Mai Văn Phấn tìm về ngọn nguồn thi ca

Đặng Văn Sinh
“Bầu trời không mái che” là tập thơ của Mai
Văn Phấn được xuất bản cuối năm 2010. Cũng như các tập thơ “Vách nước”, “Hôm
sau”, “Và đột nhiên gió thổi”… tác giả luôn làm cho bạn đọc bất ngờ bởi cách
đặt tên rất khác người cho những thi phẩm của mình.
Xét về thi pháp, cả ba chủ đề trong tập thơ:
“Cửa mẫu”, “Mùa trăng” và “Hình đám cỏ” gần như cùng một phong cách nhưng
phương pháp diễn đạt cũng như đối tượng được đề cập đến không hoàn toàn giống
nhau. Nói khác đi, “Bầu trời không mái che” mang nội hàm tổng quát chi phối ba
chủ đề kia.
“Bầu trời không mái che” là tập thơ khó đọc
nhất trong những tập khó đọc của Mai Văn Phấn. Hơn thế, ở thi phẩm này, dường
như anh đã thoát ly hoàn toàn với những vấn đề “nhạy cảm” xã hội, bỏ ngoài tai
mọi cám dỗ chính trị, loại khỏi bộ nhớ đủ thứ màu sắc chủ nghĩa cùng những hệ
lụy của nó để tìm đến ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo, cho dù đó là cảm hứng
cô đơn trên miền đất hoang vu như cánh rừng tiền sử vừa trải qua cơn đại hồng
thủy.
Cảm hứng chủ đạo của “Bầu trời không mái che”
là vũ trụ, nhân sinh và những dạng thức khác nhau của tình yêu được phát triển
trên nền cổ điển thông qua ngôn ngữ siêu thực. Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trưng
của bút pháp Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ không vần, không nhịp
điệu, không đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc ngữ pháp. Đúng như phát hiện
của nhà thơ Lê Đạt, “chữ bầu nên thơ”,
hiệu ứng của những dòng thơ cấu trúc ngôn ngữ bị thay đổi hay chuyển dịch vị
trí cú pháp dẫn đến thay đổi cả về nội dung ngữ nghĩa lẫn giá trị biểu cảm. Tuy
nhiên chất siêu thực của “Bầu trời không mái che” không phủ nhận mà tiệm cận
thế giới khách quan, vì thế, nó luôn song hành với hiện thực cuộc sống nhưng thường
đưa ra những cách giải thích của riêng mình.
“Bầu trời không mái che” lấy con số 9 làm
tiêu chí dẫn dắt mạch tư duy hình tượng. Số 9 trong tín ngưỡng dân gian được
xem như con số thiêng, thường ẩn giấu những bí mật vũ trụ. Chính vì thế, nó
luôn hấp dẫn các nhà chiêm tinh, tướng số, thậm chí cả các nhà khoa học đương
đại nghiên cứu về khoa ngoại cảm. Từ ý tưởng này, Mai Văn Phấn khai triển các
bài thơ của mình dưới hình thức 9 khúc, 9 đoạn hay 9 nhịp tạo thành sự tương
hợp với cấu trúc tự nhiên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương và Ngũ Hành. Có thể
nói, tập thơ dường như đã thoát khỏi ràng buộc có tính quy phạm của của những
định chế xã hội. Những đối tượng mà chủ thể “trần thuật” hoặc hồi ức trong đời
sống tự nhiên đều vận hành theo tinh thần tự do, an nhiên trong một thế giới
không có bạo lực, không chiến tranh, không chủ trương các triết thuyết dựa trên
tinh thần độc tài.
