Thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng (phê bình) - Mai Văn Phấn
Thế giới “con rối” trong thơ Nguyễn Đức Tùng
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng và MVP - Ảnh Nguyễn Đình Toán, 2011
Mai Văn Phấn
Tôi như người đi
ngang qua nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, tình cờ nghe được câu chuyện ông đang say
sưa kể với ai đó, giọng lúc nghiêm túc, lúc bỡn cợt, có khi lại da diết, bồi
hồi. Ông kể thật cô đọng vì người kia hình như cũng đang vội đi.
Những bài thơ gần
đây của Nguyễn Đức Tùng cho tôi những ngẫu hứng bất chợt, khiến tôi ngỡ mình là
đứa trẻ
“chạy theo đồng tiền kẽm
Xưa lăn ngoài ánh
trăng (Xin lỗi, em yêu);
hay ngồi đếm
những hòn bi ăn
được
Trước căn nhà vắng
lạnh” (Tuổi thơ).
Đọc liền mạch những
bài thơ theo lộ trình sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, tôi như lạc vào thế
giới những “con rối” đang cử động, chi phối mọi nhận biết và xúc cảm của mỗi
người về đời sống đương thời. Từ những yếu tố không đo đếm được của tự nhiên
như ánh sáng, bầu trời, đại dương, hay những vật nhỏ bé như con sâu, cái cày,
cái bánh pizza, trái mìn claymore, cái mở nút chai, lọ muối… thảy đều được điều
khiển theo quy luật riêng dưới bàn tay phù thuỷ của ông. Những “con rối” do nhà
thơ “tạo tác” đã để lại trong tôi những nhịp thở gấp, và cả nước mắt. Đó là những câu thơ tối giản,
như rời rạc, ngắt quãng, làm sống lại một thời tao loạn, chia ly, phơi bầy bao
đau thương, mất mát:
“như quả mìn chưa nổ
nằm chờ ta dưới đám
cỏ mùa thu” (Mùa thu năm 1977);
“là kẻ hối hận ăn
năn
Vì đã nằm suốt đêm
trong bụi rậm
Phục kích đứa em
trai của mình” (Sau chuyến nghỉ hè xa).
có những câu thơ ngỡ như ai đó cầm con dao sắc chém mạnh, phạt ngang một
thân cây mảnh:
“Trên các bức tường vôi trắng
Máu đã lau xong” (Thăm
Trung Hoa).
Những hình ảnh
trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường hiển thị nhanh, rồi đi khỏi hoặc bất động, nhường chỗ
cho những hình ảnh khác tiếp diễn. Giống như nghệ thuật múa rối nước, với dàn
diễn viên đứng khuất sau tấm mành tre điều khiển những con rối, các nhân vật
trong vở diễn thường xuất hiện hay biến đi rất nhanh nhờ những cây sào và dây
điều khiển. Với hình dung ấy, ta thấy các nhân vật trong thơ Nguyễn Đức Tùng
thoắt ẩn thắt hiện, hoặc thấy cái bóng phản chiếu không rõ mặt của ai đó với
những động tác giật cục, đứt đoạn. Trong bài thơ “Để giải thích một thói quen xấu”, người đọc dễ dàng nhận ra ông
đang “giật dây” các nhân vật:
“Anh dựng một túp lều tranh
Túp lều tranh đổ sụp”
Câu thơ trên biểu đạt một hành động kết
thúc; tiếp đến một diễn tiến khác và cũng kết thúc nhanh chóng:
“Anh xây một ngôi đền
Ngôi đền đổ cái rụp”.
Sau những chuyển động nhanh, dứt khoát
ấy, Nguyễn Đức Tùng cho nhân vật con sáo
bất ngờ xuất hiện gần cuối bài thơ. Và, khi con sáo lâm vào cảnh ngộ “Nửa
đêm bị mèo cắn đứt một chân” đã
dẫn đến một kết cục bất ngờ, khó đoán trước:
“Bắt chước anh
Nó cũng chửi thề”.
Với ngôn ngữ chắt lọc, sắc nhọn và bi
hài, nhà thơ chiếu rọi một luồng sáng vào nhân vật anh – xuất hiện từ đầu bài thơ, với hàng loạt hành động đứt quãng,
phân rã. Tâm trạng bức bối, phản kháng quyết liệt của nhân vật anh đã được nhà thơ bình tĩnh nén chặt
và bất ngờ cho nổ tung qua miệng con sáo.
Tiếng nổ bất ngờ này vén lên tấm mành tre ở
phía sau sân khấu rối nước, bộc lộ diện mạo người nghệ sĩ “điều khiển”.
