linh thiêng hóa cái đẹp, nghi lễ hóa sự kiện trữ tình và long trọng hóa phát ngôn”.
Trong dòng xoáy phát triển của văn học hiện đại, Mai Văn Phấn đã góp phần làm khuấy động sự im lặng trong làng thơ Việt Nam. Với nền tảng của một con chiên Thiên chúa giáo, cùng với sự đam mê, yêu thích đối với đạo Phật và sự am hiểu nhiều tôn giáo khác, Mai Văn Phấn đã mang đến nhiều sự sáng tạo, thể hiện độc đáo trong cách nhìn về tôn giáo. Dù được sinh ra trong gia đình theo đạo Thiên chúa, từ bé ông đã rất ngoan đạo, nhưng lớn lên khi gặp đạo Phật, ông đã rất mê triết lí của Phật giáo, thấy đạo Phật rất gần với dân tộc Việt Nam. Mai Văn Phấn cũng là người nghiên cứu sâu về các tôn giáo khác như đạo Hồi, đạo Hin đu, đạo Mẫu của người Việt Nam. Vì vậy, thơ Mai Văn Phấn không dùng để làm phương tiện phát ngôn cho một tôn giáo nhất định nào cả, cũng không phải là hệ thống giáo lý được trữ tình hóa. Mà đó là một thế giới nghệ thuật đa sắc màu, mang những quan niệm, những nhận thức riêng của Mai Văn Phấn về tôn giáo. Trong đó, thi sĩ thể hiện “tín tâm” với tất cả tôn giáo, ở đó ông luôn định hình các sự vật, hiện tượng bằng cách nhìn nhận chúng trong nhiều chiều kích khác nhau. Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác và một trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ, Mai Văn Phấn đã góp thêm vào làng thơ một mĩ quan mới về tôn giáo, khẳng định một lần nữa mạch nguồn tôn giáo là vô tận trong thế giới diệu kì mà thơ ca hướng đến. Để từ đó, Mai Văn Phấn xác định một trường thẩm mỹ mới, một tư tưởng nhất quán về tôn giáo rằng, thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều có chung mục đích đưa con người đến bến thiện, dạy họ ăn ngay ở lành. Khác nhau ở các tôn giáo chỉ là quan niệm sống, hành lễ, phong tục mà thôi… Là một nhà thơ, Mai Văn Phấn có quan niệm riêng về tôn giáo theo kiểu thi sĩ nữa.
1.3. Sự hình thành cảm hứng tôn giáo trong thơ của Mai Văn Phấn
1.3.1. Quê hương, gia đình – ngọn nguồn của cảm hứng tôn giáo
Mỗi con người sinh ra đều có nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình, đó là nơi ấp ủ, nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta. Ở đó, con người tiếp nhận những bài học làm người đầu tiên để hình thành nên nhân cách mỗi người. Những phong tục tập quán của quê hương ăn sâu trong tính cách con người, đến khi trưởng thành dù con người có rời xa nơi ấy thì vẫn mang trong mình nếp nghĩ, lối sống đặc trưng của nơi mình sinh ra. Vì vậy, với bất kì ai, mảnh đất quê hương luôn luôn là thánh địa trong sâu thẳm trái tim. Đặc biệt với nhà văn, quê hương là cội nguồn của cảm hứng sáng tạo. “Một chốn đôi quê” là điều đặc biệt mà chúng ta có thể nói về quê hương của Mai Văn Phấn. Nhà thơ Mai Văn Phấn sinh năm 1955, tại một làng hẻo lánh châu thổ sông Hồng thuộc địa phận Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Đó là nơi tuổi thơ Mai Văn Phấn đi qua trong sự gắn bó với ruộng đồng, làng mạc và những con người chân chất chân lấm tay bùn. Cuộc sống ở đó đã nuôi dưỡng tâm hồn nhạy cảm của thi nhân, để trong thời kì học trò Mai Văn Phấn là một người yêu thơ văn và là một học sinh giỏi văn của trường cấp 3B huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Quê hương đã để lại trong lòng thi sĩ những dấu ấn khó phai, đây là ngưỡng cửa đầu tiên để thi sĩ hòa nhập với thế giới rộng lớn sau này. Đặc biệt, Kim Sơn Vùng đất được biết đến với vai trò trung tâm của xứ đạo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm với mật độ dày đặc các nhà thờ công giáo, nơi có gần 80.000 giáo dân, chiếm trên 47% dân số toàn huyện, có quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm nổi tiếng, được mệnh danh là "kinh đô công giáo" của Việt Nam. Trả lời câu hỏi của chúng tôi về “tâm sự của nhà thơ, khi nói về "xóm đạo", nơi ông sinh ra và đã được ông nhắc đến trong một số bài phỏng vấn”, Mai Văn Phấn đã thẳng thắn chia sẻ: “Tôi được sinh ra trong gia đình theo đạo Thiên Chúa, có căn gốc từ thời tổ tiên tôi theo chân cụ Nguyễn Công Trứ về lập ấp, dựng lên huyện Kim Sơn, Ninh Bình ngày nay. Từ khởi thuỷ, giáo dân quê tôi đã xây dựng rất nhiều nhà thờ. Cả địa phận Phát Diệm có quần thể nhà thờ lớn (tại thị trấn Phát Diệm), trong đó nhà thờ đá là công trình độc đáo, được mô phỏng theo những nét kiến trúc đình chùa truyền thống của Việt Nam với cách bài trí đăng đối, uy nghiêm mà vẫn rất hài hòa, hợp lý, đặc sắc duy nhất ở Việt Nam. Huyện Kim Sơn có 27 nhà thờ xứ, tương đương với 27 xã theo địa giới hành chính. Và, hầu như mỗi thôn làng còn có nhà thờ họ, thờ thánh bản mệnh của mỗi con chiên. Tôi nhớ mãi khi mình mới lớn, chừng 5 - 6 tuổi, lần đầu tiên biết cảm nhận về thế giới gần gũi xung quanh, thì tiếng chuông nhà thờ, tiếng cầu kinh sớm tối của giáo dân, tiếng ca đoàn phối bè trong những bài thánh ca là những âm thanh huyền hoặc và cũng đầy uy lực nơi tuổi thơ bùn đất và êm đềm của tôi. Âm thanh linh thiêng, quyến rũ và bí ẩn ấy tựa như ánh sáng, như không khí thấm vào từng hơi thở, bước chân chập chững của tôi. Lúc ấy tôi chỉ biết nghĩ đơn giản rằng, mình phải sống tốt, có mọi cử chỉ cao đẹp trên thế gian này, bởi mình làm bất cứ điều gì thì Đấng-Toàn-Năng/ Tạo Hóa cũng sẽ nhìn thấy. Từ ấy tôi luôn tin có một thế giới khác nữa đang soi xét, chi phối đời sống chúng ta. Và sau này tìm đến với thơ ca, cũng là cách tôi tự mở cánh cửa riêng mình để nhìn thấy và đi vào thế giới linh thiêng, bí ẩn ấy. Tôi được bà nội dạy kinh bổn từ khi chưa biết chữ. Cứ chiều chiều, tôi cắp chiếc chiếu manh theo bà đi nhà thờ. Bà nội hay mua cho tôi chiếc bánh "khoái" (tên địa phương, bánh tráng bằng bột gạo, màu vàng, trong có tép khô). Ăn xong, tôi bình tâm ngồi đọc kinh cho hết buổi lễ. Lớn lên tôi được đọc kinh Tân ước và Cực ước, lịch sử Giáo hội, lich sử các thánh, học giáo lý... Thấy tôi ngoan đạo, bà con giáo dân trong họ đạo khuyên cha mẹ tôi nên gửi tôi vào nhà dòng để có thể tu hành sau này; nhưng khi nhận ra "con ngựa hoang' trong tâm hồn mình, thấy sự đam mê, run rẩy quá đỗi của mình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người... tôi đã từ chối. Sau này tôi mới ý thức được rằng: nhà tu hành và nhà thơ đi từ hai thái cực, có cách hành xử trong cõi thế tục hoàn toàn khác biệt, nhưng cùng hướng tới đích là vẻ Đẹp vĩnh cửu mà Thượng đế đã chờ sẵn ở phía trước. Nhớ lúc tôi 6 tuổi đã được cha xứ làm lễ Rửa tội. Đây là bí tích đầu tiên trong ba bí tích khai tâm đặt nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Kể từ giây phút đó, tôi cảm thấy ánh sáng của Thiên Chúa luôn dẫn dắt, soi rọi đời sống tâm hồn tôi. Ánh sáng này được tái hiện rõ nét nhất trong các tập thơ Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai sau này”.
Chỉ qua những dòng tâm sự ngắn ngủi mà rất chân tình của nhà thơ, chúng ta không chỉ hiểu về quê hương của Mai Văn Phấn, mà còn phần nào hé mở về truyền thống lâu bền trong một gia đình theo đạo Thiên chúa, từ ông bà, cha mẹ, rồi đến thế hệ của nhà thơ. Như vậy, dấu ấn của thiên chúa giáo in đậm trong các sáng tác của Mai Văn Phấn trong những giai đoạn đầu là điều dễ hiểu.
Quê hương thứ hai của Mai Văn Phấn, là mảnh đất lãng mạn của những con sóng biển dạt dào và những làn gió mát trong lành. Hải Phòng - nơi Mai Văn Phấn đã định cư hơn 20 năm. Dẫu Mai Văn Phấn chẳng sinh ra ở đây, nhưng hồn thơ lúc nào cũng đầy ắp gió biển, rất ngang tàng và phóng dật. Chủ nhân của những câu thơ có nhịp và không nhịp, nhịp sóng, nhịp thời gian, nhịp đời sống... Mỗi con sóng tự làm mới mình sau mỗi lần vươn tới. Ấy cũng là nét đặc trưng của thơ Mai Văn Phấn. Phong vị Hải Phòng có “trầm sâu của tinh tế Hà Thành, có chân chất đằm thắm sen nhãn khoai lúa của châu thổ sông Hồng, và gân guốc vạm vỡ vầng ngực thủy thủ trên mũi tàu hững bão” (Ý của Nguyễn Tham Thiện Kế). Khí chất ấy, cũng hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn.
Thành phố Cảng, nơi đầu sóng ngọn gió, với những chùm hoa phượng đỏ rực cả góc trời, là nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào của bao nhà văn, nghệ sĩ. Sẽ là khập khiễng, nếu đem so sánh văn học Hải Phòng với các trung tâm văn học lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế. Song, không vì thế mà văn học Hải Phòng không mang trong mình những nét riêng, độc đáo, là cá tính của đất và người nơi đây, mang hơi thở của biển cả, của những con người ăn sóng nói gió… Trong suốt chặng đường dài của lịch sử, chúng ta có thể tự hào khẳng định truyền thống thơ và văn học nói chung của Hải Phòng, thời nào cũng có những tác giả xuất sắc, chẳng những làm sáng đẹp đất Cảng mà còn đóng góp vào sự nghiệp văn học Việt Nam, tiêu biểu như Thế Lữ, Văn Cao, Nguyên Hồng, Thi Hoàng, Thanh Tùng, Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn. Tên tuổi và sáng tác của những người nghệ sĩ, mãi mãi là những bông hoa đẹp trong vườn hoa đầy hương sắc của nền văn học nước nhà.
Như đã nói ở trên, từ tâm sự của Mai Văn Phấn đã hé mở ở người thơ ấy còn có một nền tảng gia đình vững chắc đủ để chắp cánh cho những ước mơ nơi ông được vươn cao và xa hơn nữa. Mai Văn Phấn được sinh ra trong một gia đình nhiều thế hệ là con chiên của đạo Thiên chúa. Đây chính là căn cốt làm nên chất tôn giáo trong thơ của ông. Một hồn thơ luôn hướng tới thế giới của những vẻ đẹp huyền bí mà cũng hết sức tinh khiết và đẹp đẽ. Nhưng, để tôn giáo trong thơ ông trở nên đa diện và đa sắc hơn phải kể đến “tình yêu” của thi sĩ, đó cũng chính là người luôn bên cạnh giúp sức và ủng hộ ông rất nhiều trong suốt hành trình sáng tác. Trong bài “Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo”, nhà thơ Nguyễn Hiệp đã ghi lại tâm sự của ông: “tôi sinh ra trong một gia đình theo đạo thiên chúa, từ nhỏ tôi rất ngoan đạo, thuộc kinh bổn, thông thạo kinh Tân ước và Cựu ước, các sách thánh, mê hát thánh ca… Sau này khi du học ở Liên Xô cũ (1983 – 1984), tôi đã gặp vợ tôi bây giờ, một người theo đạo Phật. Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người tôi yêu nữa. Khi nghiên cứu các giáo lí của các tôn giáo lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng: Thượng đế chỉ có một. Và, chắc chắn chúng ta được sinh ra và bị cho phối bởi một Đấng – Toàn – Năng. Đấng – Toàn – Năng cho con người biết được gần đúng khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông qua các hình thức tôn giáo mà thôi…” [10, 1]. Từ đó có thể thấy, chính nền tảng quê hương và gia đình vững chắc đã hun đúc trong tâm hồn của người thi sĩ ấy bắt đầu chạm đến vẻ đẹp giao hòa giữa nhiều tôn giáo khác nhau, để rồi nhà thơ tìm đến với một chân lí và cũng là quan điểm sáng tác của mình rằng, “Thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều chung một mục đích đưa con người ta đến bến thiện, dạy họ ăn ngay ở lành. Khác nhau giữa các tôn giáo chỉ là quan điểm sống, hành lễ, phong tục mà thôi…”.
1.3.2. Quan niệm về thơ và người làm thơ
Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình mỗi người nghệ sĩ đều xây dựng cho một trường thẩm mỹ riêng, hình thành những quan niệm có tính chất định hướng cho sáng tác. Dù ở phương diện trực tiếp hay gián tiếp thì quá trình ấy cũng được thi sĩ cụ thể hóa, sinh động hóa qua những quan niệm nghệ thuật của mình. Nó cũng chính là sự áp dụng những gì đã tích lũy thành những “đứa con tinh thần” mang phong cách riêng mà dù ở bất cứ đâu người đọc cũng có thể gọi tên được bằng ấn tượng của mình. Thành công của một tác phẩm văn học được tạo nên trước hết từ tiền đề của các quan niệm đúng đắn. Người nghệ sĩ chân chính là người nghệ sĩ biết cách xây dựng cho mình những cảm quan riêng và tạo ra “sóng âm” trong tác phẩm bằng chính những lí lẽ riêng của mình đến người đọc. Quan niệm nghệ thuật chính là thể hiện phần ý thức tự giác mang tính chủ quan của người nghệ sĩ, nó được rút ra từ sự nghiệp sáng tác và chính con đường thơ đó, góp phần khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo trong thơ. Mai Văn Phấn là một nghệ sĩ như vậy. Qua các giai đoạn sáng tác, để dần dần trưởng thành và hoàn thiện những quan niệm, xây dựng một phong cách sáng tạo mà khó có thể lẫn tạp trong vòng xoáy thơ hiện đại. Ông đã từng khẳng định “phong cách của nhà thơ không được đơn điệu, nó giống như cái Ru bích, một trò chơi của trẻ con, anh muốn xem màu gì thì xin hãy quay. Nhưng chắc chắn quay chiều nào, cách nào, anh vẫn nhận ra diện mạo, tinh thần của thi sĩ” [33, 425].
*Quan niệm về thơ
Nếu từ những năm 80, Bằng Việt đã tỏ ra hoài nghi: “Thơ có còn tri kỉ nữa hay chăng? Đời đột biến mà thơ đi quá chậm/ Đời hết sức thẳng thừng. Thơ vòng vèo luẩn quẩn/ Đời trả giá hết mình. Thơ khi nhớ khi quên” (Lại nghĩ về thơ). Và thơ trong qua trình vận động của mình đã phải tự đổi mới để rồi câu hỏi trên đã thành lời khẳng định. Tất nhiên, sự đổi mới phải bắt đầu từ quan niệm, từ ý thức nghệ thuật của người cầm bút. Văn học thời kì hiện đại càng đòi hỏi các văn nghệ sĩ của chúng ta phải luôn ý thức về điều này. Và, nhà thơ Mai Văn Phấn, con người của những suy tư, tìm tòi sáng tạo đã luôn tự làm mới mình, luôn có những cuộc “vong thân” đầy táo bạo để mang đến sự “vượt thoát” thành công. Điều này được ông thể hiện trước hết trong quan niệm về thơ ca.
Từ xưa đến nay, khi nói về một bài thơ hay dù là ai thì cũng chỉ có thể đưa ra những tiêu chí tương đối về nó, đứng ở những góc nhìn khác nhau sẽ mang đến những quan niệm khác nhau. Là con người luôn muốn “bung ra” khỏi những lối mòn xưa cũ, với Mai Văn Phấn thơ không đơn giản là “tải đạo, nói chí”, cũng không dừng lại ở việc phản ánh những vấn đề then chốt của thời đại, mà “thơ hay trong khoảng im lặng giữa các chữ, là mang đến cho ta niềm ngạc nhiên về thế giới, sự run rẩy trong tâm thức” [33, 389]. Với quan niệm này của thi sĩ đã cho ta thấy một cách nhìn mới về nhận thức thơ hay. Nhà thơ không tập trung vào các điểm chói sáng mà hướng đến những bài thơ hay trong quan hệ với chỉnh thể. Thơ hay trước hết là mang đến cho chúng ta “niềm ngạc nhiên về thế giới”, vậy niềm ngạc nhiên đó có được từ đâu? Trước hết phải xuất phát từ ý thức luôn tự làm mới mình của thi sĩ, cái mà nhà thơ Mai Văn Phấn gọi đó là những cuộc “vong thân”. Tuy nhiên, “vong thân” không nhất thiết là phải rũ bỏ, quay lưng lại với cái cũ và tìm đến những cái mới hoàn toàn. Mà ngược lại, sức hấp dẫn của nó đối với độc giả chính là trên những miền đất cằn cỗi ấy người nghệ sĩ sẽ làm cho nó màu mỡ hơn, tươi mát và giàu sức sống hơn. Từ đó, mở ra trước mắt người đọc những chân trời mới nhưng không hề lạ lẫm mà hết sức gần gũi, quen thuộc như những gì ta vẫn luôn cảm, luôn nghĩ.
