Đọc bài thơ "Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc" (bình thơ) Nguyễn Nguyên Tản
Đọc bài
thơ "Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc"
của Mai Văn Phấn
Nguyễn
Nguyên Tản
MƯỜI
NÉN NHANG Ở NGÃ BA ĐỒNG LỘC
Tháng ngày gương lược về
đâu
Chân trời để xõa một màu
cỏ non
Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn
trong cây
Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay
trắng trời
Người ơi, tôi lại gặp
người
Hơi bom vẫn thổi rụng rời
cát khô
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về
nguồn.
(Mai
Văn Phấn. In trong tập thơ "Cầu nguyện ban mai", NXB Hải Phòng, 1997)
Lời bình của Nguyễn Nguyên
Tản:
Mai Văn Phấn, hội viên Hội
Nhà văn Việt Nam, là nhà thơ nổi tiếng thành phố Hoa phượng đỏ và cả nước. Anh
được coi như một trong những đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng đổi mới thi ca
Việt sau năm 1975. Đổi mới nhưng không tách rời truyền thống nên thơ anh có
nhiều đột phá mà vẫn gần gũi với mọi người. Bài thơ “Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc” của anh được trao giải Nhất cuộc thi thơ do Báo Văn nghệ tổ chức năm
1995.
Hồi 16h ngày
24/7/1968, ở ngã ba Đồng Lộc, loạt bom Mỹ đã cướp đi sinh mạng của mười
nữ chiến sĩ thanh niên xung phong tuổi từ 17 đến 24, vùi lấp họ trong lòng đất
trong khi đang san lấp hố bom, mở đường đưa xe ta ra trận. Sau đó, mộ các cô
được mai táng, xây cất trên một quả đồi cạnh ngã ba Đồng Lộc. Bao năm qua, hàng
triệu lượt người đã tới đây viếng thăm, thắp hương tưởng niệm những linh hồn
con người hiến dâng sự sống đang độ thanh xuân cho đất nước. Mai Văn Phấn thể
hiện thành công niềm xúc động, xót xa, tự hào khi đến viếng nơi này bằng bài
thơ gồm năm cặp câu lục bát (10 dòng) mang âm hưởng lời ru, chắt lọc những hình
ảnh vừa cụ thể vừa khái quát. Tên bài thơ “Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”,
là một hình ảnh tượng trưng. Cho mười ngôi mộ ôm ấp hình hài mười người con gái
trong lòng đất mẹ. Cho lòng xót thương tưởng vọng của người trên dương thế đối
với người đã khuất.
Theo tâm lý thông thường,
khi nhớ thương một người thân yêu đã qua đời, ta thường tưởng tượng ra dáng
hình, cử chỉ, giọng nói, tiếng cười, đường ăn, nết ở… và nâng niu những kỷ vật
đã từng gắn bó với người ấy. Ông vua hay chữ Tự Đức có câu thơ vào hàng tuyệt
bút khi diễn tả nét tâm lý này: “Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng/ Xếp tàn y lại,
để dành hơi” (Đập gương cũ ra tìm lấy bóng / Xếp manh áo cũ lại để dành hơi
người xưa).
