Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX (Tóm tắt luận án tiến sĩ) - Nguyễn Thị Kim Hồng
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Nguyễn Thị Kim Hồng
CẢM HỨNG TÔN GIÁO
TRONG THƠ VIỆT NAM THẾ KỶ XX
Mã số: 9220121
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Tóm tắt luận án tiến sĩ Ngữ văn
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Lưu Khánh Thơ
2. TS. Biện Thị Quỳnh Nga
Nghệ An - 2022
Maivanphan.com: 2/12/2022, NCS. Nguyễn Thị Kim Hồng đã bảo vệ
thành công luận án tiến sĩ với đề tài "Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt
Nam thế kỷ XX", dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lưu Khánh Thơ và TS. Biện
Thị Quỳnh Nga. Theo NCS: "Luận án bao quát hai nguồn cảm hứng tôn giáo nổi
bật trong thơ Việt Nam thế kỷ XX là cảm hứng Phật giáo và cảm hứng Ki tô
giáo.../ Luận án chủ yếu tập trung khảo sát và nghiên cứu sâu một số hiện tượng
nổi bật, được bạn đọc và giới nghiên cứu chú ý nhiều, đồng thời tiêu biểu cho
hai nguồn cảm hứng tôn giáo nói trên, đó là: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên,
Bùi Giáng, Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Mai Văn
Phấn,... Tuy vậy, các tập thơ của các nhà thơ này chủ yếu xuất bản trong thế kỷ
XX. Tất nhiên, cảm hứng tôn giáo trong thơ hiện đại còn vắt qua cả thế kỷ XXI,
thể hiện rõ ở thơ Mai Văn Phấn và thơ của một số nhà thơ trẻ như Pháp Hoan,
Phápxa Chan…". Được phép của tác giả, website maivanphan.com xin gửi tới
Quý bạn đọc bản tóm tắt luận án tiến sĩ Ngữ văn. Bản đầy đủ sẽ được đăng vào thời
điểm thích hợp.
Xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn
Thị Kim Hồng!
Mai Văn Phấn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2. Phạm vi nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp mới của luận án
6. Cấu trúc của luận án
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.1.1. Một số vấn đề lí thuyết về tôn giáo và mối liên hệ giữa tôn giáo với thơ ca
1.1.2. Một số vấn đề lí thuyết về cảm hứng sáng tạo trong văn học và cảm hứng tôn giáo trong thơ
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Những nghiên cứu chung về cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
1.2.2. Những nghiên cứu về cảm hứng tôn giáo trong thơ các tác giả tiêu biểu thế kỷ XX
Tiểu kết chương 1
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ TIẾP NỐI VÀ CÁC CHẶNG ĐƯỜNG VẬN ĐỘNG CỦA CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM THẾ KỶ XX
2.1. Cơ sở lịch sử - xã hội, văn hóa - văn học của cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
2.1.1. Nhận thức về tôn giáo của người Việt Nam
2.1.2. Sự tiếp nối truyền thống văn học dân tộc
2.1.3. Tiền đề lịch sử - xã hội làm nảy nở cảm hứng tôn giáo ở các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XX
2.1.4. Sự tiếp thu ảnh hưởng tôn giáo ở các nhà thơ
2.2. Các chặng đường vận động của cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
2.2.1. Cảm hứng Phật giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
2.2.2. Cảm hứng Ki tô giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
2.2.3. Một số cảm hứng tôn giáo khác trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
Tiểu kết chương 2
CHƯƠNG 3. CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM THẾ KỶ XX, NHÌN TỪ NỘI DUNG BIỂU HIỆN
3.1. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX về các cõi và đức tin
3.1.1. Cảm hứng Phật giáo về các cõi và đức tin
3.1.2. Cảm hứng Ki tô giáo về các cõi và đức tin
3.2. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX về đạo và đời, mối quan hệ giữa đạo và đời
3.2.1. Cảm hứng Phật giáo về đạo và đời, mối quan hệ giữa đạo và đời
3.2.2. Cảm hứng Ki tô giáo về đạo và đời, mối quan hệ giữa đạo và đời
3.3. Cảm hứng tôn giáo về ngã/bản ngã
3.3.1. Cảm hứng Phật giáo về ngã/ bản ngã
3.3.2. Cảm hứng Ki tô giáo về ngã/bản ngã
Tiểu kết chương 3
CHƯƠNG 4. CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM THẾ KỶ XX, NHÌN TỪ CÁC PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT
4.1. Lựa chọn đa dạng các thể thơ và tổ chức, kết cấu bài thơ theo mạch vận động của tâm linh
4.1.1. Cảm hứng Phật giáo với sự lựa chọn thể thơ và tổ chức, kết cấu bài thơ
4.1.2. Cảm hứng Ki tô giáo với sự lựa chọn thể thơ và tổ chức, kết cấu bài thơ
4.2. Tô đậm tính thiêng liêng của biểu tượng
4.2.1. Hệ biểu tượng mang cảm hứng Phật giáo
4.2.2. Hệ biểu tượng mang cảm hứng Ki tô giáo
4.3. Giọng điệu và ngôn ngữ mang đậm màu sắc tôn giáo
4.3.1. Giọng điệu và ngôn ngữ đậm sắc thái Thiền
4.3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ đậm màu sắc Ki tô giáo
Tiểu kết chương 4
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tôn giáo và văn học có quan hệ mật thiết. Tôn giáo có
thể chi phối, ảnh hưởng nhiều phương diện của sáng tác văn học; ngược lại, văn
học, trong đó có thơ ca, là nơi thể hiện các tư tưởng hoặc tâm lí tôn giáo một
cách nghệ thuật. Thơ ca hiện đại từng chứng kiến không ít gương mặt thơ tài hoa
đi tìm cảm hứng thơ từ tôn giáo, như: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Bùi
Giáng, Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Mai Văn Phấn, Pháp Hoan, Phápxa Chan... Nhìn vào thực tế này,
có thể khẳng định cảm hứng tôn giáo là một trong những nguồn cảm
hứng nổi bật, độc đáo của thơ Việt Nam hiện đại.
1.2. Thơ ca mang cảm hứng tôn giáo trong chừng mực nhất định,
là một lựa chọn khả dĩ giúp con người tìm lại an lạc trong tâm hồn, cân bằng
lại đời sống vật chất và tinh thần, nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay,
khi đi liền với sự tiến bộ, văn minh là những bất ổn về đời sống tinh thần của
con người ngày càng gia tăng… Với ý nghĩa ấy, việc nghiên cứu đề tài này giúp
chúng tôi nhận diện sâu hơn vai trò, giá trị mà bộ phận thơ mang cảm hứng tôn
giáo mang lại cho cuộc sống con người.
1.3. Những nghiên cứu quan tâm đến mối quan hệ giữa văn học
và tôn giáo, sự tìm kiếm dấu ấn ảnh hưởng của tôn giáo trong văn học Việt Nam
thế kỷ XX nói chung, thơ ca nói riêng đã có nhưng còn tản mát, chỉ tập trung
vào những bình diện riêng lẻ. Vì thế rất cần những cái nhìn xuyên suốt, hệ
thống về những ảnh hưởng của tôn giáo đến thơ ca, văn học suốt cả một thế kỷ để
có thể đánh giá một cách khách quan, khoa học về một cách tiếp cận, một cách
thể hiện đời sống, con người mang sắc thái riêng, đặc sắc, đóng góp vào thành
tựu văn học dân tộc.
Xuất phát từ những lí do
trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX.
2. Đối tượng
và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
của luận án là: Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án bao quát hai nguồn cảm hứng tôn giáo
nổi bật trong thơ Việt Nam thế kỷ XX là cảm hứng Phật giáo
và cảm hứng Ki tô giáo. Phạm vi khảo sát
của luận án là các sáng tác mang cảm hứng tôn giáo của các nhà thơ Việt Nam thế
kỷ XX (bao gồm sáng tác của hai nhóm tác giả: nhóm tác giả là tín đồ của tôn
giáo và nhóm tác giả không phải là tín đồ), trong đó chủ yếu tập trung khảo sát
và nghiên cứu sâu một số hiện tượng nổi bật, tiêu biểu cho hai nguồn cảm hứng
tôn giáo nói trên là: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Bùi
Giáng, Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Mai
Văn Phấn,... Tất nhiên, cảm hứng
tôn giáo trong thơ hiện đại còn vắt qua cả thế kỷ XXI, thể hiện rõ ở thơ Mai
Văn Phấn và thơ của một số nhà thơ trẻ như Pháp Hoan, Phápxa Chan… Vì thế, thơ
của các nhà thơ ở giai đoạn này vẫn được chúng tôi quan tâm nhằm nhận diện sự
vận động, phát triển của cảm hứng tôn giáo.
3. Mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
của luận án là nhằm làm sáng tỏ những nét độc đáo của cảm hứng tôn giáo trong
thơ Việt Nam thế kỷ XX trên các bình diện: nội dung và phương thức thể hiện; xác
định những tiếp nối, bổ sung và phát triển của nguồn mạch cảm hứng này từ thơ
ca truyền thống đến hiện đại; từ đó góp phần nhận diện, đánh giá đầy đủ hơn thành
tựu và đóng góp của bộ phận thơ mang cảm hứng tôn giáo đối với hành trình vận
động, phát triển của thơ Việt, đồng thời khẳng định một góc nhìn thú vị, giàu ý nghĩa đối với việc
nghiên cứu, tiếp nhận và sáng tạo thơ ca: góc nhìn tâm linh - tôn giáo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Phân tích các tiền đề xã hội - thẩm mỹ của
cảm hứng tôn giáo, nhận diện quá trình vận động, vị trí của cảm hứng này trong
lịch sử thơ ca dân tộc nói chung và thơ Việt Nam hiện đại nói riêng.
3.2.2. Phân tích, luận giải những đặc sắc của cảm hứng
tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX trên các bình diện nội dung: quan niệm về
các cõi và đức tin; quan niệm về đạo và đời, mối quan hệ giữa đạo và đời; vấn đề
ngã/bản ngã.
3.2.3. Phân tích, luận giải những đặc sắc về phương
thức thể hiện cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX như: thể thơ, cách
tổ chức, kết cấu bài thơ, biểu tượng, ngôn ngữ và giọng điệu...
4. Phương pháp
nghiên cứu
Để tiếp cận và giải quyết vấn đề nghiên cứu, chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau như: phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp liên ngành, phương pháp cấu trúc - hệ thống, phương pháp loại hình học, phương pháp tiểu sử, phương
pháp so
sánh. Ngoài ra, luận án còn sử dụng kết hợp các thao tác
nghiên cứu như: thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp...
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án xác định được
các nhân tố tạo nên cảm hứng tôn giáo trong thơ, nhận diện và hệ thống hóa được
các tác giả, tác phẩm thơ Việt Nam thế kỷ XX tiêu biểu chịu ảnh hưởng của cảm
hứng tôn giáo. Trên cơ sở khảo sát, phân tích, luận giải các hiện tượng này,
luận án làm sáng tỏ được các đặc trưng cơ bản của cảm hứng tôn giáo trong thơ
Việt Nam thế kỷ XX với một cái nhìn bao quát, hệ thống.
Bằng cách đặt cảm hứng
tôn giáo trên mạch vận động của nó từ thơ truyền thống đến nay, luận án có cái nhìn
xuyên suốt, hệ thống, khoa học trong việc đánh giá một cách thể hiện đời sống,
con người mang sắc thái riêng, đặc sắc của bộ phận thơ hiện đại mang cảm hứng
tôn giáo, đóng góp vào thành tựu văn học dân tộc.
Nghiên cứu thơ hiện đại
từ góc nhìn tâm linh - tôn giáo, luận án góp phần định hướng một cách tiếp cận thú
vị, thiết thực trong sáng tạo và tiếp nhận thơ hiện đại, khẳng định ý nghĩa
tích cực của bộ phận thơ mang cảm hứng tôn giáo trong việc cân bằng đời sống
tinh thần của con người, giúp con người hướng thiện.
Kết quả nghiên cứu
còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và dạy học về văn học Việt Nam
hiện đại.
6. Cấu trúc của
luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham
khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lí
thuyết của đề tài; Chương
2. Cơ sở tiếp nối và các chặng đường
vận động của cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX; Chương 3. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX, nhìn từ nội dung biểu
hiện; Chương 4. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX,
nhìn từ các phương thức, phương tiện nghệ thuật.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
VÀ TỔNG QUAN VẤN
ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lí
thuyết của đề tài
1.1.1. Một số vấn đề lí thuyết về tôn giáo và mối liên hệ
giữa tôn giáo với thơ ca
1.1.1.1. Một
số vấn đề lí thuyết về tôn giáo
Tôn giáo phản ánh một quan
niệm, một cách nhìn, cách lí giải của con người về vũ trụ, về thế giới, về cuộc
sống trần thế. Việt Nam từ lâu là quốc gia có sự du nhập của khá nhiều loại
hình tôn giáo, trong số đó, cho đến hiện nay, Phật giáo và Ki tô giáo là hai
tôn giáo có mức độ phủ sóng rộng hơn cả. Theo đó, cảm hứng Phật giáo và cảm
hứng Ki tô giáo đã trở thành hai nguồn cảm hứng tôn giáo tiêu biểu, nổi bật
trong thơ ca và văn học dân tộc. Vì vậy, để tạo tiền đề lí thuyết cho vấn đề
nghiên cứu, chúng tôi khái quát một số vấn đề tư tưởng cốt lõi của các tôn giáo
này trên hai phương diện: thế giới quan và nhân sinh quan - những phương diện
cơ bản khơi nguồn cảm hứng sáng tạo trong thơ ca dân tộc.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa tôn
giáo và thơ ca
Tôn giáo và thơ ca có
mối quan hệ gắn bó mật thiết. Tôn giáo là đối tượng quan tâm và mô tả
của thơ ca. Tôn giáo là nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật. Còn thơ
ca được sử dụng như một hình thức để tôn giáo thể hiện các giáo lý, giáo luật.
Mặt khác, tôn giáo còn có thể tác động đến sự chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời,
con người của nhà thơ cũng như những phương thức tổ chức thế giới nghệ thuật
thơ. Nhìn từ phương diện này, tôn giáo góp phần nâng tầm tư tưởng, cảm xúc của
thơ ca. Tôn giáo vừa như là một chất liệu, vừa là đích đến của nghệ thuật, còn
thơ ca trong vai trò hình thức thể hiện đã mang lại những sức sống mới, những
điệu hồn mới làm cho đời sống tinh thần con người thêm phong phú, tươi đẹp hơn.
1.1.2. Một số vấn đề lý thuyết về cảm hứng sáng tạo trong
văn học và cảm hứng tôn giáo trong thơ
1.1.2.1. Cảm
hứng sáng tạo trong văn học
Cảm hứng (tiếng Hi lạp cổ: pathos) chỉ tình cảm sâu sắc nồng nàn và trạng thái
phấn hứng cao độ của người nghệ sĩ trước một hiện tượng nào đó của đời sống tác
động sâu sắc đến họ. Đấy là trạng thái tâm lí, tình cảm, là sự hứng phấn cao
độ, kích thích sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Khi cảm xúc và trí tuệ được thăng
hoa, người nghệ sĩ có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, hấp
dẫn.
Cảm hứng sáng tạo trong
văn học, nhất là cảm hứng chủ đạo, là tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, say đắm, thể
hiện tư tưởng, khát vọng chân thành, cháy bỏng của nhà văn về đối tượng hướng
đến trong tác phẩm. Cảm hứng gắn liền với những với lí tưởng cao đẹp của nhà
văn về con người, cuộc sống. Nó khơi thông miền cảm xúc qua mỗi trái tim người
đọc, đọng lại một tình cảm sâu xa, khơi thông nguồn trí tuệ, giúp nhận thức đối
tượng trên nhiều phương diện, tiếp thêm sức mạnh tinh thần và đưa đến hành động
đúng đắn, đầy nhiệt huyết.
1.1.2.2. Cảm
hứng tôn giáo trong thơ
Theo chúng tôi, điều
kiện căn bản để có cảm hứng tôn giáo là nhà thơ phải hiểu, tin và thấm nhuần
các giáo lí tôn giáo. Những giáo lí này sẽ ăn sâu trong tâm thức của người nghệ
sĩ, làm nảy sinh mỹ cảm nhiệt thành về tôn giáo. Dưới sự thôi thúc của những cảm nghiệm sâu sắc
về giáo lí đó, nhà thơ sẽ tiếp cận thực tại bằng điểm nhìn tâm linh và phản ánh
vào trong tác phẩm bằng những phương thức biểu đạt riêng, mang đậm màu sắc tôn
giáo. Như vậy, ở đây, niềm xúc động về tôn giáo đã chuyển hóa
thành ý thức trữ tình, thôi thúc hành động sáng tạo của người nghệ sĩ, khiến họ
hướng tới tôn giáo như một nền
tảng chi phối thế giới nghệ thuật thơ... Nói cách khác, có thể hiểu, cảm hứng tôn giáo trong thơ chỉ trạng thái rung
động mãnh liệt của nhà thơ về tôn giáo, được hình thành trên cơ sở những cảm
nghiệm sâu sắc về giáo lí và đức tin, đã chuyển hóa thành ý thức trữ tình, thúc
đẩy nhà thơ sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo, riêng biệt.
Từ cách hiểu trên về cảm
hứng tôn giáo trong thơ, chúng tôi có mấy hướng phân loại thơ cảm hứng tôn giáo
như sau:
- Từ góc độ tác giả -
chủ thể sáng tạo, trong thơ Việt Nam hiện đại, có thơ của hai bộ phận tác giả
cùng viết về cảm hứng tôn giáo, bao gồm các tác giả là tín đồ tôn giáo và các
tác giả ngoại đạo.
- Từ góc độ loại hình tôn giáo, thơ Việt Nam hiện đại có hai nguồn cảm hứng
chủ yếu, bao gồm: cảm hứng Phật giáo và cảm
hứng Ki tô giáo.
