Vĩnh biệt Nhà thơ, Tiến sĩ Ramesh Chandra Mukhopadhyaya!
TS. Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
Thưa các bạn! Tôi vừa nhận tin buồn từ nhà thơ
Mousumi Ghosh (Ấn Độ): Tiến sĩ Ramesh Chandra
Mukhopadhyaya đã rời xa chúng ta. Ông là Nhà thơ tài năng, Người sở hữu trái
tim vàng và trí tuệ sắc sảo của một triết gia uyên bác. Tiến sĩ Ramesh đã viết
2 cuốn sách về thơ của tôi: “Giải mã hoa giấu mặt/ Decoding the Hidden Face Flower”, sách song ngữ Việt - Anh, gồm những bài bình chú tập thơ "hoa
giấu mặt" của tôi, NXB Hội Nhà văn, 2015. Và, "Tĩnh lặng/ Silence", sách in ba ngôn ngữ Việt, Anh và Pháp ngữ, gồm những bài bình
chú bài thơ liên khúc cùng tiêu đề "Tĩnh lặng" của tôi, NXB Hội
Nhà văn, 2018. (Các bạn có thể đọc 2 cuốn sách theo đường link được đánh dấu
chữ đỏ trên đây!).
Tiến sĩ Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya sinh ngày
11/02/1947. Ông có ba bằng thạc sĩ (ngành tiếng Anh cổ điển, tiếng Anh hiện đại
và Lịch sử hiện đại), bằng thạc sĩ ngành Văn học so sánh, bằng tiến sĩ ngành Văn học kinh điển
Pali, cùng với Bằng y học về phép chữa vi lượng đồng căn. Ông đã xuất
bản những cuốn sách thuộc nhiều lĩnh vực học thuật bao gồm tôn giáo, xã hội
học, văn học, kinh tế, chính trị v.v...
Sự ra đi của Ông là mất mát to lớn trong thế
giới hiện đại chúng ta. Xin cầu nguyện để linh hồn Ông sớm được bình yên trong
vòng tay Thượng Đế. Tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới gia đình Ông cùng bạn
bè thân thiết yêu tin Ông!
Nay tôi đăng lại bài bình
chú số 42, rút từ cuốn sách "Tĩnh lặng" của Ramesh Chandra Mukhopadhyaya như nén tâm hương tưởng nhớ Ông. Dịch giả Takya Đỗ
dịch từ bản tiếng Anh sang tiếng Việt. Nhà thơ, Nghệ sĩ nghệ thuật thị giác
đương đại Dominique de Miscault dịch từ bản tiếng Anh sang tiếng Pháp.
Mai Văn Phấn
Silence
42.
I sit under the cloak of Light
At the very bottom
When He walks
His cloak touches me
Sometimes from above
Sometimes from below
I am dyed with light when waking up
But when sleeping
I leave it up to dreams
There are dreams
Where you cannot find darkness.
Explication
If Mai Văn Phấn is deemed as a
representative poet of Vietnam, an Indian like the present author feels
that the poet is a kind of an Indian. His poems probe into the unplumbed depth
of the mind and show us the way to peace and liberation, through the cultivation of the mind and the control of the extrovert
senses, the seer poet’s poems’ read like the
aphorisms of Indian yoga philosophy. This is what happens with great poets. No
matter whether they are from Vietnam or France, an Indian would claim that
he is an Indian and a reader from Bulgaria might claim that he is a kind of a
Bulgarian. This is not a dull encomium. The Upanishad one of the Hindu
scriptures opens with the verse:
Isaavaasyam idam sarvam
Yat kincha jagatyaam jagat
The verse points out that God covers everything
that exists in this transitory world. Everything in this restless and
transitory world is the abode of God. The poet Mai Văn Phấn from Vietnam proves
that the Upanishad did not make any passing comment. Verifiability is often the
criteria of truth. What Upanishad says could be verified by the experience of
the poet Mai Văn Phấn:
I sit under the cloak of Light
At the very bottom
What is a cloak but a sleeveless over garment that
protects the body? According to the Upanishads, God functions as the
cloak that protects this transitory world. And God is light. Mai Văn
Phấn’s first-hand experience testifies the truth of the Upanishads. He sits
under a cloak of light. He sits at its bottom. In Mai Văn Phấn’s perception,
the cloak of light is the indicator of God. We cannot
see God. But we might espy His cloak of light. This is not all.
