II. Tường trình về khủng hoảng thơ
Việt Nam đương đại
Khủng hoảng được hiểu như là trạng thái bất ổn, dị thường
tích tụ kéo dài của một mẫu hình trong cộng đồng(1). Theo đó, tường trình về
khủng hoảng thơ Việt Nam đương đại là việc nêu lên những bất ổn, dị thường của
đời sống thi ca, từ đó nhận diện nền tảng, tiền đề để nói đến những động thái
cách tân trong thơ - cụ thể là trường hợp Mai Văn Phấn.
Những hệ giá trị đã trở
thành điển phạm, thành “huyền thoại” (R. Barthes), “mẫu hình” (T. S. Kuhn) kéo
dài sự sống của nó trong nhiều thực hành thơ đương đại. Như cách diễn đạt của
T.S. Kuhn về cơ chế tồn tại của khoa học chuẩn định, các thi sĩ đang lo vun đắp
cho hệ giá trị này và không còn nghĩ đến việc tìm kiếm những giá trị mới, những
chân trời mới. Thậm chí, họ còn tỏ ra khó chịu hay
không chấp nhận những kiếm tìm mới từ người khác - “Họ không coi các dị thường
đó là những phản nghiệm, mặc dù bản chất của nó là đúng như vậy”(2). Sự dai
dẳng đó ẩn chứa nguy cơ khủng hoảng. Về bản chất, hệ giá trị có tính “chuẩn định”
đã làm mất đi hoặc cố tình che giấu, bỏ qua cái mới, đẩy nó vào các nguy cơ
tiêu vong. Tuy vậy, từ góc độ triết học khoa học, khi bàn đến mỹ học của “cái
khác”, không có cơ hội cho việc loại bỏ những dai dẳng này. Bởi nó có quyền tồn
tại bình đẳng trước hết như một lựa chọn, một diễn ngôn của con người trong ý
thức hiện diện của họ. Vấn đề làm nảy sinh khủng hoảng chính là việc khi các hệ
giá trị có tính chuẩn mực này rơi vào sự bế tắc, mất dần nghĩa lý trong sự vận
hành của đời sống và nghệ thuật. Khi không còn nghĩa lý về mặt loại hình, sự
tồn tại của các hiện tượng này vẫn được đảm
bảo nhưng rõ ràng nó không mang giá trị thơ ca, chỉ còn là một hiện tượng có
tính xã hội.
Những gì diễn ra trong
môi trường thơ Việt Nam đương đại đang cho thấy nhiều bất ổn. Sự bất ổn đến từ
việc có quá nhiều người làm thơ, mà lại ít thi sĩ, có quá nhiều văn bản (thơ) mà lại ít tác phẩm thơ. Đó
là một cuộc khủng hoảng về lượng và chất. Cái nhiều không cứu vãn cho một nền
thơ èo uột và thiếu sinh lực. Một điều đáng buồn là trên giá sách của Thư viện
quốc gia Việt Nam, nơi tất cả các tác phẩm thơ xuất bản phải nộp lưu chiểu, số
lượng rất nhiều mà những tập thơ đọc được (theo cảm quan, khả năng của chúng
tôi) không nhiều. Điều đó phản vấn về niềm lạc quan “trăm hoa đua nở, trăm nhà
đua tiếng” của thơ Việt đương đại. Trong thực tế, ở Việt Nam, thơ đang thực sự
lâm vào tình cảnh bế tắc, mặc dù sáng tác, thể nghiệm rất nhiều. Những sáng tác
theo khuynh hướng bảo lưu các giá trị truyền thống dần rơi vào cũ mòn và mất
khả năng đánh thức cảm xúc, tinh thần con người đương đại. Khuynh hướng cách
tân với dòng chữ, tân hình thức, thơ văn xuôi, thơ tịnh tiến, thơ Mở Miệng,…
cho thấy những dồn đuổi của ý thức thoát ra khỏi sự khủng hoảng cũ mòn của thơ
truyền thống. Đó là những phản nghiệm, đúng như Kuhn đã nhấn mạnh. Nhưng, lại
cũng cần phải nói rằng, những phản nghiệm này đã thực sự mang đến giá trị mỹ
học cho Thơ Việt, kháng cự tình trạng tha hoá, cũ kỹ của những hiện diện giả
danh truyền thống hay chưa? Có những thể nghiệm thuộc về cá nhân, có những thể
nghiệm của một nhóm người cùng quan điểm,… nhưng, trước hết, họ cố gắng thay
đổi một quan niệm về thơ, đổi mới tư duy thơ, phá vỡ các khuôn khổ của thể
loại, kiến tạo thi ảnh, thi giới cùng các phương thức, phương tiện chuyển đạt mới. Ý nghĩa của khủng hoảng là
“ở chỗ nó chỉ ra rằng đã đến lúc phải trang bị lại công cụ”(3). Sự trang bị này
không phải là thay một lớp áo mới khoác lên cái cũ, mà là tất cả mọi thứ công
cụ hiểu như là tư duy, cách thức, con đường, phương tiện để kiến tạo một “mẫu
hình” mới.
