Với tôi, phê bình thơ là quá trình tìm kiếm chính mình (Quán văn) - Khách văn: Nguyễn Thanh Tâm. Người trực quán: Hoàng Đăng Khoa
Với tôi, phê bình thơ là
quá trình tìm kiếm chính mình
Chuyên mục: Quán văn – Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 835,
12/2015
Khách văn: Nguyễn Thanh Tâm
Người
trực quán: Hoàng
Đăng Khoa
Tiến sỹ Nguyễn Thanh Tâm
Nhà thơ Hoàng Đăng Khoa
“Phê bình, với tôi là một cuộc hành trình tìm
kiếm chính mình thông qua người khác. Chỉ khi, tôi bắt gặp người khác, những
khác biệt mang giá trị, khi đó tôi mới có thể nhận ra mình trong thế giới mà
tôi bị quăng vào. Tác phẩm văn học là một manh mối, một tình huống, một hiện
tượng để những phác đồ người, những phác thảo giá trị có cơ may được hiện hữu.
Cứ như thế, lịch sử, văn hóa được trầm tích” (Tiến sỹ Nguyễn
Thanh Tâm)
- Chúc
mừng Nguyễn Thanh Tâm vì học vị tiến sĩ, và vì công trình nghiên cứu Loại
hình Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) do
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành đã ra mắt bạn đọc. Trong khi nhiều người
nghiên cứu trẻ dũng cảm hăm hở dấn thân “khai hoang” những miền đất văn chương
lạ thì anh cũng dũng cảm không kém khi trở về “thâm canh” cánh đồng Thơ mới.
Anh có thể chia sẻ về sự lựa chọn đối tượng nghiên cứu của mình?
+ Cảm ơn anh vì những lời chúc mừng tốt đẹp
và vì sự quan tâm đến công việc mà tôi đang theo đuổi. Tôi không cho rằng việc
nghiên cứu Thơ mới là hành vi “quay lại” hay “trở về”. Đơn giản vì chưa thể nói
rằng giới nghiên cứu đã đi qua Thơ mới và đó là đối tượng nghiên cứu đã hoàn
thành. Tôi nghiên cứu Thơ mới bởi bản thân nhận thấy “cánh đồng Thơ mới” còn
nhiều chỗ chưa được canh tác một cách kĩ lưỡng, nếu không nói rằng chưa có
những quan tâm thoả đáng.
- Vậy đâu là
những khoảng trống cơ bản nhất nơi bức tranh thực tiễn nghiên cứu – tiếp nhận
Thơ mới hơn tám mươi năm qua mà công trình của anh nỗ lực bổ khuyết?
+ Để
phác dựng bức tranh nghiên cứu – tiếp nhận Thơ mới trong hơn tám mươi năm qua
kể ra cũng đã là một công phu. Từ việc hình dung đó, nhận ra những “khoảng
trống” lại là câu chuyện tiếp theo nữa. Theo tôi, loại hình học nghiên cứu
những hiện tượng văn học có nét tương đồng mang tính quy luật, không phụ thuộc
vào không gian địa lí và thời gian lịch sử. Bởi vậy, khoảng trống mà tôi nhận
thấy chính là một hệ thống các quy luật chi phối việc sinh thành, phát triển
của Thơ mới, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở khu vực Đông Á. Giới khoa học có rất
nhiều công trình nghiên cứu về Thơ mới, nhưng việc “xếp chồng” các tác phẩm
trong Thơ mới để tìm một cái trục vận hành chung, từ khi nó manh nha cho đến
khi trưởng thành, trở thành một phong trào thơ ca rực rỡ bậc nhất của Việt Nam
là câu chuyện chưa được mô tả và lí giải thoả đáng. Thêm vào đó, sự kế thừa hay
phản kháng của Thơ mới với thơ trung đại, sự vang hưởng của Thơ mới đến thơ sau
Thơ mới cũng có những khoảng trống cần bổ khuyết.
- Đối tượng
chắc chắn sẽ ít nhiều trở nên khác một khi ta thay đổi góc nhìn, hướng nhìn.
Nhìn Thơ mới từ giác độ loại - hình - thơ, cái đích cơ bản nhất mà công trình
của anh hướng đến là gì?
+ Là đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi: Thế
nào là loại hình học văn học? Loại hình học văn học nghiên cứu cái gì? Thế nào
là một loại hình thơ? Thơ mới có phải là một loại hình không khi đặt trong tiến
trình vận động của thơ trữ tình Việt Nam từ khởi thuỷ đến hiện đại? Rộng hơn,
Thơ mới là một hiện tượng có tính khu vực, đặt trong bối cảnh Tân thi Đông Á
đầu thế kỷ XX.