Chẳng những thế, nó còn thoát ly được cả thứ
đạo đức giả rất dễ bị cám dỗ bằng đủ thứ danh xưng mỹ miều, mà xác lập cho mình
một thang giá trị mới qua nhận xét khá chính xác của nhà thơ Dương Kiều Minh
:"Bầu trời không mái che" là sự
dâng đặt cái hứng khởi về cuộc tái sinh đầu tiên của sự sống. Một cuộc tái sinh
được nhà thơ thể nhập trong cảm nhận trực giác của cái toàn thể và cái nhất
thể, một cái cá thể không phân chia, không tách rời. Đó có lẽ là cuộc giải
phóng và từ quy của nhà thơ"[i].
Còn tác giả Đỗ Quyên, người từng viết hẳn một tiểu luận công phu về thi pháp
Mai Văn Phấn, đã đưa ra nhận định sắc sảo: "Bầu trời không mái
che" là ẩn dụ văn chương về từng thời kỳ thành người và làm người của cuộc
đời người-nữ-Việt. Chương cuối "Hình đám cỏ" là một cuộc liên hồi các
đợt làm tình, để quay vòng về chương đầu "Cửa mẫu"[ii].
“Bầu trời không mái che” là một vũ trụ mà
trong đó, thiên nhiên trong trẻo, thoáng đãng, tinh khiết được nhận thức dưới
góc nhìn tân cổ điển. Thiên nhiên ấy, lúc là mùa xuân trăm hoa đua nở, lúc là
mùa thu vàng phai màu lá, chim kêu vượn hót. Tình yêu nảy nở trong trong một
không gian sinh tồn lý tưởng như thế với đủ mọi cung bậc. Tuy vậy diễn biến của
các “nhịp tình yêu” trong “Bầu trời không mái che” chưa bao giờ đi trọn vẹn một
vòng theo phương pháp sáng tác cổ điển. Nó luôn chỉ là một lát cắt bất chợt
mang tính biểu tượng bởi tinh thần siêu thực được khai triển trong không gian
bốn chiều, vừa hiển lộ vừa thần bí dưới dạng thức ngôn ngữ đã được mã hóa.
Một trong những yếu tố quan trọng làm nên nét
đặc thù của tập thơ này là, tác giả đã vận dụng tối đa hiệu quả ngôn ngữ diễn
đạt. Hệ thống từ vựng tuy không mới nhưng bí quyết thành công của nó nằm ở khả
năng liên kết trong trường ngữ nghĩa tạo nên phản ứng dây chuyền: Hơi nước bến sông / Không gian đặc thời gian
nhầm lẫn / Ngọn khói lên cao / Biết mình bơi trong biển sương (Cửa Mẫu –
I); Thu về e ấp / Cốm non lãng đãng sương
giăng / Khăn áo ấy mịn màng da thịt / Dâng heo may lên trời (Mùa trăng –
Cốm hương); Bên em hành lễ mặt trời /
Ngọn thác, bờ sông lớn / Bóng anh trong tiếng nước chảy… / Lưỡi gươm sáng /
Thèm tiếng nổ lớn, tiếng đổ vỡ / Những dây cáp trì níu đứt phựt / Con đê vỡ
toang tràn lũ đồng bằng (Nhịp VIII – Hình đám cỏ); Đây trời cỏ / Đại dương cỏ / Phơi phới sông hồ (Nhịp IX – Hình đám
cỏ).
Việc trù hoạch ý tưởng là quan trọng, nhưng
với thơ siêu thực hoặc tân cổ điển, ngôn ngữ diễn đạt mới là điều tiên quyết để
tác phẩm thành công. Nói cách khác, cái tài của người viết chính là ở nghệ
thuật sắp đặt ngôn từ sau khi đã có được phác thảo bố cục. Cũng với một số
lượng từ vựng nhất định, những người có tay nghề cao sẽ dễ dàng sử dụng chúng
trong nhiều dạng thức kết hợp, như kết hợp song phương, đa phương theo mặt
phẳng, rồi kết hợp đa chiều trong không gian, làm các con chữ nhảy múa tác động
lẫn nhau như một phản ứng nhiệt hạch, tạo nên sự bùng nổ bất ngờ vượt khỏi sự
kiểm soát.