Những thể nghiệm thuộc
về người viết, nhưng, đưa những thể nghiệm đó trở thành tác phẩm, xác lập đời
sống của văn bản trong môi trường thi ca, mỹ học của thời đại lại là câu chuyện
của công chúng. Từ góc độ tiếp nhận, có thể thấy, thơ Việt cũng đang lâm vào
một cuộc khủng hoảng. Có một thực tế là công chúng tỏ ra bối rối trước các hiện
tượng cách tân trong thơ Việt. Đồng thời, sự bối rối hay im lặng của người đọc
tinh anh - các nhà phê bình, càng khiến cho “hố giao tiếp” ngày một loang rộng(4).
Nếu không tìm được sự tiếp nhận, đồng nghĩa với việc sản phẩm ngôn từ (văn bản)
cách tân rơi vào bi kịch không thành tác phẩm(5), không có đời sống. Có thể xem
đó là bi kịch giữa sáng tác và tiếp nhận, mà chúng tôi gọi một cách hình ảnh
theo Vigni là “bi kịch vỏ chai bị quăng xuống biển”. Sự im lặng, thờ ơ và quay
lưng của công chúng là nỗi sợ hãi báo trước cái chết(6).
Thực trạng bi kịch thừa
và thiếu, giữa chất và lượng của thơ Việt có nguồn gốc từ sự bất ổn trong tư
tưởng. Nói gọn hơn, thơ Việt Nam đương đại đang đối mặt với cuộc khủng hoảng về
tư tưởng. Ở đây có thể nhận thấy những khía cạnh thuộc về tư tưởng nghệ thuật,
mỹ học, hệ giá trị của nền thơ và các nhà thơ đương đại. Đó là nguyên nhân của
những biểu hiện trì trệ, cũ kỹ trong các sáng tác mang hơi hướng truyền thống,
là nguồn cơn của những cách tân, nỗ lực đổi mới, thể nghiệm. Tư tưởng của thời
đại nổi lên là sự bất tín, hoài nghi các giá trị. Các nhà thơ của khuynh hướng
bảo lưu các giá trị truyền thống, người đọc của khuynh hướng này hoài nghi những
cách tân, thể nghiệm mới. Những thi sĩ cách tân và người đọc theo khuynh hướng
cách tân cũng bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với hình thái thơ ca cũ. Giới khoa
học phân vân(7), những phê bình gia danh tiếng và tinh anh lại im lặng (cũng
bởi họ chưa tin vào chính tri kiến của họ về hiện tình thơ ca) càng làm tình
thế thêm bối rối (điều này còn dẫn đến tình trạng các nhà thơ, nhà văn “xắn
tay” viết phê bình cho nhau, cho khuynh hướng, động thái nghệ thuật của họ - họ
dường như cũng không tin giới phê bình). Điều đáng lo ngại hơn là những tiếng
nói phê bình lại đôi khi chưa sòng phẳng, bắt nguồn từ sự giao đãi hay thù tạc.