The poet can feel the touch of the cloak from below and above. So the
whole existence is wrapped in a cloak of light which is God’s. Besides the poet
enhances the power of touch in the readers. And since the cloak of God now and
then touches the poet from above and below, although the poet does not see God,
he can feel the touch of the robes of God. Our culture gives more weight to
the perception of the eye, but touch
is as real a sensation as sight. When the God’s robes made of light, touch
the poet, the poet feels that panentheism is the truth and not pantheism.
Because if God and the creation were one the movement of God separately from
that of the universe could not be felt. The poet has made the sensation of
touch perceivable in the reader’s ken. And with us God becomes real. We
become tongue-tied. Sights and sounds cannot transport us to such realm of
mystic perception. When the poet wakes up, he is dyed with light, but when
he sleeps his self-consciousness is abandoned. He gives himself up to the
freaks of the subconscious mind. He is plunged into dreams. The poet takes the
readers in confidence and tells them - There are dreams
Where you cannot find darkness.
Commonly light is at the center of darkness and
darkness is at the center of darkness. If there were no darkness, there would
be no light. If there were no light, there would be no darkness. So neither
light is the truth nor darkness is the truth, neither not light is the truth,
nor not darkness is the truth, neither not not-light is the truth nor not not-darkness
is the truth. This is postmodernism and Derrida. But our poet refers to a light
that was never on sea or land. The poet experiences a light that is beyond
the light and darkness of the contingent world. This might remind us of the
Tibetans’ dream yoga. Accordingly, the light which the poet experiences is the
pure light of awareness. It is the luminous fundamental nature which is the
absolute reality. The light of awareness in the dream is unpolluted by any
karmic traces. Since there are no karmic traces, the dream cannot have any
content. Consequently, the dream also does not exist. The dreamer also does not
exist. The light alone exists. The light that was never on sea or land.
Tĩnh lặng
42.
Tôi ngồi dưới vạt áo Ánh
sáng
Nơi tận cùng
Người bước đi
Vạt áo chạm tôi
Lúc trên cao
Lúc thấp
Tôi nhuộm sáng khi tỉnh
thức
Còn khi ngủ
Phó mặc giấc mơ
Có giấc mơ
Không tìm thấy bóng tối.
Bình chú
Nếu Mai Văn Phấn được coi là nhà thơ đại diện cho Việt Nam, thì một người Ấn Độ như
tác giả bài viết này lại có cảm giác nhà thơ thân thuộc như một người Ấn Độ.
Thơ của ông, những bài thơ dò vào những tầng sâu thẳm của tâm thức và chỉ cho
ta con đường đến với thanh tịnh và giải thoát bằng cách dưỡng tâm và chế ngự những
cảm giác hướng ngoại, đọc lên khác nào những câu cách ngôn trong triết lý thiền
của Ấn Độ. Đó là điều thường xảy ra với các nhà thơ lớn. Cho dù họ là người
Việt Nam hay người Pháp, thì một người Ấn Độ vẫn quả quyết rằng họ là người Ấn
Độ, và một độc giả Bulgaria cũng có thể khẳng định rằng họ là người Bulgaria.
Đây chẳng phải là lời tán dương sáo rỗng. Kinh Isopanisad, một trong những kinh sách của Ấn Độ giáo, mở đầu bằng
câu thơ:
Isaavaasyam idam sarvam
Yat kincha jagatyaam
jagat
Câu thơ trên chỉ ra rằng Thượng Đế bao trùm vạn vật
tồn tại trong cõi tạm này. Vạn vật trong cái cõi tạm không ngừng biến động này
đều là nơi ngụ của Thượng Đế. Nhà thơ Việt Nam Mai Văn Phấn chứng thực rằng Áo
Nghĩa Thư đã chẳng đưa ra một lời dẫn giải tùy tiện. Tính chất có thể kiểm
chứng được thường là tiêu chí của sự thật. Điều mà Isopanisad đề cập có thể
kiểm chứng được qua trải nghiệm của nhà thơ Mai Văn Phấn. Ông nói:
Tôi ngồi dưới vạt áo Ánh sáng
Nơi tận cùng
Chiếc áo choàng chẳng phải là chiếc áo không tay
khoác ngoài để bảo vệ thân thể đó sao? Theo Áo Nghĩa Thư
thì Thượng Đế giống như một chiếc áo choàng bảo vệ cái cõi tạm này. Và Thượng
Đế là ánh sáng. Trải nghiệm cá nhân của Mai Văn Phấn chứng thực cho tính chân
xác của Áo Nghĩa Thư. Ông ngồi dưới vạt áo ánh sáng. Ông ngồi ở nơi tận cùng
của nó. Chiếc áo choàng ánh sáng đó trong tri giác của Mai Văn Phấn chính là
dấu hiệu của Thượng Đế.