Dĩ nhiên, sự phân chia ở đây chỉ mang tính tương đối. Thực tế, có những nhà thơ đã từng là tín đồ tôn giáo nhưng sau đó lại hoàn tục, như
Phạm Thiên Thư,… Có những nhà thơ là tín đồ của Thiên Chúa giáo nhưng vẫn say
mê làm thơ mang cảm hứng Phật giáo như Hàn Mặc Tử, Mai Văn Phấn… Lại có những
nhà thơ cùng lúc sáng tác thơ mang nhiều cảm hứng tôn giáo khác nhau như Hàn
Mặc Tử, Bùi Giáng, Mai Văn Phấn, Inrasara,... Và trong số này, chúng tôi tập trung khảo
sát, nghiên cứu sâu các hiện tượng đã đề cập ở mục Phạm vi nghiên cứu.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Những nghiên cứu chung về cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
Đến nay, đã có không ít chuyên luận, báo cáo, bài báo khoa học, luận án… đề cập đến
cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX. Để có thể quan sát được mạch
vận động, tiếp nối cũng như những đổi thay quan trọng của cảm hứng tôn giáo, chúng tôi nhóm vấn đề
nghiên cứu theo quá trình vận động của thơ Việt
hiện đại với ba chặng: từ nửa đầu thế kỷ XX đến 1945, từ 1945 đến 1975 và từ
sau 1975 đến hết thế kỷ XX… Theo quan sát của chúng tôi, cảm hứng tôn
giáo trong thơ Việt hiện đại đã được quan tâm, tìm hiểu khá nhiều. Trong đó, ảnh hưởng của Phật giáo được nghiên cứu nhiều hơn cả, thậm
chí, có những công trình khoa học khá chuyên sâu, hệ thống. Sự ảnh hưởng của Ki
tô giáo và tôn giáo khác trong thơ hiện đại còn ít được quan tâm, khảo cứu. Dĩ
nhiên, điều này bắt nguồn từ mức độ ảnh hưởng đậm nhạt của các tôn giáo trong
thực tiễn lịch sử văn hóa, văn học dân tộc và thực tiễn sáng tác thơ ca. Tuy
nhiên, những công trình này sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện, sâu sắc
hơn về vấn đề đặt ra trong luận án.
1.2.2. Những nghiên cứu về cảm hứng
tôn giáo trong thơ các tác giả tiêu biểu thế kỷ XX
Bên cạnh những công trình bàn về ảnh hưởng của tôn giáo trong thơ hiện
đại nói chung, những công trình nghiên cứu cảm hứng tôn giáo ở những hiện tượng
thơ cụ thể cũng xuất hiện khá nhiều. Chúng tôi đã điểm lược các công trình, bài
viết nghiên cứu cảm hứng tôn giáo trong
thơ của một số gương mặt tiêu biểu
mà chúng tôi tập trung khảo sát như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn,
Bùi Giáng, Thích Nhất Hạnh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Phạm Thiên
Thư, Mai Văn Phấn…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nhận diện cảm hứng
tôn giáo từ nhiều góc độ khác nhau, từ nội dung tư tưởng (các triết lí tôn
giáo, đức tin, sự giải thiêng, mối quan hệ giữa đạo và đời,…) đến các hình thức
biểu hiện (thi pháp thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh, biểu
tượng…). Hơn thế, nhiều chuyên luận, bài báo đã đi sâu nghiên cứu một số hiện
tượng tiêu biểu, điển hình cho nguồn cảm hứng này và đã đưa ra những kiến giải
xác đáng, thú vị (ví dụ các kiến giải của Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Đặng Tiến,
Nguyễn Thanh Tâm…). Những nghiên cứu này rất hữu ích trên bước đường nghiên cứu
của chúng tôi.
Tuy nhiên, theo bao quát của chúng
tôi, phần lớn các công trình đều mới tập trung nghiên cứu ở các hiện tượng thơ
cụ thể; hoặc chỉ đề cập một vài phương diện của cảm hứng tôn giáo trong thơ; có
khi lại thông qua các vấn đề khác liên quan đến tôn giáo mà gián tiếp đề cập
đến đề tài này. Rõ ràng, thực tế còn thiếu vắng một công trình nghiên cứu mang
tính hệ thống, chuyên biệt, trực tiếp về cảm hứng tôn giáo ở một thế kỷ thơ sôi
động với những đặc điểm và diện mạo riêng đáng chú ý. Với những nỗ lực nghiên
cứu của mình, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần bổ sung cho khoảng trống nghiên cứu
này.
Tiểu
kết chương 1:
Trên cơ sở giới
thuyết một số vấn đề về tôn giáo (khái niệm, các loại hình tôn giáo nổi bật ở
Việt Nam, tư tưởng Phật giáo và Ki tô giáo); xác lập nội hàm khái niệm “chìa
khóa” của luận án (cảm hứng tôn giáo trong thơ); xác định mối liên hệ gắn kết,
tương hỗ giữa tôn giáo và thơ ca, vai trò quan trọng của cảm hứng tôn giáo đối
với sáng tạo thi ca;... chúng tôi đã nhận diện và phân loại cảm hứng tôn giáo
trong thơ (từ các góc độ tác giả - chủ thể sáng tạo, từ góc độ loại hình tôn giáo), đồng thời xác định nghiên cứu sâu các hiện
tượng tiêu biểu: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Bùi
Giáng, Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Mai Văn Phấn. Về tình hình nghiên
cứu, cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX là một vấn đề có sức hấp
dẫn lớn đối với nhiều nhà nghiên cứu, phê bình. Khám phá thơ ca hiện đại từ góc
nhìn tôn giáo hiện vẫn đang là hướng nghiên cứu hứa hẹn nhiều ý nghĩa khoa học
và thực tiễn.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ TIẾP NỐI VÀ CÁC CHẶNG ĐƯỜNG VẬN ĐỘNG CỦA CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ VIỆT
NAM THẾ KỶ XX
2.1. Cơ sở lịch
sử - xã hội, văn hóa - văn học của cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ
XX
2.1.1. Nhận thức về
tôn giáo của người Việt Nam
Người Việt rất chú
trọng đời sống tâm linh nên dễ tiếp nhận và coi trọng tôn giáo. Các hình thái
tôn giáo ở Việt Nam luôn trong mối quan hệ hòa đồng, đan xen, nương tựa, hỗ trợ
lẫn nhau. Nhờ có tính khoan dung, hiếu hòa trong tiếp nhận tôn giáo mà Việt Nam
- một đất nước đa dân tộc và đa tôn giáo - vẫn giữ được truyền thống đoàn kết,
ít có thái độ phân biệt, kì thị tín ngưỡng, tôn giáo. Những đặc điểm nhận thức
về tôn giáo của người Việt có ảnh hưởng lớn đến sự tiếp nhận tôn giáo trong mọi
lĩnh vực đời sống, trong đó có thơ ca, văn học. Biểu hiện rõ nhất là trường hợp
một người nghệ sĩ nhưng có thể chịu sự ảnh hưởng cùng lúc nhiều nguồn cảm hứng
tôn giáo khác nhau trong sáng tác, như Hàn Mặc Tử, Bùi Giáng, Mai Văn
Phấn...
2.1.2. Sự tiếp
nối truyền thống văn học dân tộc
Dòng mạch tôn giáo
trong thơ ca, văn học dân tộc đã diễn ra từ rất sớm, tạo nên bề dày lịch sử,
kết tinh thành truyền thống, tạo đà cho nguồn mạch cảm hứng này phát triển mạnh
mẽ trong thơ ca, văn học hiện đại. Văn học dân gian có sự ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo. Văn học trung đại mang đậm đặc điểm tam
giáo đồng nguyên Nho - Phật – Lão, nhưng tinh thần Phật giáo dường như vẫn
mang tính chủ động, đặc biệt ở thời đại Lý Trần… Tóm lại, cảm hứng tôn giáo là nguồn mạch cảm hứng mạnh mẽ đã
có từ văn học dân gian đến văn học, thơ ca trung đại - là cơ sở để văn học, thơ
ca hiện đại tiếp nối, kế thừa.