Với công trình của mình, tôi muốn có được một
sự hình dung căn bản về loại hình học văn học với tư cách là một khoa học
nghiên cứu về các hiện tượng văn học có những tương đồng mang tính quy luật. Ở
ta, rải rác đã có những công trình giới thiệu và ứng dụng phương pháp loại
hình. Nhưng trong quan sát của tôi, lí thuyết, phương pháp này lại chưa được
giới thuyết cụ thể. Có người nghĩ rằng, tư duy loại hình làm ngưng đọng tiến
trình văn học, không phù hợp với thực tiễn vận động của văn học khi cố gắng sắp
xếp các hiện tượng văn học vào các khung ô có tính cứng nhắc. Suy nghĩ đó có
hạt nhân hợp lí. Tuy nhiên, đối với một thời kì, giai đoạn, phong trào… văn học
quá khứ, với độ lùi nhất định về thời gian, việc nhìn nhận xem cơ chế vận hành
chung của nó thiết nghĩ cũng có lí không kém. Từ suy nghĩ đó, tôi muốn đi tìm
một kiểu tư duy thơ đặc thù, có tính quy luật của toàn bộ Thơ mới. Từ việc xem
xét cấu trúc của kiểu tư duy thơ đến
việc nhận ra đặc tính của kiểu tư duy
thơ, tôi chứng minh Thơ mới là một loại hình phân biệt với các hình thái thơ
trước và sau Thơ mới. Dĩ nhiên, để làm được việc này cần thao tác “xếp chồng”
văn bản, tìm ra cái lõi xuyên suốt là kiểu
tư duy thơ, sau đó thâm nhập vào lõi đó để nhận ra cấu trúc của nó: quan
niệm về chất thơ, cách thức kiến tạo thế giới nghệ thuật, phương tiện nổi bật
để kiến tạo; từ đó nhận diện đặc tính của kiểu tư duy Thơ mới. So sánh, đối
chiếu kiểu tư duy Thơ mới với thơ trung đại và thơ sau Thơ mới là thao tác
thường trực. Cái đích mà tôi cho rằng chuyên luận vẫn chưa đi đến được, đó là
mô tả và lí giải, đánh giá quy luật của Tân thi Đông Á đầu thế kỉ XX, trong đó
có Thơ mới Việt Nam.
- Ở
trang 126 nơi cuốn sách của mình, anh viết: “Cái tôi trữ tình trong thơ là một
nhân cách mang tính đại diện. Cái tôi Thơ mới là cái tôi cá thể, cái tôi thời
chiến là cái tôi đoàn thể, còn cái tôi trong thơ đương đại là cái tôi bản thể”.
Anh có thể tường minh thêm về nhận định này, đặc biệt là khu biệt hai khái niệm
“cái tôi cá thể” và “cái tôi bản thể”?
+ Có thể hiểu ngắn gọn thế này: Cái tôi trữ
tình là một nhân vật, phát ngôn, bày tỏ thái độ, tình cảm, giọng điệu của mình
trong thơ, nó mang tính đại diện cho chủ thể sáng tạo. Thơ vẫn được xem là loại
hình mang tính chủ quan, độc thoại (M. Bakhtin), lời thơ là lời quyền uy của
tác giả… Dĩ nhiên, cái tôi trữ tình không hoàn toàn đồng nhất, trùng khít với
tác giả. Cái tôi Thơ mới là cái tôi cá
thể nghĩa là cái tôi ấy phát hiện ra chính mình, say sưa đào sâu vào mình,
mọi phát ngôn của nó hoàn toàn quy chiếu từ thế giới riêng biệt ấy. Cái tôi
trong thơ thời chiến là cái tôi đoàn thể,
bởi lẽ những phát ngôn trong thơ thời chiến đều quy chiếu trên tinh thần của cái
ta đoàn thể, của những lí tưởng, nhiệm vụ, mục đích chung, nó vẫn mang tính đại
diện nhưng lúc này là đại diện cho đoàn thể. Đến thơ đương đại, do điều kiện/hoàn
cảnh thống nhất, đổi mới, hội nhập, toàn cầu hoá gắn với những thành tựu của
khoa học công nghệ, triết học, ngôn ngữ học, vật lí học…, con người đương đại
có cơ hội tiếp cận rộng hơn, sâu hơn, đầy đủ hơn với những tri thức và giá trị
phổ quát của nhân loại. Điều căn bản nhất, con người đương đại nhận ra giá trị
nhân bản, phổ quát là quyền được sống đầy đủ với mọi hình thái của tự nhiên và
văn hoá. Cái tôi cá thể đi từ bản thân mình (thời Thơ mới) đến đoàn thể (thời
chiến) và tiếp cận được giá trị của giống loài mình - nhân loại, muôn nơi và
muôn thuở. Cái tôi bản thể chính là cái tôi đại diện của chủ thể tính trong
không gian đương đại.