Như vậy, quan niệm đúng đắn về thơ chính là cách nhà thơ tìm về với nghệ thuật chân chính. Qua hành trình sáng tác của mình chính là minh chứng cho những cách nhìn nhận và đánh giá của nhà thơ để vươn tới những chân trời rộng mở và đầy ánh sáng của nghệ thuật. Trên con đường ấy sẽ không thể thiếu được dấu ấn của sự sáng tạo và những quan niệm đúng đắn.
*Quan niệm về người làm thơ
Để có thể đến được với thế giới của nghệ thuật chân chính, bên cạnh quan niệm đúng về thơ thì cũng không thể thiếu quan niệm về người làm thơ. Trong một bài tiểu luận, Mai Văn Phấn đã từng nói “thơ ca đang chuyển động trong một thế giới đa chiều, đa cực. Trách nhiệm của mỗi nhà thơ là phải tự khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại”[33, 375]. Nhà thơ phải biết tập trung vào những điểm chập nổ (những câu thơ nhói sóng) mà gây sức ép. Như vậy, với Mai Văn Phấn, người nghệ sĩ chân chính bên cạnh những quan niệm nghệ thuật đúng đắn thì cũng phải xác định được trách nhiệm và sứ mệnh nghệ thuật của mình. Nam Cao đã từng quan niệm: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Như đã nói ở trên, đối với Mai Văn Phấn, sự đổi mới và sáng tạo không phải là sự bứt rào, đi ra khỏi những nền cũ và những gì được gọi là truyền thống, mà đối với ông sự đổi mới, sáng tạo đó chính là đưa thơ đến với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm hưởng truyền thống và màu sắc hiện đại. Khi ấy, thơ đến với độc giả bằng bộ cánh mới, đa sắc, lộng lẫy nhưng không lạ lẫm mà gần gũi, quen thuộc như chính những nốt nhạc thường xuyên vẫn ngân nga ở quê hương mình và trong tâm hồn mình. Nhà thơ Việt phải có “sự ra đi và sẽ trở về”. Ra đi “để thám hiểm, để đặt chân lên những vùng đất mới”, còn “trở về không có nghĩa là quay lại ngôi nhà cũ (hiện thực và lãng mạng) mà mang một diện mạo khác, tâm thế khác trên con đường khác” [33, 385]. Hình ảnh thơ Việt đương đại trải ra trên bề mặt thế giới mang tính toàn cầu, mới mẻ, giàu tính nhân văn, đẹp đẽ sống trong tâm hồn Việt. Vì vậy, trong quá trình suy ngẫm, Mai Văn Phấn đã rút ra được chìa khóa đưa người thơ vào với thế giới thơ. Người viết khi đã khai phá được bức tường thành bên ngoài thì phải đảm bảo sự tràn đầy của cảm xúc, cảm xúc dâng trào dòng thơ cũng được tuôn chảy ra từ đó. Ngược lại, nếu “cảm xúc không đầy, thơ sẽ rơi vào sự rối rắm, làm xiếc chứ và lại sa vào… tắc tị”. Với ông sự sáng tạo của người nghệ sĩ luôn là mầm sống để người nghệ sĩ ấy được tồn tại với những sản phẩm mà mình làm ra. “Sáng tạo chính là cuộc vong thân, là quá trình phủ định bản ngã”, Người nghệ sĩ với ý chí và nghị lực phi thường sẽ đưa đến chỗ tự phủ định mình để luôn thực hiện những bước tiến trên hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Mai Văn Phấn đã ví “việc sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con người”[33, 454]. Rõ ràng mỗi một nhà thơ là có một quan niệm, một cách nhìn nhận khác nhau, có bao nhiêu nhà thơ là có bấy nhiêu con đường đến với thi ca. Nhà thơ, theo Mai Văn Phấn "phải là nhà văn hoá. Kiến thức văn hoá ấy lắng sâu vào nhà thơ một cách tự nhiên, và tới mộthoàn cảnh “hữu duyên” nào đó, nó đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca. Lúc ấytứ bài thơ vụt đến bất ngờ, tưởng như “của nhặt được", nhưng thực ra nó đã đượctích luỹ vô tình ở đâu đó từ lâu".
Từ quan niệm về thơ và người làm thơ, Mai Văn Phấn đưa ra mối quan hệ giữa thơ ca với người tiếp nhận. Với ông, người nghệ sĩ khi viết xong một bài thơ là đã hoàn thành sứ mệnh của mình, lúc đó tác giả coi như “đã chết”, còn tác phẩm lại được sáng tạo một lần nữa bởi bạn đọc. Người tiếp nhận chính là người đồng sáng tạo với nhà thơ, là người luôn sống cùng với tác phẩm. Với Mai Văn Phấn, “thơ ca gần như tôn giáo, nhưng không cao vợi và phải thờ phụng theo những nghi lễ. Thơ ca cũng là tâm linh, nhưng nhà thơ có thể làm biến đổi cả đời sống tinh thần con người và mở ra những không gian riêng biệt khi gặp được “duyên” cảm xúc” [33, 435].
Nói tóm lại, là một nghệ sĩ chân chính, Mai Văn Phấn luôn định hướng và xác định cho mình những con đường đúng đắn để đến với nghệ thuật đích thực. Là một thi sĩ có sự ảnh hưởng của nhiều ánh sáng sáng tạo ở những chiều kích khác nhau, Mai Văn Phấn luôn chủ động để tìm cho mình một ý hướng tiến bộ vừa tiếp thu truyền thống, đồng thời trầm tích thêm truyền thống vừa mang hơi thở hiện đại.
1.3.3. Quan niệm về nhân sinh và thế giới
Đến với thơ ca, mỗi nghệ sĩ đều tìm cho mình một tâm thế nhất định. Điều đó không chỉ là kim chỉ nam cho sáng tác của thi sĩ mà còn góp phần tạo nên sắc điệu riêng trong sáng tác ở mỗi người. Trong quá trình sáng tác của mỗi nhà thơ, chính là sự ghi dấu về nhân sinh quan và thế giới quan. Trong đó, mỗi cách nhìn nhận và đánh giá của thi sĩ sẽ như một nốt nhạc của bản hòa tấu về con người và cuộc đời.
*Quan niệm về nhân sinh
Quan niệm về nhân sinh chính là quan niệm về sự sống con người, cụ thể hơn đó là sự xem sét, suy nghĩ của người nghệ sĩ về sự sống con người. Văn học là nhân học. Từ xưa đến nay văn chương đều lấy con người làm đối tượng miêu tả, phản ánh. Lịch sử văn học là lịch sử về con người, lịch sử về những giới hạn cũng như khát vọng của con người “là sự miêu tả hữu hạn của thế giới vô hạn”, “là hình thức bên trong của sự chiếm lĩnh đời sống”. Quan niệm về con người, cùng với cách nhìn nhận đánh giá hiện thực chính là cơ sở chi phối những nguyên tắc chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của nghệ sĩ, là nơi đánh dấu trình độ tư duy nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu, một tác giả.
Trở lại, văn chương cũng phục vụ con người. Con người trong văn chương thể hiện ý thức về con người và cuộc đời của nhà văn. Đây là một yếu tố quan trọng làm cơ sở cho việc sáng tạo các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Trong văn học, con người bao giờ cũng là con người được quan niệm, vì thế “nói đến quan niệm nghệ thuật là nói đến ý hướng của nhà văn hướng đến thế giới và con người ngay trong khi sáng tác văn học” và “quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lý của tác phẩm”. Quan niệm con người trong sáng tác của Mai Văn Phấn thể hiện tầm quan sát, sự nhận thức về con người của thi sĩ, tạo cho các thi phẩm của ông có được chiều sâu triết lí nhất định.
Như chúng ta đã biết, cuộc sống muôn hình, muôn vẻ, con người tồn tại và phát triển trong các mối quan hệ xã hội chứ không phải là những thực thể độc lập, tồn tại cách biệt với thế giới bên ngoài. Con người được khai thác trong sự hài hòa với thiên nhiên và vũ trụ. Vì thế, trong các sáng tác của mình, Mai Văn Phấn đặc biệt chú ý đến mối quan hệ giữa con người – vũ trụ - cội nguồn. Lịch sử tiến hóa loài người dù phát triển ở giai đoạn nào thì tự nhiên, vũ trụ vẫn đóng vai trò quan trọng. Mai Văn Phấn nhận thức được điều này từ rất sớm, ngay từ tập thơ đầu tiên, Mai Văn Phấn đã đưa người đọc đến với những trải nghiệm bất ngờ: Anh nghiêng vào chiếc lá/ Lá bỗng đôm đốm vàng/ Có hạt sương lạnh giá/ Rơi xuống hồn anh đang (Chân thật)
Ở đây, con người xuất hiện trong tư thế chủ động, hòa mình vào với thiên nhiên, đắm mình trong vũ trụ bao la, làm cho thiên nhiên ấy cũng trở nên sống động, có hồn. Nó mang những sắc thái riêng và có thể lay động đến tận miền tâm thức của con người. Câu thơ như đang có sự chuyển động về phía phồn vinh của sự sống.
Sự hòa hợp giữa con người và ngoại giới trong thơ Mai Văn Phấn được hình dung như những hành động hết sức nhỏ bé, dung dị ngay trong đời sống thường nhật chứ không phải chỉ trong ý niệm cao xa: Em gom mùa nào thức nấy/ chùm hoa bưởi mùa thu/ trái mận mùa xuân/ Mình là mạch khí, vực sâu, ngực đất/ chọn nơi ấm áp kê giường tủ/ nơi thoáng đãng đặt bàn ghế…(Mùa hoa mận).
Càng về các sáng tác ở giai đoạn sau, Mai Văn Phấn lại càng ý thức rõ nét về các mối quan hệ của con người trong cuộc sống. Trong đó, ông đặc biệt chú ý đến vấn đề nguồn cội của con người. Tập thơ mới nhất của ông không chỉ thể hiện những bước chuyển đáng kể trong cách thể hiện, mà quan trọng hơn là sự nhận thức mới mẻ về sự tồn tại và phát triển của con người trong sự quy chiếu của nhiều yếu tố. “Vừa sinh ra ở đó” – một sự mới mẻ, tinh khôi đến bất ngờ. Tập thơ đã thể hiện được vấn đề căn cốt khi đã chạm vào chiều sâu về mối quan hệ giữa con người với cội nguồn. Nơi sinh ra sự sống là nơi có ánh sáng, có bình minh, có ban mai như một sự “đón chờ đến ngây dại” – Ánh sáng đang phát ra từ đó, bình minh đang phát ra từ đó: Không phải nơi nào khác/Mà chính từ bông hoa cỏ may kia/ Đang làm nên một ngày tuyệt đẹp (Nơi cội nguồn thế giới).
Để rồi, từ đó nhà thơ khẳng định, nơi cội nguồn của sự sống, cội nguồn của thế giới chính là từ thiên nhiên và vũ trụ bao la kia. Nơi ấp ủ toàn bộ sự sống lại có chút gì đó mơ hồ nhưng lại rất nên thơ: Đúng, rất đúng/ Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó. (Nơi cội nguồn thế giới)
Như vậy, thiên nhiên vũ trụ trong tâm thức của thi sĩ cũng giống như một người mẹ trong cuộc sống con người. Thiên nhiên ấy dù được nhìn nhận ở góc độ nào thì đều thể hiện những tầm cao vĩ đại trong mối quan hệ với con người. Không phải là những điều xa xôi, huyền bí nào mà chính “người mẹ thiên nhiên” đã tạo ra một sự thống nhất cao hơn, sâu sắc hơn giữa tự nhiên và xã hội, nhân sinh và vũ trụ, giữa cái tôi và cái ta. Đồng thời, vũ trụ bao la chính là nơi nuôi dưỡng, duy trì sự sống: Trái đất – căn nhà hộ sinh/ Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh/ Những dòng mật mã. (Màu xanh)
Trái đất – Mái nhà của sự sống, là “bà mẹ thiên nhiên” nuôi dưỡng, ấp ủ sự sống con người. Chính nơi đây đảm bảo cho sự sinh tồn của con người và vạn vật. Ươm mầm cho những khát khao, để con người được “nương tựa” vào thiên nhiên, hòa mình vào cảnh vật.
Cùng với mối quan hệ với thiên nhiên, vũ trụ và cội nguồn, thì con người còn bị chi phối bởi các quy luật trong cuộc sống. Trong cõi nhân thế vạn vật đều bị chi phối bởi quy luật vô thường “sinh, lão, bệnh, tử” là chuyện ngàn đời của nhân thế, cũng như chúng sinh nói chung. Sinh lão bệnh tử đâu chỉ dành cho con người, mà còn cho cây cỏ vạn vật. Trăm năm sinh lão bệnh tử dành cho con người, có thể hàng ngàn năm vạn vật và từng thời kỳ với một giới hạn thời gian nào đó cho các hành tinh, vũ trụ. Đó là căn nguyên của lẽ vô thường. Cũng là những quy luật huyền bí mà không ai có thể thay đổi được. Khi ấy, giấc mơ trở thành một điểm tựa tâm linh, nâng giấc tinh thần con người: Chợp mắt mười lăm phút/ Mà mơ dằng dặc mấy mươi năm/ Tỉnh mộng/ Mộng còn/ Vật vã…(Mơ thực)
Đời người thật ngắn ngủi, chỉ như một giấc mộng kéo dài, nhưng rồi có lúc phải tỉnh trong sự đau khổ, vật vã.
Bên cạnh đó, nhà thơ cũng xác định được, cô đơn là tâm thức phổ biến của con người thời hiện đại. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống nâng cao đôi khi con người cảm thấy lạc lõng, đơn điệu, trong cuộc sống tưởng như là đầy đủ ấy. Sự cô đơn đó thường diễn ra khi con người trực tiếp đối diện với bản ngã của chính mình, hay khi con người không thể tìm được một chân trời để sẻ chia, tâm sự. Họ cố gắng tìm kiếm một sự tương tác, thấu hiểu nhưng chỉ nhận lại một sự im lặng đến đáng sợ trong một khoảng không vô định. Khi ấy, con người rơi vào trạng thái bất lực, nỗi cô đơn càng rợn ngợp: …Thử gọi một ai xa lắc xa lơ/ Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ/ Càng tỏ (Tắm đầu năm)
Mai Văn Phấn đã đưa nỗi cô đơn của mình vào những miền sâu thẳm nhất của tiềm thức. Sau sự cô đơn đã biến thành động lực khơi dậy những khát khao sâu thẳm trong con người: Nhoài lên mỏm đá sắc/ Thân thể gió trầy xước/ Máu của gió là mưa/ …/Giang tay núi đạp chân vào đất/ Vò nát/ Xé toang thân gió /Ánh sao rơi/ Buổi sớm vỡ òa…(Đỉnh gió)
Ái tình trong thơ Mai Văn Phấn cũng dâng lên từ trạng thái cô đơn, nhưng trong thơ ông sự khát khao đó không đơn giản là sự thỏa mãn nhục dục mà tình yêu của Anh và Em trong tương quan đó, là biểu tượng của cuộc gieo trồng thiêng liêng. Thi sĩ ý thức được sự phồn sinh trong sự sống. Mai Văn Phấn đã lay động đến những nguyên lý sinh sôi, nảy mầm trong thế giới tự nhiên, khơi dậy sự sống trong tình người và trong cả bản thể vũ trụ: Tìm miệng anh gieo hạt/ Gió níu chân tay đất dịu dàng/ …/Chờ nảy mầm/ Gió mang mặt đất đi (Đỉnh gió)
Như vậy, quan niệm về nhân sinh đúng đắn cũng chính là con đường chân chính đưa thi sĩ đến với nghệ thuật đích thực.
*Quan niệm về thế giới
Quan niệm về thế giới là hệ thống tổng quát những quan điểm của người nghệ sĩ về thế giới (toàn bộ sự vật và hiện tượng thuộc tự nhiên và xã hội), về vị trí con người trong thế giới đó và về những quy tắc xử sự do con người đề ra trong thực tiễn xã hội. Thế giới – nơi tồn tại sự sống, có cấu trúc phức tạp, gồm nhiều yếu tố trong đó có hạt nhân là tri thức. Hay nói cách khác, quan niệm về thế giới chính là biểu hiện của cách nhìn bao quát (bức tranh) đối với thế giới bao gồm cả thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của người – thế giới. Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam cho hành động của con người.
Là con người ham học hỏi, cộng với vốn kiến thức uyên thâm và những trải nghiệm sống sâu sắc, Mai Văn Phấn đã thể hiện những cách nhìn nhận mới mẻ với toàn bộ thế giới quan. Trong đó, đặc biệt nhất là đời sống của tự nhiên, con người và nhân loại. Cách thể hiện của Mai Văn Phấn là khát vọng nhận thức đi tìm cái mới, cái đẹp hay đúng hơn, ông muốn phản ánh đặt tên lại các hiện tượng trong cuộc sống. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú thơ phải được gợi mở trong “cấu trúc không gian đa chiều”. Làm thơ là sự khổ công tìm kiếm, bám níu có ý thức và vô thức lý tưởng mà mình đam mê. Do đó, quan niệm về thế giới của thi sĩ cũng là một cách khẳng định bản lĩnh và bản ngã của người nghệ sĩ.