Đôi khi nhà thơ
Nguyễn Đức Tùng cũng tự biến mình thành một “con rối” trong những vở diễn thú
vị, quái chiêu của ông:
“Tôi mặc chiếc
áo vào người
Bước đi trên mặt
nước xanh trong” (Chiếc áo).
hay trong hoạt cảnh trò
chuyện giữa ông và con chuột vào dịp cuối năm, khi cả hai đều chào: bạn sắp sửa đi xa (Giã từ).
Nhằm dẫn dụ bạn đọc
vào thế giới “con rối” đa dạng và biến ảo, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng thường mở
đầu bài thơ như người kể chuyện cổ tích, với giọng trầm trầm, thủ thỉ, tăng sức
hút cho câu chuyện bằng lối mào đầu quen thuộc, như câu “ngày xửa ngày xưa…”. Đôi khi
con biết mẹ nằm trong đất là
câu mở đầu bài thơ “Đêm ngủ trong chùa”.
Thủ pháp này của Nguyễn Đức Tùng có vẻ trái ngược với cách viết của một số nhà
thơ có khuynh hướng cách tân cùng thế hệ. Nếu gặp hoàn cảnh tương tự bài thơ
trên của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ bỏ đi hai chữ đôi khi, và bắt đầu bằng ý con biết mẹ nằm trong đất… hay mẹ
nằm trong đất… Cách ấy của tôi giản đơn như người định vị mũi khoan hay
châm lửa cho một ngòi nổ. Nhưng Nguyễn Đức Tùng đã đi lối riêng, ở đây ông
không nhấn vào việc mình đã biết, mà
như vừa chợt nhớ ra, hoặc bị cuốn theo những hành vi đang tiếp biến. Trong bài
thơ đôi lần tác giả còn lặp lại cách kể như câu mở đầu Đôi khi con biết, gợi hình dung
ông đang trải nghiệm trong một hoàn cảnh khác, bị chi phối bởi những hệ lụy
khác mà ta chưa thể đoán biết ngay:
“Đôi khi con biết không phải thế…
Đôi khi con biết mẹ
về”.
Thủ pháp ấy cho hay
người viết đang ngập chìm trong tiếc thương, bi thiết. Tôi chợt tưởng tượng ông
đang cầm cái que, hoặc vạch ngón tay xuống đất, vừa vẽ vừa đuổi theo từng ý
nghĩ của mình. Diễn biến ấy được nhà thơ giấu kín, để tùy người đọc tưởng tượng
về những gì mẹ ông đã phải hy sinh, chịu đựng qua những cơn hoạn nạn, ly tán.
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng cũng cho người đọc thấy giọt nước mắt của ông đang lặng
lẽ chảy vào trong. Ấy là nước mắt của
người đã nếm trải nhiều cay đắng của phận người khi ông viết:
“Đôi khi con biết mẹ về
Trong chiếc chiếu
hoa”.
Và, ông đã
“Thức suốt đêm đập muỗi
Không con nào chết
Chúng lọt hết qua
kẽ tay”.
Hình ảnh những con
muỗi lọt hết qua kẽ tay diễn tả tâm trạng mất mát, vô phương
níu giữ. Bỗng chợt chuyển điệu:
“Trừ một con
Bay về lúc nửa đêm”
Hai câu thơ trên đã
xoay bài thơ sang hướng khác. Đó là không gian thuở xưa ấm áp hơi thở mẹ, mát
lành bàn tay mẹ. Ngôn ngữ trong câu thơ cuối được tối giản đến mức không thể
tối giản hơn. Mấy chữ kịp lặng lẽ
cho thấy hình dáng nhà thơ đang nép mình bất động, chăm chú nhìn con muỗi đẻ
những hạt trứng vàng xuống bể
nước đầy cơn mưa cũ. Như bị thôi miên sâu vừa tỉnh lại, tôi thấy nhà thơ
Nguyễn Đức Tùng vẫn ở nguyên vị thế người dẫn chuyện. Bằng nội lực, tài năng và
cảm xúc mãnh liệt của mình, ông đưa tôi quay về với ký ức của tôi. Tưởng như
thơ ông mang theo cả chiều dài lịch sử:
“Ngón tay trỏ mẹ anh vẫn giữ
Trong tờ giấy tiền
vàng gió thổi rung phần phật.” (Ngọn lửa).