“Cửa Mẫu” là một ví dụ.
“Mẫu” là khởi nguồn của mọi sự sống trên thế gian, là Đấng Sáng Thế đầy quyền
năng, là nguyên nhân của quy luật sinh tồn. Hình tượng “Mẫu” là biểu trưng của
cảnh khai thiên lập địa. Vũ trụ lúc ấy tối tăm mù mịt, là một khối hỗn độn vô
hướng của nước, lửa và những sinh vật bán khai. Giữa buổi hồng hoang ấy, bà mẹ
hoài thai sinh ra đứa con mang dáng dấp Con Người. Hình tượng “con” ở đây còn
bao hàm cả khái niệm vũ trụ (ánh trăng, mây mù, mưa nguồn chớp bể, bóng đêm,
vầng mặt trời, đáy nước, đàn chim, con nòng nọc, lá mầm…). “Cửa Mẫu” không có
thời gian, không gian cụ thể mà là những khái niệm giả định, được đo đếm bằng
những đại lượng “ảo” do chính “Mẫu”, một thứ totem siêu hình không thể cắt
nghĩa rõ ràng được, quy định. “Cửa Mẫu” có 9 khúc, mỗi khúc đều được gắn với
những hiện tượng, những quy luật trong nhận thức vạn vật tương thông. Mỗi khúc
vừa hé mở lại vừa khép kín những bí mật của vũ trụ, lúc như giải thích, lúc lại
như những câu sấm truyền tối nghĩa bằng thủ pháp ẩn dụ. Có thể nói, “Cửa Mẫu”
là một cố gắng tự khám phá thế giới tâm hồn, tìm vào tầng vô thức khám phá bí
mật của Tạo Hóa. “Cửa Mẫu” không giải thích mà chỉ nêu hiện tượng cùng mối quan
hệ rất bình thường của các quan hệ ấy. Có vẻ như, khi viết “Cửa Mẫu”, Mai Văn
Phấn đang trong trạng thái “lên đồng”. Tác giả sau khi được Mẫu “nhập” vào đã
biến thành một chủ thể hoàn toàn khác, có khả năng cảm thấy, nhìn thấy những
thứ mà người trần mắt thịt bất lực. Ngôn ngữ “Cửa Mẫu” dồn nén, trơn tru, kéo
dài thành những trường đoạn với hàng loạt câu ngắn phảng phất loại ca từ chầu
văn, diễn tả thế giới mông lung nửa thần thánh nửa trần tục. Yếu tố triết lý
được loại bỏ ngay từ đầu, thay vào đó là những nghiệm sinh được đúc rút qua quá
trình sống của các thế hệ được di truyền lại. Như vậy, “Mẫu” được tôn vinh như
là thủy tổ của muôn loài, Cửa mẫu chính là khởi nguồn của sự sống trên Hành
Tinh Xanh. Hình tượng “Con” ẩn dụ vạn vật trong cuộc đấu tranh sinh tồn trong
lịch sử tiến hóa. “Mẫu” là đấng toàn năng, khi sinh thành ra “Con” cũng là lúc
Người trao cho nó cẩm nang thoát hiểm. Hình ảnh “Con” vừa có tính cá thể, vừa
mang tính quần thể, là hiện thân của sức quật cường trong hành trình tự khám
phá mình để đến tương lai. Đây là những vần thơ cảm nhận sự huyền vi của Tạo
hóa khi vạn vật đang sinh thành: Da thịt
con yêu trải sâu đêm tối / Dựng tầng mây mưa nguồn / Con lặng lẽ đi qua vầng
mặt trời đáy nước / Nhìn hướng bầu trời mở đôi cánh... Và sự sống nguyên
thủy qua hình ảnh đảo ngược gây hiệu ứng siêu thực: Ngọn cây vươn mỏ con chim / Đang cúi xuống mớm vào miệng con từng hớp gió...