Thơ là hàng hoá trong
nền kinh tế thị trường nên bản chất phải tuân thủ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Tuy nhiên, như A.Viala thừa nhận, lợi nhuận của thơ rất ít, thị trường
rất hẹp do công chúng của thơ chủ yếu là người trong giới(8). Điều đó dẫn đến
việc kinh doanh thơ mang đầy rủi ro.
Bên cạnh số ít những tác
phẩm thơ thực sự có chất lượng, phần lớn thơ chưa hay, chưa đáp ứng được thị
hiếu của công chúng. Hơn 90% số lượng thơ xuất bản hiện nay là một thứ “nộm thơ
nhạt nhẽo” (Nguyễn Thanh Sơn). Số còn lại thật ít ỏi, nhưng nguy hiểm ở chỗ,
công chúng lại rất khó khăn để tiếp nhận số ít ỏi đó. Thơ dòng chữ, tân hình
thức, hậu hiện đại, thơ vụt hiện, tân cổ điển,... có thể là những hình thái
đáng kỳ vọng của thơ nhưng vẫn là “thơ khó” đối với “kinh nghiệm thẩm mỹ”
(H.R.Jauss) của phần lớn công chúng. Dù là hàng hoá hay quà tặng, là thành tố
trong quan hệ tinh thần hay vật chất, thơ quả thực chưa đủ sức hấp dẫn công
chúng.
Thơ trở thành hàng hoá
không phải là câu chuyện mới mẻ của thời đại này. Điều đó đã được bàn đến cách
đây hàng thế kỷ, là kết quả của cuộc hội ngộ với phương Tây. Bước vào thời kỳ
hiện đại hoá (những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), thơ từ một thứ “quà
tặng” (M. Mauss) mang tinh thần đẳng cấp (giới trí thức, nho sĩ phong kiến)
chuyển sang hàng hoá. Bước sang đổi mới, ngoài tư cách là hàng hoá trong quan
hệ thị trường, thơ còn mang thêm tư cách là một sản phẩm thù tạc, giao đãi. Thơ
lại trở thành một thứ “quà tặng”. Đúng hơn, sự thoái trượt trong cạnh tranh, sự
bất lực trong chiếm lĩnh thị trường đã khiến thơ tha hoá thành “quà tặng”. Nơi
đó, quyền lực của mỹ học ngôn từ bị che lấp bởi những quyền lực khác như danh
vọng, lợi ích cá nhân, quyền lực chính trị, địa vị xã hội, thậm chí là sự thoả
mãn những ảo tưởng, “sướng khoái” cá nhân,… Quyền lực này biểu hiện trong mối
quan hệ giữa người biếu tặng và người được biếu tặng. Nét văn hoá của luật tục
cổ xưa không trở về trong hình hài “quà tặng” hôm nay. Sự biếu tặng trở thành
hoạt động khiên cưỡng. Sự ràng buộc cũng không nồng đượm như xưa. Thơ - quà
tặng hôm nay, đúng như những cảnh báo của M. Mauss là một thứ “dư sinh tiêu cực
… ký bám vào các xã hội đương đại”(9).
Có một thực tế, nếu thơ
không đem tặng sẽ rất ít người mua. Nhà thơ đem tặng thơ và cả người nhận thơ
đều bị tha hoá. Quyển văn hoá của “biếu tặng” như M. Mauss đã khảo luận bị giải
toả, đúng hơn là cơ chế vẫn còn nguyên chỉ khác tính chất. Thơ - Quà tặng trong
xã hội đương đại đã được nguỵ trang để vượt qua cổng kiểm duyệt của cơ chế thị
trường với quan hệ tư bản chủ nghĩa để đến tay người tiêu thụ. Đồng thời, dưới
hình thức quà tặng, thơ ràng buộc con người vào lễ tục. Sự đáp trả không bằng
quà tặng như trước mà là những lời ngợi khen, tụng ca khiến cả đôi bên đều vui
vẻ. Vai trò đánh giá khách quan của chủ thể tiếp nhận trong tư cách khách hàng
tiêu thụ sản phẩm văn hoá thời đại tiêu dùng gần như bị triệt tiêu. Hệ luỵ này
có sự tiếp tay vô cùng lớn của tâm tính dân tộc đó là sự cả nể. Chính tại đây,
bi kịch của thơ đương đại được khởi sinh. Yêu cầu về sự “hoàn trả” sau khi nhận
quà tặng kết hợp với tâm lý cả nể, lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau nghiễm nhiên trở thành một tiên kiến chi phối,
điều hướng cho sự đáp lễ của người nhận. Không mấy người có đủ dũng cảm để phá
bỏ luật tục hay lên tiếng báng bổ “đạo đức”. Vì thế, những lời nhận định về thơ
vẫn ngập tràn các diễn đàn mà không gây nên hiệu quả gì đáng kể ngoài việc đem
đến sự khoan khoái cho người biếu tặng.