Không chỉ là người
điều khiển, những bài thơ gần đây của Nguyễn Đức Tùng lại có cái nhìn của một
khán giả. Ba nhân vật (vầng trăng, anh
trai nhà thơ và nhà thơ) trong bài thơ “Hai vầng trăng”, mỗi người như kể cho
nhau một câu chuyện súc tích, ngắn gọn nhưng đã mở ra ba cánh cửa của ba không gian
khác biệt:
“Năm tuổi, ta thức dậy sớm
Theo mẹ lên nhà ga
Mi cũng đi theo ta
Ra cửa
Rồi chạy theo ta
trên xe lửa
Ôi vầng trăng lặng
im”.
Câu “phản biện” của
người anh trai – hôm đó mi vẫn
còn ở trong sân – đã mở ra nhiều
không gian và thời gian khác nhau, làm ta bất ngờ, phân vân không biết nên dừng
lại ở không gian nào. Điều thú vị nhất là, bằng cách khơi ra nhiều hiện thực
không giống nhau về cùng một sự vật tưởng chừng quá quen thuộc (như vầng
trăng), nhà thơ khiến ta phải giật mình, hụt hẫng, băn khoăn về những hiện thực
khác còn ẩn giấu, rình nấp chưa bao giờ phát lộ. Bài thơ “Làng quê”, nhân vật anh
trở về khi người vợ đã chết, một vài hình ảnh được thắp lên trong đó như những
ngọn đèn hạt đỗ trong đêm tối kinh hoàng những tiếng cú rúc, vết máu khô trên ngực…
“Anh đặt thang thuốc bắc lên thềm nhà
Cúi đầu, lùi lại”.
đến câu kết
“Rồi nhổ sào
Rời bến”
khiến cả “Làng quê” trôi như cỗ quan tài khổng lồ
trên dòng sông đục ngầu máu và nước mắt.
Cũng có lúc ông
quan sát dấu vết nỗi cô đơn đang
“biến thành con chim từ từ lượn
Khép những vòng
tròn
Càng lúc càng hẹp
lại
Trong bóng chiều
chậm rãi trôi qua?” (Nếu có một ngày).
hoặc chiêm nghiệm,
tiên cảm:
“Chỉ cần biết cách im lặng
Tất cả sẽ sụp đổ” (Lặng
im).
hay vừa dự khán vừa
phiêu du trong thế giới ám thị:
“buổi sáng sương
mờ
Lấy tay xoa cửa
kính
Giấc mơ đêm qua” (Dậy
sớm uống trà một mình).
Hình ảnh “Giấc mơ đêm qua” bỗng không còn là bị động, nó chính là
bề mặt của hiện thực khác, biến nhân vật chính của câu chuyện thành nhân vật
phụ trong một câu chuyện khác, một giấc mộng gối lên một giấc mộng khác.
Thế giới “con rối”
trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường được sắp đặt ở trạng thái bất động và định vị
sẵn, giống như một số bối cảnh cho sân khấu đang được đạo diễn chuẩn bị trước
vở diễn. Và, sau khi Nguyễn Đức Tùng phất tay “mở màn”, những “con rối” kia sẽ khóc
cười theo số phận trôi nổi, diễn tiếp những xung đột của riêng nó, rồi câu kết
bài thơ xuất hiện. Câu thơ kết treo dây thòng lọng, thường mở ra những biến tấu
kịch tính trong thơ ông. Trong bài thơ “Lịch
sử làng tôi”, người mang đàn
địch, thau giặt, nồi
đồng, bồng trẻ con, cầm cục đá…, tất cả đã sẵn sàng,
nhưng máy bay không đến. Khổ kết của bài thơ “Buổi chiều” lại gây một kiểu bất ngờ khác của một bi kịch mang
nhiều phi lý. Chuyện một người sống sót qua một tai nạn khủng khiếp. Nhưng sau
đó anh đã
“mất trí nhớ. Người
sống sót cầm trong tay
Một sợi dây dài…
Một đầu vắt qua cửa
sổ ra ngoài”.
Tôi nghĩ nếu Nguyễn
Đức Tùng kết ở câu Kéo dài vô tận đến chân trời cũng đã mang một hiệu ứng đặc
biệt, gợi mở đa chiều những liên tưởng cho bạn đọc. Nhưng ở bài thơ này, nhà
thơ như vận động viên ma-ra-tông còn dư sức về đích. Câu thơ sau nó Nơi câu
chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác mới là câu kết, khiến những chi tiết trong bài thơ
chỉ còn là cái cớ để người đọc chuyển nội dung sang hệ quy chiếu khác, trường
ngữ nghĩa khác.
Những cái kết bất
ngờ đã tạo nên sự độc đáo trong thơ Nguyễn Đức Tùng, nhưng đôi lúc lại là điểm
hạn chế nếu đặt những bài thơ viết cùng một giai đoạn bên cạnh nhau, bởi chúng
có dáng dấp quen thuộc trong cách về đích. Tuy vậy, những bài như thế không
nhiều, chỉ cần lưu tâm chọn bài khi ra các thi tập sau này.