Vượt lên trên hết là quy luật sinh diệt của vạn vật do “Mẫu” tạo nên cho
thế giới tự nhiên, dạy “Con” thích ứng với hoàn cảnh: Tiếng hạt vỡ trong ngực / Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi / Tập vỗ
cánh, quạt gió vào lòng tổ / Bật lá mầm bay đi thênh thang... “Mẫu” vừa là
vũ trụ vĩ mô vừa là vũ trụ vi mô được nhận thức như là một ý niệm vô thủy vô
chung. Nơi sinh ra cũng là nơi kết thúc của mỗi cá thể bởi phương thức cộng
sinh. Phương pháp siêu thực kết hợp với biện pháp đảo trang, hòa đồng một cách
ngẫu hứng côn trùng, thảo mộc, muông thú và con người trong trật tự khá hỗn
loạn: Đặt con lên đất / Lòng sông đau xé
thân đêm / …/ Con bật khóc cuốn đi lưới nhện / Tiếng con vạc khàn khàn / Tàng
tro lóe sáng / Mặt trăng run... Biện pháp xen kẽ tư duy trực cảm của con
người thời hiện tại với hành vi mang tính di truyền đẩy thời gian về trục quá
khứ, nén chặt không gian sinh tồn, làm cho người và vật thay đổi vị trí của
nhau. Đó chính là không gian hiện sinh, thời gian siêu thực được biểu đạt bằng
ngôn ngữ thơ.
Cùng một phong cách diễn
đạt, nhưng “Mùa trăng”, đặc điểm siêu thực lại được phát triển trên cái nền cảm
hứng khá là lãng mạn. 9 bài thơ từ “Đá trong lòng suối”, “Giai điệu xuân”, “Con
chào mào”, “Cốm hương”… đến “Mùa trăng” đều phảng phất một giai điệu dân
gian trữ tình, nồng nàn, tươi trẻ. Lấy
“trăng” làm cảm hứng chủ đạo, tác giả mở rộng biên độ, quy chiếu vào quỹ đạo
“trăng” một tinh thần liên đới hết sức nhân văn. Câu thơ “Đá nhắm mắt an nhiên
nước cuốn” là ẩn dụ một trạng thái thiền định trong một không gian sinh động
với tiếng chim hót, lũ voọc chuyền cành, mùi ổi chín và đám mây trên trời dừng
lại. Đây là sự vô vi trong không gian hữu cảm. Triết lý của đá bị hiện thực của
dòng nước phủ nhận: Lặng im cho nước chảy
/ Xối xả lâu lạnh toát mình đá... Danh xưng "đá" mặc nhiên đã trở
nên mơ hồ bởi cách ẩn dụ nhiều tầng. Nói như Dương Kiều Minh, "Đá chính là bản thể của nhà thơ thể nhập
trong trải nghiệm qua dòng xối của thời gian và của thế tục đang cuộc trở về
tĩnh lặng"[iii]
Cũng như thế, con chào
mào là giống “chim siêu thực”. Tiếng hót được nhốt trong cái lồng tưởng tượng.
Đây chính là thông điệp của nhà thơ khi anh ta nghĩ đến bầu trời tự do không
giới hạn, không gian rộng lớn đủ để muôn loài cùng chung sống hòa bình. Chiếc
lồng vẽ là một hình ảnh ẩn dụ về khát vọng của người nghệ sĩ muốn chiếm lĩnh
cái đẹp: Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý
nghĩ / Sợ chim bay đi / Vừa vẽ xong nó cất cánh / Tôi ôm khung nắng khung gió/
Nhành cây xanh hối hả đuổi theo/ … / Chẳng cần chim bay về / Tiếng hót ấy giờ
tôi nghe rất rõ.