Mở
đầu bài thơ, Mai Văn Phấn không trực tiếp nói đến nỗi nhớ thương mười cô gái đã
hy sinh mà gợi ra một số hình ảnh sự vật từng gắn bó khăng khít với họ khi còn
sống: gương lược, trái bồ kết gội đầu, chiếc khăn tự thêu. Tất cả những hiện
vật có thể gợi thương gợi nhớ ấy, giờ đây, theo thời gian và cái chết đã biến
hình chuyển dạng. Hai chữ “về đâu” nghe xa vắng như câu hỏi vào vô định. Cái
tài của nhà thơ là đã diễn tả sự biến hình, chuyển hóa những sự vật bình
thường, mộc mạc thành sự vật đẹp tươi sáng rỡ gấp bội phần, phản ánh cái nhìn
và suy tưởng tích cực, lạc quan:
Tháng ngày gương lược về
đâu
Chân trời để xõa một màu
cỏ non
Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn
trong cây
Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay
trắng trời
Từ ngữ, hình ảnh và giọng
điệu thơ nghẹn ngào qua những hình ảnh bi thương khi sự sống đã chấm dứt: mái
tóc các cô bấy nay không được chải, bồ kết gội đầu không dùng nữa, khăn thêu in
dấu tay gầy guộc... Tuy nhiên, theo nhà thơ, những gì thuộc về các cô không bị
chôn vùi theo thời gian mà vẫn hàng ngày hiện hữu vì đã hóa thân vào thiên nhiên
đất nước: Chân trời xõa một màu cỏ non tơ, chùm bồ kết khô giòn trong cây, áng
mây bay trắng trời. Những hình ảnh thiên nhiên đẹp, gần gũi được nâng lên thành
biểu tượng cho sự vững bền, bất diệt. Như vậy, các cô đâu có mất, trái lại vẫn
sống mãi giữa cuộc đời này. Thơ về anh hùng liệt sĩ thường có chung cách cảm
nhận ấy. Như hình ảnh anh giải phóng quân với tư thế hy sinh anh dũng, hiên
ngang đã trở thành biểu trưng một Tổ quốc sừng sững cao vời:
“Từ dáng đứng của anh trên
đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân”
(Dáng đứng Việt Nam - Lê
Anh Xuân),
hay
“Ngọn núi nơi anh ngã
xuống
Rực cháy lên màu hoa đỏ
trước hoàng hôn”
(Màu hoa đỏ - Nguyễn Đức
Mậu).
Cách cảm nhận và diễn tả
khiến cho mất mát đau thương trở thành bi hùng, tráng lệ.
Sáu
dòng thơ trên của Mai Văn Phấn làm rung động lòng ta bởi sự kết hợp tài tình,
như song trùng giữa những hình ảnh cụ thể với hình ảnh có tính chất tượng
trưng, sản phẩm của trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú và bay bổng. Bốn dòng
thơ còn lại trực tiếp diễn tả cảm xúc, nỗi niềm tác giả khi nghiêng mình trước
mười ngôi mộ:
Người ơi, tôi lại gặp
người
Hơi bom vẫn thổi rụng rời
cát khô
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về
nguồn.
Dường như đây không chỉ là
cuộc viếng mộ mà còn là một cuộc gặp gỡ giữa con người, vượt qua ngăn cách âm
dương. Tiếng gọi “Người ơi!” sao mà mến thương dịu ngọt. Quá khứ đau thương đã
hiện hữu trong tưởng tượng của người đang sống, vượt qua giới hạn thời gian,
như vừa mới hôm qua: “Hơi bom vẫn thổi rụng rời cát khô”. Phép nhân hóa “rụng
rời cát khô” làm tăng tính khốc liệt của chiến trường năm ấy.
Ngay sau đó là một hình
ảnh nhân hóa kết hợp với hoán dụ: Tưởng như nén nhang cũng có linh hồn, “quặn
nỗi đau xưa”. Trước sự hi sinh cao cả của các cô, trong lòng thi nhân trộn hòa
hai cảm xúc chủ đạo: xót xa, quặn thắt và cảm phục, biết ơn. Nhà thơ tự ví mình
như “cơn mưa về nguồn” mang hàm ý: Đến viếng mộ mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc,
đối với nhà thơ chẳng khác chi chuyến trở về nguồn cội. Cội nguồn tình yêu đất
nước nồng thắm mà bao thế hệ người Việt Nam đã vun đắp lên bằng máu xương mình.
Mười nén nhang trở thành cầu nối tâm linh giữa người đang sống và những người
đã mất, trong đó nét đẹp của sự hi sinh cao cả đã tiếp thêm tình yêu và sức
mạnh cho người đang sống. Núi sông càng linh thiêng gấp bội vì có bao nhiêu con
người đã hóa thân vào trong đó, đúng như câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong trường
ca “Đất nước”:
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn
năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Sự kết hợp hai phương diện
cảm xúc và suy tư, giữa cụ thể và khái quát trong hình tượng một cách nhuần
nhuyễn và sáng tạo… đã làm nên thành công của bài thơ với đề tài quen thuộc,
đúng như yêu cầu và mong ước mà chính tác giả đã tuyên ngôn: “Tầm vóc của thi
sĩ chính là khả năng khái quát, biến những hình ảnh quen thuộc thành biểu tượng
thi ca” (Mai Văn Phấn - Mấy suy nghĩ về thơ hay - Văn nghệ trẻ số 13, 2004).
(Nguồn: Báo Hưng Yên, 18/7/2024)
Cây bồ kết