Đọc thơ Nguyễn Đức
Tùng, tôi cảm thấy mình như đang biến thành “con rối” trong thế giới thơ ông,
như có ai đó đang điều khiển, mê dụ mình. Tôi nhìn thấy trong thơ Nguyễn Đức
Tùng khói hương chùa chiền vẽ hình những mặt người, hình đồ vật, vẽ những con
rệp sống qua hàng thế kỷ,
và những
“con bướm tìm gì
trong bụi rậm đầy gai” (Trong
bụi gai).
giống như
nhịp đập của thời gian:
“cái đồng hồ dưới gối
kêu tic tac tic tac
tic tac
Suốt đêm” (Nhịp đập).
Tất cả chúng đều mang hơi thở Nguyễn Đức Tùng,
phả hơi ấm vào tôi để cùng nhau tồn tại, chuyển động. Trong heo may se lạnh của
sương sớm cuối thu, tôi đứng lên khỏi bàn làm việc, chân chập chững như đang
đặt lên mặt nước sân khấu múa rối, tay giật giật cử động theo giọng đọc của nhà
thơ văng vẳng đâu đây...
* * *
Tôi hoàn thành bài
viết trên vào tháng 11/2012 cho Báo Nghệ thuật mới số 11, ra ngày
10/12/2012, chuyên đề về thơ Nguyễn Đức Tùng. Do vậy khi đó tôi mới chỉ được
đọc những bài thơ của ông viết trước 11/2012. Từ đó đến nay (tháng 4/2016), nhà
thơ tiếp tục cuộc hành trình, và đã mở thêm những chặng đường mới mẻ. Nay đọc lại thơ
Nguyễn Đức Tùng, tôi vẫn giữ nguyên nhận xét gần bốn năm trước. Thơ Nguyễn Đức
Tùng luôn là thế giới của những “con rối” dưới bàn tay điều khiển tài tình của
ông phía sau những nhân vật, sự kiện, khung cảnh… Điều mới mẻ hơn trong thơ
Nguyễn Đức Tùng thời gian gần đây là nhà thơ đã tạo ra nhiều tầng bậc sự kiện
trên nền tảng tự sự. Những sự kiện ấy thường được chồng lấn, chuyển động phức
rối quanh một tâm điểm. Tâm điểm ấy chính là cái tứ chủ đạo của bài thơ. Cấu
trúc ấy giống một thân đại thụ, có nhiều cành nhánh vươn rộng và sum suê quanh cội cây vững chãi. Cách xoay chuyển không gian trong thơ của ông cũng linh
hoạt, bất ngờ hơn trước. Những khoảng không-thời gian được ông cắt nhỏ rồi ghép
lại bằng cách sắp đặt những hình ảnh vừa hợp lý và phi lý gối lên nhau. Chúng
thường nằm chênh vênh giữa thực và ảo, sáng và tối, thức tỉnh và mộng mị. Cũng
nhờ cách sắp đặt tài tình của ông mà ta thấy khoảng cách thời gian và hành động
của các nhân vật, sự kiện, thậm chí cả thời đại trong thơ ông chỉ cách nhau
trong chớp mắt, gang tấc. Về hình thức, có khi những khoảng cách không gian và
thời gian ấy được nhà thơ sắp đặt ngay trong cùng một câu thơ, và, được phân
định bằng một dấu chấm hoặc dấu phảy. Tôi xin dẫn bài thơ “Những người dũng cảm” để thấy được sự mới lạ trong thiết lập không
gian, cũng như ngôn ngữ biểu đạt trong thế giới “con rối” của nhà thơ Nguyễn
Đức Tùng. Đây là tác phẩm khai bút đầu năm 2016 của ông, đăng trên Website
trannhuong.net, ngày 7/1/2016.
Những
người dũng cảm
Những
người dũng cảm thật hiếm hoi
Những
người thông minh còn hiếm hoi hơn nữa
Và
những người tử tế còn hiếm hơn gấp bội
Và
tất cả những thứ ấy cộng lại
Bạn
chỉ gặp một người một lần một đời
Như
bạn đi dưới trời mưa tầm tã
Không
mũ, không giầy, sấm chớp đì đùng, một chiếc xe hơi
Tấp
vào lề, cửa mở
Bạn
không có thì giờ lựa chọn
Nhìn
trước nhìn sau, lắc đầu
Nó
chạy vụt đi, bạn tiếp tục bước, mưa ngày một mau, bạn nghĩ thầm
Thế
rồi bạn đi mãi, một mình, suốt buổi chiều
Đôi
khi
Bạn
gặp một người thông minh nhưng không dũng cảm
Một
người dũng cảm nhưng không tử tế
Một
người tử tế nhưng không thông minh
Như
những chiếc xe hơi chạy vù qua, có khi quá nhanh
Như
kẻ bận rộn, có khi tà tà quá chậm
Như
kẻ lạc đường, lớ ngớ chờ bạn giúp đỡ, chứ không phải
Ngược
lại, và bạn cứ một mình dưới trời mưa đi mãi.