Mai Văn Phấn dường như giữ một cái nhìn điềm tĩnh trong quan niệm về thế giới. Đọc thơ ông, người đọc có thể cảm nhận một quan hệ tương thích hài hòa của người thấy mình trong thiên nhiên và thấy thiên nhiên trong mình hơn là những nỗi bi ai, hoài nhớ, đau xót một thiên đường đã mất như trong quan niệm của Nguyễn Quang Thiều – người muốn, “rời bỏ thành phố” để tìm lại những giá trị vững bền của con người và tự nhiên. Có những khi, trong thơ Mai Văn Phấn thế giới phi-nhân muốn nổi loạn, “đòi đặt lại tên” và “định hình lại”, nhưng nhiều hơn vẫn là một sự quấn bện kì lạ, như thể thi sĩ sống ở một không gian khác, nơi các linh hồn kết tụ với nhau đầy bí ẩn cùng với viễn tượng về một không gian mới ở tương lai. Cách ứng xử, chung sống với tự nhiên của Mai Văn Phấn trong quan niệm và trong thơ ca dường như cũng là căn cốt thi sĩ của ông, đồng thời là cái “khí” thơ đẹp khỏe khoắn, vững bền, tinh lọc, không hướng về những vùng tối mà hướng về ban mai và ánh sáng, không bị kéo trĩu bởi cảm thức hoài nhớ hay nỗi “thương nhớ đồng quê”- để gợi nhắc một tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp - thường thấy trong văn chương lãng mạn và hiện đại, khi những giá trị của văn minh xung đột với những vẻ đẹp văn hóa bản nguyên.
Như vậy, từ các hiểu biết về thế giới trong quan niệm thi sĩ, Mai Văn Phấn cho chúng ta có được bức tranh về thế giới trong ý thức và từ đó nó quyết định lại thái độ và hành vi đối với thế giới. Ở đó thi sĩ như vừa tự nhắc nhở mình, vừa muốn nhắn gửi đến các thế hệ người tiếp nhận bức thông điệp về cách hành xử của mình đối với thế giới. Có một quan niệm về thế giới đúng đắn sẽ hướng con người hoạt động theo sự phát triển lôgic của xã hội và góp phần vào sự tiến bộ của xã hội. Vì thế, thế giới quan là trụ cột về mặt hệ tư tưởng của nhân cách, là cơ sở cho đạo đức, chính trị và hành vi . Nhà văn Kate Chopin đã nói: "Thức tỉnh vẫn là điều tốt nhất, dù ta thức để gánh chịu nỗi thống khổ, còn hơn ở mãi trong sự lừa mị của ảo tưởng". Mỗi ngày, nhà thơ Mai Văn Phấn đều thức dậy với những giấc mơ trong khóe mắt. Giấc mơ của nhà thơ là chất xúc tác dẫn đến sự thức tỉnh, và những dòng chữ ông viết là phương thuốc xoa dịu nỗi đau. Không còn chỗ cho sự dối trá ở đời sống này. Mai Văn Phấn đã tìm đến thiên nhiên theo cách của một thi sĩ phương Đông: hòa mình vào với “thế giới”, phóng chiếu tâm tưởng vào vũ trụ để nhận ra cái hồn và tinh thần của muôn vật.
Tóm lại, từ những quan niệm đúng đắn và mang tính chất định hướng về nhân sinh và thế giới của Mai Văn Phấn, chúng ta có quyền khẳng định rằng, Mai Văn Phấn vừa là nhà thơ, tình nhân đích thực của thiên nhiên (theo cách nói của Nhã Thuyên) và cũng vừa là tri kỉ trong cuộc sống con người. Thi sĩ luôn có ý thức khơi những “miền dậy sóng”, để từ đó, “trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Mai Văn Phấn đã nỗ lực khám phá ngôn ngữ như một phương cách thiết yếu để thấu nhập vào thế giới tự nhiên và từ đó, tạo dựng khí quyển thơ riêng của mình, một bầu khí quyển kết nối cá thể người và thế giới, linh hồn người và linh hồn tạo vật trong sự bình đẳng và quấn bện của tình yêu thuần giản. Do đó, đọc thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn này cũng khơi mở hi vọng về một con đường sáng tạo thơ ca, trong đó, việc trở về với cội rễ đồng thời là một cách nạp năng lượng cho thi ca. Ở góc độ này, Mai Văn Phấn, ngay khi được xếp vào thế hệ những nhà thơ đổi mới với nỗ lực cách tân thi ca đã khẳng định một cách nghĩ riêng về giá trị và sáng tạo”[13, 292]. Và rồi, qua bao thời đại với những thăng trầm thì những quan niệm đúng đắn và những trải nghiệm tuyệt vời trên ngòi bút của mình, Mai Văn Phấn sẽ luôn khẳng định được giá trị và vị thế của mình.
*Tiểu kết
Trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại, thơ Mai Văn Phấn đến và mang theo một làn gió mát trong lành chảy sâu trong tiềm thức của con người. Ông là người luôn có ý thức khẳng định bản lĩnh sáng tạo của mình. Mai Văn Phấn xác định: “Thi sĩ đích thực là người phải biết làm ra những bài thơ biết phản bội mình. Nghệ sĩ là người liên tục vượt qua những cuộc “vong thân” để hoàn thiện mình". Trong quá trình hoàn thiện ấy, tôn giáo trong thơ ông cũng được thể hiện hết sức tự nhiên và đầy thú vị. Tôn giáo với Mai Văn Phấn là thế giới tâm linh của những điều thiêng liêng, cao đẹp. Tôn giáo ấy, hướng con người đến sự gắn kết vô hình mà chặt chẽ thẳm sâu trong tiềm thức. Không phải ngẫu nhiên mà trong văn học Việt Nam và trong hành trình sáng tạo của Mai Văn Phấn lại in đậm dấu ấn tôn giáo đến vậy. Bởi từ xa xưa tôn giáo giống như “liều thuốc tinh thần ”, là điểm tựa tâm linh trong cuộc sống của cá nhân, nó giống như điểm sáng soi đường cho sự phát triển nhân cách của con người trong xã hội.
Tôn giáo chảy trong tâm hồn thi sĩ khởi nguồn từ truyền thống quê hương, gia đình, cùng với sự “hữu duyên” và ham học hỏi, nên trong Mai Văn Phấn là sự hội tụ của rất nhiều tôn giáo lớn, biểu tượng những nền văn minh trên thế giới. Từ đó, ông đã tự đúc kết chân lí về tôn giáo của riêng mình, rằng Đấng-Toàn-Năng/ Thượng đế (hiểu theo nghĩa Cái Đẹp) chỉ có một, dù thể hiện dưới những tên gọi khác nhau nhưng chúng cùng chung một mục đích là hướng con người ta đến bến thiện, khuyên họ điều hay, lẽ phải và giáo dục con người cách hành xử đúng đắn. Từ đó, trong hành trình sáng tạo, sự ảnh hưởng của các tôn giáo trong thơ ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Đặc biệt còn có sự hoán chuyển trong các nghi thức tôn giáo ở các thời kì sáng tạo của thi sĩ. Rõ ràng, Mai Văn Phấn đã có một cái nhìn biện chứng về tôn giáo, trong con người ấy không có sự phân biệt giữa tôn giáo mình và tôn giáo người. Chính cách nhìn nhận thấu đáo, cùng những quan niệm tiến bộ đã đưa Mai Văn Phấn đến với hiện thực ở bề sâu một cách gần nhất, toàn diện nhất. Tôn giáo một lần nữa lại được “hồi sinh ”, “tái sinh ” trong thơ của Mai Văn Phấn.
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN,
NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG
2.1. Hình tượng không gian trong cảm hứng tôn giáo
“Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” (Trần Đình Sử). Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không - thời gian xác định, nên những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian - thời gian, con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình.
Để hiểu được khái niệm không gian nghệ thuật một cách cơ bản và khái quát nhất, chúng tôi xin được viện dẫn cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [5, 162]. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy, không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.
Đối với Mai Văn Phấn, ông quan niệm, Trách nhiệm của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình… Không gian ấy là dung lượng cảm xúc, độ mở trí tuệ mà nhà thơ bao quát, chế ngự được. Không gian trong thơ Mai Văn Phấn rất đa dạng từ những không gian thực đến không gian được tưởng tượng, linh hóa, đó là “không gian ẩm ướt”, “không gian lặng lẽ”, “không gian bí ẩn”, “không gian lập thể”… Nói cách khác, không gian trong thơ Mai Văn Phấn là nơi hiện hữu của những điều thiêng. Không gian ấy có thể được đơn giản hóa bằng những điểm đến cụ thể (không gian thực): cửa chùa, thánh đường, triền sông, gót chân thiếu nữ, tiếng cá quẫy…, nhưng cũng có thể là nơi được trừu tượng hóa, trữ tình hóa trong thế giới của hư vô và hư không (không gian siêu thực).
Trước hết, không gian trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên qua những không gian tôn giáo thực. Đó là cái thực trong sự hiện hữu của những ngôi chùa, cửa đền, thánh đường, khói hương, hay nến sáng… Những không gian đặc trưng của Phật giáo và Thiên Chúa giáo được Mai Văn Phấn đưa vào thơ hết sức tự nhiên và đầy chất thơ. Đó là, thế giới thiên nhiên nơi cửa chùa thanh tịnh, … Chúng bay lên rồi đậu xuống mái chùa/ Bị lũ trẻ rình bắt và đem bán/ Từ chiếc lồng đến bầu trời là ánh sáng cầu nguyện/ Sao lời cầu nguyện còn giam hãm những linh hồn (Những con chim sẻ chùa Vĩnh Nghiêm). Rõ ràng, trải dài trên nền thơ là nơi không gian tôn nghiêm, với hình ảnh biểu trưng là những con chim sẻ với lời cầu nguyện, đó là thứ ánh sáng thiêng liêng giải thoát linh hồn. Cầu nguyện để được siêu thoát linh hồn, đây là một cách nói độc đáo mang âm hưởng tôn giáo. Bên cạnh đó, hình ảnh “Những ngôi đền kí ức” hiện lên như một sự ám ảnh đến một vùng tâm thức của nhà thơ, … Ký ức tựa ngôi đền, dâng trong tóc mình dĩ vãng tôn nghiêm… tôi gom câu ca xưa đúc thành bệ cho thánh nhân ngồi, những câu ca thơm hương trong ngôi đền ký ức… Mặt đất căng cánh buồm no gió, ta lại nghiêng mình trước ngôi đền ký ức lúc ra khơi (Hải Phòng trước năm 2000). Cách nhà thơ tìm về với nguồn cội hết sức ấn tượng và đầy thi vị. Trong miền ký ức ấy, chứa đầy một không gian tôn giáo linh thiêng. Không gian ấy, gắn liền với vùng nhớ và sự tri ân của nhà thơ đối với “Thánh nhân”. Hay đặc biệt hơn, khi viết về một không gian hiện hữu quen thuộc, từ cái thuở “Cứ chiều chiều, tôi cắp chiếc chiếu manh theo bà đi nhà thờ”, Mai Văn Phấn bộc lộ một niềm trắc ẩn. … Vọng tiếng reo trên nguồn rừng góc bể/ Hay tự nơi nào vừa tan chảy u mê/ Nơi thánh đường không ai thờ phụng/ Phi lý lỗi thời mọi toan tính suy tư/ Mọi bền chặt đã đến giờ tan loãng/ Nung nấu réo sôi từng vật thể tế bào (Quyền lực mùa thu). Đến đây, dấu ấn tôn giáo hóa thể hiện rõ nét trong cách thể hiện của thi sĩ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa “tôn giáo mình” và “tôn giáo người”, nên không gian thơ có lúc như “tan chảy” theo sự bừng nở của cảm xúc. Hiệu ứng thơ vang vọng đến thế giới tâm linh, tâm thức của con người. Để rồi, không gian thực của tình yêu hạnh phúc, cũng chính là không gian của “Đạo yêu” trong nhận thức và miền sâu cõi lòng,… Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh... (Em cho con bú). Một không gian mang một vẻ đẹp đến thánh thiện, không gian và thời gian như cùng hòa điệu để vươn tới một tình yêu đẹp, vẻ đẹp hiện hữu của những điều thiêng liêng và kì diệu.
Đặc biệt hơn cả, Mai Văn Phấn đã sáng tạo ra không gian của sự phồn sinh – một không gian sống được mở ra vô cùng rộng lớn. Đó là khoảng không gian không xác định và được linh hóa, nghệ thuật hóa trong thơ. Không gian ấy, dường như được nuôi dưỡng bởi kí ức vùng nông thôn miền Bắc Việt Nam, kí ức giàu có đó vẫn đầy sức sống ngay cả trong không gian đô thị hóa của cuộc sống hiện tại. Cũng có thể bởi Hải Phòng, là một đô thị biển, không đậm đặc chất đô thị như Sài Gòn, không có nỗi hoài vọng về “thủ đô thanh lịch”, lại vẫn giữ được vẻ phóng khoáng của gió, sóng biển, một không gian được hòa trộn giữa làng và phố, nhiều phấp phỏng về thế giới vật chất nhưng vẫn dễ dàng bắt được một bóng cây, một bóng mây đẫm lửa… tất cả đã bồi đắp nên tính chất hỗn giao trong tâm hồn của thi sĩ khi khám phá thế giới tâm linh trong đời sống con người. Thậm chí, ở một khía cạnh nào đó, nhà thơ còn được nuôi dưỡng bởi suối nguồn lãng mạn để xây dựng những tưởng tượng đẹp về thời chưa tới với một không gian đô thị sinh thái, một không gian trút bỏ mọi ràng buộc, trở thành Tự Nhiên, mở rộng đến vô cùng, mà lại có thể thu vào trong lòng tay, để cái mênh mông đó cũng là một không gian chung - Mái Nhà của nhân loại. Nơi đây, trẻ con sinh ra và sự sống khai mở, hồi sinh, những nguồn cảm hứng mãnh liệt của Mai Văn Phấn từ những sáng tác giai đoạn đầu, Trái đất - Căn nhà hộ sinh/ Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh những dòng mật mã... (Màu xanh)
Rõ ràng, nơi tồn tại và duy trì sự sống: Trái Đất – không gian rộng lớn được đồng nhất với Căn Nhà Hộ Sinh, và hơn thế, Tình Yêu (hôn nhau qua kẽ lá) cùng với sự Sinh Ra (tiếng trẻ con chào đời) hợp thành một thế giới trở về đúng với cái khởi nguyên, cái kì diệu, và tất cả cũng được đồng nhất với Màu Xanh. Nếu nói bầu trời là không gian ôm trùm thơ Mai Văn Phấn, thì cách diễn đạt tốt nhất có lẽ chính là thơ của ông: viễn tượng về một “Bầu trời không mái che”, tên tập thơ xuất bản năm 2010. Bầu trời này, không chỉ là giấc mơ về một không gian sống khoáng đạt, nó còn là một giấc mơ về không gian tư tưởng, cảm xúc, nơi các cá thể người và không phải người thả lỏng tuyệt đối để tận hưởng và khai mở sự sống bản thể, Ao chuôm tìm hướng lên trời/ dòng sông vừa chảy/ vừa sinh nở (Đất mở). Đến đây, nhà thơ đã đạt đến sự cân bằng chắc chắn cần thiết ở tầng sâu tâm thức, nổ lực vươn tới một miền “nhói sáng trong huệ tưởng”. Có thể dễ dàng nhận ra, hình tượng không gian rộng lớn này đã được Mai Văn Phấn có ý tạo dựng ngay từ giai đoạn đầu của sáng tác: Hồn mình dựa chốn mong manh/ Rồi hư danh ấy cũng thành hư không/ Mắt vừa mở với rạng đông/ Chân trời hổn hển phập phồng ngón chân. (Kinh cầu ban mai)
Thực ra, nếu so sánh với các hình tượng các yếu tố nguyên thủy khác như đất (biến thể là cánh đồng, đất đai,v.v), nước (biến thể là sông, biển…), lửa (biến thể là ánh sáng, mặt trời) thì “bầu trời”(với các biến thể như không khí, hơi gió) xuất hiện có vẻ thưa vắng hơn. Tuy nhiên, hình tượng không gian này lại trở nên giàu có, bởi tiềm năng khêu gợi tưởng tượng về một không gian vô tận của tự nhiên và suy tưởng của nó, bởi đó là chiều cao, chiều rộng và cả chiều sâu, bởi nó hướng về một viễn tượng xa xôi. Đặc biệt hơn nó quy chiếu đến chiều sâu tâm lí của con người. Một không gian rộng lớn có thể bao phủ khắp thế gian, vừa che chở, vừa quy chụm tất cả vạn vật, như tình yêu thương bao la của Đấng – Toàn – Năng. Đó là hình tượng trung tâm trong một lập thể không gian rộng lớn, không gian đó dù không được xác định ở một nơi, điểm cụ thể nhưng nó lại được xác định trong chính chiều sâu nhận thức của con người, là cách con người tìm đến với Đấng tối cao của miền tâm linh, tâm cảm.
Không gian được linh hóa trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên đa phần là những không gian mơ hồ, không xác định. Cách miêu tả không gian như vậy phù hợp với sự chuyển động của vùng tâm thức, của thế giới tâm linh. Khai thác không gian này, Mai Văn Phấn chú ý đến không gian giấc mơ. Thi sĩ thể hiện niềm tin đặc biệt vào sự ban phát của giấc mơ như một vị cứu tinh: Như bao muông thú/ Tôi lớn bằng giấc mơ/ Của ánh bình minh/ Của cơn mưa/ Bầy sao sa/ Trái đất/ …/ Trái đất màu đen/ Chín từ đỉnh trời/ Nơi hoa sen/ hoa cúc/ đang nở/ …/ Bình minh vắt ngang ngực/ lúc tôi bắt đầu hành thiền (Tĩnh lặng). Không gian giấc mơ, được Mai Văn Phấn phát huy một cách cao độ trong tưởng tượng, giả định. Đó là những câu chuyện phi logic, hoang tưởng từ “Chỉ là giấc mơ”, “Kể lại giấc mơ”, đến “giấc mơ vô tận”. Nhà thơ triết lí về sự sống, về một “Hiện thực khác” vẫn luôn hiện hữu trong đời sống này. Đồng thời với không gian giấc mơ, hơn bao giờ hết cũng là cõi không gian hiển hiện trong khoảng trời vô thức – cánh cửa mở ra những điều kì bí, huyền hoặc không thể giải thích được. Đây cũng là một mặt trong thế giới của tâm linh. Thế giới tâm linh là thế giới của những miền đối cực, giữa thực và ảo, ánh sáng và bóng tối. Tất cả là sự thể hiện tính chất đối cực của “nguyên lý âm – dương” hiện diện đậm nét trong không gian thơ Mai Văn Phấn. Đó là đối cực của cánh đồng và cơn mưa, của trời và đất, đêm và ngày, tối và sáng, nam và nữ… Hiển nhiên, những đối cực này thể hiện sự thống nhất, hòa hợp. Điều đó biến không gian thơ này trở thành biểu tượng của một sinh giới nẩy nở, viên mãn. Do tìm thấy cái đẹp trong sự sinh nở, nên Mai Văn Phấn đã nhìn thấy khung cảnh người phụ nữ thật lung linh trong dáng điệu mang thai ánh sáng bồng bềnh bụng mang dạ chửa (Tắm đầu năm), hay một vẻ đẹp căng tràn sự sống phì nhiêu, rất mực thiêng liêng khi người phụ nữ đang cho con bú: Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh…(Em cho con bú). Quen đấy mà lạ đấy, sự sinh nở của cõi sống này đã được nhà thơ tụng ca nồng nhiệt với những vần thơ thật bình dị mà đẹp đẽ.
