Thử phác họa chân dung thơ Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn không thuộc dạng nhà thơ hiện
tượng của đời sống văn học, nổi đình nổi đám ngay từ buổi đầu xuất hiện. Tôi
đọc Mai Văn Phấn từ lâu qua từng tập thơ với thời gian dài. Nhưng nay được đọc
tập Thơ tuyển Mai Văn Phấn do Nhà
xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam ấn hành quý hai năm 2011, tôi có cái nhìn tổng
quát và càng rõ dấu chân thơ anh âm thầm quyết liệt, bền bỉ sáng tạo từ cái nền
tảng truyền thống đến cách tân để hôm nay có một Mai Văn Phấn mới mẻ, sâu sắc,
trữ tình với mỹ cảm mới. Tuyển thơ chia làm ba giai đoạn: Từ khởi đầu đến 1995,
từ năm 1995 đến 2000, từ năm 2000 đến 2010.
1. TỪ
NỀN TẢNG TRUYỀN THỐNG
Ngay buổi đầu, giọng thơ trẻ của Mai Văn Phấn
qua thể thơ lục bát đã sớm có dấu hiệu tìm tòi thông minh: Gọi tìm tôi thuở dại khờ/ Về thương tôi của bây giờ tinh khôn (Không
đề).
Từ dân gian mà anh có: Lỡ vin vào bóng mây qua/ Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò (Gom nhặt
cuối mùa).
Thơ lục bát Mai Văn Phấn từ độ thật thà: Em ơi từ độ vắng nhà/ Cá rô kho mặn ăn ba
bốn ngày (Em gái đi lấy chồng). Lục bát thơ anh vụt lớn khôn khi đến độ
chín của thơ và nhận thức thì cảm xúc hiện thực đời sống xã hội, thơ anh mới
ra, sâu thêm. Màu sắc trữ tình đã khác:
Các
cô nằm lại trên cồn
Những
chùm bồ kết khô giòn trong cây
Khăn
thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng
Lộc bay bay trắng trời
(Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc)
Giai đoạn đầu Mai Văn Phấn có làm thơ tứ
tuyệt nhưng đã có làm mới: Chưa lên Đà
Lạt anh là nụ/ Chiều nay hàm tiếu giữa sương về/ Gọi thầm Đà Lạt thơm
trong miệng/ Đôi gót chân mình đôi bến mê (Đà Lạt thì thầm).
Từ thơ tứ tuyệt anh chuyển ra thơ tự do trong
khuôn khổ thơ bốn câu: Chúng bay lên rồi
đậu xuống mái chùa/ Bị lũ trẻ rình bắt và đem bán/ Từ chiếc lồng đến bầu trời là dòng sông cầu nguyện/ Sao lời
nguyện cầu còn giam hãm những linh hồn (Những con sẻ chùa Vĩnh Nghiêm).
Gần cuối giai đoạn 1, từ khởi đầu đến 1995
Mai Văn Phấn hăm hở chuyển sang thơ tự do, nhưng trong những bài thơ dài còn
lẫn những khổ, đoạn thơ lục bát, tiêu biểu là bài thơ dài năm đoạn “Tiếng gọi
từ những cánh đồng”. Đây là một bài thơ hay. Phần I, khổ 2:
Lật lên tôi giữa xá đất bạc màu
Hồn lang thang với lũ chuột đồng trong góc tối âm u mùa
hạ
Bò trên ngực mình những con sâu cắn lúa
Mặt người hay chiếc lá trước cơn giông!
Phần III lục bát:
Lại đây gió của ta ơi
Thổi làm chi mãi những lời thở than
Để ta bới nỗi đêm tàn
Tìm trong đất tiếng ngày sang thầm thì.
Cuối giai đọan 1, thi pháp thơ Mai Văn Phấn
sử dụng nhiều ẩn dụ qua hình ảnh cũng như các tập thơ đầu tay của các tác giả
đồng lứa: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến… hồi đó. Thủ pháp ẩn dụ có từ thời
thơ lãng mạn Pháp (giai đoạn cuối). Thơ Việt thời chống Pháp, chống Mỹ ít dùng
ẩn dụ, cảm xúc, phản ánh trực tiếp hiện thực xã hội. Thơ hậu hiện đại phương
Tây, đặc biệt thơ Mỹ và Pháp gần như triệt tiêu ẩn dụ. Sau hậu hiện đại, nếu
thơ thế giới thực sự trở về và tiếp tục cách tân với tên gọi tân cổ điển, thì
ẩn dụ trong thơ với sự tiết chế chừng mực và đúng chỗ ăn nhập với tứ thơ, ý thơ
thì nó vẫn giúp thơ khả năng biểu hiện, diễn đạt cao, liên tưởng đa nghĩa, đa
chiều.