Có một nhân tố gián tiếp
can dự vào sự hiện diện của các “dư sinh tiêu cực” này là báo chí. Không một tờ
báo nào (trừ những trang mạng hay Blog) hào hứng với việc mổ xẻ, phân tích cụ
thể một tác giả, một tập thơ, bài thơ. Nếu cứ nhìn vào các bài phê bình trên
báo giấy đương đại, người ta hẳn sẽ có nhận định tốt đẹp về thơ Việt Nam. Kỳ
thực, đó chỉ là lớp men được phết lên những rạn nứt, xù xì, phẩm cấp thấp bên
trong. Đầu thế kỷ XX, sở dĩ Thơ mới trở thành một cuộc cách mạng, đẩy thơ cũ
vào hậu trường là bởi Phong hoá, Ngày
nay, Phụ nữ tân văn, Hà Nội báo,… đã quyết liệt cổ vũ, bênh vực một lối thơ
mới, kịch liệt phê phán lối thơ cũ, chỉ đích danh tên tác giả, tên tập thơ, cái
dở, cái hay của từng người. Trên các diễn đàn văn chương lúc bấy giờ có sự
tranh luận quyết liệt giữa các tác giả thơ, các cây bút phê bình, các báo,…
Thậm chí họ còn trực tiếp diễn thuyết, tranh luận tay đôi trên cùng một diễn
đàn (Trường hợp Nguyễn Thị Kiêm và Nguyễn Văn Hanh). Báo chí ngày nay không làm
được việc đó hay cố tình né tránh?
Thơ đương đại đánh mất
hai chức năng cơ bản. Một là “chức năng thi ca” (R. Jakobson) trong giao tiếp
thẩm mỹ và hai là chức năng “quà tặng” trong luật tục “biếu tặng”. Về bản chất,
sự suy giảm “chức năng thi ca” chính là sự giảm sút của chất lượng. Sự biến tướng
của “quà tặng” chính là sự tha hoá trên phương diện đạo đức và văn hoá. Cả hai
điều này nhà thơ biết, người nhận biếu tặng cũng biết và nhiều bên tham gia
trong giao tiếp xã hội, văn hoá, văn học cũng biết, nhưng dường như không thể/
rất khó giải quyết. Điều này tồn tại trong đời sống đương đại như một hiện
tượng xã hội học toàn thể. Để giải quyết vấn đề tổng thể lại cần bắt đầu từ
giải quyết từng phần, bộ phận. Trong đó, vấn đề động cơ biếu tặng, đạo đức, văn
hoá và đặc biệt là tư cách trí thức của người biếu tặng, người nhận biếu tặng,
các bên tham gia giao tiếp xã hội, văn học rất cần được ý thức một cách tự giác
như là trách nhiệm với bản thân và xã hội và lịch sử.