2.1.3. Tiền đề
lịch sử - xã hội làm nảy nở cảm hứng tôn giáo ở các nhà thơ Việt Nam thế kỷ XX
Những biến động
về lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa của đất nước đã tạo điều cho sự tiếp nhận ảnh hưởng tôn giáo ở các nhà thơ - cơ sở quan trọng làm nảy sinh cảm hứng tôn giáo trong thơ ca. Đầu thế kỷ XX đến 1945, dưới sự cai trị của thực dân Pháp, Thiên Chúa giáo được
khuyến khích và mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Chữ quốc ngữ - một phương tiện truyền
giáo - cùng những sáng tác của các tác giả theo đạo Thiên Chúa có đóng góp lớn
đối với quá trình hiện đại hóa văn học. Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt
Nam lan rộng, ảnh hưởng tới thơ ca, văn học. Từ 1945 đến 1975, văn học vận động,
phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh. Ở miền Bắc, vấn đề tôn giáo dường như bị né
tránh nên cảm hứng tôn giáo trong thơ ca, văn học có phần mờ nhạt. Ở miền Nam, Phật giáo và Thiên Chúa giáo đều
tìm cách thích nghi, phát triển. Thời kỳ này, miền
Nam sống trong những điều kiện hết sức khó khăn (chính trị rất bất ổn, kinh tế
suy sụp, bất công xã hội gia tăng, chiến tranh leo thang,...) gây nên tâm lí
hoang mang, đổ vỡ niềm tin ở con người. Theo đó, tôn giáo được con người tìm đến
như một lẽ tất yếu. Thơ ca miền Nam phản ánh rất rõ tình trạng này. Từ 1975, nhất là từ 1986, đến
nay, những đổi thay trong các chính
sách về văn hóa của Đảng đã tạo nên những chuyển biến lớn trong nhận thức về tôn
giáo; công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế vừa thúc đẩy sự phát triển đất nước vừa tạo ra những khủng hoảng đời
sống; trong thơ ca, văn học, với tinh thần đổi mới trong tư duy sáng tạo và nhận
thức về đời sống, các nhà văn đã nhìn thẳng vào sự thật, tái hiện những góc khuất của
thân phận con người, đặc biệt phần vô thức, tâm linh ngày càng được quan tâm chiếm lĩnh,... Đây là tiền đề quan trọng dẫn nối các nhà thơ hiện
đại đến với tôn giáo.
2.1.4. Sự ảnh
hưởng tôn giáo ở các nhà thơ
2.1.4.1. Các
nhà thơ là tín đồ tôn giáo
Hàn Mặc Tử: Tôn giáo ăn sâu vào
tâm thức, tư duy của Hàn Mặc Tử, chi phối đến quan niệm sáng tạo, làm cho sáng
tác của ông có một cấu trúc nội tại trong toàn tác phẩm.
Thích Nhất Hạnh: Thơ Thích Nhất Hạnh
là sự hóa thân mầu nhiệm của Thiền học vào văn chương, nghệ thuật với một hàm
lượng trí tuệ sâu sắc và uyên áo.
Minh
Đức Triều Tâm Ảnh: Với cái nhìn Thiền học đạt đạo và tài thơ của mình,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã chuyển tải thành công tư tưởng triết Phật qua thơ ca.
Phạm Thiên Thư:
Thơ Phạm Thiên Thư in đậm dấu
ấn Thiền. Đặc biệt, ông là người đầu tiên “thi hóa
kinh Phật” trong
nền văn học Việt Nam.
Mai
Văn Phấn: Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai
Văn Phấn khởi nguồn từ truyền thống quê hương, gia đình, cùng với
sự “hữu duyên” và ham học hỏi của cá nhân. Tôn
giáo trở
thành mỹ cảm thơ Mai Văn Phấn, “can dự” vào hành trình “vượt thoát” của khát vọng
cách tân qua nhiều tập thơ.
2.1.4.2. Các nhà thơ ngoại đạo (không phải tín đồ tôn giáo)
Quách Tấn: Thơ Quách Tấn có sự kết hợp giữa cái hàm súc, trang nhã
của thơ với tinh thần uyên áo diệu vợi thẳm sâu của Thiền trong dạng thức thơ
tứ tuyệt, dựng nên một thế giới thơ hài hòa giữa Thiền tâm và Thiền cảnh.
Bùi Giáng: Tinh
thần Thiền phá ngã, phá chấp ảnh hưởng rất lớn đến Bùi Giáng từ quan niệm, tư
tưởng, lối sống đến cả trong sáng tác. Tư tưởng
Phật giáo ở thơ Bùi Giáng có sự gặp gỡ, pha trộn với nhiều nguồn tư tưởng Đông
- Tây.
Chế Lan Viên: Chế Lan Viên tìm đến với
tôn giáo khi tâm hồn hoang vu vì những tàn tạ của đời sống, khao khát một thế
giới tự do tinh thần vượt ngưỡng. Thế giới thơ của Chế Lan Viên thấm đẫm cảm
quan tôn giáo.
2.2. Các chặng đường vận động của cảm
hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
2.2.1. Cảm hứng
Phật giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
Ở thế kỷ XX,
cảm hứng Phật giáo trong thơ nói riêng cũng như văn chương nói chung vẫn chiếm giữ một vị thế quan trọng. Đầu thế kỷ XX đến
1945, nhiều tác giả thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn có hứng thú với Phật
giáo. Từ 1945 đến 1975, ở miền Bắc, một số sáng tác của Chế Lan Viên, Huy Cận,
Hoàng Cầm,… ít nhiều ảnh hưởng bởi triết lí Phật giáo. Tuy nhiên, nhìn tổng
thể, cảm hứng Phật giáo trong thơ miền Bắc dường như chưa được khai thác về chiều
sâu. Ở mảng thơ đô thị miền Nam, vấn đề tâm linh, các tư
tưởng tôn giáo, nhất là Phật giáo được quan tâm khám phá, khai thác nhiều hơn. Tư tưởng
Thiền học đã có sự gặp gỡ với các lí thuyết triết - mỹ phương
Tây như phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh… trong việc thể hiện một thực tại phi lý, sự đổ vỡ niềm tin và nỗi buồn thân phận
con người. Sau 1975, những chuyển biến trong nhận thức về tôn giáo và văn học
đã tạo điều kiện thuận lợi cho cảm hứng Phật giáo được thăng hoa. Trong thơ, Phật
giáo được nhìn nhận lại, được khám phá ở nhiều chiều kích mới mẻ với nhiều hình
thức thể nghiệm hiện đại...
2.2.2. Cảm hứng
Ki tô giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
Cảm hứng Ki tô giáo cũng là một nguồn cảm hứng tôn giáo cơ bản, tiêu biểu
của thơ Việt thế kỷ XX, dù có phần không nổi bật bằng cảm hứng Phật giáo. Đầu thế kỷ XX đến 1945, các nhà thơ mới, nhất là Hàn Mặc Tử, có niềm hứng thú, say mê với Ki tô
giáo. Từ 1954 đến 1975, ở miền
Nam, Thiên Chúa giáo phát triển khá nhanh, có ảnh hưởng
lớn đến đời sống chính trị xã hội và văn học. Giai đoạn này, các tác
giả đều tìm thấy ở Ki tô giáo một niềm đồng cảm lớn về thân phận con người
trong chiến tranh, về nỗi buồn bản thể và một niềm tin trung trinh về Thiên
Chúa, một khát vọng được thay đổi. Sau 1975, cảm hứng Ki tô giáo, trong nguồn mạch chung của cảm hứng tôn giáo, có
cơ hội được cất lên tiếng nói dân chủ hơn trong văn học. Cảm hứng Ki tô giáo giai đoạn này được thể hiện trong những hình thức
thơ có nhiều đổi mới về thi pháp, mạnh dạn chạm đến
nhiều vấn đề trong đời sống hiện đại, các góc khuất tâm linh, cõi vô thức,...
2.2.3. Một số cảm hứng tôn giáo khác
trong thơ Việt Nam thế kỷ XX
Thơ Việt Nam thế kỷ
XX còn có sự hiện diện của một số cảm hứng tôn giáo khác. Tuy nhiên, vị thế và
đóng góp của các cảm hứng tôn giáo này cho thơ ca dân tộc thực sự chưa nổi bật
bằng cảm hứng Phật giáo và Ki tô giáo.
Tiểu kết chương 2:
Ngoài việc xác định các cơ sở lịch sử, xã hội, văn
hóa, văn học của sự tiếp nối cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX, chúng
tôi tập trung làm rõ các khái niệm cảm hứng Phật giáo và cảm hứng Ki tô giáo
cùng các chặng đường vận động của hai nguồn cảm hứng này. Cảm hứng Phật giáo
chiếm ưu thế, thu hút số đông tác giả và gặt hái nhiều thành tựu hơn. Cảm hứng
Ki tô giáo dù có những giai đoạn không phát triển mạnh mẽ bằng nhưng bù lại có
những kết tinh rực rỡ, đỉnh cao như hiện tượng thơ Hàn Mặc Tử. Đặt trong hành
trình cả thế kỷ XX, hai nguồn cảm hứng đều vận động song hành và có những thời
điểm thăng hoa như giai đoạn 1930 đến 1945 và từ sau 1986. Khi nhận diện cảm hứng tôn giáo trong thơ hiện
đại, chúng tôi cũng đặt ra vấn đề phân biệt giữa “văn học tôn giáo” và
“cảm hứng tôn giáo trong văn học”.