- Năm 1942,
với công trình Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã chính thức “đề bia” cho 46 thi nhân mà
theo hai ông là đã làm nên diện mạo, hình thái Thơ mới, làm nên “một thời đại
trong thi ca”. Bây giờ nhìn lại, chắc hẳn anh nhận thấy không gian “bia” này
vừa thừa, vừa thiếu?
+ “Đề bia” hay “thần điện” vừa là cách nói
hình tượng, pha hài hước nhưng chỉ ra được quyền lực của Thi nhân Việt Nam. Nói thừa thì không thoả đáng với Hoài Thanh,
Hoài Chân, bởi lẽ đây là một công trình có tính hợp tuyển, tuyển như thế nào,
tuyển ai là việc của hai tác giả dựa trên những quan niệm về giá trị mà họ theo
đuổi. Tôi không nghĩ là thừa (dù trong 46 gương mặt hợp tuyển ấy có những người
mà chất lượng nghệ thuật của họ không hẳn xứng đáng với những gương mặt khác)
vì xét trên tinh thần của một hợp tuyển, thời đại Thơ mới quá lớn, sức đọc của
hai vị dù rất ghê gớm (đọc khoảng một vạn bài thơ) cũng không thể bao quát hết,
chưa nói đến những thiết chế quyền lực bên ngoài văn chương, những hiện tượng
vượt ra khỏi khả năng chiếm lĩnh của hai tác giả. Ngay trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân
cũng đã bày tỏ những giới hạn ấy. Còn thiếu, đương nhiên là thiếu. Có những thi
sĩ không được đưa vào Thi nhân Việt Nam,
ít được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu khác, thậm chí là bị lãng
quên, trong khi chất lượng nghệ thuật của họ, theo tôi, nếu công bằng, cũng
phải được xem là những cái đỉnh… Năm 1942, Thi
nhân Việt Nam ra đời, nhưng lúc ấy, trên báo chí hẳn những cái tên như Đinh
Hùng, Phạm Văn Hạnh, Hoàng Diệp, Quỳnh Giao, Nguyễn Xuân Sanh, Đông Hoài,… chắc
hẳn Hoài Thanh biết rõ. Thêm một điều nữa, Thơ mới chấm dứt vai trò trung tâm
thi đàn vào năm 1945 (cũng có thể xác định trượt qua năm 1946 với Dạ đài cho
đến trước khi Toàn quốc kháng chiến), nên những nghiên cứu về Thơ mới cũng
không thể dừng ở năm mà Thi nhân Việt Nam
ra đời.
- Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân đã trở thành một điển phạm, một chuẩn mực, không
chỉ trong/của/về phê bình Thơ mới mà còn là phê bình thơ, phê bình văn chương
nói chung. Ấy nhưng, trong thời của lí thuyết văn học hiện nay thì Thi nhân
Việt Nam không thể không bị giải điển
phạm. Đâu là những độc sáng cũng như những giới hạn cơ bản của cách thế phê
bình trực giác, ấn tượng kiểu Thi nhân Việt Nam, theo anh?