Chúng ta chẳng thể nhìn thấy Thượng Đế, nhưng chúng
ta có thể nhận thấy chiếc áo choàng ánh sáng của Ngài. Đó chưa phải là tất cả.
Nhà thơ có thể cảm thấy được vạt áo choàng đó chạm vào mình lúc trên cao lúc
thấp. Như vậy hiện tồn được gói trọn vào chiếc áo choàng ánh sáng, là chiếc áo
choàng của Thượng Đế. Hơn nữa nhà thơ còn làm nổi bật sức mạnh quyền năng của
sự động chạm đó trong lòng độc giả. Và bởi chiếc áo choàng của Thượng Đế chạm
vào nhà thơ lúc trên cao lúc dưới thấp, nên dẫu ông không tận mắt thấy Ngài,
ông vẫn có thể cảm thấy vạt áo choàng của Ngài chạm vào mình. Nền văn hóa của
chúng ta coi trọng việc tận mắt nhìn thấy hơn. Nhưng sự động chạm cũng là một
cảm giác thực chẳng khác nào mắt nhìn. Khi vạt áo choàng làm bằng ánh sáng của
Thượng Đế chạm vào nhà thơ, nhà thơ cảm nhận rằng thuyết thần tồn tại nơi vạn
vật (panentheism) mới là
chân lý chứ chẳng phải thuyết phiếm thần (pantheism). Bởi
chưng nếu Thượng Đế và tạo vật là một thì chuyển động của Thượng Đế tách biệt
khỏi chuyển động của vũ trụ sẽ chẳng thể cảm nhận được. Nhà thơ đã khiến cái
cảm giác về sự động chạm đó trở nên sắc nét với độc giả. Và với chúng ta Thượng
Đế thành hữu thực. Chúng ta sững sờ không nói nên lời. Cảnh tượng và âm thanh
không thể đưa chúng ta đến cái lãnh địa tri giác uyên áo như thế. Khi nhà thơ
tỉnh thức, ông nhuộm ánh sáng. Nhưng khi ông ngủ, ý thức về tự ngã của ông được
buông xả. Ông phó mặc cho những điều kỳ dị trong tiềm thức. Ông chìm vào những
giấc mơ. Nhà thơ thổ lộ bí mật với độc giả và nói với họ rằng
Có những giấc mơ
Không tìm thấy bóng tối.
Thường là ánh sáng ở giữa lòng bóng tối và bóng tối
ở giữa lòng ánh sáng. Nếu không có bóng tối sẽ không có ánh sáng. Nếu không có
ánh sáng cũng sẽ không có bóng tối. Thế nên ánh sáng cũng chẳng hữu thực mà bóng
tối cũng chẳng hữu thực, không ánh sáng cũng chẳng hữu thực mà không bóng tối
cũng chẳng hữu thực, sắc sắc không không. Đó là chủ nghĩa Hậu hiện đại và
Derrida.
