VẤN ĐỀ THƠ VÀ CHỦ NGHĨA “LÝ LUẬN KHÔNG CÓ THƠ” - (Kỳ IV) (trao đổi) - Ngô Quốc Phương
VẤN ĐỀ THƠ VÀ CHỦ NGHĨA “LÝ LUẬN KHÔNG CÓ THƠ” - (Kỳ IV)
(Sự thất bại của
phái "Lý luận không có thơ" và cái chết khả dĩ của một "loại
hình thẩm mỹ trong thơ")
Ngô Quốc Phương
1. Từ những mâu thuẫn tự phá sản đến cách
thức thất bại của phái “Lý luận không có thơ”
Trong kỳ 3 của tiểu luận, tôi có vạch ra bốn
mâu thuẫn tự phá sản trong quan niệm, cũng như “lập luận” của Trần Mạnh Hảo –
thủ lĩnh của phái lý luận không có thơ. Trong bài này, tôi tiếp tục đi giải
quyết những mâu thuẫn tự phá sản về mặt nhận thức luận văn học cùng tư duy phê
phán của phái Lý luận không có thơ, qua đó, nhằm khẳng định các cơ sở lý thuyết
mà phái này đưa ra để hạ thấp giá trị các nhà thơ có nỗ lực đổi mới nền thi ca
Việt Nam là hoàn toàn phi thực tiễn, cũng như thiếu chứng lí để tồn tại.
Trong Thơ phản thơ, Trần Mạnh Hảo nói:
“Có lẽ tác giả làm thơ bằng tiếng nước ngoài
rồi tự dịch lại ra tiếng Việt chăng? Đặc
điểm thứ hai của loại thơ này là không có câu nào dính với câu nào. Nó phá bỏ
toàn bộ logic của nội dung và hình thức, của nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của lối
cấu trúc ba chiều ngôn ngữ… Ở dạng thơ này, nói và toàn nói thật ấm ớ, thật
nghiêm trọng, thật ngật ngưỡng, tưng tửng, ngô không ra ngô và do đó nó mới
thành ra…khoai thơ (!). Không cần cảm xúc, không cần thi tại ngôn ngoại, không
cần nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa là vứt tất cả mọi thuộc tính của cái được gọi
là thơ đã có từ xưa đến nay”[1], để rồi sau
17 năm trong Thơ và sự lạm phát thơ, Nguyễn Hiếu và các đại diện
của phái không có thơ lại tiếp tục cái “tuyên ngôn” mà Trần Mạnh Hảo đưa ra
trước đó:
“Nhưng đọc kĩ một chút thì thơ Mai Văn Phấn
là sự lặp lại hiện tượng giống như thơ của Nguyễn Quang Thiều cách đây trên
dưới hai mươi năm. Hồi đó Nguyễn Quang Thiều đang sung sức, cũng bắt đầu nhàm
chán cái lối thơ và tư duy thơ cổ lỗ của các bậc đàn anh đi trước, lại sẵn có
khả năng ngoại ngữ nên Thiều đã chọn con đường mô phỏng thơ nước ngoài,
chủ yếu là thơ tiếng Anh mà ít nhiều tôi nhìn thấy tựa tựa cách viết theo những
bài thơ lừng lẫy trong tập lá cỏ của Witman.
Thơ Thiều thủa sung sức giống hệt như những
bản dịch từ thơ nước ngoài…. Ngôn ngữ,
tư duy của ngưòi Việt ta khác hẳn ngôn ngữ, cách tư duy của người nước ngoài.Vậy
mà, Nguyễn Quang Thiều và nay Mai Văn Phấn lại tung ra những đoạn chữ mà người
ta gọi là thơ cùng những suy nghĩ gần như rập lại cách nói, cách tư duy của
ngưòi nước ngoài, cụ thể là tư duy của dân đất mới châu Mỹ.”[2]
Vậy là đã rõ, trong quan niệm của Nguyễn Hiếu
và Trần Mạnh Hảo, thì thơ dịch là loại thơ “không có câu nào dính với câu
nào. Nó phá bỏ toàn bộ logic của nội dung và hình thức, của nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng, của lối cấu trúc ba chiều ngôn ngữ… Ở dạng thơ này, nói và toàn nói thật
ấm ớ, thật nghiêm trọng, thật ngật ngưỡng, tưng tửng, ngô không ra ngô và do đó
nó mới thành ra…khoai thơ (!). Không cần cảm xúc, không cần thi tại ngôn ngoại,
không cần nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa là vứt tất cả mọi thuộc tính của cái
được gọi là thơ đã có từ xưa đến nay”, điều đó có nghĩa, trong quan niệm
của hai tác giả này, thơ dịch, đơn giản chỉ là sự rập khuôn máy móc theo kiểu
thức word for/by word translation, là traduire mot
à mot . Điều ấy có nghĩa, nếu thơ dịch mà “có logic nội dung và hình
thức, của nghĩa đen và nghĩa bóng”, “Có cảm xúc”, “có nghĩa đen và nghĩa
bóng” thì đều là thơ do mình độc sáng chứ không phải là thơ dịch (?).
