HÀNH TRÌNH THƠ THI HOÀNG
Giọng đọc của Mai Hương trên Youtube
Nhà thơ Thi Hoàng
Mai Văn Phấn
Nâng chiếc mầm lên tận đỉnh cây cao
Thi Hoàng
Thi Hoàng xuất hiện
trên thi đàn vào cuối giai đoạn chống Mỹ, cùng với một số nhà thơ Hải Phòng đương
thời như Vân Long, Thanh Tùng, Hoàng Hưng, Đào Cảng, Phạm Ngà, Trịnh Hoài
Giang… Họ bắt vào mạch văn chương Hải Phòng, khởi nguồn từ thời Thế Lữ, Khái
Hưng, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Văn Cao, Lê Đại Thanh…, cho nơi cửa sóng này được
mệnh danh là “miền đất văn
chương”. Giai đoạn sau này, Thi Hoàng nổi lên như một trong những gương
mặt đổi mới tiêu biểu giai đoạn hậu chiến, ông là gạch nối giữa thế hệ “thơ
chống Mỹ” với thế hệ đổi mới sau 1986.
Thơ Thi Hoàng có
hai giai đoạn, tôi tạm định danh: hướng ngoại và hướng nội. Giai đoạn hướng
ngoại thể hiện trọn vẹn trong tập thơ “Nhịp
sóng” (Hội Văn nghệ Hải Phòng xuất bản, 1976). Trước đó, Thi Hoàng còn có
tập thơ đầu tiên in chung, lấy tên “Cửa
sông” (Nxb Tác phẩm mới, 1971), nhưng người viết bài này chưa tìm được tài
liệu và cũng không thấy tác giả đưa vào “Tuyển
trường ca và thơ” của ông (Nxb Hội Nhà văn, 2010).
Ta đang cách nhau
một khoảng chết của quân thù (Em ở phương
xa), là câu thơ vang vọng trong “Nhịp
sóng”, nhắc nhở mọi người tinh thần cảnh giác, ý chí sắt đá lúc đó. Bài thơ
“Rãnh khương tuyến” có những câu thơ
khét nồng mùi thuốc súng:
“Những rãnh xoắn
dẫn đầu đạn lên theo một đường sáng chiếu
Nhằm phía ngực quân thù phá ra”.
Nhưng sau những
phút giây Viên đạn vọt ra trong chớp
mắt, ta gặp được Một khoảng trời
xanh sáng bừng. Từ những bài thơ trong giai đoạn “khói lửa” này, Thi Hoàng
đã sớm có những câu thơ mang phong cách riêng:
“Mũi con tàu
tinh anh như con mắt
từ cửa sông này
nhìn suốt đại dương…
Vạt buồm muốn kéo
cả bờ đi…
Trời xanh lặng như
đang điềm tĩnh lại” (Thành phố
những cánh buồm mùa hè – cửa bể ).
Thi Hoàng có nhiều
câu thơ hương sắc trong giai đoạn chống Mỹ. Nếu thơ Chính Hữu hồi ấy reo vui
khúc nhạc hành quân:
“Những buổi vui
sao, cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục…
Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát”,
thì thơ Thi Hoàng
trong “Ba người hát giọng trầm” lại có
những câu thơ gần với cách chuyển dịch ngôn ngữ của thế hệ thơ trẻ bây
giờ: Mái tóc mưa xuân, bàn chân mùa hạ, hay Cửa kín lòng
mình nhẹ mở theo ta. Những câu thơ đẹp mong manh, mơ hồ tiêu biểu cho
mỹ cảm của Thi Hoàng thời đó:
“Miền đất hứa
nắng dồn về bề bộn
Ong rung hoa bách hợp, phấn rơi vàng” (Lên với vùng cao);
hay những câu ám
ảnh:
“Nghe đằng sau
thấp thỏm
Như ai đi với mình” (Chiếc ba lô);
hay non trẻ và bay
bổng khi
“Một cô bé trong
vòng múa chìa tay
Tôi cầm lấy bay lên cùng lũ trẻ” (Trong vườn trẻ).
Câu thơ mang cảm
xúc tươi ròng, mãnh liệt tựa dòng nước mát lành từ lòng đất sâu trào lên:
“Trời thì xanh
như rút ruột mà xanh
Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc” (Ở giữa cây và nền trời).