Bài thơ trên cho
thấy, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đã dẫn dắt người đối thoại mà ông gọi là bạn bằng giọng độc thoại diễu nhại. Nhân vật bạn trong bài thơ chính là người
đọc, hoặc một ai đó không xác định. Ông chọn những giả thiết ngẫu nhiên và lộn
xộn có chủ ý dành cho người đó ngay từ khổ thơ đầu. Giả thiết tiếp theo ở khổ
thơ thứ hai với nhiều trạng thái, sự kiện đan xen được đặt ra nếu:
“... bạn đi dưới trời mưa tầm tã
Không mũ, không giầy, sấm chớp đì đùng, một chiếc xe hơi
Tấp vào lề, cửa mở”.
Những chuyển động
trong bài thơ, vẫn là những động tác đứt đoạn, giật cục của một “con
rối” có người điều khiển:
“Nhìn trước nhìn sau, lắc đầu
Nó chạy vụt đi, bạn tiếp tục bước, mưa ngày một mau, bạn
nghĩ thầm”.
Đến khổ thơ thứ ba
cũng là khổ cuối cùng, bạn đọc dễ dàng hình dung một nhân vật lang thang, mải
miết, một mình đi mãi dưới chiều mưa. Và, theo sau nhân vật này vẫn là “nghệ sĩ
rối” Nguyễn Đức Tùng. Ông giật dây điều khiển, lồng tiếng, phả hơi ấm vào con
rối theo chủ ý riêng của mình. Điều thú vị ở đây là, người đọc thấy được những
suy nghĩ và cảm xúc của nhà thơ đang hóa thân vào nhân vật mà ông xây dựng từ
đầu bài thơ. Những giả thiết tiếp theo được nhà thơ bày đặt ra cho nhân vật
này, nghe có vẻ ngây ngô, nhưng lại đầy triết lý:
“Bạn gặp một người thông minh nhưng không
dũng cảm
Một người dũng cảm nhưng không tử tế
Một người tử tế nhưng không thông minh”.
Cách đảo nghĩa từng
hình ảnh trên cho thấy tác giả đã dùng thủ pháp diễu nhại rất vi tế để tạo ra
tiếng cười thầm thích thú. Đến đây, ta bỗng giật mình bởi cách liên tưởng lạ,
đột ngột của nhà thơ:
“Như những chiếc xe hơi chạy vù qua, có khi
quá nhanh
Như kẻ bận rộn, có khi tà tà quá chậm…
… và bạn cứ một mình dưới trời mưa đi mãi”.
Bài thơ không dài,
nhưng ta thấy Nguyễn Đức Tùng đã dịch chuyển câu chuyện qua nhiều tầng lớp
không gian, qua nhiều cung bậc của cảm xúc và chồng chéo những liên tưởng. Qua
bài thơ này và những tác phẩm khác gần đây ta thấy ngôn ngữ biểu đạt trong thơ
Nguyễn Đức Tùng đằm sâu và đa nghĩa hơn trước. Những câu thơ được ông dồn nén
nhiều sự kiện, gần với cách nói đời thường hơn. Thơ Nguyễn Đức Tùng luôn vận
động, tạo ra nhiều giọng điệu trong phong cách đặc trưng của ông.
Nhà thơ Nguyễn Đức
Tùng sinh 1955, tại Quảng Trị, lớn lên và đi học tại Huế, hiện là bác sĩ định
cư tại Vancouver, Canada. Ông là một trong những tác giả có thành tựu trong nhiều lĩnh vực như: làm thơ, viết
văn, viết phê bình văn học, dịch thuật… Ông sáng tác đều tay, chắc chắn trên nền tảng
văn hóa và kiến thức phong phú, vững vàng. Tôi cũng như nhiều độc giả xin bày
tỏ niềm mong đợi được đọc một tập thơ của Nguyễn Đức Tùng xuất bản tại Việt Nam trong tương lai không xa.
11/2012 - 4/2016
Tranh của Họa sỹ El Lissitzky