Vậy hẳn rằng, Đợi anh về của Ximonov do Tố Hữu dịch, Thơ
tình Pushkin do Hoàng Trung Thông dịch …. dưới cái nhìn
của phái này đều là thơ của người Việt Nam chứ không phải là sự chuyển ngữ khổ
nhọc của dịch giả nữa.
“ĐỢI ANH VỀ (XIMONOV 1941,TỐ HỮU dịch 1947)
Em ơi, đợi anh về
Đợi anh hoài em nhé,
Mưa cứ rơi dầm dề
Ngày cứ dài lê thê
Thì em ơi cứ đợi.
Dù tuyết rơi gió nổi
Dù nắng cháy em ơi
Bạn cũ có quên rồi
Đợi anh hoài em nhé.
Tin anh dù vắng vẻ,
Lòng ai dù tái tê
Chẳng mong chi ngày về
Thì em ơi, cứ đợi.
Em ơi, em cứ đợi
Dù ai nhớ thương ai
Chẳng mong có ngày mai
Dù mẹ già con dại
Hết mong anh trở lại
Dù bạn viếng hồn anh
Yên nghỉ nấm mồ xanh
Nâng chén tình dốc cạn
Thì em ơi mặc bạn
Đợi anh hoài nghe em
Tin rằng anh sắp về.
Đợi anh, anh lại về
Trông chết cười ngạo nghễ
Ai ngày xưa rơi lệ
Hẳn cho sự tình cờ
Nào có biết bao giờ
Bởi vì em ước vọng,
Bởi vì em trông ngóng
Tan giặc, bước đường quê
Anh của em lại về.
Vì sao anh chẳng chết
Nào bao giờ ai biết
Có gì đâu em ơi
Chỉ vì không ai người
Biết như em chờ đợi.”
Và nếu cứ theo lý luận của phái này, thì bài
thơ được viết sau trận động đất sóng thần ở Nhật Bản được xem là sự phản ứng
mãnh liệt chống lại thực tại đổ nát, là niềm tin và cứu cách tinh thần của
người dân đất Phù Tang theo quan niệm dịch của phái lý luận không có thơ sẽ là
“không có câu nào dính với câu nào. Nó phá bỏ toàn bộ logic của nội dung và
hình thức, của nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của lối cấu trúc ba chiều ngôn ngữ”
(?):
“My departed dead:
You must sing your poems alone.
Let the chore daisies keep from floawering,
Let the yellow plants that cling to the cliffs refrain
From mourning –
Until the right words have been found, each one unique
And singular,
And assigned to the lungs
Of my departed dead” [3]
Và quả thực, bài
thơ đã biến thành như thế này sau khi nó được dịch theo“lăng kính tưởng
tượng”của hai thi nhân:
“Cái chết xa rồi của tôi:
Bạn phải hát những bài thơ một mình.