CHƯƠNG 3
CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM
THẾ KỶ XX, NHÌN TỪ NỘI
DUNG BIỂU HIỆN
3.1. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX về các cõi và đức tin
3.1.1. Cảm hứng Phật giáo về các cõi và đức tin
3.1.1.1. Cảm hứng về các cõi
Trong quan niệm của Phật
giáo, niết bàn và cực lạc được xem là các cõi giải thoát của con người. Và con
người có thể tìm thấy niết bàn, cực lạc, đạt đến hạnh phúc ngay ở cuộc đời này
nếu biết buông bỏ mọi sân si, ái chấp, tạp niệm. Ở đó, con người luôn sống trong tâm an, tự tại, giải thoát trong một thế giới vô vi, hằng thường, an nhiên. Đạt được đến trạng thái đó nghĩa là con người đã ở cõi lí tưởng mà Phật giáo muốn hướng tới. Có thể bắt gặp đặc điểm chung trong
cái nhìn về cõi lí tưởng này ở thơ của rất nhiều nhà thơ hiện đại có thấm nhuần
tư tưởng Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Bùi Giáng, Minh Đức Triều
Tâm Ảnh,…
3.1.1.2. Cảm
hứng về đức tin
Với
Phật giáo, đức tin thể hiện ở sự tin tưởng vào khả năng giác ngộ (Phật tính) sẵn có
ở mọi loài, chứ không phải tin nơi quyền phép có thể ban phúc trừ họa. Đức tin Phật giáo trong thơ
hiện lên với đa dạng màu vẻ, song điểm chung thống nhất là các nhà thơ đều
hướng tới đức tin như một đích đến hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp. Thơ
của Nhất Hạnh thể hiện cái nhìn hiện đại về đức tin Phật
giáo. Với thi
nhân, đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi
huyền bí nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin vào chính mình: Tâm đi trong tĩnh mặc/ Bắt gặp chân như
về (Padmapani)…
3.1.2. Cảm hứng Ki tô giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX về các cõi và đức
tin
3.1.2.1. Cảm hứng về các cõi
Ki tô giáo hướng con
người tìm đến chân lý, ánh sáng ở cõi Thiên đường. Hình
ảnh cõi Thiên đường đã đi vào trong cảm quan của các nhà thơ hiện đại, nhất là
những nhà thơ mộ đạo như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự,
Võ Long Tê... như một thế giới hào quang, sáng láng và đẹp đẽ... Mặt
khác, cõi Thiên đường trong cảm quan của
các nhà thơ, vừa gần gũi, vừa hư ảo, siêu hình. Thiên đường đã trở thành thế giới lí tưởng trong khát vọng hướng đến
của con người, trở thành chân lí của đức tin.
3.1.2.2. Cảm hứng về đức tin
Đức tin Thiên Chúa giáo được
hiểu là sự nương cậy hoàn toàn của một người vào tình yêu và quyền năng của Đức
Chúa trời, đồng thời dâng hiến trọn vẹn tấm lòng, cuộc đời của mình cho Chúa
(người có ơn thiên triệu). Các nhà thơ là
tín đồ Ki tô giáo sớm hạnh ngộ niềm tin Thiên Chúa. Họ
tìm đến thơ ca để giãi bày những cảm nghiệm đức tin. Tuyên xưng đức tin mạnh mẽ nhất trong thơ phải kể đến Hàn Mặc Tử.
Đức tin trong thơ ông đã vượt thoát khỏi nét nghĩa của một đức tin tôn giáo cụ
thể để vươn tới một đức tin thơ tinh khôi, thanh cao, nhuốm màu siêu thực: Đức tin thơm hơn ngọc (Điềm lạ). Đức
tin đó là chân lí của cái đẹp thiêng liêng và vĩnh viễn, là ngọn nguồn thơ ca,
niềm an ủi duy nhất mà nhà thơ khao khát kiếm tìm.
3.2. Cảm hứng tôn
giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX về đạo và đời, mối quan hệ giữa đạo và đời
3.2.1. Cảm hứng Phật giáo về đạo và đời, mối quan hệ giữa
đạo và đời
Các nhà
thơ hiện đại đều tìm thấy niềm đồng cảm với quan niệm về sự khổ của giáo lí Phật
giáo, nhất là các nỗi khổ về lẽ sinh - tử mong manh, sự hạn hữu của kiếp người,
ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, cuộc đời là hư ảo. Thi
giới siêu hình trong Điêu tàn của Chế Lan Viên thấm đẫm nỗi đau của
cái tôi cô độc, sầu não, một cái tôi ý thức sâu sắc về sự hiện tồn của bản thể,
sự hư vô của thân phận: Tôi là kết tinh của ánh trăng trong/ Sao không cho tôi đến chốn hư
không? (Tắm
trăng). Phạm Thiên Thư
nhìn thấy nỗi sầu muộn thế nhân và thấy rõ nó thật phù du: Cõi
người có bao nhiêu / Mà tình sầu vô lượng... (Vết
chim bay). Nhất Hạnh chứng thực tất cả những khổ đau của dân tộc
và kiếp người: Những
đau thương rền rĩ cháy tâm can/ Trên mặt đất thương tâm còn diễn tả... Bùi
Giáng khắc khoải về sự mong manh của kiếp người, lẽ sinh tử biệt ly, sự ám ảnh
của cái chết... Tuy nhiên, các nhà thơ ý thức rõ cội nguồn của nỗi đau khổ nằm
ngay trong bản chất của con người, trong hiện hữu của chính nó. Đây là điểm độc đáo của nhân sinh quan Phật giáo, thể
hiện rõ mối quan hệ giữa đạo và đời. Phật giáo giúp con người nhận thức được bản
chất của khổ đau và thực hành tu tập để không bị rơi vào trạng thái tuyệt vọng,
để khi đối mặt với những nỗi đau khổ của cuộc sống hiện thực, con người biết sống
tích cực trong chính cuộc đời ngắn ngủi này. Nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa
đời và đạo trong triết lí của Phật pháp, các nhà thơ hiện đại đã tìm đến với đạo
Phật như một cánh cửa đạo sinh.
3.2.2. Cảm hứng
Ki tô giáo về đạo và đời, mối quan hệ giữa đạo và đời
Hạt nhân
tư tưởng của giáo lí Ki tô giáo là tư tưởng sáng thế và cứu chuộc. Đạo là nguồn sống tối cao, nguyên ủy của muôn vật,
muôn loài. Đời là sự tri ân ơn sáng thế và cứu chuộc của Thiên Chúa. Hàn Mặc Tử đã tuyên ngôn về tư tưởng này trong bài thơ Ave Maria: Như song lộc triều nguyên ơn phước
cả… Mai Văn Phấn cũng thừa nhận sức ảnh hưởng sâu sắc của ánh sáng Thiên
Chúa. Ánh
sáng dẫn lối, cứu rỗi của Thiên Chúa được thể hiện rõ nét trong các tập thơ Gọi xanh, Cầu nguyện ban
mai. Mai Văn Phấn còn nhấn mạnh cảm thức được phục
sinh, được trở về với nguồn cội uyên nguyên: Hôn em thật lâu ghi dấu/ Nơi
đây. Giờ này/ Đám mây kia xuống thấp/ Buổi uyên nguyên trái đất quay về (Tỉnh dậy
trong mưa - 4)... Sự thấm nhuần đức tin đã góp phần rọi sáng thế giới
quan, nhân sinh quan của các nhà thơ, khiến họ luôn hướng về sự sống, hướng về
cuộc đời với niềm tin yêu tha thiết, mãnh liệt. Đặc biệt hơn, với các nhà thơ, sự thức dậy của cái đẹp nhân bản trong chiều sâu nhân tính mỗi con người đã thúc giục họ tận hiến cho thơ,
cho đời và cho đạo.