Mặt khác, trong sự chuyển động của vùng tâm thức được lập trình trong khoảng không gian được linh hóa, nó có chút gì đó mơ hồ, không xác định:
… Theo ngọn gió mở cánh đồng buổi sớm, ùa vào những căn phòng lẫn bụi và ánh sáng, lau mồ hôi vừa tắm gội giấc mơ.
Và như thế, cội nguồn trong gang tấc, lúc quay về là đi hết đời mình, hay chờ luân hồi trở lại kiếp sau.
Những linh hồn kia chưa kịp đầu thai, đang ngưng lại nơi không gian thờ phụng, bay lửng lơ rồi nấp vào bái vật giáo bất động… ( Bức ảnh, trái cây và giấc mơ)
Một không gian thơ tràn ngập sắc màu Phật giáo, không gian ấy với “những căn phòng lẫn bụi và ánh sáng”và cũng là không gian thiêng của sự “thờ phụng”. Trong đó, nó có khả năng ngưng đọng sự sống, để con người có dịp nhìn nhận lại cội nguồn, cuộc đời và sự sống sau khi chết. Hình ảnh con người xuất hiện mờ nhạt nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc về sự hiện tồn của “đời sống thứ hai”.
Nếu ở một số tập trước (Hôm sau, Và đột nhiên gió thổi, Bầu trời không mái che…), tính siêu thực đậm nét thì đến Hoa giấu mặt, và bây giờ là Vừa sinh ra ở đó, thơ Mai Văn Phấn nghiêng về tính tượng trưng. Tập thơ là sự trở về với đời sống tâm linh phương Đông, với hồn cốt Việt, trên nền trữ lượng tinh thần mạnh mẽ của kiểu tư duy hiện đại. Sự tiết chế trong kĩ thuật, tính biểu tượng trong cấu trúc không gian, sự cô đặc và giản dị trong ngôn từ và hình ảnh… là những yếu tố quan trọng tạo nên tính tượng trưng đậm nét trong tập thơ này. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ tái hiện và hòa hợp một cách tự nhiên, sắc nét với trực giác, xúc cảm, làm trực hiện một thế giới của tâm linh, của trí tưởng tượng song vẫn hết sức gần gũi. Nhìn chung trong toàn bộ tập thơ, cái lõi tinh thần triết học đã tìm được một cách diễn đạt sát hợp, dung dị và giàu tính ám gợi “Nơi cội nguồn thế giới” - nơi tất cả chúng ta được sinh ra và luôn được tái sinh. Đó cũng chính là không gian sinh thành và tồn tại của Cái đẹp, tình yêu và sự sáng tạo nghệ thuật. Từ đó, có thể nói cùng với sự chuyển dịch của các nghi thức tôn giáo trong quá trình sáng tác nên không gian tôn giáo cũng có sự thay đổi. Không gian ấy có lúc mang màu sắc Thiên chúa giáo, lúc lại thấm đẫm tinh thần Phật giáo. Nhưng dù được thể hiện dưới hình thức không gian nào thì cũng cùng chung điểm đến là khoảng trời tâm linh thiêng liêng, là một vùng không gian tâm tưởng trong tâm hồn con người. Ở đó, “thế giới thứ hai” được sống đời sống của chính nó
Như vậy, cảm hứng tôn giáo được soi chiếu từ hình tượng không gian nghệ thuật, chính là cách chúng ta tìm đến với hồn cốt của một thế giới phồn sinh trong thơ Mai Văn Phấn. Từ đó, thêm một lần nữa đến với chiều sâu nhận thức của thi sĩ về một thế giới mà đời sống tâm cảm luôn hiện hữu. Để rồi, chính đời sống tồn tại trong không gian tôn giáo ấy đã mang đến sự thiêng liêng, thanh sạch trong cõi tâm thức con người. Thơ Mai Văn Phấn được bao phủ bởi không gian và ánh sáng từ cuộc trở về tĩnh lặng đến cái đích của Tâm không và tái sinh ở một đời sống mới với tinh thần, Vẫn hiểu nhau dù quên tiếng nói/ Đã yêu. Hiến dâng. Đã sống.
2.2. Hình tượng thời gian trong cảm hứng tôn giáo
Như trên đã nói, cùng với hình tượng không gian thì thời gian cũng là hình thức thể hiện của nhân sinh quan và thế giới quan. Thời gian nghệ thuật là nó luôn mang tính cảm xúc và ý nghĩa nhân sinh, quan niệm nhân văn, do đó nó mang tính chủ quan. Tính chất chủ quan giúp ta phát hiện được thực tại đối với con người. Nó chính là thời gian của thế giới hình tượng, vì thế, nó là hình tượng thời gian. Trần Đình Sử viết:“Thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật” [40, 39]. Để có thể tạo mạch chuyển động tinh tế phù hợp với miền vô thức, Mai Văn Phấn đã lựa chọn cách biểu đạt thời gian như một hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩa tôn giáo. Tác giả sáng tạo ra hình tượng thời gian không tuân theo những quy luật logic thông thường mà phát triển trên nền thời gian phi tuyến tính, từ đó lập thể trong cách xây dựng thời gian hiện thực trần thế, thời gian trần thuật và thời gian đậm chất triết lí Phật giáo. Ở đây, thời gian nghệ thuật là sự phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm, kể cả tư tưởng của con người trong tác phẩm. Do đó, việc khám phá hình tượng thời gian trong các thi phẩm của Mai Văn Phấn, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các giá trị tư tưởng thẩm mỹ về đời sống tâm linh.
Trước hết, thời gian hiện thực trần thế được soi tỏ từ việc thẩm thấu triết lý vô thường của triết học tôn giáo, dấu ấn thời gian nghệ thuật được tái hiện qua sáng tác thơ. Sự biểu hiện thời gian hiện thực của trần thế vốn vô cùng ngắn ngủi và chớp nhoáng. Xuyên suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật, người đọc có cảm giác thời gian trôi nhanh một cách vùn vụt, hối hả, gắn liền với các sự kiện mà con người nỗ lực để hoàn thành. Cảm hứng chủ đạo của Mai Văn Phấn là ở chỗ sáng tạo ra một thời gian, thước đo thực hiện “hạnh nguyện” của mình phù hợp với mọi tâm thức. Điểm sáng của tác giả là nhìn nhận con người - nhân vật trung tâm với những mục đích, hành động để chuyển hóa thân phận khổ đau. Dường như, ông đã đi cùng nhịp đập thời gian của cuộc sống.
Tôn giáo quan niệm, mạng sống của con người được tính qua hơi thở. Một hơi thở ra mà không thở vào được là kết thúc một sinh mệnh. Trong ý nghĩa đó, không ai có thể cầm chịt, kìm hãm thời gian theo ý muốn. Thời gian cứ thế ám ảnh, khiến nhân vật trữ tình lúc nào cũng thao thức muốn chuyển cái thời gian hữu hạn thành cái vô hạn. Ở đó, không có sự tàn phá của cái thời gian lạnh lùng, từng làm sụp đổ biết bao nỗi lòng con người từ sắc đẹp, tuổi trẻ, danh vọng, địa vị và quyền uy. Thật xót xa cho cái đẹp bị thời gian hủy diệt theo bốn mùa. Đây là mùa Xuân, biểu tượng cho cái đẹp thật hữu tình, đang lên phơi phới, sắc nồng hương thơm ngọt ngào. Thế nhưng, tâm lý thường tình của con người khó mà chấp nhận, và không thể không xót xa khi đang bị thời gian hiện thực tàn phá. Hơn ai hết, Mai Văn Phấn thấu rõ triết lý vô thường về thân phận con người. Ông mong ước con người vượt ra khỏi sự tàn phá của quy luật thời gian. Thế nên, ông đã nhìn nhận có một vẻ đẹp đang tràn ngập sức sống mạnh mẽ và mang khát vọng yêu đời qua những câu thơ viết về mùa Xuân, biểu tượng cho sức sống tươi trẻ của con người:
Rừng nụ chờ em bước đến mới nở, điệp trùng hoa trắng lan nhanh.
Anh là cây mận trắng trong mưa xuân se lạnh, càng quay quắt nhớ hoa càng trắng muốt. Mắt nhìn, hơi thở rung rinh. Vầng hoa đang rụng bớt những cánh mỏng.
Mùa hoa lộng lẫy đến nghẹn thở. Em đi đừng e ngại làm đau mặt đất, dù những cánh hoa mong manh sẽ rụng.
Đồi núi úp lên nhau cho hoa nở. Hơi lạnh và gió nhẹ phủ đều. Anh hình dung con ngựa bạch đến bên em hiền từ cúi xuống.
Cứ mùa này đường đất mùa xuân, ta còn yêu nhau hoa còn nở. (Mùa hoa mận)
Còn đây cái đẹp chóng tàn, chỉ cần một cơn gió vàng đi qua là buổi xế chiều của kiếp người lụi tàn tức khắc thông qua hình ảnh mùa Thu: Hoá thân giọt nước mùa hè/ Một đêm trở gió bay về với thu/ Dẫu chưa trọn kiếp sương mù/ Xin tan loãng kẻo trăng lu cuối trời/ Bao lần xanh biếc rong chơi/ Mấy lần úa rụng tiếng người vọng theo/ Thôi em! Ðừng vặn! Ðừng khêu!/ Ðáy thu thắp sáng trên nhiều ngọn cây./ Anh vừa đọng xuống thu gày/ Ðã đông thành đá phủ đầy rêu xanh. (Khúc cảm mùa thu)
Con người cần giác tỉnh vô thường trong cái hữu hạn, đời người qua nhanh như hình ảnh ngọn đèn trước gió. Mai Văn Phấn cất lên tiếng thét như cảnh tỉnh sinh mệnh con người chỉ trong “giấc mộng”, để rồi: Tỉnh mộng/ Mộng còn/ Vật vã (Mơ thực). Con người có cảm giác sợ hãi khi thời gian cứ trôi chảy, sinh mệnh theo đó mà chơi vơi, lung lay. Không chỉ thân sắc bị hủy hoại trong hư không, tắt ngấm như ngọn đèn trước gió, vỡ tan như bọt nước trên sông, mà tâm thức cũng trở nên u tối như quỷ ám của kiếp người. Thật là Bóng đen ngấm xuống chân trời/ Hừng đông dâng cả bãi bồi lên không (Trường ca người cùng thời)
Thời gian khách quan dường như được Mai Văn Phấn thu ngắn lại bằng những hình ảnh sinh động mang các biểu tượng minh chứng cho một thời gian siêu tốc luôn vận hành. Với thuyết luân hồi nghiệp báo, thân mệnh con người không dừng lại đó. Thời gian cũng chịu quy luật tuần hoàn theo chu kỳ: âm dương hoạ phúc vốn xoay vần. Chính trong cái thịnh suy mà con người giác ngộ có những rung động trực cảm vút lên cao, chớp nhoáng như tốc độ thời gian vận hành của cá thể biến chuyển qua “một phút chốc” trước cái thăng trầm “được” và “mất” của trần thế. Tại đây, tâm thức con người được mở rộng, tiếp cận cái vô hạn bao la của trời đất, cái tĩnh lặng của hư không, thời gian như thể nhập vào giác tính, bởi con người đã giác ngộ và tâm thức vắng lặng. Cũng từ đó, mà sự thức nhận về tương lai cũng bắt đầu từ những vang vọng trong quá khứ: Ngày sang thời vụ gieo trồng/ Dường như tiếng sấm bên sông vọng về/ Dường như chuông đổ ngoài kia/ Bà tôi nón lá áo the lên chùa (Người cùng thời). Thời gian trong thơ Mai Văn Phấn luôn có sự lồng hiện, đan xen giữa quá khứ, hiện tại và tương lai
Thứ đến, hình tượng thời gian còn được tái hiện thông qua thời gian trần thuật. Thời gian trần thuật trong thơ Mai Văn Phấn không được tái hiện cụ thể trong một khung thời gian nhất định mà nó được lập trình theo hệ thức thời gian phi tuyến tính. Sự xuất hiện tương quan sự kiện với thời gian là một hiện thực về cụ thể hóa và cá biệt hóa. Điểm đáng chú ý, ở các sáng tác đã có sự liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Thời gian có đôi khi đã được tính bằng giây, ứng với sát-na theo như cách nói nhà Phật. Việc tính thời gian bằng giây, bằng“thời”, bằng giờ, đã cho phép hình dung sự kiện trong sinh hoạt bình thường của thực tại.
Từ lâu, con người đã cất bước theo cuộc hành trình trên các nẻo đường sinh tử. Dường như, con người cứ mải mê với cuộc sống thực tại, nên thời gian theo đó đã mang theo rất nhiều điều quý giá: Chưa kịp cất lời kinh/ Con chim sâu/
Vội chuyền sang cành khác (Sát na -Đơn vị đo thời gian ngắn nhất của nhà Phật). Sự hệ lụy của con người là do vọng niệm khởi lên trong một sát-na. Trong cái khoảnh khắc đó, con người đi ra ngoài tầm kiểm soát của ý thức, dẫn đến các hành động gây khổ đau cho chính mình và xã hội. Để rồi, con người chỉ có thể tìm thấy những phút giây yên bình trong hoài niệm, ở trạng thái “nhắm mắt”: Khi nhắm mắt chợt thấy thế giới không còn ô nhiễm. Những khoảng không thanh sạch quanh ta lan tỏa, đan cài. Thấy mình thuở nhỏ giữa lòng nhà thờ cầm cây nến sáng. Ánh sáng ngọn nến đang tràn vào hốc mắt, vào trũng đất sâu bất động giữa vòm cây bí ẩn mướt xanh. Nhắm mắt thấy rừng cây cũng giống khu vườn. Những cây song mây, dương xỉ, cỏ dại cao lớn hiện hình cổ thụ. Những chiếc lá kim vươn rộng che rợp chung quanh. Con ong đất, con nhím, con sóc, con bò mộng cao lớn như nhau... Và bất động hồi lâu trong mắt nhắm
Mai Văn Phấn đã không đơn giản kể lại những thời khắc của các sự kiện, mà luôn đặt chúng trong một không gian với các gam màu và nhịp điệu. Một đêm dài đến rạng sáng, khởi điểm của một ngày gắn liền biết bao nhiêu sự kiện, vụ việc, kể cả hồi tưởng chuyện đêm qua. Thời gian hằng ngày đã mang lại cho sự kiện một hình thức vật chất của thực tại đời thường với biết bao nỗi lòng. Tâm trạng theo thời gian mà biến chuyển qua việc miêu tả cảnh vật để diễn đạt thế giới nội tâm con người. Từ sáng sớm, rồi giữa trưa, mặt trời lặn, hoàng hôn, chập tối, nửa đêm… tuần hoàn như thế, thời gian khách quan như được thu ngắn, nhưng lại căng ra bởi những tình cảm luyến ái, những đam mê, thói quen, tật cố của con người. Mô tả sự kiện hiện thực, pha một ít gam màu gợi cảm khiến ta trầm tư lặng nghĩ. Chẳng hạn, khi miêu tả thời gian vào lúc chập tối, Mai Văn Phấn đã bộc lộ rõ nét cái tâm lý thường tình của con người trước cảnh ngày tàn, đêm đến: … Khi cúi xuống dưới chân hoàng hôn/ Thấy bóng tối xếp dày hơn trước/ Chợt phát hiện thấy nhiều lỗ thủng/ Những ngọn đèn vừa thắp trên sông (Mũi tên bóng tối)
Lúc nửa đêm là khởi điểm của thời gian tâm trạng rõ nét nhất. Con người như tự đối thoại với những nghiệp nhân, nghiệp quả do bản thân tạo ra trong đời sống thường nhật. Không gian như đi vào tĩnh lặng thì tâm trạng con người vận động trong cô đơn não lòng: Những giấc ngủ đã ngấm rượu độc/ trí nhớ rối mù, rồi Có ai bên tai thều thào: Hãy thức chờ xem rêu phủ bầu trời/ Mặt nước ăn những vì sao cuối cùng (Còn cậu hãy đứng đằng kia). Thời gian vật lý như kéo dài để con người tự khắc khoải chìm đắm trong giấc ngủ nồng của đêm dài lắm mộng. Tính thực tại nhờ thế thêm đậm đà khi thời gian sự kiện gắn liền với cảm xúc không gian hiện thực: Dưới những mái nhà còn ôm nửa bóng đêm/ Ta hay đám rêu phong ẩm mốc/ Rùng mình... Héo khô... Xanh thêm... Hoảng hốt.../ Trái chín thay áo hồng trút lại nửa vành trăng. (Giấc mơ đi qua)
Cuối cùng, hình tượng thời gian còn được thể hiện ở cách tạo dựng thời gian trong triết lý Phật giáo. Sáng tạo nghệ thuật của Mai Văn Phấn càng về những giai đoạn sau càng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tư tưởng triết lí của đạo Phật. Phật giáo quan niệm, thời gian như một dòng chảy liên tục, con người dễ bị cuốn hút theo dòng chảy đó. Nói rõ hơn, thời gian là một sự vận động vô thủy vô chung của những vòng “luân hồi”. Con người ngụp lặn trong những chu lưu đó với vô lượng “kiếp”, mỗi kiếp là một chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử. “Cửa Mẫu” chính là một trường đoạn kí ức thể hiện những siêu nghiệm trong cấu trúc bề sâu về những quy luật của đời người. Kiếp này tạo nhân, kiếp sau thọ quả, có khi nhân quả cùng thời trong một kiếp… Thời gian của một đời người chẳng qua chỉ là một sát-na (khoảnh khắc) trong dòng chảy sinh tử luân hồi: Lặng yên cho nước chảy/ Xối xả lâu lạnh toát mình đá/…/ Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn (Đá trong lòng suối). Con người bị thời gian cuốn trôi mãi. Một khi thân mạng mất đi, muôn kiếp khó trở lại. Theo quan niệm này, thời gian vận động tùy theo nghiệp nhân, nghiệp quả của từng cá thể. Quá khứ - hiện tại - tương lai là dòng chảy, nó sẽ trở thành chuỗi luân hồi báo ứng nhân quả như bài Chuyện con dài nói: Con gián bò quanh tôi và nói/ vừa đầu thai được ba tháng tuổi/ kiếp trước từng là người đàng hoàng/ Đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?/ Tôi không tin và đu lên khung cửa/ Thế nhân chứng đâu? Vật chứng đâu?. Thật ra, thời gian tuần hoàn trong một số thi phẩm được diễn dịch theo cấu trúc tha hóa - đọa lạc - tỉnh giác - chứng ngộ. Phân tích sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra quy luật vận động thời gian luân chuyển tuần hoàn này: … Buổi sáng chống gậy ra đường nghe gió thổi, mỉm cười. Rồi vô tình bị phát giác. Có người thấy tên tôi trong đống giấy phế liệu, hồ sơ ghi làm gián điệp những hai mươi mang …Tôi bị con cháu chê cười, khinh bỉ chẳng ra gì. Bị vu khống trắng trợn, không thể thanh minh. Trước khi tự tử tôi muốn khóc. Nhưng tự nhiên khóc là việc rất khó với một người già. Tôi đành dỗ dành một đứa trẻ sơ sinh vừa thức dậy trong tã lót còn cuốn chặt (Kể lại giấc mơ). Đọa lạc hay thăng hoa của mỗi người là do chính bản thân quyết định. Khi tâm và thân ra khỏi vùng tâm lý không hệ lụy, không ưu phiền, nhà thơ đưa ra giải pháp phải “Sống hồn nhiên”: Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu/ phải hồn nhiên như cây cỏ. Vì thế cho nên, Vợ lại bảo dù trí tuệ uyên bác/ nhưng chân tay ngại cử động/ cũng chẳng nghĩa lý gì. Đó chính thời gian để con người tiếp cận thế giới “đại quang minh” của từ bi và trí tuệ. Sự chuyển hóa này khiến con người thoát ly sinh tử. Thời gian chuyển động trở thành thời gian vĩnh hằng của tự do vô giới hạn do tâm thức đạt đạo vận hành: Ánh sáng đã ngủ yên/ Ta đang hồi sinh/ Trong vòng tay của đêm.(Nghi lễ cuối cùng). Đó là cảnh giới bất sinh bất tử, vô khứ vô lai mà thi sĩ mong đợi.