Hãy để các việc vặt hoa cúc giữ từ khi ra hoa,
Hãy để các cây màu vàng bám vào các vách đá không
Từ tang -
Cho đến khi đúng các từ đã được tìm thấy, mỗi một độc đáo
Và số ít,
Và giao cho phổi
Đã khuất của tôi đã chết "
Theo đó, bài thơ được dịch ấy chắc chắn sẽ
thành thơ diệt rồi, vì nó đúng là “phá bỏ toàn bộ logic của nội dung và hình
thức, của nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của lối cấu trúc ba chiều ngôn ngữ… nói và
toàn nói thật ấm ớ, thật nghiêm trọng, thật ngật ngưỡng, tưng tửng, ngô không
ra ngô và do đó nó mới thành ra…khoai thơ (!). Không cần cảm xúc, không cần thi
tại ngôn ngoại, không cần nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa là vứt tất cả mọi thuộc
tính của cái được gọi là thơ đã có từ xưa đến nay” như Trần Mạnh Hảo
từng khẳng quyết (??). Mang cái nhìn không đúng về dịch thuật nói chung, dịch
thơ nói riêng để gán nghĩa cho thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Đỗ Doãn
Phương thì:
Thứ nhất, Phái này đã gián tiếp diệt thơ dịch
– con đường mở ra thế giới về văn hóa và văn học Việt Nam.
Thứ hai, Phái này đã phủ nhận toàn bộ giá trị
thơ dịch của các nhà thơ, dịch giả trước đó.
Thứ ba, Phái này đã áp đặt và quy kết sự nhọc
công sáng tạo của các nhà thơ vào hành động giản đơn là “ghép” chữ.
Hơn nữa, ngay cả khi phái này xem thơ của
Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn là thơ dịch từ thơ nước ngoài mà tôi gọi là
dịch xuôi, thì theo logic, thơ của họ ắt hẳn hoàn toàn có thể dịch ngược trở
lại bằng thứ ngôn ngữ thứ hai. Và, nếu phái này xem thơ dịch sang tiếng Việt
(dịch xuôi) là “nói và toàn nói thật ấm ớ, thật nghiêm trọng, thật ngật
ngưỡng, tưng tửng, ngô không ra ngô” thì dịch ngược, theo logic sẽ
chống lại quan điểm trên (phần chúng tôi in nghiêng), nghĩa làthơ họ sau khi
dịch ngược sẽ suôn sẻ, trọn vẹn về ý nghĩa và giàu tính thơ. Chúng ta hãy
thử làm công việc mà phái này từng tuyên ngôn qua việc dịch ngược lại thơ của
Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn như Trần Mạnh Hảo nghi vấn “Có lẽ tác giả
làm thơ bằng tiếng nước ngoài rồi tự dịch lại ra tiếng Việt chăng?” xem
thơ của họ thế nào? Ở đây, tôi sẽ sử dụng cách dịch word for/by
word translation, là traduire mot à mot đúng
như ý nghĩa mà Trần Mạnh Hảo truyền thông rằng: “Đặc điểm của loại thơ này
là không có câu nào dính với câu nào. Nó phá bỏ toàn bộ logic của nội dung và
hình thức, của nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của lối cấu trúc ba chiều ngôn ngữ”,
vì chỉ có lối dịch word for/by word translation, traduire mot
à mot thì tác phẩm được dịch mới bị phá bỏ “toàn bộ logic của nội dung
và hình thức”, là “phá bỏ nghĩa đen nghĩa bóng” và “cấu trúc 3 chiều ngôn ngữ”,
chứ còn dịch chuyên nghiệp, nghĩa là chống/ Anti- word for/by
word translation, Anti-traduire mot à mot thì
không phải thế. Tôi sẽ làm động tác “dịch” ngược thơ của Nguyễn Quang Thiều và
Mai Văn Phấn, sau đó đem đặt cạnh bản “dịch” thơ của Trần Mạnh Hảo, chúng ta sẽ
thấy thơ của ba tác giả trên thế nào.
Thư của một nhà thơ Việt
thế kỷ 21 gửi những nhà thơ đời Đường (Nguyễn Quang Thiều)
Vẫn trong bình cổ rượu đựng, vẫn trong nghiên mực mài
Vẫn bên hiên gần sáng chim én kêu, vẫn góc vườn đỗ quyên
mầm nẩy
Vẫn ngọn núi tuyết phủ, vẫn con đường gió lạnh thổi
Vẫn lầu khuya trăng sáng suông, vẫn chân cầu nước chảy
lạnh
Vẫn thời thế như lụa bay, kiếm phất, vẫn đồng nội máu
chảy, quạ kêu
Vẫn gối mây chiếu cói, vẫn rũ tóc canh khuya, vẫn ngóng
chân mây cuối bể
Vẫn vận luật ấy, vẫn bài thơ bốn câu, vẫn tửu quán say
nghiêng ngả đọc
Vẫn đập chén ngửa mặt thề, vẫn gạt lệ nhìn hoa cúi đầu
tủi
Nhưng không còn kẻ nào mặc áo mỏng rời kinh thành
ra đi một mình trong mùa đông này.