Cốm hương là biểu tượng
mùa thu được diễn đạt bằng một loạt hình ảnh gợi cảm làm rung động nhịp điệu
tâm hồn: Cốm non lãng đãng sương giăng /
… Khăn áo ấy mịn màng da thịt / Dâng heo may lên trời… Logic hình thức của
thi pháp cổ điển bị phá vỡ. Không phải mùa thu làm nên hương cốm mà chính là
hương cốm làm nên mùa thu. Đấy là mùa thu của tâm trạng với “hương cốm” bị đảo
ngược tạo cảm giác “lãng đãng sương giăng”.
“Mùa trăng” còn bao quát
đến cả “Đỉnh gió”. Thực chất “Đỉnh gió” là một ngọn núi cao chót vót, quanh năm
bị những luồng gió mạnh từ bốn phương thổi tới. Trên đỉnh cao chênh vênh, cô
đơn đó, nhà thơ dường như nhìn thấy những hình thái gió thổi tạo nên cảnh tượng
thiên nhiên hùng vĩ tựa như “Độc tọa Kính Đình san” của thi tiên họ Lý nhưng
không dừng ở đó mà liên tưởng ngay đến cuộc sống hữu hạn của đời người. Ngọn
núi trở thành chủ thể sinh động, còn gió, tuy mang sức mạnh vô tri nhưng bỗng
chốc rơi vào thế hạ phong: Nhoài lên mỏm
đá sắc / Thân thể gió trầy xước. Cấu trúc ngữ pháp của “Đỉnh gió” rất hay
bị phá vỡ bởi hiện tượng đảo ngược từ, ngữ nhằm lạ hóa câu thơ: Tìm miệng anh gieo hạt / Gió níu chân tay
đất dịu dàng / Lao xuống vực / … / Chớp
sáng nứt vỏ / Mùa xuân tràn miệng hạt. “Mùa trăng” còn là những phác thảo
dưới dạng ký họa, đem đến cho người đọc một cách nhìn khác, của riêng Mai Văn
Phấn về các dạng thức siêu thực của trăng, khác hẳn với quan niệm truyền thống
của Lý Bạch, Hàn Mặc Tử. Ở đây, anh đã tìm ra thi pháp của riêng mình khi vị
trí của các thực thể bị hoán cải, cấu trúc ngữ pháp đảo lộn: Bờ đá nằm im nghe mồ hôi lạ / Giọt giọt
trăng khuya / … / Bàn tay em tìm trăng / Từng ngón đêm lóe sáng / … / Men theo
trăng, cười nói trăng / Nghẹn thở một màu trong suốt / … / Màu óng ả trên lưng
chim bói cá / Cho anh thành vạt trăng / … / Hôn em, ngón tay út/ Nâng em lên
trăng / … / Mùa xuân gió hòa gót chân / Trái tim rộn ràng ngực đất / Dòng trăng
cuồn cuộn thân cây / … / Cổ và đỉnh đầu khoang trắng / Cùng móng chân bé xíu
bước lên trăng… Có thể thấy, diện mạo trăng, hình hài trăng, tâm hồn trăng
đều là những hình ảnh ẩn dụ phi truyền thống tạo nên sự chuyển dịch từ nhận
thức lý tính sang nhận thức cảm tính. Cách miêu tả trăng ở đây không hẳn chỉ là
siêu thực mà còn mang dấu ấn của hiện sinh. Nói như thế, không có nghĩa “Mùa
trăng” không còn gì đáng bàn. Sự bất cập của “Mùa trăng” trước hết là ở chỗ,
tác giả tự làm khó mình bằng việc mở rộng nội hàm của “trăng” đến độ bắt độc
giả phải thừa nhận những thứ có vẻ như không phải là trăng: Thông thốc lên mỏm dốc / Mở mắt nhìn xuống /
... / Đóng chặt cửa gió càng thổi / Điều chợt nhớ tới cũng bạt hơi, tức ngực (Đỉnh
gió); Cả phố phường, triền dốc, cửa sông
/ Cùng ngô lúa đang tập cười, tập hát…(Mùa trăng).