+ Việc giải huyền thoại, giải điển phạm trong
không gian thẩm mĩ, học thuật, tri thức hiện đại và hậu hiện đại là quy luật
tất yếu. Từ phương diện là một phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học, phê bình
ấn tượng có những điểm khả thủ và cả những hạn chế. Xét một cách công bằng,
phương pháp nào cũng có hai mặt như vậy. Như anh nói, điểm “độc sáng” của phê
bình ấn tượng chính là tiếp cận tác phẩm từ trực giác, hay nói như H. Bergson là
không có sự can thiệp của những “cố gắng gân thịt” (một ẩn dụ). Nắm bắt lấy cái
ấn tượng trong thoáng chốc, từ những cảm quan đi trước lí trí, trực giác tiếp
cận ngay với thế giới tinh thần, cái được xem như là bản chất của nghệ thuật. Như
là việc nhận ra quầng sáng vô hình toả ra từ đoá hoa đang sống khác với một
nhành hoa đã bị hái xuống, phê bình ấn tượng hướng đến điều cảm thấy mà không
giải thích nổi. Nhắm lại con mắt thịt và mở ra con mắt tinh thần là “khẩu
quyết” của phê bình ấn tượng để nhập vào thế giới tinh thần của đối tượng. Kiểu
phê bình này, mạnh ở những nhà phê bình có tố chất nghệ sĩ (như chính Hoài
Thanh đã thừa nhận lúc cuối đời là nhờ có Thi
nhân Việt Nam người ta mới coi ông là nhà văn - nghệ sĩ). Thế nhưng, phê
bình ấn tượng cũng tiềm ẩn nhiều hạn chế mà các phương pháp phê bình khác đã
chỉ ra và bổ khuyết. Chẳng hạn như, phê bình ấn tượng không chú ý đến cấu trúc
của văn bản, bỏ rơi tiểu sử tác giả, bỏ rơi những yếu tố lịch sử, xã hội, văn
hoá liên quan đến tác phẩm…
- Nhớ lại khi Xuân Diệu - “nhà thơ mới nhất trong những
nhà Thơ mới” - mới xuất hiện, Hoài Thanh thú nhận: “Bây giờ khó mà nói được cái
ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu đến. Người đã tới giữa chúng ta
với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người
có hình thức phương xa ấy. Nhưng rồi ta cũng quen dần vì ta thấy người cùng
ta tình đồng hương vẫn nặng”. Nghĩa là Xuân Diệu nói riêng và các nhà Thơ mới
nói chung dễ dàng hơn trong việc chinh phục người đọc, so với một bộ phận nhà
thơ “tân hình thức”, “hậu hiện đại” ngày nay. Anh có thể đưa ra cách kiến giải của
mình về câu chuyện này?
+ Thơ Việt Nam đương đại
có nhiều thể nghiệm: tân hình thức, thơ chữ cái, thơ phụ âm, thơ dòng chữ, thơ
con âm, thơ tự dạng, thơ ngoài lời… Trong những thực hành sáng tạo này, có
những thể nghiệm còn khá xa lạ với công chúng. Vậy, hãy nhắc lại lời Hoài
Thanh, dù rụt rè, không muốn làm thân, nhưng hi vọng ngày một ngày hai người
đọc hôm nay sẽ nhận ra “tình đồng hương vẫn nặng” giữa những cách tân ấy với
con người Việt Nam đương đại. Điều tôi quan tâm hơn đó là, cái xa lạ của Xuân
Diệu, cái điên của Hàn Mặc Tử, cái loạn của Chế Lan Viên, cái cuồng của Bích Khê,
cái huyễn ảo của Đinh Hùng, cái âm u sâu xa của thơ Xuân Thu nhã tập và Dạ đài
được lưu giữ, được trân trọng bởi đó là những khác biệt mang giá trị. Những
cách tân của thơ Việt Nam đương đại như vừa nói, dĩ nhiên đã tạo ra khác biệt.
Nhưng, đa phần cộng đồng tiếp nhận hôm nay còn chưa (thể) tin đó là những khác
biệt mang giá trị.
- Trước khi trình làng chuyên luận Loại hình Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945) này, anh đã cùng tác giả Ngô Hương Giang
trình làng chuyên luận Mai Văn Phấn & hành trình thơ vào cõi khác (Nxb Hội Nhà văn). Với tư cách là “nhà Thơ
mới học” và “nhà Mai Văn Phấn học” (cười), anh có thể đưa ra cái nhìn so chiếu
của mình giữa thơ Mai Văn Phấn và Thơ mới, từ đó có thể phác thảo đường đi của
thơ Việt, từ Thơ mới đến thơ đương đại (ngoài sự chuyển dịch của cái tôi như
trên đã nói), được không?
+ (Cười) Tôi không dám
nhận những danh xưng anh vừa xướng đâu. Với tôi, phê bình thơ là quá trình tìm
kiếm chính mình. Tôi xem đọc thơ, phê bình thơ như một cuộc gặp gỡ, đối thoại,
thông tri và khai mở. Qua đó tôi nhận ra mình và cũng nhận ra hiện hữu của tha
nhân. Trở lại, vấn đề anh đưa ra lớn quá, có lẽ phải tiến hành thêm một vài
chuyên luận nữa chăng? (Cười). Tuy nhiên, vẫn có thể hình dung bước đầu về sự
vang hưởng của Thơ mới đến sáng tác ở giai đoạn đầu của Mai Văn Phấn. Nhưng,
như đã trình bày trong chuyên luận Mai
Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác, thi sĩ đã nhanh chóng phủ định
chính mình, “vong thân” để tìm kiếm và kiến tạo một bản sắc nghệ thuật khác.