Dịch Anh ngữ:
“Containers of alcohol in the bottle neck is still in
research level grinding
Still the bright patio near Swallow asked, still corner
azalea garden germline
Still snow covered mountains, is the way the cold wind
blows
Midnight moonlit floor still empty, still cold running
water bridge
Still flying the world such as silk, swords waving, still
in local blood flow, crow call
Still cloudy sedge mat pillow, still shake the hair
growing late, late clouds still anxiously foot tank
Transport was still the law, has four verses poems, still
reading lean drunk in taverns
Cup beat back the oath, is brushed look of flowers bowed
unhappy
But not even he who left the city wears thin
leave alone this winter.”
Dịch Pháp ngữ:
“Conteneurs d'alcool dans le goulot de la bouteille est
encore à la recherche au niveau de broyage
Toujours le patio lumineux à proximité de Swallow a
demandé, encore azalée coin jardin lignée germinale
Toujours montagnes couvertes de neige, est la façon dont
les coups de vent froid
Rez-de minuit au clair de lune toujours vide, pont encore
l'eau courante froide
Arborant toujours le monde comme la soie, brandissant des
épées, toujours dans le flux sanguin local, appel à vol d'
Encore nuageux oreiller mat carex, toujours serrer les
cheveux de plus en plus tardives, les nuages fin réservoir toujours
impatiemment pied
Transports était encore la loi, dispose de quatre poèmes
versets, lisant toujours ivre maigres dans les tavernes
Coupe repousser le serment, est brossé regard de fleurs
s'inclina malheureuse
Mais pas même celui qui a quitté la ville s'use
laisser seul cet hiver.”
Bưng chậu nước lên cao
(Mai Văn Phấn)
Trời đang mưa
Tôi bưng chậu nước
Trong căn phòng đóng kín ấm áp.
Mưa gõ lên mái tôn bong bong
Từng bậc cầu thang
Từng bậc khuôn mặt tôi
Và hơi thở hòa trong chậu nước.
Bất chợt nảy trong tưởng tượng:
... đuổi theo em trong mưa...
... em đầu trần ướt sũng...
... tôi mặc ấm tay cầm cây dù...
... tôi khoan thai... em đi thong thả...
... em vun vút... tôi chạy đứt hơi...
... giữ lời hứa... không để em bị ướt...
Nhưng sao mà lạ quá
Lúc chậu nước lên cao
Những hình ảnh của em vừa hiện
Đem ghép lại chẳng có gì ăn nhập.
Dịch Anh ngữ:
“It is raining
I Lowland basin
In the closed room warm.
Rain on the roof type bubble
Each stair
I stepped-face
And breathing air in the bowl.
Sudden rise in the imagination:
... chase me in the rain ...
... I soaked the ceiling ...
... I'm holding umbrellas and clothing ...
... I drilled thai ... I went leisurely ...
... I spiraling ... I ran short of breath ...
... keep the promise ... I did not get wet ...
But the star which is too
At high water basin
The picture of me just now
Grafted to import nothing to eat.”
Dịch Pháp ngữ:
“Il pleut
Je plaine du bassin
Dans la chaude salle fermée.
Pluie sur la bulle type de toit
Chaque escalier
Je suis arrivé face
Et respirer de l'air dans le bol.
Hausse soudaine dans l'imagination:
... me chasser sous la pluie ...
... J'ai trempé le plafond ...
... Je suis supporter des parapluies et des vêtements ...
... J'ai percé thai ... Je suis allé tranquillement ...
... Je spirale ... J'ai couru à bout de souffle ...
... tenir la promesse ... Je n'ai pas mouillé ...
Mais l'étoile qui est trop
Au bassin d'eau à haute
La photo de moi tout à l'heure
Greffé à importer rien à manger.”