3.3. Cảm hứng tôn giáo về ngã/ bản ngã
3.3.1. Cảm hứng Phật giáo về ngã/ bản ngã
Biểu hiện của tư tưởng vô ngã là sự
ý thức về “vật ngã đồng nhất”. Con người đạt đến vô ngã là khi họ tìm thấy được
tự ngã của mình nơi ngoại vật. Tự ngã nơi ngoại vật có thể hiểu đó là thời khắc
tâm thức cá nhân hòa nhập với tâm thức vũ trụ. Khi
đã thức ngộ được lẽ biến hóa, vô thường tất
yếu đó của nhân sinh, của vũ trụ, con người có thể chấp nhận tất cả những thuận hay nghịch duyên của ngoại
cảnh trên tinh thần vô ngã, vô minh. Đây là điểm hấp dẫn của Phật giáo đối với thơ
ca. Trong thơ luôn hiện diện hình tượng một cái tôi trữ tình mang tâm thế an
nhiên, tự tại vì đã đốn ngộ sâu sắc về tinh thần vô ngã của Phật giáo. Hình
tượng cái tôi trữ tình trong thơ Phạm Thiên Thư luôn an nhiên tự tại giữa thiên
nhiên trần thế. Cái tôi trong thơ Quách Tấn lúc nào cũng ung dung, thong dong bởi
nhà thơ luôn giữ lòng tự tại trước thực tế thay đổi theo thời gian. Cái tôi trong thơ Nhất Hạnh mang tâm thức Thiền nhập
thế…
3.3.2. Cảm hứng
Ki tô giáo về ngã/ bản
ngã
Ý thức về ngã/bản ngã của Ki tô
giáo thể hiện ở quan niệm về sứ mệnh phụng vụ. Ki tô giáo đề cao tinh thần tự
do để hiến thân, tự do để phụng vụ. Tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu sắc đến các
nhà thơ, thể hiện ở khát vọng tận hiến mãnh liệt. Đối với
Hàn Mặc Tử, sáng tạo thơ ca chính sự thể hiện cái tôi tận hiến mãnh liệt
và thiêng liêng nhất. Ở thi nhân, thơ và đạo đã trùng nhập, đồng nhất vào nhau, đưa thơ đạt
đến ngưỡng tột cùng của sáng tạo nghệ thuật: “cái thơ trên cái khác thơ nữa”
(Hàn Mặc Tử). Quan
niệm tận hiến trong sáng tạo này cũng được xác tín một cách quyết liệt ở hồn
thơ Mai Văn Phấn. Nhà thơ đã luôn trăn trở, tìm tòi, thể nghiệm cá tính qua những
sáng tạo không ngừng nghỉ, không lặp lại, như chính tuyên ngôn của ông: Anh là con
cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động…
Tiểu
kết chương 3:
Cảm hứng tôn giáo về
các vấn đề đức tin, các cõi, đạo và đời, ngã/bản ngã đã tạo nên cái nhìn đa chiều về thế giới, mở
ra những giới hạn không cùng cho công cuộc sáng tạo nghệ thuật, tăng thêm sức
mạnh cho thơ trong việc khai mở một cõi thế giới riêng biệt của tâm linh. Cảm hứng Phật giáo giúp
con người thấu hiểu quy luật vô thường của đời sống, bản chất vô ngã của mọi
thực thể, từ đó bình thản chấp nhận quy luật sanh diệt, đón nhận hạnh phúc
trong an nhiên, tự tại. Cảm hứng Ki tô giáo thức dậy ở con người thái độ tri ân
và trân trọng cuộc sống, hòa nhập với cộng đoàn trong tinh thần bác ái, chia
sẻ. Tuy nhiên, tận cùng chiều sâu,
Phật giáo và Ki tô giáo đều gặp nhau ở tính thiện, tính thiêng, ở các giá trị
nhân bản, vĩnh hằng. Điều này lí giải sự gặp gỡ của các tôn giáo trong cảm quan
ở cùng một nhà thơ như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Mai Văn Phấn,... Mỗi giai đoạn khác nhau, trong khí quyển văn
hóa của những thời đại không giống nhau và cả những trải nghiệm tôn giáo riêng
biệt ở mỗi nhà thơ, cảm hứng tôn giáo trong thơ cũng có nhiều dáng vẻ. Cảm hứng
tôn giáo luôn tiếp nối và vận động, phát triển trong suốt chiều dài thơ Việt
với một diện mạo vừa hết sức đa dạng vừa mang đặc trưng riêng, tạo nên vị thế
và đóng góp không thể thay thế.
CHƯƠNG 4
CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM THẾ KỶ XX, NHÌN TỪ CÁC
PHƯƠNG THỨC, PHƯƠNG TIỆN NGHỆ THUẬT
4.1. Lựa chọn đa dạng các thể thơ và tổ chức, kết cấu bài thơ theo mạch vận động
của tâm linh
4.1.1. Cảm hứng Phật giáo với sự lựa chọn thể thơ và tổ
chức, kết cấu bài thơ
4.1.1.1. Thể thơ
Vốn là dòng cảm hứng có từ lâu trong văn học dân tộc,
cảm hứng Phật giáo rất thích hợp với các thể thơ truyền thống như các thể lục
bát, Đường luật (nhất là thể tứ tuyệt), thậm chí là thể hai – cư của văn học Nhật
Bản. Các nhà thơ đã khai thác tối
đa khả năng trữ tình và tự sự của thể thơ để diễn tả những nỗi buồn mơ hồ kéo
dài, những tình cảm bâng khuâng thương nhớ, những suy tư của con người trước cuộc
đời hư vô, sự ý thức về cuộc đời hữu hạn và thân phận cát bụi, nhỏ nhoi của con
người trong trần thế cùng những khát vọng mạnh mẽ
về đức tin, cõi
niết bàn, cõi thiên thu. Có thể tìm thấy biểu hiện này qua thơ Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư,
Bùi Giáng, Quách Tấn, Mai Văn Phấn,… Các nhà thơ còn vận
dụng phong phú các thể thơ hiện đại như thể tự do, thể thơ văn xuôi, thể 7 chữ,
thể 8 chữ… Các thể hiện đại có lợi thế
hơn trong việc thể hiện những nội dung mới mẻ mang tính chất thần học siêu hình
của tư duy tôn giáo. Tuy nhiên, các thể thơ truyền thống ngắn gọn, cô đúc, “ý tại
ngôn ngoại” phù hợp hơn cả với đặc trưng của mỹ cảm Phật giáo nên được vận dụng
nhiều hơn cả.
4.1.1.2. Tổ chức, kết cấu bài thơ
Bên cạnh kết cấu của các
bài thi kệ thường thấy của thơ Thiền truyền thống (như thơ Thích Nhất Hạnh,
Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Tuệ Sỹ, Trụ Vũ…), các nhà thơ còn “thi hóa” kinh Phật với
kết cấu dưới dạng những câu chuyện Phật pháp (như thơ Phạm Thiên Thư). Ngoài ra,
cảm hứng Phật giáo với muôn vàn trạng huống tâm linh phức tạp của con người
thời hiện đại còn tìm cách cách tân kết cấu thơ, đưa thơ ngày càng bám sát mạch
vận động của xúc cảm tâm linh. Để nắm bắt được dòng cảm xúc ấy, thơ hiện đại
thường sử dụng kết cấu mở. Thơ mang cảm hứng Phật giáo có kết cấu rộng mở, giàu
hàm nghĩa với nhiều biểu tượng ẩn chứa triết lý tôn giáo. Thơ Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên mang âm hưởng Phật giáo qua lối viết tự động tâm linh, với những hình
ảnh biểu tượng về không gian mơ hồ, hư ảo,…
4.1.2. Cảm hứng Ki tô giáo với sự lựa chọn
thể thơ và tổ chức, kết cấu bài thơ
4.1.2.1. Thể thơ
Với
khả năng diễn ca, kể chuyện, vần điệu dễ nhớ, dễ thuộc, thể lục bát được khá
nhiều nhà thơ vận dụng để tái
hiện sống động các câu chuyện Thánh kinh, rao giảng luân lí tôn giáo. Các thể 7
và 8 chữ cũng được sử dụng để kể các câu chuyện tôn giáo bằng thơ. Có
những câu chuyện Thánh Kinh đã được “thi hóa” bởi các nhà thơ là tín đồ như Lê
Đình Bảng, Trăng Thập Tự, Võ Long Tê,... Các
cung bậc phong phú của cảm hứng Ki
tô giáo còn dẫn
dắt các nhà thơ tìm đến các thể thơ tự do, thơ văn xuôi nhằm khám phá những
miền kì bí khó nắm bắt nhất của hồn người, tạo nên những lời thơ tế vi, đánh
thức những rung động bản thể đầy nhân văn
(như thơ Hàn Mặc Tử, Mai Văn Phấn,…). Nhìn chung, trong cơ
hội lựa chọn đa dạng các thể thơ, nếu cảm hứng Phật giáo thiên về sử dụng các
thể thơ truyền thống thì cảm hứng Ki tô giáo lại ưa thích các thể thơ hiện đại,
nhất là thơ tự do, thơ văn xuôi. Điều này xuất phát từ đặc trưng thẩm mỹ và căn
nguyên văn hóa của mỗi loại hình cảm hứng.
4.1.2.2. Tổ chức, kết cấu bài
thơ
Cảm hứng Ki tô giáo
cũng có kiểu kết cấu theo hình thức các câu chuyện kể để chuyển tải giáo lí Thiên
Chúa. Cùng với kết cấu tự sự, cảm hứng Ki tô giáo trong thơ hiện đại còn ưa lối
kết cấu men theo mạch vận động của tâm linh. Kết cấu nhiều bài thơ của các tác
giả Công giáo thường được tổ chức theo hướng mở, vận động tự do, phóng khoáng
trong thế giới của trực giác, vô thức. Lối kết cấu linh hoạt, hiện đại không
chỉ đưa người đọc đến với một thế giới tâm linh đầy hấp dẫn mà còn gợi trí liên
tưởng, sáng tạo. Kiểu kết cấu này thể hiện rất rõ trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Mai Văn Phấn,… Tổ chức, kết cấu bài thơ theo mạch vận động
tâm linh, một mặt phù hợp để khai thác miền tâm thức thẳm sâu của tôn giáo, mặt
khác mở rộng nhiều cơ hội cách tân cho thơ ca, khiến cho thơ hiện đại trở nên
phong phú với nhiều hình thức biểu đạt hữu hiệu.
4.2. Tô đậm tính thiêng liêng của biểu tượng
4.2.1. Hệ biểu tượng
mang cảm hứng Phật giáo
Khảo sát thơ Việt Nam hiện đại, có
thể thấy, rất nhiều hình ảnh thiên nhiên đã được đẩy lên ý nghĩa biểu tượng,
trong đó phổ biến hơn cả là biểu tượng mùa xuân, hoa sen, nước,... Thơ hiện đại
còn có các biểu tượng mang đậm đặc trưng văn hóa Phật giáo. Đó là biểu tượng về
đức Phật, Bụt, Bồ tát, Thánh ni, chư tăng,…; về đền, chùa, âm thanh tiếng
chuông; v.v… Việc sử dụng biểu tượng giúp thơ ca có khả năng chuyển tải các
thâm ý sâu xa, giàu ý nghĩa của tinh thần Phật pháp.