Mọi sự liên tưởng đều có
giới hạn. Trí tưởng tượng thái quá sẽ giống như con dao hai lưỡi, hẳn có lúc
quay lại “phản chủ”. Đành rằng, “Mùa trăng” ở đây chỉ là một ý niệm làm điểm
tựa cho dòng cảm xúc, nhưng nếu đẩy ý tưởng đi quá xa bằng những câu thơ cắt
khúc, không nhạc điệu, hình ảnh lộn ngược sẽ làm giảm sức hấp dẫn.
Với “Hình đám cỏ”, thật
khó có thể định danh đó là trường ca, sử thi hay liên đoản khúc, cũng như hình
thức biểu đạt của nó liệu có phải là siêu thực, tân cổ điển thậm chí hậu hiện
đại, hay thi sĩ họ Mai muốn xác lập hẳn cho mình một “trường phái”? Có thể
thấy, các hình ảnh, sự vật cùng các quy luật vận động đều thuộc “thế giới cổ
điển”. Mặt trời, mặt trăng, đỉnh núi, con sơn dương vẫn như hàng triệu triệu
năm trước, nhưng cái cách tác giả miêu tả thì lại hoàn toàn mới. Thi pháp cổ
điển bị loại bỏ, nhà thơ đem đến cho người đọc một cảm hứng nghệ thuật mà ở đó,
người ta có thể nhìn nhận sự vật trong không gian đa chiều.
“Hình đám cỏ” chính là
cách nhìn siêu thực thông qua hình thức tân cổ điển. Cũng như “Mùa trăng”, ngôn
ngữ diễn đạt của “Hình đám cỏ” thoát khỏi cấu trúc mô hình truyền thống, triệt
để sử dụng loại câu không chủ ngữ, đảo ngược chức năng cú pháp, đưa ngôn ngữ
thơ vào đời thường, hạ phóng thơ từ tháp ngà đến với quảng đại công chúng.
Bố cục “Hình đám cỏ”
cũng chia làm 9 phần, nhưng ở đây tác giả gọi là “nhịp”. Mỗi một “nhịp” như thế
được phát triển trên cái nền cảm hứng bất tận về Thiên, Địa, Nhân. Những sự
kiện, hiện tượng xuất hiện với tần suất cao trong mỗi nhịp thơ đều nằm trong
một tổng thể là thế giới tự nhiên được quy chiếu vào đó qua lăng kính siêu
thực. Nghĩa là, nội dung cổ điển nhưng được nhìn nhận dưới nhãn quan mới. Bước
sơn dương, cỏ cây, núi cao, con cá dưới sông động dục, tổ chim, bức tường… tất
cả cùng đồng hiện trong bức tranh siêu thực với những đường nét, mảng khối vô
cùng hấp dẫn nhưng khó hiểu: Góc phố lặng
yên nép vào hơi thở / Đất chuyển mùa / … / Thôi miên làn gió chợt qua / … /
Tiếng chim âm u / Lập lòe sáng từng phần cơ thể / … / Con chim nào mới bị
thương / Cả bìa rừng đập cánh. Từ những câu thơ trên, có thể thấy, cấu trúc
câu văn cổ điển không còn nguyên vẹn, trật tự cú pháp bị đảo lộn, bởi vậy, nội
hàm của câu thơ đương nhiên chuyển dịch. Hình ảnh thơ trong “Hình đám cỏ” là
khá đa dạng. Mỗi hiện tượng, sự vật không chỉ biểu thị một khái niệm, mà tùy
vào hoàn cảnh cụ thể, chúng biến đổi theo thời gian, không gian trong những mối
quan hệ hết sức đa dạng. Mặt trời, mỏm đá, bông hoa ở nhịp I khác hẳn với mặt
trời, mỏm đá, bông hoa ở nhịp III, nhịp IV. Cũng như vậy, lá khô rụng và cơn
giông cuối chiều ở nhịp II khác với nhịp VII. Tính không đồng nhất về khái niệm
là nét phổ quát trong tư duy thơ “Hình đám cỏ”. Mỗi một nhịp thơ, tác giả đều
có cách làm mới những khái niệm cũ, hình ảnh cũ, không gian, thời gian và các
mối tương tác cũ. Tuy nhiên, có lẽ vì quá say sưa với mạch cảm hứng, nhà thơ vô
tình dẫn dắt người đọc vào một mê cung ngôn từ gần như không tìm được lối ra.