2.
BỨT PHÁ
Giai đọan thơ 1995 đến 2000, thơ Mai Văn Phấn
bứt phá cách tân thi pháp với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện
nhiều vấn đề của thời cuộc, bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét
đẹp tiềm ẩn của tình yêu, đời sống. Đây là giai đoạn sung sức của thơ anh.
Tâm
thế con người, thời đại:
Sự kinh dị hay đổ nát
Cùng con đường chạy qua ký ức
Dấu chân không nhận ra nhau vô cảm trơn lỳ
Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ cỏ nát
Giờ thành đuôi sao chổi quét ngang trời
Kết thúc cơn mơ cuối cùng thế kỷ
(Khúc dạo
đầu)
Tiềm
ẩn vẻ đẹp của cuộc sống:
Đã mưa và sấm rền vang
Những đọt mầm khỏa thân trong bóng tối
Đất cố giấu đi trơ trụi khô cằn
Khi cội rễ lần tìm trong ngực
(Biến tấu
đêm mưa)
Cũng bằng vào hình ảnh và so sánh, màu sắc ẩn
dụ đã khác, thơ chuyển sang thể tự sự mới, hiện đại:
Những
giọt rượu vẽ lại hạt giống
Dấu
giày nở
Mảnh
trăng mòn vẹt
Cổ
ngấn tròn lăn trong sức ép…
Vẽ
hình người chết dính
Quanh
mẩu xương ta vừa nhằn ra
Quanh
hạt cơm vô tình vương vãi
Mang
lỗi lầm hình trái chín.
(Đối thoại với thời gian)
Nghịch dụ là một thủ pháp thành công của thơ hậu hiện đại thế
giới. Trong thơ Mai Văn Phấn, thủ pháp này ẩn trong từng ý, từng câu hoặc cặp
câu làm tăng hiệu quả xúc cảm và ý nghĩa:
Lưỡi thủy
tinh vỡ ra tiếng nói
Biện minh
từng bức ảnh ố màu.
Chữ trong
sổ tay vừa mơ thấy lửa
Sắp thành
tro lại chợt hoàn hồn.
Dọn nhà
thủy táng cả chân nhang
Sao hương
khói vẫn còn quanh quẩn…
(Linh hồn đã bay)
Giai đọan thứ hai của thơ MVP nhiều bài thơ dài ngắn rất khác
nhau, nặng về thế sự với những bức xúc đến giằng xé nghiệt ngã. Trường ca Người cùng thời gồm mười chương cũng nằm
trong giai đọan này. Giai đọan thơ đầy nội lực và bứt phá thi pháp.
3. MỸ CẢM
MỚI
Mươi năm trở lại đây, từ ngày luồng gió thơ hậu hiện đại đã định
hình và kết thúc từ phương Tây vào xứ ta, thì đâu đâu trên báo, mạng, bàn nhậu
luôn bàn tán hay nhận định thơ này thơ kia thuộc mỹ cảm mới hay cũ. Sự rạch ròi
kia xem ra chưa mấy ngã ngũ. Cuộc sống hiện đại hẳn có tư duy, tình cảm mới của
người hiện đại. Thơ là sản phẩm tinh thần thời đại càng cần có nó. Vậy trong
khuôn khổ bài viết này, tôi thử tìm hiểu thơ Mai Văn Phấn đã tới mỹ cảm mới
chưa? Trước tiên điều dễ nhận thấy thơ Mai Văn Phấn giai đoạn ba này, xuất hiện
nhiều bài thơ có tứ lạ. Tứ lạ với giọng điệu khác, mới nhằm phát huy năng lực
thơ để thích ứng ngày mới. Ví như bài thơ Vẫn
trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, câu thơ tự sự thật như đếm, đọc qua lại cảm
như mộng du: Pha xong ấm trà/ Quay ra/
Ông khách không còn ở đó/ Gọi điện thoại/ Người nhà bảo ông mất đã bảy năm/
Nhầm lẫn. Đoạn giữa bài thơ lại bày tỏ rõ ràng: Nhà mình/ Mọi thứ đảo lộn/ Không nhớ bức chân dung hạ xuống bao giờ/
Đâu rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót?/ Bộ ấm chén giả cổ ai cho? Kết
thúc bài thơ này vừa thực vừa ảo ảnh: Trong
nhà/ Trà vẫn nóng/ Đẩy chén nước về phía ông khách đã ngồi/ Luồng tử khí cao
chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt/ Chốc lại cúi gập.