Nhưng nhà thơ của chúng ta đề cập đến thứ ánh sáng
chẳng bao giờ có trên biển cũng không có ở đất liền. Nhà thơ trải nghiệm thứ
ánh sáng vượt ra ngoài ánh sáng và bóng tối của thế giới ngẫu nhiên. Điều này
gợi chúng ta nhớ đến phương pháp thiền trong trạng thái mơ ngủ của
người Tây Tạng. Theo phương pháp này, ánh sáng mà nhà thơ trải nghiệm là ánh
sáng tinh khiết của nhận thức. Đó là căn tính tỏa sáng, căn tính ấy là thực tại
tuyệt đối. Ánh sáng của nhận thức trong giấc mơ đó không bợn chút nghiệp (karma) nào. Vì không bợn chút nghiệp
nào, nên giấc mơ không thể chứa đựng bất kỳ nội dung nào cả. Vậy nên giấc mơ đó
cũng không tồn tại. Người đang mơ cũng không tồn tại. Chỉ duy ánh sáng là tồn
tại. Thứ ánh sáng chẳng bao giờ ở biển hay ở đất liền.
Silence
42.
Je suis assis
sous un manteau de Lumière
tout en bas
Il marche
son manteau me
frôle
de la tête
aux pieds
Je suis lumière
au réveil
abandonnant
l’espace aux
rêves
Rêves
sans nuit.
Explication
Si Mai Văn Phấn est considéré comme
un poète représentatif du Vietnam, un Indien comme moi estime que nous sommes
de la même famille. Ses poèmes sondent la profondeur de l'esprit et nous
indiquent les chemins de la paix, de la libération par la culture et le
contrôle des sens extravertis, lus comme des aphorismes de la philosophie du
yoga indien. Quoi de plus normal chez les grands poètes. Peu importe qu'ils
viennent du Vietnam ou de France, un Indien dirait simplement qu'il est Indien
et un Bulgare qu'il est Bulgare. Il n'est pas et ne sera jamais un abominable
ennemi. Isha Upanishad,
l'un des écrits hindous, s'ouvre avec le verset :
Isaavaasyam
idam sarvam
Yat kincha
jagatyaam jagat
Le verset introduit un Dieu qui
couvre tout ce qui existe dans ce monde. Tout dans ce monde agité et éphémère
est demeure de Dieu. Le poète vietnamien Mai Văn Phấn prouve que l'Isha Upanishad n'a pas besoin de
commentaire. La vérification est souvent un critère de la vérité. Ce que Isha Upanishad dit est vérifié par
l'expérience du poète Mai Văn Phấn :
Je
suis assis sous un manteau de Lumière
tout en bas
Qu'est-ce qu'un manteau ? un
vêtement qui protège le corps. Selon les divinités des Upanisads, Dieu comme le
manteau protège ce monde. Dieu est léger. L'expérience de Mai Văn Phấn témoigne
de la vérité des Upanisads. Il est assis sous un manteau de lumière, tout au
fond. La perception de Mai Văn Phấn indique que le manteau de lumière est Dieu.
Nous ne voyons pas Dieu. Mais nous pouvons désirer son manteau de lumière. Ce
n'est pas tout. Le poète peut ressentir et toucher le manteau de bas en haut.
Ainsi, toute l'existence est enveloppée dans un manteau de lumière qui est
Dieu. Ici, le poète intensifie le pouvoir du toucher chez les lecteurs. Et
puisque le manteau de Dieu, de temps en temps frôle le poète du haut jusqu’en
bas, bien que le poète ne puisse pas voir Dieu directement, il peut néanmoins
ressentir et toucher les chasubles de
Dieu. Notre culture donne du poids à la perception par l'œil. Mais le toucher
est une sensation aussi réelle que la vue. Lorsque les vêtements de Dieu sont
lumière, ils frôlent le poète et le poète sent que le panenthéisme
est Vérité et non le panthéisme. Parce que si Dieu et la création sont un, le
mouvement de Dieu séparé de celui de l'univers ne pourrait être ressenti. Le
poète a rendu le touché aux lecteurs enthousiastes. Dieu est vivant. Nous nous
languissons de lui. Les spectacles de la vue et les sons ne peuvent pas nous
transporter dans cette dimension mystique. Quand le poète se réveille, il est
ceint de lumière, mais quand il dort, sa conscience l’abandonne. Il se remet
aux mystères de l'inconscient, plongé dans ses rêves. Le poète avertit les
lecteurs confiants et leurs dit :
Rêves
sans nuit.