“Hình đám cỏ” bỗng trở thành một “bát trận đồ” với những nhịp càng về cuối càng
rối rắm. Câu thơ không “nén” lại mà mở bung ra, phát tán như hỏa mù tạo cảm
giác trùng lặp, loãng và bí hiểm hơn cả những bức tranh siêu thực lập thể: Cơ thể anh miền ghềnh thác / Tâm xoáy reo
vang / Ngâm trong nước mặt trời không còn nóng / Vỡ òa bọt sóng lân tinh / Nổi
nênh trôi theo dòng nước / … / Nghiêng sang trái / Nhắm mắt xoay phải mấy vòng
/ Anh là vận động viên kiện tướng / Hạt giống số một / … / Bắt chước người mẫu,
hoa hậu / Chữ Nhất dễ ngã / Còn chữ Bát?/ Đi ra chữ xấu lắm, em chê / Muốn tự
nhiên không dễ…
Ở nhịp II, Nhịp III,
nhịp V, những hình ảnh và sự kiện gần như đồng hiện, thậm chí đan xen vào nhau
trong một không gian được mở rộng vùng ngoại biên. Thấp thoáng giữa những câu
thơ giống như vài nét ký họa nguệch ngoạc, người đọc còn nhận ra cả đặc trưng
của lý thuyết tiếp nhận. Không ít câu thơ lửng lơ như bị “treo” chẳng khác gì
một dãy ký hiệu thông báo. Các hình ảnh lần lượt xuất hiện với dạng thức khác
nhau nhưng thực chất lại có cùng một mục đích phản ánh hiện thực khách quan qua
cái nhìn chủ quan của nhà thơ về vũ trụ, nhân sinh.
Một đặc điểm nữa của
“Hình đám cỏ” là sự thâm nhập lẫn nhau giữa các khái niệm, hòa đồng các sự kiện
tự nhiên thông qua nhận thức cảm tính của người viết, với tham vọng sáng tạo
nên những hình tượng mới thông qua các biện pháp tu từ như ẩn dụ nhiều tầng,
đảo ngữ, so sánh. Không gian, thời gian, trời mây, mưa nắng, lá khô, đôi mắt em
và tình yêu của anh đều là những hiện tượng đời sống được ẩn dụ nhưng lại quy
chiếu vào mặt phẳng ảo trong miền vô thức: Thời
khắc đầu ngày / Vẽ chân trời rẻ quạt / Mỗi vệt sáng ghi nhớ một việc / Em ẩn
sau chiếc quạt khổng lồ… Thực ra, thi pháp “Hình đám cỏ” không đơn giản chỉ
là siêu thực, tân cổ điển hay hiện sinh, bởi “Hình đám cỏ” không ít chỗ còn tạo
ra mảng, khối khá u ám. Hành trình “Hình đám cỏ” là hành trình khúc đoạn. Những
khúc, đoạn điển hình thường được “kể” khá tỷ mỷ bằng ngôn ngữ thông tấn ít thấy
ở thơ truyền thống. Đoạn nói về việc uống trà ở nhịp I là dẫn chứng khá thú vị:
Mở không gian hương trà thơm / Từ cánh
tay ngấn cổ / móng chân sơn đậm màu trà / … / Búp trà ngon anh thêm minh mẫn /
Dù đã uống cả làn mây trắng / Vẫn móng chân màu trà ẩn hiện bay qua. Có thể
xem, xuyên suốt 9 nhịp của bài thơ là những khúc đoạn “trần thuật” về đủ thứ
trên đời. Không ít đoạn, hoặc câu thơ, ý trùng lặp nhau, nhưng cách diễn đạt
thì thiên hình vạn trạng, chứng tỏ khả năng tưởng tượng, mức độ cảm xúc, trình
độ vận dụng ngôn ngữ và vốn từ của Mai Văn Phấn vô cùng phong phú. Từ đó, hành