Nhìn chung, thời gian trong hành trình sáng tạo thơ của Mai Văn Phấn được thể hiện như là phương tiện phản ánh hiện thực mà người nghệ sĩ hướng tới, đó là hiện thực ở bề sâu. Với sự vận dụng tư duy triết học tôn giáo, các thi phẩm đã phát sinh một thế giới nghệ thuật độc đáo, phong phú. Ở đó, con người tồn tại trong thời gian hiện thực và chuyển hóa song song thành thời gian vĩnh hằng với một không gian vô tận. Chính yếu tố thời gian nghệ thuật đã góp phần tạo ra những giá trị thẩm mỹ cao và một chân trời nghệ thuật rộng mở, để người nghệ sĩ được thỏa sức với những ước mơ, khát vọng.
2.3. Hình tượng con người trong cảm hứng tôn giáo
Văn chương dù đứng ở điểm nhìn nào thì phần đa đều lấy hình tượng con người làm trung tâm. Văn học là nhân học, vì thế cho nên con người luôn là hình tượng được thi sĩ dày công tạo dựng và gửi gắm những quan niệm nhất định về nhân sinh quan, thế giới quan. Đứng từ những điểm nhìn khác nhau nên mỗi nhà văn lại tự xây dựng cho mình những hình tượng khác nhau. Với cảm hứng tôn giáo, Mai Văn Phấn đã soi chiếu vào thế giới nhân vật của mình bằng con mắt của một triết gia. Không phải là sự bao bọc bởi “vòng vòng hào quang” mà thi sĩ để cho hình tượng của mình tự tỏa ánh hào quang chỉ bằng bút pháp nghệ thuật hóa sâu sắc và tinh tế. Hình tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn, không phải chỉ đơn giản hóa với đời sống thực, mà cao hơn nó còn được trừu tượng hóa với vẻ đẹp của Đấng – Toàn – Năng. Vẻ đẹp ấy, có thể được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc của thi nhân ở sự cứu rỗi và giải thoát con người giữa khổ đau thực tại.
2.3.1. Hình tượng cái tôi trữ tình
Hướng về hiện thực ở bề sâu luôn là khát khao cháy bỏng trong tim người thi sĩ. Một thế giới thơ với nhiều các cung bậc cảm xúc và giàu tính nhân văn. Đến với thơ, bằng sự nhạy bén và tinh tế chảy từ con tim người thi sĩ, Mai Văn Phấn đã cho người đọc tiếp cận với một hình tượng cái tôi trữ tình hết sức độc đáo và ấn tượng. Cái tôi đó tồn tại không hề có sự biệt lập với thế giới bên ngoài mà luôn trong tâm thế hòa đồng cùng khách thể. Nhà thơ trải lòng mình với đất trời và vạn vật với tinh thần “thiên nhân hợp nhất”. Bởi thế cho nên, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ hiện lên với nhiều dáng vẻ: Đó là một kẻ say đắm trong tình yêu; Một người hết lòng sùng kính với đấng tối cao bằng một đức tin thiêng liêng, màu nhiệm; Và, đặc biệt là một tấm lòng, một trái tim nhạy cảm luôn hòa hợp với con người và vạn vật. Tất cả đã tạo nên những nét đẹp riêng, đầy phong cách từ dáng vẻ đến tâm hồn của thi sĩ.
Trước hết, khi tiếp xúc với những trang thơ chan chứa cảm xúc của Mai Văn Phấn, người đọc không khỏi ấn tượng về hình ảnh một nhân vật trữ tình đắm say trong tình yêu. Con người ấy giám yêu và khao khát được yêu, một tình yêu chân chính. Nếu như tình yêu với tuổi trẻ là ngọn lửa đam mê trong nỗi khát khao rực cháy, thì ở Mai Văn Phấn tình yêu có độ chín nhất định về mặt nhận thức, nên tình yêu ấy không chỉ đẹp ở cách yêu mà còn đẹp cả trong tâm thế của người yêu. Mai Văn Phấn là người ý thức rất rõ về ý nghĩa của tình yêu như một phép màu nhiệm, nên thi sĩ rất trân trọng người mình yêu. Mai Văn Phấn đến với tình yêu trong tâm thế của một người khao khát sự hòa hợp của hai tâm hồn, hai trái tim: Bờ vai em bức tường ngày xa/ Anh giấu kín ngăn sách/ Ngọn đồi kiêu hãnh/ Nâng anh gió mạnh/ Cây cầu bắc qua tháng ngày. Hay, nhiều hơn là sự khao khát như ánh sáng diệu kì chảy từ một con tim thành thật, “anh” như muốn vỡ tan, muốn hòa điệu: … Nhòa tan anh với mung lung/ Em là giếng gió trong lòng/ Nhấn chìm anh thoắt đã không còn gì/ Hư vô thành thật cũng vì yêu em/ Tiếng em gọi chói chang bên kia sông mơ, con thuyền anh bỗng thành con chó nhỏ…(Em xa). Ở thi sĩ, khát vọng yêu, khát vọng gắn bó rất đỗi mãnh liệt nhưng cách nhà thơ đến với tình yêu luôn bằng sự ngưỡng vọng tuyệt đối. Tình yêu của em được tôn thờ như thứ ánh sáng trên cao, anh chỉ có thể chiêm ngưỡng và chờ đợi sự ban phát. Và, cũng chính tình yêu ấy đã mang lại sức mạnh hồi sinh trong anh: … Anh dũng cảm lún sâu/ Chờ sinh lại trong tóc mềm (Được quyền nghĩ những điều đã ước)
Với Mai Văn Phấn, tình yêu nam nữ luôn gắn liền với những tình cảm cao cả. Thâm nhập vào thế giới thơ tình của Mai Văn Phấn, người đọc như được chạm đến bờ cõi của những vẻ đẹp đến thánh thiện, những vẻ đẹp trong sáng đến toàn mĩ, ngay cả khi nhà thơ nhắc đến sự gắn bó về thể xác trong tình yêu cũng đậm chất thơ: Em là vỏ chát anh là nhân/ Quấn quýt heo may chuyển ngọt dần/ Hôn nhau thành quả rơi trên cỏ/ Xanh ủ trên đầu chín dưới chân (Quả thu). Và, trước sức hút của một trái tim đắm say trước vẻ đẹp của người mình yêu thì: … Quyến rũ quá sao mà chịu được/ Bồng em lên / Và xiết chặt hơn/ tới vỉa quặng khai phá ký ức/ xa vời/ rợn ngợp chông gai…Vì thế, nhà thơ phải: Tưởng tượng em hiểu anh/ được yêu/ hình hài đã tặng (Bông hoa).
Đặc biệt Mai Văn Phấn cho rằng, tình yêu cũng là một cách thức giải thoát để mang lại sự tái sinh, hồi sinh bất tận. Em là ngọn lửa thiêu đốt trái tim yêu, là ánh sáng đưa anh tới bến bờ hạnh phúc. Tình yêu đó hiện lên như một nghi lễ thiêng liêng, là hình thức rửa tội, ban ơn: Vừa chạm vào bờ ánh sáng/ Anh quỳ xuống/ Anh hiện thân trong chiếc áo thiên thần/ Lấy một ít nước gọi lên máu và sữa cỏ/ Em dịu dàng rửa tội cho anh (Nghi lễ cuối cùng). Rõ ràng, cái tôi trữ tình say đắm trong tình yêu nhưng là một sự say đắm đầy lí trí. Cái tôi ấy đến với tình yêu trong tâm thế của một kẻ tôn thờ, ngưỡng vọng dù trái tim yêu lúc nào cũng rạo rực với những khát khao rát bỏng. Tất cả đã tạo nên một bản âm hưởng tình ca đầy ý vị, mang một phong cách rất riêng của Mai Văn Phấn.
Trong thơ Mai Văn Phấn, bên cạnh cái tôi trữ tình say đắm trong tình yêu thì cái tôi ấy còn thể hiện tấm lòng chân thành của mình trước Đấng tối cao với cái nhìn thành kính, ngưỡng vọng, bằng một đức tin thiêng liêng, màu nhiệm. Như trên đã nói, Mai Văn Phấn sinh ra trong một gia đình có truyền thống theo đạo Thiên chúa. Từ nhỏ ông đã là một con chiên ngoan đạo, trong tâm hồn ông lúc nào cũng tồn tại lòng tin về một thứ quyền năng ở một thế giới khác. Đến với thế giới nghệ thuật, ông thể hiện một sự thức nhận sâu sắc về ánh sáng của Đấng – Toàn – Năng luôn chi phối đến đời sống con người. Vì thế, nhà thơ luôn thận trọng sử dụng những ngôi lời tế vi nhất, như một sự sùng kính dâng lên Người: … Chúa cũng đã một thời/ Chết như người hành khất/ Máu Chúa hòa nước sạch/ Rửa tội cho cộng đồng (Nguyên Hồng vào nhà thờ). Sự ra đi của Chúa dưới con mắt của những con chiên nói chung và đặc biệt với nhà thơ là một sự hi sinh cao cả. Cái chết của Chúa không phải là kết thúc sự sống, mà là sự khởi đầu cho triệu triệu sự sống khác. Máu Chúa rửa tội cho chúng sinh, hồi sinh cho hàng vạn mầm sống. Mai Văn Phấn thể hiện một niềm xót xa, trong sự thành kính sâu sắc của một cá thể chúng sinh được hưởng sự ban phát phước lành từ Chúa.
Không dừng lại ở đó, đến với “Cửa Mẫu”, Mai Văn Phấn đã tạo ra sợi dây gắn kết giữa vô cùng đặc biệt giữa “con” và “Người”. Ở đây, đứng ở vị thế của “hậu thế” trong cái nhìn ngưỡng vọng với “Đấng sinh thành”. “Mẫu” là điểm tựa tinh thần, là bầu trời độ thế, che chở cho con: Mẫu nâng niu con ánh trăng/ Tiếng chuyền cành tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng mây mưa nguồn. Với tư cách là một sinh linh tồn tại trong lòng vũ trụ bao la kia, nhân vật trữ tình thể hiện một niềm “tri ân” đối với Đấng sáng tạo, thi sĩ tự nhận mình là con của người. Vì thế, hình tượng “Mẫu” tưởng như xa vời kia lại trở nên gần gũi hơn, gắn bó yêu thương trong chính cuộc đời. Bằng lối dẫn truyện hồn nhiên, trong sáng Mai Văn Phấn đã tạo ra được sợi dây kết nối thiêng liêng giữa con người với cội nguồn. Ở đó, người đọc như được nhìn thấy những hình tượng sống động về Đấng – Toàn – Năng, đó là những hình tượng đang hiện hữu trong chính đời sống tâm linh của con người. Bên cạnh đó, cũng trong “Cửa Mẫu”, điều khiến người đọc bất ngờ không phải nằm ở sự hiện hữu của hình ảnh, hình tượng mà là sự lồng hiện các hình tượng khác nhau xuất phát từ điểm nhìn ái kính của nhân vật trữ tình. Tính nhân bản của thi phẩm một lần nữa lại được khẳng định. Mai Văn Phấn đã rất thành công khi tạo ra sự đồng hiện của kiếp người thông qua hai hình tượng cha và con: con là ấu thơ là kí ức của cha, cha là hình ảnh tương lai của con; con là sớm, cha là chiều; con là ra đi, cha là lúc trở về. Cửa Mẫu là xuất phát điểm cũng nơi kết thúc một hành trình vừa nhiệm màu, vừa khổ ải. Hai hình ảnh ấy dìu nhau cùng biểu đạt quy luật của đời người là tứ thơ độc đáo của Mai Văn Phấn. Chính mối liên hệ mang tính huyết thống này đã chuyển tải tối ưu ý niệm của Mai Văn Phấn về một đức tin màu nhiệm có khả năng xua tan khổ đau mang lại ánh sáng hạnh phúc cho con người. Hạnh phúc ấy trước hết là sự sống, là niềm tin ở một cõi nhân sinh tốt đẹp. Vì thế cho nên, con luôn cầu nguyện cho bóng đêm đi qua, bình minh ánh sáng lại tới, để sự nhiệm màu ban phát sự sống: Từng chồi chân tay bé xíu/ Bật nhẹ trong cơ thể Người/ Con tỉnh giấc.