Gọn hơn, có thể thấy nếu Thơ mới đưa thơ trữ tình Việt Nam vào phạm trù hiện
đại thì Mai Văn Phấn đưa thơ mình tiến vào hậu hiện đại, thậm chí tôi đã hình
dung ra một cuộc hòa giải mới giữa tinh thần, tri thức hậu hiện đại với cảm
thức tâm linh, hòa ái của phương Đông trong một số sáng tác gần đây của Mai Văn
Phấn. Một vấn đề khác anh đưa ra là phác thảo đường đi của thơ Việt từ Thơ mới
đến thơ đương đại. Ngoài sự dịch chuyển của cái tôi như đã nói, các vấn đề về chủ
đề, tâm thức, tri thức, quan niệm về thơ, cấu trúc hình thức thể loại, thi pháp…
từ Thơ mới đến thơ đương đại đã có sự thay đổi. Chứng lí cho điều này có thể
dẫn ra đây thơ Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng, Dương Tường, Từ Huy, Trần
Nguyễn Anh, thơ Tân hình thức… Nếu phải hình dung về đường đi của thơ Việt từ
Thơ mới đến thơ đương đại, có thể thấy đó vẫn là một tiến trình không ngừng
nghỉ, không đứt đoạn. Có điều, trong những giai đoạn khác nhau, những không
gian lịch sử - xã hội khác nhau, loại hình nào nổi lên vị trí “mặt tiền” mà
thôi. Ví dụ, giai đoạn 1945 - 1975 ở miền Bắc là thơ cách mạng, thơ kháng chiến
chiếm vị trí trung tâm, trong khi đó, ở miền Nam, dòng chảy từ Thơ mới vẫn tiếp
tục. Sau 1975, khi đất nước thống nhất, đổi mới, trong không khí cởi mở, các
dòng thơ lại có cơ hội triển hiện, làm nên các khuynh hướng, trào lưu trong thơ
Việt đương đại mà tôi đã mô tả trong chuyên luận Mai Văn Phấn và hành trình thơ vào cõi khác.
- Trong mặt bằng nghiên cứu - phê bình nói chung và
nghiên cứu - phê bình trẻ nói riêng mà nhiều người kêu là nặng tính “hàng xén”
hiện nay thì sự xuất hiện những chuyên luận dài hơi như của anh quả là rất đáng
ghi nhận. Không gian văn học đương đại đang rất hiếm những sản phẩm nghiên cứu -
phê bình HAY, “gọi đúng tên sự thể”…
+ Với mỗi người, mỗi
phương pháp nghiên cứu - phê bình lại có cái HAY riêng. Nhưng, ngay lúc này
đây, tôi đang nghĩ, có những nghiên cứu - phê bình cái HAY rất DỞ, nhưng lại có
(và cần) những nghiên cứu - phê bình cái DỞ cho HAY. Phê bình sự phê bình mà
HAY cũng tốt. HAY là quan niệm mang tính lịch sử, gắn với cá nhân, thời đại,
dân tộc, văn hóa,…
- Đang lưu truyền một câu mang tính giễu nhại, rằng nếu như ngày trước “ra
ngõ gặp anh hùng” thì ngày nay ra đường gặp tiến sĩ. Sẽ là cực đoan khi đánh
đồng, vơ đũa cả nắm, bởi cái sự… tiến sĩ kia cũng có ba bảy đường. Tuy nhiên
không khó để nhận ra những bất cập trong đào tạo tiến sĩ ở ta hiện nay. Từ trải
nghiệm, quan sát của bản thân, anh nói gì về câu chuyện này?
+ “Tấm áo không làm nên
thầy tu”. Không riêng tiến sĩ mà cái gì cũng có ba bảy đường cả anh ạ. Theo
tôi, đừng quá nặng nề vào danh xưng và học vị Tiến sĩ, hãy xem đó là một bậc
học. Tôi quan tâm đến việc họ làm gì và hiệu quả công việc của họ đến đâu.
- Cám ơn anh đã đến với Quán văn VNQĐ!
NNC Ngô Hương Giang và NNC Nguyễn Thanh Tâm trong buổi ra mắt sách tại Villa cà
phê thứ 7 (số 3A, Ngô Quyền, Hà Nội), 21/3/2015