trình của mỗi nhịp thơ đều là quá trình biến hóa không ngừng nghỉ: Giọt nước buồn bay lên đám mây / Nghe quả
trứng ấm nóng lăn qua cơ thể / Đôi sẻ nâu vội vàng giao hoan trong chớp mắt / …
/ Màu rạng đông chìm vào đất / Tan trong sóng lớn / Hắt vòm lá xanh / Con vành
khuyên xóa mọi dấu vết / … / Tay này, đúng tay trái / Mỏi mệt mở cổng từ sớm /
Vung nhẹ lúc phân chim rơi vô tình / Còn tay kia / Giơ lên cách đây một giờ /
Lúc mọi người biểu quyết / Có việc phải vào biên bản…
Cấu trúc từng nhịp thơ
có cái gì đó đồng điệu với nhịp thời gian, nhịp vũ trụ và nhịp tâm hồn. Tuy
nhiên loại hình “nhịp” thường xuyên xuất hiện nhất sau mỗi sự kiện lại chính là
nhịp tình yêu luôn gắn với “em”. Gương mặt “em” ít khi hiển lộ mà luôn lẩn
khuất như một ám ảnh 9 nhịp “Hình đám cỏ”. “Em” ở đây không phải là một hình
hài cụ thể, một tình cảm cụ thể mà là một ý niệm trong tư duy siêu thực xuyên
suốt hành trình thơ cho dù tác giả đôi khi miêu tả rất chi tiết về móng chân
màu cà phê, làn tóc mây hay giọng nói thánh thót. “Em” lẫn vào hành trình “Hình
đám cỏ”, vô hình, vô ảnh nhưng lại là điểm tựa cần thiết cho sáng tạo nghệ
thuật. Tư tưởng “Hình đám cỏ” là thứ tư tưởng “không tư tưởng”. Nói cách khác,
“Hình đám cỏ” phát triển trên nền cảm hứng vô thủy vô chung, lấy thiên nhiên và
tình yêu làm đối tượng miêu tả. Khung cảnh thiên nhiên cùng vạn vật trong không
gian thanh bình là động lực thúc đẩy nhịp thơ vận hành theo những vòng tuần
hoàn vũ trụ: Thân dâng / Hương thơm ngọt
/ Con chào mào em / khoét rỗng môi anh / Và vỗ cánh / Ngậm anh đi gieo hạt / …
/ Chợt tổ chim / Những cọng rơm khô / Tiếng hót treo anh lên …
“Bầu trời không mái che”
thực chất là một liên hoàn đoản thi trình bày ý tưởng thẩm mỹ của Mai Văn Phấn
về tình yêu và thế giới tự nhiên được thể nghiệm bằng chính thi pháp Mai Văn
Phấn. Thi pháp này không xa lạ mà chỉ là sự tiếp nối một cách sáng tạo truyền
thống thi ca của cha ông ta từ cả ngàn năm trước. Từ cách nhìn của tác giả,
người đọc nhận thức thêm được một điều, thiên nhiên thật hào phóng, tình yêu
thật diệu kỳ một khi con người hiểu được tiếng nói của nó bằng trái tim mình.
Đ.V.S
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn,
khác biệt và thành công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011)
(Báo Văn Nghệ, 3/2012)
___________________
Ghi chú:
1 - Cuộc trở về
tâm không trong tập "Bầu trời không mái che" của nhà thơ Mai Văn Phấn
2 - Thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cần giải thích giá
trị
3 - Cuộc trở về tâm không trong tập "Bầu trời không
mái che" của nhà thơ Mai Văn Phấn