Cuối cùng, khi nói về hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn chúng ta có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh quy tụ ở một tâm hồn, một trái tim hòa hợp với thiên nhiên và vạn vật. Nhà thơ đến với thế giới hình tượng không chỉ bằng cái tài hoa của một người nghệ sĩ, mà còn bằng “cái tình” sâu nặng chảy từ trái tim yêu. Nhân vật trữ tình trải lòng mình giữa thiên nhiên vũ trụ và con người trên tinh thần “thiên nhân hợp nhất”: Tôi ngước lên dòng thác màu tím nhạt từ bông hoa đang dội xuống ngực mình. Không phải ai đi qua mùa hè cũng được vô tình tắm gội/ Vực thẳm của bóng cây khi chiếu xuống càng hun hút và rợn ngợp. Biết có ai dìu những bông bằng lăng bé bỏng đi đâu. Chắc hoa vẫn rực rỡ và thản nhiên ban phước (Hoa bằng lăng). Rõ ràng, với thi sĩ sắc đẹp của thiên nhiên ban tặng cho con người cũng là một điều phước lành. Cảm hứng tôn giáo chi phối đến cách nhìn và cách thể hiện, để từ đó ngôn ngữ thơ chuyển tải một sức nặng cơ bản đưa tôn giáo đến gần cuộc đời hơn. Phải là trong tâm thế của một nhà thơ, luôn hòa mình vào đất trời thì mới có thể cảm nhận được mọi sự thay đổi tế vi nhất của thiên nhiên, Muốn dừng lại bên đường/ Nằm lên cỏ/ Trời cao mong leo lên cây/ Nhìn xuống tiếc nuối cát/ Thèm trộn vào cát/ Giây phút phân vân anh bất động (Hình đám cỏ - nhịp II)
Trong thơ Mai Văn Phấn thiên nhiên cũng có hồn, cũng có tâm trạng đặc biệt. Nếu như thơ xưa với “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” thì trong thơ Mai Văn Phấn, thiên nhiên cũng mang quyền năng riêng – thứ quyền năng của tạo hóa: Miệng bóng tối ghé vào thanh bạch/ Hơi độc từng phun ngược lại âm hình/ Nơi đoán phạt trắng đen, thiện ác/ Lá cỏ trồi ra chiếc lưỡi phân minh (Tập phát âm). Rồi ngay cả những vật tưởng như là vô tri, vô giác cũng có xúc cảm riêng và ước mơ riêng, đó là ước mơ thoát khỏi bóng đêm để vươn tới những chân trời tràn đầy ánh sáng: Bóng những chiếc ghế, hàng cây, ngọn tháp…/ Trốn màn đêm đi tìm ước mơ/ Những lưng ghế không biết đổ mồ hôi/ Và tán lá không làm ra diệp lục/ Cả quả chuông cố rung lên mà không thành tiếng….(Phía sau ánh sáng). Tâm hồn thi sĩ cùng ngân vang với khúc biến tấu của vạn vật về sự sống. Khát vọng hướng tới một bầu trời đầy ánh sáng và thanh sạch như hướng về một thế giới thuần khiết, thiêng liêng nơi cõi lòng. Khúc nhạc ấy có khi lại được ngân lên từ những nỗi đau, sự mất mát. Khi ấy, vạn vật và con người cùng lắng đọng để chia sẻ và thấu hiểu: …Cuộc chiến tranh lại đi qua những thời thiếu nữ/ Ngọn lửa Na-pan lùa vào giấc mơ làm mẹ làm vợ/ Nay có chị về núp bóng nâu sồng/ Rung lên những quả chuông hoàng hôn./ Những lồng ngực mang hình quả chuông!/ Những ánh mắt trẻ thơ mang hình quả chuông!/ Những hộp sọ vang cùng quả chuông!/ Những giọt máu vang cùng quả chuông! (Trường ca người cùng thời). Gấp trường ca lại lời thơ như còn vang vọng mãi trong tâm trí của người tiếp nhận. Cái đọng lại không chỉ đơn giản là hiện thực chiến tranh với những đau thương, mất mát, mà cao hơn đó là cách lồng hiện hình tượng hết sức tinh tế của thi sĩ tạo nên một bản hòa tấu của con người và vạn vật về những đau thương, mất mát ấy. Điều này xuất phát từ thế giới quan tiến bộ về quan niệm “vạn vật hữu linh”, để từ đó Mai Văn Phấn sáng tạo ra sự cân xứng trong mối quan hệ với con người. Thơ ông thực sự có hồn và lôi cuốn người đọc ở sắc điệu này. Có thể nói, trên ba bình diện về cái tôi trữ tình thì đây là bình diện quy tụ nhất, sâu sắc nhất quy chiếu toàn bộ hành trình sáng tạo nghệ thuật. Để rồi, trên đường dấn thân đi tìm nẻo khác cho thơ mình, cái nẻo càng ít dấu chân, thậm chí chưa có dấu chân ai đó càng tốt. Mai Văn Phấn đã dằn mình để cho sự mạo hiểm thắng sự sợ hãi và chấp nhận cả những đau xé; cơn đau siêu thực hành hạ ông có khi còn hơn những cơn đau hiện thực, khiến ông mong rằng nó chỉ là một giấc mơ, Tôi cúi xuống đón chiếc ách lên vai/... Tôi chạy quanh và miệng sùi bọt/ Tôi nhễ nhại giả chết, lồng lộn/ Tôi rã rời, loạn nhịp/ vỡ tung/ Tôi thấm nước và vắt ra nước (Chỉ là giấc mơ). Đây rõ ràng là tác giả không mấy đi tìm nỗi cảm thông ở người đọc mà là đang làm một việc gần như bóp chết bản ngã để hình thành một chủ thể khác, mong trình bày tâm trạng một cách khách quan nhất có thể. Vậy, cũng là bước đầu tìm một điểm tì vịn mà bật lên đổi mới nội dung.
Như vậy, cái tôi trữ tình trong trong thơ Mai Văn Phấn là một hình ảnh đa diện. Lật từng trang thơ, người đọc có cảm giác như đang được đối diện với một “lòng nhân” cao cả, nhà thơ đang đứng ở vị thế của một người “phổ độ chúng sinh” để ban phát sự sống và đức tin cho vạn vật. Bằng một trái tim nhạy cảm, thi sĩ đã thổi hồn vào thế giới đa sắc màu kia, để chúng cùng sống, cùng “bén rễ” trong thế giới tâm thức của con người. Mai Văn Phấn là người có ý thức trong việc hướng những vần thơ của mình tới một thế giới đầy ấy sáng. Đây cũng là tinh thần cơ bản của Thiên chúa giáo soi chiếu đến những tập thơ đầu tay của thi sĩ. Với những bài thơ mang đậm âm hưởng thánh ca, đa số câu thơ đều hướng tới ánh sáng và có sự phân biệt rạch ròi giữa ánh sáng và bóng tối. Chất thơ mang trong mình những ánh sáng diệu kì từ miền vô thức. Hay nói đúng hơn, trong suốt hành trình sáng tạo thơ, Mai Văn Phấn luôn có ý thức hướng thế giới hình tượng của mình tới sự sống ánh sáng. Đó là thứ ánh sáng của tâm linh với tất cả sự linh thiêng và thanh sạch. Phải là một tâm hồn yêu người, mến cảnh đến thế nào thì Mai Văn Phấn mới có thể mang đến một thế giới thơ thuần khiết và giàu màu sắc nhân văn đến vậy.
2.3.2. Hình tượng người tình
Hình tượng người tình đồng nghĩa với nhân vật “em” trong các thi phẩm của Mai Văn Phấn. Hình tượng ấy được nhìn nhận ở nhiều bình diện khác nhau. Có lúc là con người hiện thực, lúc lại được nghệ thuật hóa bằng liên tưởng và tưởng tượng thành một hình tượng hư cấu. Vì vậy, hình tượng này hiện lên không hề đồng nhất mà thể hiện sự đa dạng, với nhiều dáng vẻ trong thơ. Và, nó chỉ thực sự nhất quán ở chiều sâu trong tâm thức người tiếp nhận.
Trước hết, “em” hiện ra ở sự đối xứng với “anh” trong tình yêu qua khuôn hình của kẻ đang yêu vô cùng tình tứ: Con sâu đo em đu lên người anh/ thì thầm gặm hết những xanh non (Gió thổi).Trong thơ Mai Văn Phấn, tình yêu cũng là một “nghi lễ” thiêng liêng, nghi lễ ấy được bao phủ bởi một sức mạnh quyền năng. Ở đây, “em” là khởi nguồn của tất cả sự sống, Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh kim và em mệnh hỏa. Từ lửa làm ra thổ, ra mộc, ra thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn đọt mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em). Hình ảnh Em trong vẻ đẹp sinh nở, hoài thai, có lẽ là một hình ảnh mang ý nghĩa nhân sinh cao cả: Khẽ nhắm mắt, khẽ ngậm vào tóc em/ Đang chết đi và đang sinh sản/ Dù có lả đi thành âm u bóng tối/ Lại thấy huy hoàng chạm những môi hôn (Anh đã rơi)… Vì thế cho nên, Anh là con đường lạc loài trong cỏ/ Biết bao giờ tới được vầng trăng/ Nước mắt đầu non nở thành hoa dại/ Rũ tàn phiêu dạt chốn cô liêu (Vầng trăng và con đường). Ánh sáng từ em là thứ ánh sáng của vầng trăng ở trên cao, anh chờ đợi em soi chiếu như chờ một sự ban phát. Để rồi, sự mong mỏi đó trở thành một nỗi khát khao trong tâm hồn của một kẻ yêu “ngây dại”. Yêu em, cũng là yêu thứ “ánh sáng thanh cao” có thể soi tỏ mọi “con đường” trong anh.
Mặt khác, người tình mang trong mình một thứ quyền năng mầu nhiệm: Em đã nghe/ Nên gốc cây vừa mới tưới ngấm nhanh đến thế/ Vòm phượng vĩ đẫm sương sáng nay bốc cháy/ Những quả ngô đồng khô nỏ khua vang (Sáng mùa hè). Một quyền năng thiêng liêng với cả vũ trụ bao la: Em gom mùa nào thức ấy/ chùm hoa bưởi mùa thu/ trái mận mùa xuân (Từ nhà mình)
Nói về thơ tình, Mai Văn Phấn có không ít những bài thơ thật quyến rũ trong vóc dáng thanh tân hiện đại: Sáng mùa hè, Gương mặt em, Gió thổi, Nghe em qua điện thoại, Vườn em. Những bóng hình em trong các bài thơ ưu tú ấy đều mang tư thế của kẻ đem cho, che chở, dâng hiến, tạo dựng giá trị. Nữ tính và mẫu tính hài hòa trong mỗi giai nhân. Nhà thơ trong vai anh hiện ra như kẻ được ân hưởng, được “rửa tội”, được “ban phép lành thánh thể” như một tín đồ trong tính thiêng liêng mầu nhiệm của Đạo Yêu:… Lấy một ít nước gọi lên máu và sữa cỏ/ Em dịu dàng rửa tội cho anh…(Nghi lễ cuối cùng). Vì thế, viết về tình yêu qua các giai đoạn sáng tác cũng có sự thay đổi. Ở giai đoạn đầu, khi dấu ấn Thiên chúa giáo in đậm trong sáng tác, thì tình yêu, đặc biệt là vấn đề tình dục luôn được nhà thơ nghi lễ hóa bằng cách nâng người mình yêu lên “chín tầng trời”, xem những khát khao trong tình yêu là những vùng trời xa xôi, khó nắm bắt và đoán định. Nhưng, càng về giai đoạn sau, khi tư tưởng hòa đồng của các tôn giáo soi rõ tâm thức thơ, cùng với sự ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật, thì Mai Văn Phấn đã có một sự nhận thức lại về người mình yêu, cũng như sự tận hưởng trong tình yêu chính là “bữa tiệc ngay trong cuộc sống trần thế”.
Hình tượng Em có lúc đồng nhất với Người tôi yêu mến, nhưng phần đa chúng ta khó đoán định được ở sự thống nhất, bởi nó không nằm ở một sự nguyên phiến nhất định, khi: Chúa Jê-su và Phật Thích – ca/ Trên cỗ xe năm 2000/ Cả Người tôi yêu mến nữa/ Họ cùng bên nhau lặng yên… (Hoang tưởng năm 2000). Một thế giới thơ gợi mở, để người đọc thỏa sức với sự tự do sáng tạo và kích thích trí tưởng tượng ở họ. Đây là tố chất thơ tiến bộ của thơ hôm nay nói chung và đặc biệt là ở cách thể hiện của thơ Mai Văn Phấn. Nhà thơ đã tạo nên một sợi dây gắn kết thiêng liêng giữa đạo – đời và tình yêu. Bởi, trong triết lí của một hồn thơ tôn giáo, dù là Chúa, Phật hay Người yêu mến thì đều gặp gỡ ở một tình yêu lớn. Tình yêu ấy có đủ khả năng để san lấp mọi khoảng cách, cùng thiết lập một thế giới đại đồng yêu thương. Cũng như vậy, hình tượng Em còn có khả năng tạo sự gắn kết trong cõi nhân sinh, …. Mới nghe nửa câu điện thoại/ Đã biết anh lạc đâu đâu/ Tiếng nước từ đỉnh thác êm/ Em đang nối hai đầu thế giới… (Hình đám cỏ)
Rõ ràng, hình tượng Em không phải là một hình tượng đơn thuần, mà nó mang một ý nghĩa triết học. Nhà thơ luôn đứng ở một vị trí tương thích để cảm nhận về Em với một niềm ngưỡng vọng. Niềm ngưỡng vọng ấy được soi tỏ như cách của “một con chiên” đối diện với Đấng tối cao. Bởi thế hình tượng em có lúc được nâng lên thành một “thánh nhân”: Ngược dốc tới gần cổng chùa/ Khuôn mặt em chợt hiện Quán Thế Âm Bồ Tát/ Mang chiếc túi màu nâu/ Cổ cao, váy chùng, nhẫn trắng.../ Vòng vòng hào quang/ Trong vòm trời sáng láng/ Tâm tưởng con xin sấp mình/ Thân con rỗng không/ Hạc khô chiếc mõ chân tâm trì chú.../ ... "Om Mani Padme Hum" (Lên chùa).
Ở đây, Em đồng nghĩa với “thánh nhân” - Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ tát hiện thân lòng từ bi của tất cả chư Phật, luôn lắng tai nghe âm thanh kêu cứu từ chúng sinh cùng khổ. Quan Thế Âm thường được xem là đại diện cho người Mẹ với tình thương bao la, luôn lắng nghe tiếng than thở từ chúng sinh và hết lòng cứu giúp trong cơn nguy khó. Dưới ngòi bút của Mai Văn Phấn, hình ảnh thanh cao về Người đã trở nên gần gũi hơn. Thi sĩ gọi Người là Em nhưng lại xưng Con, cách đối thoại như vậy có vẻ mâu thuẫn trong logic thông thường nhưng lại thống nhất ở logic bề sâu. Nhờ thế, hình ảnh Quán Thế Âm không phải chỉ là một hình ảnh mơ hồ, luôn ngự trên ngôi cao xa cách, mà có ngay trong hiện thực đời sống. Người sẽ đến (có thể là chỉ trong ý nghĩ), khi tâm con “thanh tịnh” và một lòng cầu nguyện.
Như vậy, hình tượng người tình không phải đơn thuần là một hình hài cụ thể, một tình cảm cụ thể mà là một ý niệm trong tư duy siêu thực xuyên suốt hành trình thơ. Dù là hình ảnh thực được miêu tả rất chi tiết về móng chân màu cà phê, làn tóc mây, giọng nói thánh thót, hay sự linh hóa thành những biểu tượng của sự “cứu rỗi”, “siêu thoát”, “hồi sinh” thì Em vẫn là một hình ảnh thánh thiện và là hình tượng đẹp trong anh. Em lẫn trong hành trình sáng tác có lúc vô hình, vô ảnh nhưng lại là điểm tựa cần thiết cho sáng tạo nghệ thuật, từ đó tạo nên một sự đa diện, để người đọc có thể cảm nhận một cách toàn vẹn nhất.
2.3.3. Hình tượng “Mẫu”
Cảm hứng tôn giáo chi phối nhãn quan của người nghệ sĩ khi xây dựng những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng tôn giáo. Với những hiểu biết sâu rộng về nhiều loại hình tôn giáo khác nhau, không chỉ với những tôn giáo ngoại lai mà cả tôn giáo của dân tộc đã tạo cái nhìn đa năng, biện chứng của người nghệ sĩ khi xây dựng hình tượng. Chính điều này đã khiến cho thế giới thơ ca Mai Văn Phấn tuy giàu sắc màu hiện đại nhưng vẫn đậm chất thuần Việt.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và nguyên thuỷ. Bởi vì tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc sâu xa từ chế độ mẫu hệ, trong đó người mẹ, người vợ giữ vị trí quan trọng trong gia đình. Do vậy, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ thuật thì chữ “Mẫu”, chữ “Mẹ”, chữ “Cái” vẫn giữ nguyên giá trị như nó vốn có cho đến bây giờ. Cũng từ đó, hình ảnh “Mẫu” đi vào thơ Mai Văn Phấn cũng rất tự nhiên dưới góc nhìn được nghệ thuật hóa. Bằng sự khéo léo, nhà thơ đã rất tinh tế khi nhìn nhận “Mẫu” cũng là một sự biểu hiện của Đấng – Toàn – Năng. Mai Văn Phấn đã tìm ra sợi dây gắn kết, gần gũi giữa các tôn giáo khác nhau. Trong thế giới tâm linh, tất cả các tôn giáo đều dễ dàng có sự gặp gỡ. Chính vì thế, hình tượng về tôn giáo không phải sự phản ánh đơn nhất mà được đặt trong các mối quan hệ tương thích. Ví như, sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu theo khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ hiểu bởi lẽ, đó là tín ngưỡng dân dã của người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác vốn là nền tảng trong nguyên tắc ứng xử của xã hội cổ truyền. Hai thứ tín ngưỡng này bổ sung cho nhau đáp ứng nhu cầu tâm linh của người nông dân: Theo Phật để tu nhân tích đức cho đời, kiếp sau được lên cõi Niết Bàn để cuộc sống tươi sáng hơn, tự do hơn, còn theo đạo Mẫu là mong được sự phù hộ độ trì đem lại sức khỏe, tài lộc, may mắn cho đời sống thường ngày. Hình tượng “Mẫu” đã tạo nên không khí gần gũi, sự gắn kết trong tâm hồn mỗi người . Và tinh thần ấy đã được Mai Văn Phấn thể hiện độc đáo trong thơ.
Dưới nhãn quan của người nghệ sĩ, “Mẫu” là khởi nguồn của mọi sự sống trên thế gian, là Đấng Sáng Thế đầy quyền năng, là nguyên nhân của quy luật sinh tồn. Chỉ bằng một trường đoạn kí ức “Cửa Mẫu” mà những siêu nghiệm trong cấu trúc bề sâu đạt đến độ nhuần nhuyễn trong nghệ thuật xây dựng hình tượng. Hình tượng “Mẫu” là biểu trưng của cảnh khai thiên lập địa. Vũ trụ lúc ấy tối tăm mù mịt, là một khối hỗn độn vô hướng của nước, lửa và những sinh vật bán khai. Giữa buổi hồng hoang ấy, bà mẹ hoài thai sinh ra đứa con mang dáng dấp Con Người. Hình tượng “con” ở đây còn bao hàm cả khái niệm vũ trụ (ánh trăng, mây mù, mưa nguồn chớp bể, bóng đêm, vầng mặt trời, đáy nước, đàn chim, con nòng nọc, lá mầm…). “Cửa Mẫu” không có thời gian, không gian cụ thể mà là những khái niệm giả định, được đo đếm bằng những đại lượng “ảo” do chính “Mẫu”, một thứ totem siêu hình không thể cắt nghĩa rõ ràng được, quy định được. “Mẫu” mang trong mình sức mạnh bản năng của “Đấng sinh thành” : Mẫu nâng niu con ánh trăng/ Tiếng chuyền cành, tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối / Dựng tầng mây mưa nguồn. “Cửa Mẫu” có 9 khúc, mỗi khúc đều được gắn với những hiện tượng, những quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông. Mỗi khúc vừa hé mở lại vừa khép kín những bí mật của vũ trụ, lúc thì như là sự giải thích, lúc lại như những câu sấm truyền tối nghĩa bằng thủ pháp ẩn dụ. Và, chính qua các khúc ấy góp phần hoàn thiện vẻ đẹp của hình tượng thiêng liêng. Có thể nói, “Cửa Mẫu” là một cố gắng tự khám phá thế giới tâm hồn, tìm vào tầng vô thức khám phá bí mật của Tạo Hóa. “Cửa Mẫu” không giải thích mà chỉ nêu hiện tượng cùng mối quan hệ rất bình thường của các quan hệ ấy. Có vẻ như, khi viết “Cửa Mẫu”, Mai Văn Phấn đang trong trạng thái “lên đồng”. Tác giả đã hóa thân thành một chủ thể hoàn toàn khác, có khả năng cảm thấy, nhìn thấy những thứ mà người trần mắt thịt bất lực. Ngôn ngữ “Cửa Mẫu” dồn nén, trơn tru, kéo dài thành những trường đoạn với hàng loạt câu ngắn phảng phất loại ca từ chầu văn, diễn tả thế giới mông lung nửa thần thánh nửa trần tục.