Cùng với tư tưởng hoài
nghi, bất tín là tư tưởng giải phá các mẫu hình, huyền thoại, đại tự sự, trung
tâm, kiến tạo các không gian, giá trị ngoại biên, bên lề, thiểu số, nữ quyền,
dục tính, GLBT(10), tâm linh, bề trái, thuộc địa,… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là
chính trong những nỗ lực giải phá này lại tiềm ẩn lời tự thú của những giá trị,
thế lực được gọi là ngoại biên. Bởi lẽ, khi cất lời phủ định một điều gì, hiển
nhiên chúng ta thừa nhận sự tác động của nó đến bản thân mình. Tương tự như vậy, bất kỳ một sự giải phá nào cũng là
một hành vi tự thú về địa vị của mình trong tương quan với cái bị giải. Một
điều đáng nói nữa, chính những thế lực ở ngoại vi đã dựng nên những hình dung
về trung tâm, cũng như, chính trung tâm là thế lực quy chiếu cái ngoại vi. Một
khi, ý thức rằng không có trung tâm, tự khắc nỗi ám ảnh về địa vị bên lề, ngoại
biên cũng có thể được giải toả. Nhưng làm sao để có thể tự quyết về hiện thực
đó? Nỗi băn khoăn và thái độ bất đồng giữa hai hệ thống này làm nên một trong
những “đại tự sự” của văn chương đương đại. Và thơ không nằm ngoài hiện trạng
đó. Từ góc độ tư tưởng nghệ thuật, rộng hơn là tư tưởng về hữu thể, các nhà thơ
đương đại phải giải quyết vấn đề nghĩa lý của tồn tại. Mọi cách tân nếu không
làm hiện hình giá trị, cái khác không mang giá trị cũng là nỗi bất an ẩn chứa
khủng hoảng. Nếu không quá lời, có thể nói, thơ đương đại Việt Nam rất ít thi
sĩ thực sự có tư tưởng. Nhà thơ phải trả lời những truy vấn về tồn tại, về sứ
mệnh văn chương, nghệ thuật và văn hoá, xã hội trong thời đại mình thuộc về và
cả những tiên liệu cho một hành trình trong tương lai. Cứ nhìn vào nhiều tập
thơ đương đại, có thể nhận ra, các thi sĩ chưa thể hiện được tư tưởng nghệ
thuật của mình một cách riết róng, hệ thống, ít nhất là ở hình thức của tác
phẩm. Tập thơ, đơn giản chỉ là một tập hợp các tác phẩm, rời rạc về ý tưởng,
thiếu nhất quán về quan niệm. Sự thực thì những tập thơ như thế không hề có cấu
trúc. Rất khó để chỉ ra tinh thần, tư tưởng chủ đạo của các tác phẩm hoặc cho
thấy một diễn ngôn ứng xử với ngôn ngữ, nghệ thuật và đời sống của nhà thơ một
cách nhất quán. Thậm chí, trong những tập hợp như thế, những bài thơ không
ngừng phản bác nhau về sự vận động của tư duy, mỹ cảm trong nội giới của người viết. Nó không cho thấy
nhà thơ đã dụng công để tổ chức diễn ngôn trong ý hướng xác lập giá trị của tác
phẩm, cũng là giá trị của thi sĩ trong thời điểm văn bản ra đời. Chính xác, đây
là sự nhạt nhoà về sử tính của tư tưởng, nếu xem vận động của thơ ca như một
tiến trình trải qua các giai đoạn của nhận thức, quan niệm và tư tưởng.
Con người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay đang đứng giữa nhiều lựa chọn cũng như nguy cơ trước sự xuất
hiện của nhiều hệ giá trị. Tư tưởng, tinh thần phương Đông, giá trị truyền
thống đang giao thoa với phương Tây cùng các giá trị hiện đại. Con người lâm
vào tình thế không biết lựa chọn, hoang mang và hoài nghi. Đây là thực trạng
của một đất nước như Việt Nam vốn mang căn tính phương Đông, hội nhập với
phương Tây nhưng chưa tiến đến được một hình thái văn hoá thống nhất trên tinh
thần tích hợp một cách sâu rộng và có bản sắc. Thêm vào đó, những vết thương vô
hình và hữu hình của chiến tranh, thuộc địa vẫn còn day dứt, nhức nhối, làm nên
một tâm thế “hậu thuộc địa”, “hậu chiến” chi phối rất lớn đến lựa chọn và tiếp
nhận giá trị. Con người Việt Nam đương đại, đặc biệt là các nhà thơ chưa tìm
thấy cho mình, chí ít là một niềm tin đủ vững chãi để làm căn cốt thích ứng.