Còn đây là Thơ của Trần
Mạnh Hảo:
Gương mặt em rất Thánh
“Mặt em chẳng giống mặt trăng
Cũng không mang dáng chói chang mặt trời
Vậy mà sao lúc em cười
Hai vầng nhật nguyệt trên môi em hồng
Soi vào em mắt say nồng
Vật vô tri cũng mang hồn thế nhân
Em nhìn cái ác hóa thân
Cái phần tốt đẹp lấn phần gian manh
Em nhìn tôi luyện lại anh
Dửng dưng nào cũng hóa thành tình yêu
Cảm ơn em, cảm ơn nhiều
Khơi trong anh biết bao điều chưa hay
Anh đi khắp mặt đất này”
Dịch Anh ngữ:
“I did not like the moon surface
It does not take the sun was dazzling
Yet for when you smile
The sun-circle in the red lips
Eyes on me say Soi concentration
Also bring inanimate objects like human soul
I look evil incarnate
The good part of the space encroaching manh
I looked back he forged
Indifference into love always
Thank you, thank you much
Bring in what you do not know how or
He walked over this ground”
Dịch Pháp ngữ:
“Je n'aimais pas la surface de la lune
Il ne prend pas le soleil était éblouissant
Pourtant, pour quand vous souriez
Le soleil-cercle dans les lèvres rouges
Coup d'œil sur moi de dire la concentration Soi
Il vaut mieux apporter des objets inanimés comme l'âme
humaine
Je regarde le mal incarné
La bonne partie de la empiétant l'espace manh
J'ai regardé en arrière il a forgé
Indifférence dans l'amour toujours
Merci, merci beaucoup
Apportez ce que vous ne savez pas comment ou
Il marchait sur ce terrain”
Nếu theo quan niệm dịch của Trần Mạnh Hảo và
Nguyễn Hiếu, thì, tôi không dám tự tin những người bạn nước ngoài sẵn tiếng
Anh/ Pháp họ hiểu được thơ ông Hảo khi chuyển ngữ. Dù sao thì thơ của Nguyễn
Quang Thiều và Mai Văn Phấn theo điệu “biến tấu ngoại văn”
thì nó vẫn còn đó ý tứ để người ta hình dung phần nào, chứ thơ của Trần Mạnh
Hảo thì đến ý tứ để dẫn bạn đọc vào sự “ngầm hiểu” cũng khó có, ngay cả đến cái
ý thơ “Vật vô tri cũng mang hồn thế nhân” qua kiểu dịch word for/by
word translation, traduire mot à mot cũng chỉ
còn là “Also bring inanimate objects like human soul” và “Il vaut mieux
apporter des objets inanimés comme l'âme humaine”. Trời ạ! Nếu dịch thế này thì
chỉ có nhà thơ Trần Mạnh Hảo và nhà văn Nguyễn Hiếu mới dịch nổi thôi.
Mặt khác, chẳng có một cá nhân nào khi đang
sống cuộc sống phi ràng buộc về tâm hồn, không bị truy đuổi về mặt nhân thân
như một số nhà văn lưu vong, lại phải sử dụng ngôn ngữ thứ hai (second
language) để làm thơ rồi tự mình lại “oằn người” ra để “dịch” lại sang tiếng mẹ
đẻ (mother language) cả, bởi vì, ngôn từ là thế mạnh của thơ ca. Thơ xuyên thấu
hay ru ngủ lòng người cũng từ ngôn ngữ mà ra. Vì vậy, thứ ngôn ngữ mà nhà thơ
sử dụng phải là thứ ngôn ngữ thuần thục, truyền tải “lửa” văn hóa và sự “mơ
mộng” của tâm hồn. Chẳng có nhà văn nào tự tin xem ngôn ngữ thứ hai có thể vượt
qua được sự biểu đạt mãnh liệt tâm hồn bằng ngôn ngữ mẹ đẻ cả? Duy chỉ có Trần
Mạnh Hảo và phái lý luận không có thơ là có thể làm được.