La lumière est au centre de
l'obscurité et l'obscurité est au centre de l'obscurité. S'il n'y avait pas
d'obscurité, il n'y aurait pas de lumière. S'il n'y avait pas de lumière, il
n'y aurait pas d'obscurité. Mais, la lumière n'est pas la vérité, et
l'obscurité n’est pas la vérité non plus, ni la lumière n'est la vérité ni
l'obscurité vérité, et non la lumière n'est pas la vérité, et les ténèbres non
plus, c'est la Vérité … C'est le post-modernisme et Derrida. Mais notre poète
se réfère à une lumière qui n'a jamais été sur la mer ou la terre. Le poète éprouve
une lumière qui dépasse la lumière et l'obscurité du monde contingent. Cela
pourrait nous rappeler le yoga des rêves des Tibétains. La lumière que le poète
éprouve est la lumière de la pure conscience. C'est la nature fondamentale
lumineuse qui est réalité absolue. La lumière de la conscience dans le rêve
n'est pas polluée par les traces karmiques. Comme il n'y a pas de traits
karmiques, le rêve ne contient aucun contenu. Par conséquent, le rêve n'existe
pas. Le rêveur n'existe pas non plus. La lumière seule existe. Une lumière qui
n'a jamais existé sur la mer ou la terre.
_____________________________
Xem
chú thích ở bài 7. (BT)
Panentheism
còn được gọi là ‘thuyết vạn hữu
tại thần’ hoặc ‘thuyết bán phiếm thần’;
thuyết này cho rằng Thượng Đế bao trùm và thâm nhập khắp mọi vật trong vũ trụ
và vượt ra khỏi thời gian và không gian. Thuật ngữ panentheism được triết gia Đức Karl Krause
đặt ra năm 1828. (Theo Wikipedia tiếng
Anh và Wikipedia tiếng Việt.)
(ND)
Xem chú thích ở Lời tựa. (BT)
Nguyên văn “dream
yoga”, phương pháp thiền này được ghi lại từ ít nhất 1000 năm trước, khởi
thủy mục đích của nó là đánh thức ý thức trong trạng thái mơ ngủ, nó được dạy trong
trạng thái xuất thần trung gian (bardo) giữa giấc mơ và giấc ngủ. Trong truyền thống Tantra của Kim Cương
thừa, phương pháp thiền này thường được truyền từ thày sang trò sau một thời
gian khai tâm cần thiết. Phương pháp này được coi là truyền kinh nghiệm giác
ngộ hơn là truyền kiến thức trong kinh văn, và buộc học trò phải phát triển
nhận thức tự ngã đủ để đạt đến tuệ giác trong giấc ngủ. (Theo Dream
Yoga: Lucid Dreaming in Tibetan Buddhism của Rebecca Turner và Wikipedia
tiếng Anh) (ND)
Isha Upanishad Upaniṣad du
Seigneur est l'une des plus courtes des upanisad majeures ou principales,
composée de 18 versets au total. Ce texte court associé au Shukla Yajur Veda ou
blanc qui aborde certains aspects
relatifs à la philosophie, la religion, le rituel et la métaphysique.
Le panenthéisme
est un système de croyance qui postule que le divin existe et interpénètre
toutes les parties de la nature, mais que, dans le même temps, il se déploie
au-delà d'elle. On distingue le panenthéisme du panthéisme qui tient que le
divin est tout entier dans l'univers, sans lui être ni extérieur, ni supérieur.
Dans le panenthéisme, l'univers et le divin ne sont pas ontologiquement
équivalents. Dieu n'est pas considéré comme le créateur ou le démiurge, mais
plutôt comme la force éternelle qui anime l'univers, celui-ci n'étant rien
d'autre que la partie manifeste de Dieu. L'univers existe à l'intérieur même de
Dieu qui, à son tour, est diffusé en chaque partie du cosmos ou se trouve en
lui. Tandis que le panthéisme affirme que "Tout est Dieu" et que Dieu
possède la même portée ou les mêmes limites spatiales ou séquentielles que le
cosmos, le panenthéisme va plus loin en déclarant que Dieu est plus grand que
l'univers et que ce dernier est contenu en Lui, comme dans le concept de
Tsimtsoum. Dieu est à la fois l'influence suprême qui agit sur l'univers, tout
en étant le résultat de celui-ci. Une bonne partie de la pensée hindoue est une
expression de panenthéisme et de panthéisme.