Trong các sáng tác, vẫn nhận ra, nhiều thi sĩ không có tư tưởng gì nhất quán,
duy trì toàn bộ thi trình, thi nghiệp. Vấn đề ở đây chưa phải là sáng tạo nghệ
thuật, mà là một tư tưởng văn hoá, thẩm mỹ có tính chất móng nền, để từ đó thi
sĩ khởi hành đi tìm những giá trị mới, bồi đắp thêm truyền thống, làm phong phú
thêm bản sắc. Không có cái mới thuần tuý và đoạn tuyệt với cái cũ thuộc về
truyền thống và bản sắc văn hoá Việt Nam. Chỉ riêng việc sáng tạo bằng tiếng
Việt đã níu giữ thi sĩ trong mối liên hệ mật thiết với giá trị căn cốt trong
tinh thần, tư duy của người Việt. Không ý thức một cách triệt để về giá trị mà
bản thân, con người và thời đại theo đuổi, xác lập, nâng lên thành tôn chỉ của
hành động sáng tạo nên thơ Việt Nam đương đại thiếu đi những tầm vóc lớn. Ở
đây, chúng tôi rất tán đồng với những diễn giải của Chu Văn Sơn. Ông cho rằng,
văn học Việt Nam chưa có những tác phẩm lớn xuất phát từ việc thiếu vắng “tâm
huyết và tài năng”, “cảm niệm triết học về thực tại” của “kẻ viết tự tri”(11).
Như thế, tư tưởng trước hết phải được hình dung ở cấp độ ý thức hệ, ở phương
diện triết học (lưu ý là triết học hiểu theo diễn giải của Chu Văn Sơn là “cảm
niệm triết học về thực tại” không phải là sự tư biện hàn lâm của triết gia). Và
điều đó phải thừa nhận rằng, trong thơ Việt Nam đương đại còn thưa vắng.
Từ khủng hoảng tư tưởng đến khủng hoảng về tư duy thơ là con đường có
tính hệ luỵ. Tư duy thơ đương đại bị phản biện bởi các thi sĩ không ý thức về
việc thơ trước hết phải có chất thơ như là yếu tính căn bản. Không có chất thơ,
mọi thực hành ngôn ngữ không thể gọi là thơ. Nó đứng ngoài khung khổ loại hình,
bất luận nguỵ biện thế nào. Chất thơ đòi hỏi và hiện hình trong hệ thống ngôn
ngữ gợi cảm, giàu hình ảnh, biểu tượng, tổ chức thành nhịp điệu và giàu nhạc
tính(12). Tư tưởng nghệ thuật của bài thơ cũng chỉ có thể gợi lên từ cấu trúc
này mà không phải là từ một diễn ngôn khác. Chính vì vậy, khi ngôn ngữ đã cũ
mòn, thi ảnh không có tính sáng tạo, nhịp điệu cũng cũ kỹ do cấu trúc thể loại
đã quen thuộc khiến cho tác phẩm thơ ở khuynh hướng bảo lưu các giá trị truyền
thống dần rơi vào sự tẻ nhạt. Ở đây không phải là sự tẻ nhạt của giá trị truyền
thống mà cách thức biểu đạt giá trị đó trong hình hài của thơ không còn khả
năng gọi về những tương giao, xúc cảm, đánh thức người đọc. Ở mảng thơ văn
xuôi, đây cũng là hướng vận động khá nổi bật, tuy nhiên, có thể thấy, chất văn
xuôi lấn át chất thơ do tính truyện được đề cao và nhịp điệu không phải là yếu
tố chủ đạo duy trì mạch cảm xúc. Một bộ phận khác, các tác phẩm sáng tác theo
tinh thần hậu hiện đại cũng cho thấy những chông chênh dễ rơi vào tình trạng
nhập nhằng, lẫn lộn giá trị. Cụ thể là nhiều văn bản gọi là thơ hậu hiện đại
chỉ là những nguỵ tạo. Những non yếu, rời rạc, đôi khi là vô nghĩa được dung