Tôi đồng ý về quan điểm dịch của PGS. TS
Nguyễn Văn Dân khi ông cho rằng: “Giá trị sáng tạo trong dịch thuật chính là
cái làm cho nó trở thành một nghề cao quý không thua kém bất cứ một nghề sáng
tạo nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã bắt đầu sự nghiệp cách mạng bằng con
đường dịch thuật (“Hòn đá chông chênh dịch sử Đảng/ Cuộc đời cách mạng thật
là sang”). Tuy nhiên, sáng tạo trong dịch thuật không giống với
sáng tạo trong sáng tác văn học. Sáng tạo trong dịch thuật không có nghĩa là
người dịch được quyền tạo ra một văn bản khác hẳn với văn bản gốc (hay như có
người nói là sáng tạo trong dịch thuật là phải vượt lên trên bản gốc, phải hay
hơn bản gốc), mà theo tôi, sáng tạo là người dịch phải lựa chọn được
các từ ngữ và cách diễn đạt tương đương chính xác nhất trong vô số cách diễn
đạt để chuyển tải trung thành nội dung và ý đồ nghệ thuật của bản gốc.”[4], theo đó, dịch là trạng thái thông
diễn (interpretation) về mặt văn hóa, là sự chuyển dịch “tâm thức hiểu” từ ngôn
ngữ gốc sang ngôn ngữ dịch. Nó đòi hỏi, khi người đọc đọc bản dịch có cảm
giác như đang đọc bản văn do một tác giả của dòng ngôn ngữ được dịch
sáng tạo, chứ không phải là sản phẩm của tác giả văn bản gốc. Cái quan niệm sai
lầm về dịch của Trần Mạnh Hảo kéo dài đến Nguyễn Hiếu, chứng tỏ những cái nhìn
sai lệch về dịch thuật nói chung và văn học dịch nói riêng ấy đã không được các
tác giả tư duy lại theo thời gian. Trong khi đó, quan niệm word for/by
word translation, traduire mot à mot của hai
ông đã từng bị Cao Xuân Hạo phê phán triệt để, rằng: “dịch từng chữ là
cách tốt nhất để dịch sai hoàn toàn văn bản”. Do cái nhìn thiếu sót ấy đối với
dịch thuật, cho nên đã đẩy hai ông vào tình trạng bế tắc về lý luận trong việc
giải mãi thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn. Như một phản xạ, Trần Mạnh Hảo
và phái lý luận không có thơ, khi không thể giải quyết triệt để vấn đề mang ra
phê phán đối với thơ các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam, cho
nên, cách tốt nhất để đẩy lý luận ấy vào sự hy vọng nào đó là cấp
nghĩa cho thơ họ là thơ dịch. Nhưng hỡi ôi! Chính việc cấp nghĩa ấy, vô
hình lại thành lời ngợi ca đối với thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Đinh
Thị Như Thúy… đưa thơ của họ đạt đến “đỉnh cao” của thơ dịch. Còn người đọc, họ
chỉ cần hiểu ở nghĩa “cao cấp” này, chứ đâu có thời gian cũng như công sức để
truy tìm cách quan niệm về thơ dịch của phái Lý luận không có thơ. Với họ, thơ
dịch nghĩa là “một nghề cao quý không thua kém bất cứ một nghề sáng tạo nào”,
và thơ Nguyễn Quang Thiều cùng các tác giả đạt giải thưởng Hội nhà văn Việt
Nam, theo lý luận đọc ấy của bạn đọc sẽ là những chủ thể sáng tạo kép, vừa sáng
tạo thế giới riêng của mình, đồng thời vừa thông diễn sáng tạo của mình bằng
một sáng tạo khác, với lối văn hóa khác, và tâm thức khác cho những bạn đọc
khác ngoài họ.
Chính lý luận của phái không có thơ đã trở thành
vật cản để chống lại họ. Mà nói đúng ra, việc thiếu chứng lý và thiếu
sự nhọc công tìm hiểu đến tận nguồn vấn đề, cho nên, lý luận thiếu sót ấy đã vô
hình quay lưng chống lại chính lý luận và quan điểm của họ. Song, xét đến
cùng, lí do của mọi lý do khiến phái Lý luận không có thơ thất bại là bởi, cái
bóng định kiến thẩm mỹ/định kiến ý thức hệ/ định kiến cá nhân quá lớn, nó lớn
đến mức chủ thể của nó không thể kiểm soát nổi và vô hình biến nó thành liều
thuốc độc để quay lại “hạ sát” chính người đã sinh ra nó. Đó là bi kịch của sự
thất bại, nhưng cũng là bi kịch của chủ nghĩa vị lợi ích nhóm cá biệt.