Yếu tố triết lý được loại bỏ ngay từ đầu, thay vào đó là những nghiệm sinh được đúc rút qua quá trình sống của các thế hệ được di truyền lại. Như vậy, “Mẫu” được tôn vinh như là thủy tổ của muôn loài, Cửa Mẫu chính là khởi nguồn của sự sống trên Hành Tinh Xanh. Hình tượng “Con” ẩn dụ vạn vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn trong lịch sử tiến hóa. “Mẫu” là đấng toàn năng, khi sinh thành ra “Con” cũng là lúc Người trao cho nó cẩm nang sống. Hình ảnh “Con” vừa có tính cá thể, vừa mang tính quần thể, là hiện thân của sức quật cường trong hành trình tự khám phá mình để đến tương lai. Đây là những vần thơ cảm nhận sự huyền vi của Tạo hóa khi vạn vật đang sinh thành: Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng mây mưa nguồn/ Con lặng lẽ đi qua vầng mặt trời đáy nước/ Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh. Và sự sống nguyên thủy qua hình ảnh đảo ngược gây hiệu ứng siêu thực: Ngọn cây vươn mỏ con chim/ Đang cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió. Vượt lên trên hết là quy luật sinh diệt của vạn vật do “Mẫu” tạo nên cho thế giới tự nhiên, dạy “Con” thích ứng với hoàn cảnh: Tiếng hạt vỡ trong ngực/ Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi/ Tập vỗ cánh, quạt gió vào lòng tổ/ Bật lá mầm bay đi thênh thang.
“Mẫu” vừa là vũ trụ vĩ mô vừa là vũ trụ vi mô được nhận thức như là một ý niệm vô thủy vô chung. Nơi sinh ra cũng là nơi kết thúc của mỗi cá thể bởi phương thức cộng sinh. Phương pháp siêu thực kết hợp với biện pháp đảo trang, hòa đồng một cách ngẫu hứng côn trùng, thảo mộc, muông thú và con người trong trật tự khá hỗn loạn: Đặt con lên đất/ Lòng sông đau xé thân đêm/… / Con bật khóc cuốn đi lưới nhện/ Tiếng con vạc khàn khàn/ Tàng tro lóe sáng/ Mặt trăng run. Biện pháp xen kẽ tư duy trực cảm của con người thời hiện tại với hành vi mang tính di truyền đẩy thời gian về trục quá khứ, nén chặt không gian sinh tồn, làm cho người và vật thay đổi vị trí của nhau. Đó chính là không gian hiện sinh, thời gian siêu thực được biểu đạt bằng ngôn ngữ thơ.
Như vậy, hình tượng “Mẫu” góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện thế giới hình tượng con người trong thơ Mai Văn Phấn. Đó là cách nhà thơ đến gần hơn với thế giới tâm linh; là nền tảng quan trọng trong cách thức ứng xử giữa Con với Người, được thể hiện ở sự kính trọng, ngưỡng vọng với “Đấng sinh thành”. Qua đó, một lần nữa nhà thơ thể hiện những quan niệm mới mẻ cùng cái nhìn tinh tế đối với hiện thực ở bề sâu.
2.4. Tôn giáo qua các hình ảnh mang tính chất biểu tượng
Trong thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn, những tình cảm, cảm xúc thường được ông tiết chế một cách lí trí. Xuất phát từ cảm hứng tôn giáo, nên những tình cảm tôn giáo, cũng như cách đánh giá của ông về nhân sinh và thế giới cũng có khả năng thức nhận cao. Đến với tôn giáo – thế giới của sự đa dạng và phức tạp, Mai Văn Phấn thể hiện một cách nhìn, một quan niệm tỉnh táo và đúng đắn. Tuy là con chiên của đạo Thiên chúa nhưng trong tâm hồn thi sĩ có sự dung hợp, hài hòa của các tôn giáo khác nhau. Tất cả cùng hòa điệu tạo nên vẻ đẹp rất riêng trong thơ Mai Văn Phấn. Mà đặc biệt nhất là nét đẹp tôn giáo trong thơ ông hiện lên trên hai bình diện cơ bản: đức tin và biểu tượng.
Tôn giáo luôn gắn liền với một thế giới các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thế giới trừu tượng, hư vô, sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, một tư duy hướng nội siêu hình. Bằng những quan điểm thẩm mỹ cùng với tài năng sáng tạo, Mai Văn Phấn đã đưa vào thơ mình hệ thống những biểu tượng mang ý nghĩa tôn giáo. Có những biểu tượng được đưa vào một cách trực tiếp, còn đa phần biểu tượng được linh hóa bởi một tư duy tôn giáo sắc sảo. Vì vậy, mỗi hình ảnh trong thơ khi mang ý nghĩa biểu tượng, nghĩa là hệ thống hình ảnh ấy đã vượt thoát ra ngoài những ý nghĩa tả thực. Các hình tượng trong bài thơ đã chuyển từ truyền cảm đến gợi cảm, mở ra nhiều chiều kích ý nghĩa. Điều ấn tượng hơn cả là, thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ đều được lấy từ thiên nhiên, vũ trụ. Nhà thơ vĩ đại R.Tagore đã từng khẳng định trong một bài tiểu luận, “có thể là phương Tây tin vào linh hồn của con người nhưng không thực sự tin rằng vũ trụ cũng có linh hồn. Thế nhưng, đó là niềm tin của phương Đông và toàn bộ đóng góp của phương Đông về mặt tinh thần cho nhân loại đều chứa đầy cái ý niệm này”. Như vậy, ở thời nào cũng vậy thiên nhiên luôn có một vị trí đặc biệt trong tâm thức của nhà thơ phương Đông, cách nhìn thiên nhiên của các thi sĩ chứa đựng tư tưởng triết học, thiên nhân đồng thể hợp nhất. Hòa hợp với thiên nhiên, với vũ trụ là một phần của cuộc sống, của tình yêu và của chân lý. Tiếp nhận thiên nhiên và đời sống bên ngoài với nhiều nhà thơ phương Đông nói chung và đặc biệt ở Mai Văn Phấn có ý nghĩa như một tôn giáo.
Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện với mật độ dày đặc, đa số đều là hình ảnh của thiên nhiên, vũ trụ. Thế giới hình tượng trong thơ Mai Văn Phấn, khi được soi chiếu dưới nhãn quan tôn giáo của thi sĩ, thì tính biểu tượng của nó không phải nằm ở những hình ảnh đơn lẻ mà là ở sự tương tác hài hòa của chúng. Mai Văn Phấn không triết lý mà để cho tư tưởng triết lý hiện lên một cách tự nhiên qua những biểu tượng thiên nhiên được nghệ thuật hóa.
2.4.1. Hình ảnh biểu tượng cho sự tái sinh và sự sinh sôi, nảy nở
Thế giới hình ảnh biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn đều nằm trong sự quy chiếu của lẽ phồn sinh và hóa sinh bất định với tất cả sự sống động của chúng. Như trên đã nói, quan niệm thẩm mỹ như thế nào sẽ có cách lựa chọn và biểu đạt đối tượng thẩm mỹ tương ứng. Trong rất nhiều thi ảnh bề bộn ở thơ Mai Văn Phấn, có hai hình ảnh cô đọng nhất thể hiện ý nghĩa tái sinh và sinh nở: Đất đai và nước.
Trước hết, về hình ảnh đất đai. Trong thơ Phấn, không một hình ảnh nào lại có mặt với một mật độ dày đặc như hình ảnh đất đai. Vốn trong tâm thức dân gian, đất được hình dung như là Mẹ, mang tính Mẫu (Cha trời, mẹ đất) gắn liền với sự bình yên, che chở, sinh sôi. Nhưng trong thi cảm nhà thơ Mai Văn Phấn, thì đất lại được ví với người đàn ông, nhất thể hóa với người đàn ông: Đất đai- người đàn ông nằm ngủ/…/ Trên ngực còn vương tro than của mùa đốt đồng (Sau mùa gặt); Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/…/ Anh cựa mình nồng nàn tươi xốp (Bài ca buổi sớm). Hóa ra, nhà thơ đã nuôi nấng trong mình một nỗi khao khát thật lạ: Ta thèm một lần nhân danh đất đai (Khúc phóng túng). Đây là điều thực sự độc đáo ở thơ Mai Văn Phấn. Sự độc đáo ấy thể hiện trước hết ở cách nhà thơ bộc lộ bản lĩnh sáng tạo của mình. Quả thật chúng ta ít thấy một nhà thơ đàn ông nào lại ví bản thân mình với đất. Hẳn phải có lý do gì đó. Có lẽ rằng, xuất phát từ sự tôn thờ tột bậc sự phồn sinh và hóa sinh bất định, nên nhà thơ đã nhất thể hóa bản thân và hóa sinh bất định đó. Một câu thơ thật trìu mến: Đồng đất quê ta hao hao giống những mặt người/Một sớm dậy nhìn ta thân thiết thế…/Đất vạm vỡ dưới bầu trời tươi tốt (Tiếng gọi từ cánh đồng). Đất cũng mang vóc dáng suy tư của phận người: Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất/ Đất ở dưới chân mà cao hơn những suy nghĩ của mình (Nhật ký đô thị hóa). Một khía cạnh nữa về hình ảnh đất: đất luôn luôn trong trạng thái che chở, dung dưỡng, sinh sôi; và chỉ có như vậy đất mới hiện lên như một biểu hiện thuộc về Cái Đẹp. Cái đẹp đó bao hàm một thứ quyền năng thiêng liêng của sự che chở, bảo vệ. Phải chăng chính nó, là cái nôi mà Đấng – Toàn – Năng đã tạo ra để nuôi dưỡng sự sống, cứu rỗi con người. Hãy dừng lại với những câu thơ này: Kìa thửa ruộng đang vươn lên che chở những ngôi nhà (Cấu trúc tạm thời); Lao vào đất những ngón chân khát nước/ Chiếc lá mới nhô lên đặt lại ca từ (Sáng mùa hè). Hay, Trên ngực bùn nâu đã linh thiêng ban lộc/Máu hồi sinh rần rật chạy qua/ Thấy nghĩa địa lặn đi thành vết sẹo/ Thấy người xưa tỉnh lại cấy cày (Hồi sinh). Đó là sự ban ơn của đất trời đối với sự sống, yếu tố siêu thực tạo nên màu sắc hư ảo làm cho ý thơ có chút kì bí, nhưng rất ấn tượng đối với người tiếp nhận.Với ý thơ, Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời (Bài hát mùa màng) lại một lần nữa chứng thực một cách chắc nịch tinh thần phồn thực sinh nở như hiện thân của Cái Đẹp trong thơ Mai Văn Phấn. Để từ đó, tâm hồn nhà thơ lóe lên những dự cảm về tương lai và ngày mai tươi sáng: Bó gối những gốc cây/ Nhắm mắt ngọn đồi gió/ Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi/ Ngày mai mặt đất này/ Và thế giới sẽ đổi khác. (Mùa trăng)
Mặt khác, khi nói về hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho sự hồi sinh và sự sinh sôi nảy nở còn thể hiện ở sự kết hợp độc đáo của các thi ảnh. Như trên đã nói, những hình ảnh biểu tượng cho ý nghĩa tôn giáo không phải là những hình ảnh biệt lập, mà nó luôn tồn tại trong sự kết hợp với các hình ảnh khác để tạo ra nét đẹp cân đối, hài hòa. Cùng với “Đất đai” thì “Nước” cũng là một hình ảnh biểu tượng độc đáo cho sự sinh sôi, nảy nở. Nếu như đất là cái nôi nuôi dưỡng sự sống thì nước cũng là ngọn nguồn sự sống con người. Ngọn nguồn sống ấy mang vẻ đẹp của sự tinh khiết và khả năng thanh tẩy: Nước ấm nóng mở đầu nghi lễ thanh tẩy/ Lăn trơn anh chuỗi hạt xổ tung (Hình đám cỏ - nhịp IV). Tôn giáo trong thơ đó là một cách thể hiện tự nhiên và cũng hết sức tế vi. Trong thế giới bao la hạn hữu của đời người thì có một thế giới khác của hư vô và hư không luôn tồn tại. Đó là thế giới trường cửu của muôn vàn sự sống khác. Hình tượng “nước” tồn tại đôi khi không chỉ đơn giản là sự gột rửa, thanh tẩy bụi trần để hướng tới thế giới thanh sạch, mà quan trọng hơn là sự thanh sạch trong cõi lòng, … Một thời phờ phạc thiên di/ Tìm trong bóng nước thấy gì nữa đâu/ Mảng đêm đập cánh đi mau/ giọt sương trong mắt trên đầu hư không (Thay lời chim làm tổ).
Mặt khác, nước cũng mang ý nghĩa về sự tái sinh và hồi sinh bất tận, Tôi trồng hoa nơi cỗi cằn đất không còn là đất/ Mưa đang tái sinh bỗng lại nắng lụi tàn (Lời người trồng hoa). Phải chăng, thời khắc của sự tái sinh là thời khắc thiêng liêng nhất không chỉ của kiếp người mà còn của triệu triệu đời sống khác. Trong tôn giáo, đặc biệt là với Thiên chúa giáo và Phật giáo, luôn quan niệm về thế giới thứ hai với niềm tin mãnh liệt. Thiên chúa giáo cho rằng cuộc sống hiện tại chỉ là sự nương nhờ, tạm bợ còn cuộc sống sau khi chết mới là cuộc sống thực sự. Còn Phật giáo, lại đề cao sự tu nhân tích đức ở đời sống hiện tại để sau khi chết lại được đầu thai. Còn Mai Văn Phấn xem cái chết như một sự khởi đầu, mở ra sự sống mới, rồi cứ thế hóa hóa sinh sinh, vô cùng vô tận, miên viễn. Ý thức hóa sinh này bắt nguồn từ một cảm niệm có ý nghĩa triết học: chết chưa phải đã chấm dứt, chết có thể là một sự khởi đầu của một quá trình mới. Điều này bắt gặp tinh thần Phật giáo. Phật học cho rằng cái chết là sự luân hồi. Có thể Mai Văn Phấn không suy tư theo hướng Phật giáo. Nhưng với một nhân sinh quan khỏe khoắn, cộng với bản tính tự nhiên, hồn thơ này luôn hướng về sự sống tái sinh, phục sinh, hồi sinh, sinh lại, khai sinh, phôi thai - những chữ được nhà thơ sử dụng nhiều lần, với tần suất cao.Ý nghĩa đức tin về “đời sống tái sinh và hồi sinh” cũng có điểm gặp gỡ với quan niệm muốn được đầu thai sống một kiếp sống khác sẽ tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn, vì thế “nước” cũng là điểm tựa để dung dưỡng sự sống, che chở sự sống, Lá sen và ngó sen/ Tỉnh dậy trong vòng tay của nước (Sáng mùa hè). Cùng thể hiện ý nghĩa về sự sinh nở, “nước” đang cất lên bài ca sinh nở ngàn đời, dòng sông vừa chảy/ vừa sinh nở (Đất mở). Để rồi, nó báo hiệu cho những điều tốt đẹp khác sẽ đến, Sông rất sáng/ Một ngày dài rất đẹp (Ngày đẹp trời).
Vẻ đẹp hài hòa của hình tượng đất và nước trong thơ Mai Văn Phấn là mối quan hệ gắn kết cùng đồng hiện. Vẻ đẹp của nó hiện lên không phải là ở trạng thái biệt lập mà có sự tương tác, tương tác trong chiều sâu nội tại khi: …Khoảnh khắc cuối ban mai/ Căng ngang trời đại lộ trong suốt/ Đất đai, mặt hồ đẫm ướt/ Che kín dấu chân… (Rời tay để bạn đi). Rõ ràng, sự xuất hiện tương xứng giữa hai hình tượng đã tạo cho không gian thơ mang đậm màu sắc tâm linh, mở ra một vùng trời của một cõi khác, cái cõi tồn tại của một kiếp sống khác. Thế giới thơ của Mai Văn Phấn là một thế giới “phồn sinh và hóa sinh bất định”, vì thế “cái tình” trong thơ không chỉ tồn tại giữa người với người mà vạn vật cũng có sự giao linh thiêng liêng để tạo nên những phép màu kì diệu, Mồ hôi và nước mắt dẫn dắt phù sa lăn vào trong đất. Còn máu bao giờ cũng tươi tốt, vì thế chăng mà đất đai chẳng nỡ bạc màu. Cho mọi dấu chân đều hy vọng đến được chân trời, cho hạt lép được nghiền ra làm cám trấu. Cuộc ái ân của đất với nước ngân lên thành tiết tấu và mọi cánh đồng được thấy mình sinh ra bên cạnh dòng sông. (Người cùng thời). Quả thật, đó là bản giao hưởng mang vẻ đẹp của một cuộc sinh nở kì diệu, tái sinh mọi sắc màu của sự sống thiêng liêng. Đây cũng là thời khắc đẹp nhất trong cõi nhân sinh, nơi quy tụ những mầm sống mới.
Có thể nói, “đất và nước” là những hình ảnh biểu tượng độc đáo cho sự “phồn sinh và hóa sinh bất định” trong thơ Mai Văn Phấn. Chính sự kết hợp hài hòa của những hình ảnh này đã tạo nên một thế giới hình tượng mang đậm màu sắc triết lí. Và, cũng chính khả năng liên đới của chúng đã mang đến vẻ đẹp tâm linh tinh tế từ ý nghĩa thầm kín trong bản thể sự vật.