dưỡng bởi những phẩm tính được coi là tri thức hậu hiện đại. Người đọc bị đánh
lừa, còn các chuyên gia thì lưỡng lự, im lặng. Tình thế khó khăn đó khiến cho
những thứ “hàng giả, hàng nhái” vẫn hoành hành trên nhiều diễn đàn, trong nhiều
xuất bản phẩm của giới văn nghệ. Ở mảng trường ca, thể loại “siêu sang” cũng
thể hiện sự bất ổn khi nhiều trường ca thực chất chỉ là thơ dài, ghép các bài
thơ ngắn lại với nhau, phân chia chương đoạn. Điểm cốt lõi của trường ca vẫn là
sự trường hơi, trường sức, với cấu trúc phức hợp, đa tuyến duy trì tính chỉnh
thể của một tổ chức ngôn ngữ lớn. Cái nổi bật của trường ca vẫn là cảm xúc, suy
tư về cái kỳ vĩ, lớn lao. Nguyễn Văn Dân đã khẳng định: “Điều quan trọng là
trường ca phải có một dung lượng nội dung và cảm xúc lớn lao, nếu không nó chỉ
là một bài thơ đơn thuần”(13). Gặp gỡ với quan điểm này Chu Văn Sơn cho rằng:
“… khi thơ trữ tình muốn chiếm lĩnh thực tại ở cấp độ cái kỳ vĩ thì trường ca
bắt đầu lên tiếng”(14). Cũng theo Chu Văn Sơn, để có thể sáng tạo trường ca, người viết phải có “cảm hứng
trường ca” và “tư duy trường ca”. “Cảm hứng trường ca phải là những bức xúc lớn
của cá nhân nhưng do một cú “sốc” lịch sử nào đó gây nên. Nói khác đi, đó phải
là những chấn động lịch sử dội vào cá nhân, tạo nên một tâm sự lớn. Còn tư duy
trường ca có thể gói gọn vào năng lực xử lý các đối cực căn bản của thể tài
như: cái kỳ vĩ và cái bình thường, cái kỳ ảo và cái chân thực, chính sử và
huyền sử,…”(15). Nhiều tác phẩm được gọi là trường ca nhưng rất tiếc lại thiếu
đi yếu tính căn bản như đã nói.
Tóm lại, nội tình thơ
Việt đương đại tồn tại nhiều bất ổn dẫn tới cuộc khủng hoảng có tính toàn diện.
Có thể nhận thấy, sự bất ổn giữa số lượng tác phẩm và chất lượng làm thành cuộc
khủng hoảng thừa và thiếu. Khủng hoảng về tư tưởng, tư duy thơ dẫn đến khủng
hoảng về phương pháp sáng tác. Nhiều người làm thơ, nhưng thi sĩ lại ít. Thi sĩ
có tư tưởng (tư tưởng nghệ thuật kết tinh trên tinh thần ý thức cao độ về sự
sống, giá trị và bản sắc, bản thể và tha nhân, thời đại và lịch sử, dân tộc và
thế giới,…) không nhiều - căn cứ trên thực tế tác phẩm của họ. Rất khó để hình
dung về thi trình của một thi sĩ đương đại bởi nó không có một mạch lõi gắn kết
và quán xuyến mọi sự vận động. Khủng hoảng về tư tưởng và phương pháp sáng tác
là hạt nhân của khủng hoảng của thơ Việt đương đại. Cùng với những biểu hiện
này, khủng hoảng về tiếp nhận cũng là câu chuyện rất đáng suy ngẫm. Người đọc
im lặng, thờ ơ với thơ đang là lời cảnh báo về giá trị và nghĩa lý của nó đối
với cuộc đời và con người. Công chúng tiếp nhận rời xa thơ, công tác biên tập ở
nhà xuất bản bị vô hiệu hoá, các nhà phê bình lưỡng lự, im lặng hoặc rơi vào
trạng thái giao đãi, thù tạc,… càng làm gia tăng thêm mối bất ổn của thơ Việt
Nam đương đại.
N.T.T
(còn nữa)