Bài thơ Tắm đầu năm có
tứ lạ, cách cấu trúc câu nhiều ngữ nghĩa. Đây là bài thơ nói về tắm ánh sáng: Thử đưa bờ vai về phía ánh sáng/ Rồi hai
tay/ Bàn chân, cằm, đầu gối/ Cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan…/ Xối ánh sáng
vào từng góc khuất/ Góc khuất như lò thúc mầm/ Như thép nóng đưa tôi vào nước/
Như quả trứng trong ổ đang ấp/ Rễ thân cành đã chiết đâm ngang.
Và kết thúc bài thơ là hình ảnh thực của đời sống sinh nở đẹp đến
lung linh:
Vừa xối mạnh vừa gọi tên em
Ánh sáng bồng bềnh bụng mang dạ chửa
Thử gọi một ai xa lắc xa lơ
Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ
Càng tỏ
Bài thơ tứ lạ, giọng điệu lạ mà đọc vẫn cảm. Trong giai đoạn thơ
này có nhiều bài thơ tứ khác nhau riêng biệt, đều lạ và cảm tốt, như: Tỉnh táo một mình, Giả thiết cho buổi sáng
hôm sau, Thu đến, đỉnh gió v.v… Thơ Mai Văn Phấn tứ lạ, hình ảnh cũng được
lạ hóa từ những hình ảnh đời thường, thiên nhiên, cộng vào sự liên tưởng, so
sánh bất ngờ, làm tăng hiệu ứng xúc cảm và nhận thức nơi người đọc. MVP tự
tình.
Khác với thứ thơ càng tìm tòi càng bí hiểm, rối rắm, đánh đố, thơ
Mai Văn Phấn làm mới mình từ cái lạ mà dễ cảm và nhận được. Thơ Mai Văn Phấn đi
từ hồn nhiên, đam mê, bốc lửa, đến bức xúc giằng xé quyết liệt, nghiệt ngã và
cuối cùng thì cập bến ở một tâm thế thơ, tư tưởng thơ nhuần, nhuận mà không kém
phần đa dạng đa chiều, giữ được chất trữ tình trong cái mới thơ mình. Từ những
bất trắc của đời người, tiêu cực xã hội, vạn vật thiên nhiên, đẹp và xấu, thiện
và ác ào ạt vào thơ anh thành một đời sống khác, phản chiếu những góc khuất
tiềm ẩn từ giọt mồ hôi, nước mắt và giấc mơ của thời đang sống.
Kết thúc bài viết này, tôi xin trích vài đoạn thơ trong bài thơ Tỉnh táo tột cùng, Mai Văn Phấn nói khác
mà vẫn giản dị, trong trẻo, long lanh nỗi niềm:
Một cách
nghĩ khác:
Múc nước ở cảng Hải Phòng
Nước tự biến thành tinh khiết
Tự đóng chai lăn đến các nhà hàng,
khách sạn
Người nghèo đến đó mà thu tiền...
Đừng gượng dậy nói về lòng tin và
niềm hy vọng
Khi qua khe cửa hẹp
Gió biển đang bắn vào từng mũi tên
mát rượi
Mừng Mai Văn Phấn ĐÃ THOÁT bứt phá nhọc nhằn, chênh vênh tưởng như
đổ vỡ, TRỞ VỀ thuộc tính bản chất của THƠ với tư duy mới, MỸ CẢM MỚI…
TP. Hồ
Chí Minh, 12/5/2011
L.X.Đ
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công - Kỷ yếu
hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/ 2011, NXB Hội Nhà văn, 2011).