4.2.2. Hệ biểu tượng mang cảm hứng Ki tô giáo
Cảm
hứng Ki tô giáo cũng dẫn dắt các nhà thơ hiện đại khai thác các biểu tượng
thiên nhiên. Bầu trời - mặt đất, nước - lửa, ánh sáng - bóng tối là những cặp
biểu tượng được vận dụng nhiều nhất. Các hình ảnh đơn thuần này, trong cảm quan
Ki tô giáo của các nhà thơ, đã được khoác lên màu sắc màu nhiệm, thiêng liêng
với nhiều ý nghĩa.
Tóm lại, các biểu tượng thơ mang cảm hứng Phật giáo và Ki
tô giáo trong thơ ca hiện đại hết sức phong phú, vừa có sự thống nhất vừa mang
nét đặc sắc riêng của từng loại cảm hứng. Nếu hệ biểu tượng thơ mang cảm hứng
Phật giáo chú trọng biểu hiện tinh thần từ bi, chủ trương tùy duyên, chú trọng
đến bản thể chân như của vạn vật thì hệ biểu tượng mang cảm hứng Ki tô giáo
hướng tới diễn tả sức mạnh tối thượng của vũ trụ trong tinh thần sáng thế của
Thiên Chúa. Đồng thời, các biểu tượng này trong cảm quan tôn giáo ở từng nhà
thơ còn được cá thể hóa, thể hiện cách nhìn riêng của thi nhân. Các nhà thơ đã để cho tư tưởng triết lý hiện lên một
cách tự nhiên qua những biểu tượng tôn giáo được nghệ thuật hóa. Như vậy, cảm
hứng tôn giáo chi phối không chỉ ở tư tưởng, mà cả trong tư duy nghệ thuật và
lối thể hiện.
4.3. Giọng điệu và ngôn
ngữ mang đậm màu sắc tôn giáo
4.3.1. Giọng
điệu và ngôn ngữ đậm sắc thái Thiền
Thiền đi vào trong tâm thức nhà thơ, chuyển hóa thành cơ
chế trữ tình trong sáng tác, khiến cho giọng điệu và ngôn ngữ thơ cũng đậm sắc
thái Thiền. Biểu hiện rõ nhất màu Thiền trên phương diện giọng điệu là các sắc
thái chiêm nghiệm, triết lí và trữ tình sâu lắng. Để biểu hiện giọng điệu trữ
tình và triết lí, các nhà thơ sử dụng phổ biến lớp ngôn từ Phật học, kiểu ngôn
ngữ mang màu sắc vô ngôn và siêu thực… Những suy tư sâu sắc của Phật pháp đã
nâng cánh cho lời thơ, đưa thơ đến những sáng tạo không biên giới, tạo nên
những nốt âm đẹp, lạ trên diễn đàn thi ca đương đại. Mặt khác, chính sức mạnh
của lời thơ đã góp phần “thi hóa” ngôn ngữ Phật giáo, đưa tinh thần Phật học
đến gần hơn với chúng sinh, với đời sống.
4.3.2. Giọng
điệu và ngôn ngữ đậm màu sắc Ki tô giáo
Thơ mang cảm hứng Ki tô giáo cũng có
giọng điệu chiêm nghiệm, triết lí, trữ tình và ngôn ngữ thơ siêu thực. Các nhà
thơ cũng tìm cách thi hóa ngôn ngữ thánh kinh Ki tô giáo. Tuy nhiên, trong khi
cảm hứng Phật giáo thường khiến thơ thiên về giọng suy tư, triết lí thì cảm
hứng Ki tô giáo khiến cho thơ nghiêng hơn về giọng giãi bày, chia sẻ và ngợi ca
thành kính. Cùng là ngôn ngữ mang màu sắc siêu thực nhưng một bên thấm đẫm tinh
thần Thiền học còn một bên lại siêu linh trong ánh sáng Ki tô giáo. Tất cả góp
phần làm nên sự đa dạng, phong phú cho giọng điệu và ngôn ngữ thi ca hiện đại;
thể hiện nỗ lực đáng kể của các nhà thơ trong việc tạo ra những chất liệu biểu
đạt mới, những cách nói mới của thơ ca qua
cảm quan tôn giáo.
Tiểu kết chương 4:
Cảm
hứng
tôn giáo đã
chi phối mạnh mẽ đến nhiều phương thức biểu đạt của thơ ca. Các nhà thơ Thích
Nhất Hạnh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Tuệ Sĩ,... và Trăng Thập Tự, Xuân Ly
Băng,... trong vai trò là các tín đồ hoạt động tôn giáo tích cực, họ ý thức rất
rõ việc dùng thơ ca như một phương tiện để truyền giáo, cứu độ chúng sinh nên
quan tâm nhiều hơn đến nội dung truyền tải là các giáo lí tôn giáo. Còn ở Hàn
Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Bùi Giáng, Mai Văn Phấn,... sự chi phối sâu
của tôn giáo đã góp phần giải phóng cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ, thôi
thúc họ tiến xa hơn trên con đường tìm những hình thức thể hiện mới cho thơ. Vì
thế họ chú trọng nhiều hơn việc cách tân về phương thức, phương tiện nghệ
thuật. Nhìn trên hành trình thơ thế kỷ XX, có thể thấy, thơ mang cảm hứng tôn
giáo hôm nay có dấu ấn của siêu thực, tượng trưng vốn đã có từ Thơ mới và được
tiếp nối trong trường thơ đô thị miền Nam. Sang thế kỷ XXI, thơ vẫn đang tiếp
tục phát triển với những hình thái diễn đạt đầy cách tân, sáng tạo. Thi pháp
thơ hậu hiện đại đã được thể nghiệm trong thơ các hiện tượng thơ tôn giáo đương
đại như Mai Văn Phấn, Pháp Hoan, Phápxa Chan,... Như vậy, dưới sự dẫn dụ của
cảm thức tôn giáo, thơ ngày càng có khả năng biểu đạt rộng mở các trạng thái
phức tạp của tâm linh con người thời hiện đại. Ngược lại, chính sự nỗ lực tự
làm mới mình của tự thân thi ca, cảm hứng tôn giáo cũng được nới rộng các chiều
kích biểu hiện độc đáo, đem lại mĩ cảm mới cho người tiếp nhận.
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở những tác động sâu sắc của thế
giới quan, nhân sinh quan tôn giáo đến tư duy, nhận thức của con người; đặt
trong sự tiếp nối của nguồn mạch cảm hứng dồi dào từ truyền thống văn học dân
tộc; với những chuyển biến mạnh mẽ của các sự kiện lịch sử, văn hóa thế
kỷ XX; có
thể khẳng định cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt hiện đại vẫn tiếp tục phát
triển và trở thành một trong những nguồn cảm hứng nổi bật. Trong đó, Phật giáo
và Ki tô giáo là hai nguồn cảm hứng có diện phủ sóng phổ rộng hơn cả. Trong tương quan đối
sánh, nguồn cảm hứng Phật giáo tỏ ra chiếm ưu thế, thu hút được số đông tác giả
và gặt hái được nhiều thành tựu hơn, trong khi cảm hứng Ki tô giáo lại đạt tới
những kết tinh rực rỡ, đỉnh cao. Hai nguồn cảm hứng này luôn vận động song
hành, có những thời điểm thăng hoa, và có nhiều đóng góp đặc sắc, ý nghĩa cho
thơ ca dân tộc cũng như đời sống con người.
2. Cảm hứng tôn giáo
trong thơ hiện đại chú trọng biểu hiện các vấn đề về đức tin, các cõi, đạo và
đời, bản ngã. Cảm hứng Phật giáo giúp thơ thức nhận và phơi bày sự thật về “khổ
đế” của cuộc sống nhân sinh hiện đại, thấu hiểu quy luật vô thường, xem trọng
vô ngã, đề cao sự thức tỉnh trí tuệ, giác ngộ chân như thật tính để từ đó hướng
tới cuộc sống an hòa, tự tại, biết yêu thương, chia sẻ và cảm thông với con
người và vạn vật. Cảm hứng Ki tô giáo trong thơ hiện đại đề cao tư
tưởng sáng thế, giúp con người nhận ra nguồn gốc, giá trị cao quý của chính
mình và muôn loài, thức dậy sức mạnh vượt lên mọi đau thương trần thế, biết
trân tri ân và trân trọng cuộc sống, sống phụng hiến trong tinh thần bác ái, sẻ
chia. Như vậy, dù mang những nét đặc trưng khác nhau trong quan niệm về đức
tin, bản ngã, trong cái nhìn về các cõi, trong cách xử lí mối quan hệ giữa đạo
và đời, song các cảm hứng tôn giáo đều thống nhất ở mục đích nhân văn, ở ý
nghĩa hướng thiện. Qua đó, thơ đạt
đến chiều sâu của giá trị nhân bản, trở thành tiếng nói khai mở một
cõi thế giới riêng của đời sống tinh thần thiêng liêng. Nói cách khác, cảm hứng
tôn giáo đã tạo nên cái nhìn đa chiều về thế giới, góp phần làm phong phú và
sâu sắc nội dung, nâng tầm tư tưởng, tính trí tuệ cho thơ hiện đại.