Vậy là, ngay cả đến cái cọc cuối cùng cho một
hy vọng cứu vớt trong lối phê phán của phái không có thơ là quan niệm
về thơ dịch nhằm xuyên tạc, hạ thấp nỗ lực đổi mới, cũng như giá trị
từ tác phẩm của các nhà thơ đương đại, giờ đây, cũng bị thất bại vì tính chất
mâu thuẫn tự phá sản của nó. Điều đó cho thấy, phái lý luận không có thơ đã bị
phá sản hoàn toàn về quan niệm cũng như ý thức hệ thẩm mỹ cá biệt. Nó tiên liệu
cho hồi chung kết của những khoảng không chết lặng trong
thơ ca từ phía một số nhóm người sống trên quê hương mà vẫn luôn nghĩ
rằng mình đang bị “vong thể về tâm hồn”. Cái tâm trạng “vong thể tâm hồn”
ấy đã biến hóa tài năng thi ca như Trần Mạnh Hảo trở thành cái loa phát
thanh cho những “chủ tế” vô hình, núp phía sau và đang đợi ngày “ngư ông đắc
lợi” mà ông không hề hay biết.
2. Đi tìm tâm lý phê
bình trong “lối phê bình” của Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo là một tài năng văn học hay là
“anh hùng chiến bại” trong phê bình văn học? Đó là câu hỏi mà nhiều người
đã/đang/ và sẽ tiếp tục đặt ra. Rất lạ, người Việt mình cứ cái gì nổi lên cũng
đều được/bị xem là hiện tượng. Tôi nghĩ trong trường hợp Trần Mạnh Hảo, thì có
lẽ ông bị xem là hiện tượng văn học nhiều hơn là được xem
là hiện tượng văn học. Tại sao lại là bị? Vì, ông được người
ta cấp do cái danh đó mà chẳng rõ ý nghĩa của nó là gì, và
cũng vì, hiện tượng có thể là tích cực, có thể là tiêu cực, đôi khi nó lại
trung tính. Tôi thì không nghĩ Trần Mạnh Hảo là một hiện tượng, vì tôi cắt
nghĩa được sự hình dung của mình về ông, thì không thể nói là tôi mơ hồ đến mức
xem đó là một hiện tượng. Một hiện tượng chỉ là một hiện tượng khi nó chưa là
chân lí, nghĩa là nó còn cho phép mọi người hiểu nó theo nhiều cách khác nhau,
tức là nó được huyền thoại hóa về ý nghĩa. Trong khi đó, Trần
Mạnh Hảo dưới cái nhìn của tôi rất cụ thể, ông cụ thể như thể, tôi đã tìm được
ý nghĩa đúng trong mình khi suy tư về ông suốt những năm qua.
Thứ nhất, nếu nói Trần Mạnh Hảo là kẻ bất
mãn, thì có gì đó không đúng với ông. Vì, ông bất mãn bởi cái gì mới được chứ?
Địa vị, danh vọng hay thứ bậc trong làng văn? (ở đây tôi chỉ quan tâm đến con
người văn học, mà không quan tâm đến con người bên ngoài của ông). Cả ba điều
ấy đều không đúng với ông. Vì, một là, về địa vị: ông từng là Hội
viên hội nhà văn Việt Nam, lại là người có uy tín về sáng tạo thơ ca, hai
là, về danh vọng: “ Năm 1976, giải thưởng văn học về thơ
của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh. Giải thưởng thơ hay
báo Văn nghệ và báo Nhân Dân 1978. Năm 1995 và 1996 đã được bốn giải thưởng văn
học và tặng thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam cho ba tập thơ và một tập
tiểu luận phê bình văn học sau: Ðất nước hình tia chớp, Mặt trời trong
lòng đất, Chuồn chuồn cắn rốn và Thơ phản thơ” (Lời tự
thuật của Trần Mạnh Hảo trên vanchuongviet.org). Thường, người ta chỉ
bất mãn khi bị đối xử không đúng với tài năng, nhưng với những lí do trên, thì
hẳn rằng, việc ông bất mãn là hoàn toàn thiếu cơ sở.