2.4.2. Hình ảnh biểu tượng cho khát vọng sống và sự hồi sinh
Tôn giáo từ xưa đến nay mang trong mình những quyền năng nhất định. Tôn giáo tồn tại trong đời sống con người và luôn thể hiện những khả năng ảnh hưởng nhất định vào đời sống tinh thần. Khát khao sống luôn là niềm mong ước cháy bỏng chảy trong miền tâm thức của con người. Chỉ có tôn giáo mới mang lại cho con người niềm hi vọng lớn lao ở một cõi sống tiếp nối thực sự, đời sống đó không chỉ là đời sống ảo, mà nó thực sự hiện hữu ở khả năng hồi sinh bất tận. Hình ảnh ánh sáng được sử dụng trong thơ như là thứ ánh sáng soi đường trong tôn giáo, hướng con người tới một đời sống thực thụ ở cõi sâu tâm thức. Cũng như hình ảnh đất, ánh sáng cũng có mặt với mật độ nhiều trong thơ Mai Văn Phấn. Ở nơi nào có ánh sáng, ở nơi đó có giã từ bóng tối, chết chóc, hủy diệt. Và hơn thế nữa, nơi nào có ánh sáng, nơi đó đồng nghĩa với sự phì nhiêu, sinh nở, hóa sinh, để cho sự sống được thăng hoa, bừng sáng. Những miền khát vọng sống được trở về với niềm hạnh phúc lớn lao, để “Máu hồi sinh” lại được phát sáng trong cõi lòng. Tất cả thật nhất quán trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
Những biến thể của ánh sáng trong thơ Mai Văn Phấn rất đa dạng, từ ban mai, bình minh, hừng đông, rạng đông đến hoàng hôn và lửa. Tất cả đều chung hệ quy chiếu, cùng trường liên tưởng về ánh sáng – Thứ ánh sáng mang ý nghĩa biểu tượng, thấm đẫm tư duy triết học. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ Mai Văn Phấn, những hình ảnh mang ý nghĩa ánh sáng lại xuất hiện với mật độ dày đặc và nhiều biến thể đến vậy. Mỗi hình ảnh mang một ý niệm riêng của nhà thơ về một khoảng trời tôn giáo hóa trong thơ. Nếu ở thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử, ông sử dụng ánh sáng của “trăng” hàm chứa những điều linh diệu, huyền bí, gần với thứ ánh sáng khải huyền trong Kinh Thánh. Trăng chính là biểu tượng cho khát vọng siêu thoát, cao cả, êm đềm, là ánh sáng tinh khôi đối lập với bóng tối khổ đau của cuộc đời trần thế. Đặng Tiến đã từng nhận xét “Trăng trước hết là ánh sáng, một chủ đề rọi suốt mặc khải Kinh Thánh, từ ngày thứ nhất của sáng thế khi đất chúa trời phân định ánh sáng và bóng tối cho đến chương cuối cùng của Khải huyền, khi con người trong trời đất mới hướng một ánh sáng viên miễn”. Thì đến Mai Văn Phấn, bên cạnh ý nghĩa về ánh sáng khải huyền, khi đã đối lập trực tiếp với bóng tối, nó còn mang trong mình ý nghĩa liên đới, tạo sự kết nối với đời sống thực của con người. Ví như, trong ý nghĩa biểu tượng chung của ánh sáng về sự sống và lẽ công bằng, thì đặc biệt nổi trội lên với: Ánh sáng ban mai là biểu tượng cho niềm hạnh phúc và sự hồi sinh, cùng với bình minh, rạng đông là thứ ánh sáng thanh sạch đầu tiên mang ý nghĩa khởi nguyên; Ánh sáng của lửa là biểu tượng cho khát vọng sống, tình yêu và tuổi trẻ… Tất cả đều hướng con người tới sự cứu rỗi khỏi bóng đen của thực tại, hướng con người tới tình yêu mãnh liệt với sự sống và cuộc đời.
Trước hết, Đó là những thời khắc tạo sinh lộng lẫy và màu nhiệm của vũ trụ trong hào quang ánh sáng, mà chủ yếu là ánh sáng ban mai. Ban mai là khởi đầu của một ngày, khởi đầu sự sống, đánh thức và bừng tỉnh, vạn vật và con người được hoàn nguyên trong trạng thái khởi đầu, thanh khiết, tinh khôi. Quy luật này cũng được xem như là biểu hiện trạng thái sinh sôi của sự sống, làm mới, làm giàu sự sống. … Tấm lưới nghìn năm dằng dặc, miệt mài/ Ai đã kéo sau mỗi cơn binh lửa/ Suốt đời mẹ đan những sợi ban mai âm thầm bên khung cửa/ Khi đón cha đêm đã nhạt cuối vườn (Giấc mơ đi qua). Một miền ánh sáng dạt dào, bừng tỉnh sự sống: sóng sắc lẻm, đường chân trời đã vỡ/ Ban mai trào lên nơi ranh giới xóa nhòa/ Muôn ngàn mắt em xoay không gian lập thể/ Trong hạt sương trôi căng mọng phập phồng… (Dấu vết bình minh). Đó còn là ánh sáng trong những phút giây chan chứa tình yêu tuổi trẻ: … Và trái tim bừng lên ánh ban mai/ Tiếng chim gù rót vào ô cửa/ Tiếng nước cuốn đi từng mảnh đêm sụp đổ/ Em hay vầng trăng vừa lặn cuối con đường (Vầng trăng và con đường); Anh bước lên vạt nắng/ Một con thuyền ban mai/ Em bảo hãy chờ để khóa chặt cổng (Vườn em). Bài thơ Dấu vết bình minh “căng mọng” một bầu trời sắc dục ái ân: Da thịt anh rộn ràng mang dấu chân em/ Làm những móng tay trên đất càng vang vọng/ Mỗi đốt xương muốn rời ra ngân lên bộ hơi/ Ngỡ có đôi môi trên đỉnh đầu đang thổi. Mai Văn Phấn cũng là người công khai sử dụng các yếu tố dục tính. Tuy nhiên ở Phấn, dục tính hiện lên trong sự hướng đạo của ánh sáng tình yêu và tính thiêng liêng, nên về cơ bản là mang tính duy mỹ. Vượt lên nhục cảm để trở thành Cái Đẹp. Ở những bài thơ sau này hoặc gần đây nhất, Mai Văn Phấn vẫn không thôi ám ảnh về ánh sáng. Bài Tắm đầu năm lại tìm về ánh sáng của ngọn đèn, thứ ánh sáng của không gian gia đình, của tâm linh, của yêu thương, Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch/ quay về tắm bằng ngọn đèn. Bài thơ thật xuất sắc trong một ẩn dụ thân thuộc, khơi gợi, sâu lắng, mang chiều sâu của văn hóa nguồn cội. Trong bài thơ Ở Sokcho cũng vậy, một thứ ánh sáng thanh khiết, trìu mến, thuộc về ban mai: Cửa sổ mặt hồ yên tĩnh/ Giọng nói thân tình bỡ ngỡ ban mai.
Phải công bằng mà nói, hình ảnh ánh sáng không có gì xa lạ trong thi ảnh của các nhà thơ. Nhưng đến lượt thi sĩ họ Mai, ánh sáng bừng lên đồng nghĩa với sự sống ngời hiện. Có lần, nhà thơ ví lòng ống sáo là bóng tối của địa ngục, mỗi khi giai điệu cất lên là mỗi lần tìm lối tới thiên đường, và với người thổi sáo thì:… Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi. Mỗi góc tối trong tôi đang ngậm lấy âm thanh như ngậm vào vú mẹ, từ miệng mình he hé ánh sáng bồng bế nhau thong thả tràn vào (Viết cho cây sáo). Đó chính là sự lên tiếng của sự sống phồn sinh và hóa sinh kỳ diệu. Và rồi, sự sống một lần nữa lại được trở về, trở về trong sự “hồi sinh”, để một lần nữa ban mai mang lại ánh sáng của sự khởi đầu cho những mầm sống mới,… Ấy là dấu hiệu tái sinh/ hay bắt đầu những điều trọng đại/ chưa kịp xúc động/ Mới mơ hồ nhận ra/ Ban mai đã cuốn lấy ta những vòng tả lót (Khúc dạo đầu).
Những hình ảnh biểu trưng cho ánh sáng, nhiều khi cùng xuất hiện để bổ trợ cho nhau, làm cho đoạn thơ sáng bừng lên một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, … Đã xa hiện thời lu mờ quá khứ/ Bao lối mòn những bộ quần áo cũ/ Quên cả mình từng mất mát khổ đau/ Tiếng hát tung lưới quét ta về ánh sáng/ Hiện dần lên những lấm tấm vảy bạc/ Nơi hoàng hôn chạm vào mặt ban mai/ Đom đóm muốn thiêu mình trên đống lửa/ Cả vòm cây đang bật khóc xuyên tường (Nghe Nana Mouskousri). Càng độc đáo và ấn tượng hơn khi, Cha muốn con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước cửa…
... Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ…
…Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt, vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi. (Lúc mặt trời mọc). Bên cạnh đó, hình ảnh ánh sáng cũng kết hợp với nhiều hình ảnh biểu tượng khác để tạo nên sắc điệu riêng trong thơ Mai Văn Phấn. Ba hình ảnh Đất đai, Ánh sáng và Người tình trong nhiều trường hợp cùng hiện lên phối thuộc lẫn nhau, hòa quyện trong nhau, tương tác và tôn vinh nhau: Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn đọt mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em…); Hôn em trời đổ mưa/ đất đai hồi sinh tươi tốt/ Hạt giống nẩy mầm rồi bỏ đi xa (Những bông hoa mùa thu)…Đó là những biểu hiện toàn vẹn, sung mãn nhất về hiện thân của Cái Đẹp phồn sinh và hóa sinh bất định. Nói theo cách nói của thi pháp học, đó chính là thế giới nghệ thuật đặc sắc của thơ Mai Văn Phấn.
Có thể khẳng định rằng, thế giới thơ của Mai Văn Phấn là một bầu trời ngập tràn ánh sáng, đa số các bài thơ các câu thơ đều hướng tới sự sống và ánh sáng. Trong giai đoạn đầu của sáng tác, thi sĩ chịu quy chiếu của những quan niệm về nhân sinh quan và thế giới quan trong “tôn giáo mình”. Âm hưởng thánh ca vang vọng trong những tập thơ đầu, từ “Gọi xanh” đến “Cầu nguyện ban mai”. Đi sâu vào tiếp cận các vần thơ, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra đa số các câu thơ đều hướng đến ánh sáng. Đó không chỉ dừng lại là ánh sáng ánh sáng của ban mai, bình minh, hừng đông, rạng đông, mà quan trọng hơn còn là ánh sáng của tâm linh và một miền tâm thức. Ánh sáng đã ngủ yên/ Ta đang hồi sinh/ Trong vòng tay của đêm. Rõ ràng, với người Ky tô giáo dựa trên những triết lí từ trong kinh thánh họ phân biệt rất rạch ròi ranh giới giữa thiên đàng – địa ngục; thiên thần – ác quỷ; thiện – ác. Từ đó, họ tin tưởng ở sự ban thưởng xảy ra sau khi chết: sống tốt thì được lên thiên đàng, làm việc xấu thì bị đày xuống địa ngục, hỏa ngục. Vì thế, trong thơ Mai Văn Phấn có sự phân biệt rạch ròi giữa ánh sáng và bóng tối: Thời bom đạn bình minh như bát vỡ/ Tôi ôm chiếc bát của bóng đêm ăn dở/ Thành lực điền đối diện với hoàng hôn (Hát giữa hai mùa). Càng về những tập thơ sau, dấu ấn Phật giáo in đậm trong thơ. Ánh sáng trong thơ, chính là miền ánh sáng soi tỏ hạnh phúc ngay chính cuộc sống hiện tại, cõi niết bàn tồn tại ngay trong cuộc sống trần thế. Vì thế, ánh sáng có khả năng thay đổi quan niệm, trật tự xã hội, thay đổi thế giới. Chỉ có thể là thứ ánh sáng tinh khôi mới có khả năng xuyên qua thế giới tối đen, bí ẩn:… chỉ khi một cánh chim bay tia sáng ngôi sao vô tình nào bỗng xuyên thủng lớp vỏ kia bí ẩn, hay hạt gống được chạm vào dịu nhẹ ngón tay của mùa xuân, mọi trật tự và quan niệm sẽ khác (Giải pháp)
Như vậy, qua sự tìm hiểu chúng ta dễ dàng nhận ra, cũng giống như thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử, thế giới hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn cũng không mang màu sắc tôn giáo thuần khiết. Hầu hết các biểu tượng gần gũi với cuộc đời, được linh hóa, bổ sung nhiều nét nghĩa thầm kín. Bởi thế, khi tách khỏi thế giới nghệ thuật của Mai Văn Phấn, nó không còn mang màu sắc tôn giáo. Điều này khiến cho việc giải mã các hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông là hết sức khó khăn. Những hình ảnh thiên nhiên gợi về thế giới ánh sáng, nhưng đó không đơn thuần là một thứ ánh sáng thiên nhiên thuần khiết, biểu tượng vẻ đẹp của đất trời. Thay vào đó là một ý nghĩa thiêng liêng huyền bí hơn, gắn liền với cảm hứng tôn giáo của nhà thơ. Ánh sáng chính là biểu tượng cho khát vọng sống, siêu thoát và hồi sinh cao cả, êm đềm; là ánh sáng tinh khôi đối lập với bóng tối khổ đau của cuộc đời nhân thế.
2.4.3. Hình ảnh biểu tượng cho khát vọng hướng thiện
Trong thế giới hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn, bên cạnh hình ảnh thiên nhiên mang ý nghĩa tôn giáo, thì còn có cả những biểu tượng trong tôn giáo. Những biểu tượng tôn giáo trong thơ vốn rất trừu tượng và siêu hình. Nhà thơ không sáng tạo ra biểu tượng mà chỉ vận dụng một cách sáng tạo những hình ảnh, những khái niệm đã có trong tôn giáo, và mang đến cho nó một màu sắc cá thể, góp phần chuyển tải những cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ. Trong thơ Mai Văn Phấn các biểu tượng tôn giáo xuất hiện khá nhiều, và nó thường xuất hiện độc lập, riêng lẻ. Ý nghĩa biểu tượng của nó được thiết lập dựa trên những ý niệm của tôn giáo truyền thống và trong mối tương tác với thế giới hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Đấng – Toàn – Năng trong tôn giáo là một khái niệm trừu tượng siêu hình, gắn với một vị chúa tể tối cao, có quyền năng tuyệt đối, người sáng tạo và che chở cho thế giới muôn loài. Đến Mai Văn Phấn hình ảnh này hiện lên không còn trừu tượng, siêu hình mà trở nên gần gũi, sống động, với nhiều hình hài và dáng vẻ khác nhau. Đặc biệt, Mai Văn Phấn đã rất tinh tế khi tạo ra sự gắn kết với tư tưởng tôn giáo, khi đưa vào thơ một biểu tượng đậm chất tôn giáo. Hình ảnh “quả chuông” trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện với tần xuất cao, khoảng trên 30 lần. Đây trở thành một hình ảnh ám ảnh, lặp đi lặp lại nhiều lần trong hành trình thơ Mai Văn Phấn, đặc biệt là ở những giai đoạn sau. Sở dĩ, hình ảnh này càng ngày càng xuất hiện với mật độ dày trong thơ ông là bởi, nó có nguồn gốc sâu xa từ những dư âm về cố hương – mảnh đất công giáo, với tiếng chuông nhà thờ là yếu tố quan trọng nuôi dưỡng tâm hồn của một con chiên ngoan đạo. Cùng với đó, về sau này khi tìm hiểu về Phật, Mai Văn Phấn hiểu Chuông khởi nguồn từ Phật giáo mà ra, tuy trong cách bài trí và ý nghĩa tiếng chuông có điểm khác nhau ở mỗi tôn giáo, nhưng ông cũng tìm thấy sự hòa điệu trong thứ âm thanh linh thiêng ấy. Rõ ràng, tiếng chuông chùa hay tiếng chuông nhà thờ đều để thức tỉnh những ai còn mù mịt, đang trong cõi u minh; Tiếng chuông thấu đáo đến khắp pháp giới để cứu những chúng sinh đang khổ nạn. Nghe được tiếng chuông này thì thoát khỏi cảnh khổ đau, lầm lạc. Cuộc đời con người, sướng, khổ, giàu, nghèo, hạnh phúc hay bất hạnh, tất cả đều bắt đầu do mình. Mọi việc là tự mình làm, tự mình quyết định cho mình. Nếu không tự tỉnh thức bằng trí tuệ, để tìm thấy các giá trị thật của mọi việc đang có mặt chung quanh mình, thì thật là uổng phí, vì mình sẽ mất tất cả theo luật tự nhiên, và nếu như khi đặt hết trọng tâm của đời mình vào Từ, Bi, Hỷ, Xả, để thực hiện việc gì cho mình hay cho người bằng những giá trị thật của việc đó, thì mình sẽ không bao giờ bị mất tất cả. Đó là căn cốt của lẽ đời, là mục tiêu để con người đạt “Đạo” và cũng là con đường để con người vươn tới những điều thiện. Như vậy, hình ảnh quả chuông chính là biểu tượng cho những điều tốt đẹp, nó không chỉ là ước mơ mà còn là mục đích để con người hướng tới bến thiện.
Quả chuông trong tinh thần tôn giáo là biểu tượng cao nhất cho khát vọng hướng thiện. Khát vọng hướng thiện ở đây không chỉ đơn thuần là sống và làm điều thiện, mà nó còn thể hiện niềm khát khao vươn tới một thế giới chỉ tồn tại những điều thiện. Thi sĩ đứng ở vị thế của một người với tư tưởng “phổ độ chúng sinh” trong một thế giới đại đồng bằng những gì tốt đẹp nhất. Và, tiếng chuông là sự khai mở kì diệu đưa con người đến với thế giới ấy bằng con đường tâm thức. Như chúng ta đã biết, chuông là một trong những pháp âm của nhà Phật, Chuông Phật trong tiếng Phạn gọi là Ghaṇṭā.