3. Cảm
hứng tôn giáo cũng chi phối đến các phương thức, phương tiện biểu đạt của thơ
hiện đại. Cảm hứng Phật giáo thích hợp hơn cả
với các thể thơ truyền thống. Mô hình lục bát cân đối với nhịp “đưa nôi” có khả
năng điều hòa cảm xúc, đưa lại sự cân bằng hài hòa trong mối quan hệ giữa con
người với ngoại giới. Với dáng vẻ hàm súc, ngôn ngữ nghiêng về tính ý tượng,
thể tứ tuyệt Đường luật giúp các nhà thơ chuyển tải hữu hiệu tinh thần vô ngôn,
đốn ngộ của Thiền học. Cảm hứng Ki tô giáo thường tìm đến thơ tự do, thơ văn
xuôi, thậm chí trường ca. Trong khuôn khổ dài hơi của trường ca, khả năng rộng mở, phóng túng của
thơ tự do, thơ văn xuôi, những cơn sảng sốt tinh thần, sự miên man tâm trí
trong quá trình được mặc khải của con người hiện diện rõ nét. Cùng với thể thơ,
kết cấu bài thơ cũng được đa dạng hóa, trong đó nổi bật nhất là cách tổ chức
bài thơ men theo mạch vận động của tâm linh. Hệ thống biểu tượng thiên
nhiên và các biểu tượng tôn
giáo có ưu thế quan trọng trong việc kết tinh và chuyển tải các tương giao phức
tạp giữa các vấn đề phức tạp trong đời sống nên được khai thác ngày càng nhiều.
Ngôn ngữ thơ cũng nhuốm đậm màu Thiền và Ki tô giáo kết hợp với màu sắc siêu
thực; đi liền với giọng điệu suy tư, triết lí; giọng ngợi ca, thành kính;... Dưới
ảnh hưởng của tôn giáo, nghệ thuật thơ ca hiện đại trở nên hấp dẫn, mới mẻ hơn.
Ngược lại, qua những cách diễn đạt hấp dẫn của thơ ca, tôn giáo vốn trừu tượng,
khó hiểu trở nên gần gũi, dễ tiếp cận với con người. Mặt khác, nhìn vào lịch sử
thơ ca thế kỷ XX, dễ dàng nhận thấy, cảm hứng tôn giáo đã có sự kế thừa và tiếp
nối truyền thống thơ ca dân tộc, đồng thời làm mới mình ở nhiều chiều kích, màu
vẻ trong sự thâu nhận nhiều kinh nghiệm sáng tạo của thơ ca, mỹ học phương Tây.
Rõ ràng, thơ ca và tôn giáo đã cùng đồng hưởng trong trực giác của người nghệ
sĩ, thôi thúc nhà thơ tạo nên những thi phẩm mang tính cách tân, đưa lại những
mỹ cảm mới cho người tiếp nhận.
4. Xuyên
suốt chiều dài của thơ Việt thế kỷ XX, cảm hứng tôn giáo đã trải qua nhiều
chặng đường vận động thăng trầm, thịnh suy. Nếu thời kỳ trước 1945, cảm hứng Ki
tô giáo có ưu thế hơn với Hàn Mặc Tử, Hồ Dzếnh, Bàng Bá Lân, Chế Lan Viên,… thì
đến sau 1954, cảm hứng Phật giáo đã được quan tâm trở lại trong các sáng tác
của Thích Nhất Hạnh, Phạm Công Thiện, Phạm Thiên Thư, Bùi Giáng, Tuệ Sỹ, Minh
Đức Triều Tâm Ảnh, Trịnh Công Sơn,… Sau 1986, trong không khí khá cởi mở của xã
hội, cả hai nguồn cảm hứng đều song hành và phát triển với cách tân thơ mạnh mẽ
ở những hiện tượng thơ như Mai Văn Phấn, Pháp Hoan, Phápxa Chan,… Bên cạnh đó,
thơ Việt hiện đại còn chứng kiến sự hiện diện của cảm hứng Đạo giáo, hoặc các
cảm hứng xuất phát từ sự hỗn nhập của nhiều tôn giáo, các tín ngưỡng văn hóa
bản địa (như văn hóa Chăm ở hiện tượng Inrasara,…), v.v… Quá trình này cho
thấy, cảm hứng tôn giáo, trong hành trình dài của thơ Việt thế kỷ XX, dù có những
khúc quanh, ngã rẽ, nhưng vẫn luôn kế thừa, tiếp nối, trở thành mạch nguồn
xuyên suốt, nổi bật trong thơ ca, văn học dân tộc.
5. Hiện
nay, Việt Nam đã bước sang thế kỷ XXI - kỷ nguyên của toàn cầu hóa, của thời
đại cách mạng kỹ thuật số. Song, đằng sau sự văn minh, tiến bộ, con người cũng
đối mặt với muôn vàn thử thách. Đó là sự đổ vỡ, tổn thương tinh thần trước các
cạm bẫy của đô thị hiện đại; sự hoang mang của con người trước mê hồn trận của
biết bao nhiêu trào lưu, chủ thuyết; sự đảo lộn các chuẩn mực đạo đức khiến mọi
giá trị bị tầm thường hóa;... Bối cảnh ấy, khiến con người có xu hướng tìm đến
tôn giáo nhiều hơn. Trong thơ, cảm hứng tôn giáo được quan tâm không chỉ với
những hiện tượng thơ trong nước mà cả những hiện tượng thơ Việt ở nước ngoài
như Pháp Hoan, Phápxa Chan, v.v... Từ
thực tế này, có thể khẳng định: thứ nhất: cảm hứng tôn giáo vẫn đang phát triển
không ngừng nghỉ và hứa hẹn đưa thơ đến những chiều kích mới trong sáng tạo,
góp phần thúc đẩy sự phát triển của thơ ca dân tộc; thứ hai: thơ mang cảm hứng
tôn giáo vẫn luôn mang ý nghĩa tích cực đối với đời sống con người. Cảm hứng
tôn giáo, trong chừng mực nhất định, có thể giúp con người cân bằng lại các trạng
thái tinh thần, xem xét lại sự sáng rõ nhiều khi đến mức đáng ngờ của các luận
thuyết xã hội duy lí, chế ngự sự lạm phát của cái tôi với nhiều toan tính lí
trí. Hơn thế, các giá trị nhân bản vĩnh hằng của tôn giáo đồng thời là các giá
trị sống cốt lõi của nhân loại. Do đó, cảm hứng tôn giáo còn giúp thơ chống trả
lại quá trình tầm thường hóa thi ca, nâng tầm tư tưởng cho thơ, khiến cho thơ
mang màu sắc của nhân loại. Riêng đối với dân tộc Việt Nam hiện nay, cảm hứng
tôn giáo trong thơ góp phần gìn giữ các truyền thống nhân văn tốt đẹp của dân
tộc, và định hướng giá trị sống cho nhân cách con người hiện đại. Thơ mang cảm
hứng tôn giáo, vì thế, vẫn luôn là đối tượng hấp dẫn và sẵn sàng “mời gọi” những diễn
dịch đa chiều.
DANH MỤC CÁC
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
- Nguyễn Thị Kim Hồng (2/2018), “Đặc trưng ngôn ngữ, giọng điệu trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua bộ tuyển tập Có một vườn thơ đạo)”, Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH QG Hà Nội, Tập 4, Số 1 (2/2018).
- Nguyễn Thị Kim Hồng (4/2018), “Giọng điệu giãi bày trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Nghiên cứu và giảng dạy Ngoại ngữ, ngôn ngữ và Quốc tế học tại Việt Nam, NXB ĐH QG Hà Nội.
- Nguyễn Thị Kim Hồng (7/2018), “Biểu tượng trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại”, Tạp chí Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh (Viện KHXHVN - Viện KHXH vùng Nam Bộ), Số 3 (235), (7/2018).
- Nguyễn Thị Kim Hồng (10/2018), “Xúc cảm thẩm mỹ trong thơ Công giáo Việt Nam”, Tạp chí khoa học Trường ĐH Hồng Đức, Số 41 (10/2018).
- Nguyễn Thị Kim Hồng (10/2018), “Sự phát triển của thơ Công giáo trong thơ ca Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế dành cho Học viên Cao học và Nghiên cứu sinh GRS 2018, NXB ĐH QG Hà Nội.
- Nguyễn Thị Kim Hồng (2018), “Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (Khảo sát qua 5 tập Có một vườn thơ đạo)”, Tạp chí khoa học Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Số 4/2018 VN.
- Nguyễn Thị Kim Hồng (10/2019), “Dấu ấn tôn giáo trong ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn”, Tạp chí khoa học Trường Đại học Vinh, Tập 48, Số 3/ 2019.
- Nguyễn Thị Kim Hồng (4/2022), “Về nghiên cứu cảm hứng tôn giáo trong thơ Việt Nam thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học xã hội TP. Hồ Chí Minh (Viện Hàn lâm KHXHVN – Viện KHXH vùng Nam Bộ), số 4 (284), 2022.

Nhà thờ Phát Diệm, Ninh Bình