Thứ hai, nếu nói, Trần Mạnh Hảo là người đối
lập về ý thức hệ chính trị và ý thức hệ thẩm mỹ, thì điều đó có thể đúng, có
thể không. Vì, nếu đối lập về hệ ý thức thẩm mỹ, thì hẳn rằng, khi được trao
giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam, ông sẽ từ chối như một cách phản ứng lại ý
thức hệ đối lập với mình, nhưng ngược lại, ông vẫn nhận giải. Còn nếu ông đã
nhận giải nơi các cấp văn học nghệ thuật trao tặng – đối lập về ý thức hệ ấy,
mà vẫn phủ nhận ý thức hệ mà mình đang sống và viết, thì ông cần phải tự tư
duylại mình để thấy cái ông theo đuổi, xét đến cùng là gì?
Thứ ba, tôi nghĩ rằng, cái mà chúng ta gọi là
“hiện tượng” Trần Mạnh Hảo ấy, ngẫm cho cùng cũng xuất phát từ cái tâm lý
“thích làm anh hùng” đi gần với bản năng “xâm hại” của con người nơi ông. Cái
bản năng ấy lớn đến nỗi, khi anh ta hạ thấp hoặc lật đổ được một đối tượng nào
đấy thì nó như cơn khoái lạc ru anh ta ngủ trong sự tự mãn của mình. Vắng bản
năng đó, chủ thể xâm hại có cảm giác không yên và thiếu sức sống. Tôi lại nói,
Trần Mạnh Hảo đã/đang và sẽ tiếp tục đeo đẳng trong mình cái tâm lý “thích làm
anh hùng” vì lẽ, từ lối phê phán của Trần Mạnh Hảo, chúng ta sẽ thấy nổi lên
hai vấn đề rõ rệt là, một: luôn bảo vệ cái tôi thi nhân trong
mình, hai: luôn phủ nhận cái tôi khác ngoài mình. Khi nói về
cái tôi thi nhân của mình, Trần Mạnh hảo luôn dùng liên từ “là” như một cách
khẳng quyết (xem kỳ 1,2,3 của tiểu luận), điều ấy cho thấy, những giá trị và
quan niệm thơ ca của Trần Mạnh Hảo đã trở thành nguyên nhân chính để ông
phủ nhận dường như toàn bộ những đóng góp bên ngoài quan niệm về
thi ca của ông. Nghĩa là, cái quan niệm thơ ca có từ Trường Sơn của bé,
Tiếng chim gõ cửa, Mặt trời trong lòng đất, Ðất nước hình tia chớp đã
bao phủ, ôm trùm và che khuất con người hiện thời của Trần Mạnh Hảo. Ông vẫn
xem cái thời vinh quang trong thơ ca mình là những giá trị ổn
định, là thang bậc để đo thơ các thời đại. Trong Trần Mạnh Hảo, cái “dĩ vãng
oai hùng đâu còn nữa” đã trở thành ám ảnh, trở thành sự thôi thúc trở về và
sống chung cùng ký ức, nó vô hình đã trở thành hành động trong việc xét đoán
giá trị thơ của các tác giả khác. Chỉ khi, Trần Mạnh Hảo tự tư duy lại chính
mình, và phản biện chính mình, để thấy rằng, cái cũ không phù hợp đã đến lúc
cần phải gỡ bỏ khỏi tâm thức ông, thì khi ấy, ông mới có cái nhìn và phán xét
đúng về thơ Việt Nam đương đại qua các hiện tượng thơ như Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Đinh Thị Như Thúy, Nhóm Mở Miệng, Nhóm Thời Tiết, nhóm Ngựa
Trời... đã và đang hiện diện trong thi đàn nước nhà như một tất yếu
N.Q.P
____________
GHI CHÚ:
[1] Trần Mạnh Hảo, Thơ Phản Thơ,
phần Nghĩ Về Thơ Và Thơ Hôm Nay, Văn Học xb 1995, trang. 131-132
[2] Nguyễn Hiếu, Thơ và sự lạm
phát thơ. Nguồn
http://vannghecuocsong.com/home/vi/news/Nghien-Cuu-Ly-Luan-Phe-Binh/Nha-van-Nguyen-Hieu-Lam-phat-Tho-382/.
[3] Nhiều tác giả (2012), Japanese
Book News, Number 71, p. 2.
[4] Nguyễn Văn Dân, “trên
dòng kẻ bằng những dấu chấm” hay là vấn đề sáng tạo trong dịch thuật. Nguồn:
http://www.viet-studies.info/NguyenVanDan_VanDeDichThuat.htm.
(http://www.vanvn.net)