á
Sở trường của nhà
thơ Thi Hoàng là trường ca. Với trường ca, ông mở đầu giai đoạn hướng nội,
thiết lập cho thơ mình không gian riêng biệt với những phức điệu, phối bè hấp
dẫn. Với hai trường ca lớn, “Ba phần tư
trái đất” (Nxb Hải Phòng, 1989) viết 1981 – 1984, “Gọi nhau qua vách núi” (Nxb Quân đội nhân dân, 1996) viết năm 1987 –
1994 và một số trường ca “mini” như “Oản
tù tì, ra…” in trong tập “Bóng ai gió
tạt” (Nxb Hội Nhà văn, 2001), “Bóng
tối dưới chân đèn” in trong tập “Cộng
sinh với những khoảng trống” (Nxb Hội Nhà văn, 2005)..., Thi Hoàng đã dành
được “đất” cho mình ở thể loại này. Khác với những trường ca mang tính sử thi
đơn tuyến, có cốt truyện, trường ca của Thi Hoàng có cấu trúc hiện đại với đa
giọng điệu. Các chương, phần trong đó có thể đứng độc lập như một bài thơ dài,
nhưng khi đặt trong “tổng phổ”, chúng được kết hợp, đan xen, bổ sung cho nhau,
giống như cách hòa âm, phối khí trong giao hưởng. Thậm chí, những ý tưởng được
đan chéo qua các chương, đoạn của trường ca, làm người đọc hình dung như có một
MC vô hình dẫn truyện từ đầu đến cuối.
Trong trường ca “Ba phần tư trái đất”, chúng ta nghe tên
các chương có thể nhận biết được tính độc lập, nhưng thống nhất trong cảm xúc
chủ đạo, nhìn thấy cái “thân cây” trong truờng ca của Thi Hoàng, để từ đó mọc
ra những cành lá xum xuê, bời ngợp: Chương 1: “Có một người, có một hòn đảo”, Chương 2: “Nhà thơ và chiến tranh”, Chương 3: “Biển ở đất liền”, Chương 4: “Số
một và tổng thể”, Chương 5: “Cuộc gặp
gỡ của những người chết”, Chương 6: “Thư
gửi hội nghị luật biển quốc tế”, Chương 7: “Kinh nhật tụng”, và Chương cuối: “Không phải là vĩ thanh”. Trong trường ca “Ba phần tư trái đất”, khá nhiều câu thơ hay với cách liên tưởng lạ,
bất ngờ được thắp lên như ngọn đèn dẫn đường:
“Đảo nhỏ đang
đùa nô với nước mây giây lát rùng mình
Rồi tĩnh toạ như nghìn năm vẫn thế” (Chương 1: Có một người, có một hòn đảo);
“Hòn đá vỡ tung
trong chiến tranh
Bây giờ không nhận ra được nữa
lẫn trong đá được ghè bằng búa
Rải dưới đường bố con anh đi” (Chương cuối: Không phải là vĩ thanh).
Tiếp đến, trường ca
“Gọi nhau qua vách núi” là cú nhảy
đột biến, bất ngờ trong hành trình thơ Thi Hoàng. Trường ca này có thể gọi là
bức tranh tổng quan với những mạch ngầm, những góc khuất của đời sống thời hậu
chiến. Ông vẫn tiếp tục những thủ pháp trong trường ca “Ba phần tư trái đất” là thiết kế
phân mảnh giữa các chương (ở đây ông gọi là Phần),
nhưng khác biệt rõ nét, là tạo sự đa dạng, đa giọng điệu ngay trong từng đoạn,
tức là tạo ra cấp số nhân của những phân mảnh. Chúng được đan cài có dụng ý và
biến hóa rất linh hoạt. Có phần ông sắp đặt ý tưởng, hình ảnh chồng lấn, xung
đột bất ngờ như những chuyển động Brown, tạo
nên những va chạm đến từ các hướng khác nhau, làm nên sự phồn tạp và biến ảo
như cuộc sống hiện đại. Các nhân vật A, B, C… trong trường ca thể hiện tối đa ý
đồ này của tác giả, vừa hữu danh, vừa vô danh, thoắt ẩn, thoắt hiện, lúc là cái
tôi, đơn vị bé nhỏ nhất, có lúc hòa đồng vào “đại tự sự” xuyên suốt “Gọi nhau qua vách núi”. Ngay từ phần thứ
nhất “Hoa với chuyện của ba người và
chuyện của nhiều người”, nhà thơ đã cho các nhân vật A, B, C lúc hiện thân
thành đồng đội A và B khóc C trong một tổ ba người, lúc hóa thành
đại ngàn vững chắc, chở che A, B, C thành một cánh rừng rồi. Đến
các phần tiếp theo, ông lý giải các nhân vật trong các chiều kích tương quan,
gắn bó và va đập của đời sống. Thi Hoàng đã thành công khi khắc họa vóc dáng
thời đại của ông. Chúng hiện lên với đa dạng những khuôn mặt, lúc ngây ngơ
như
“con nghé tơ vơ vẩn đi tìm
ai đánh mất quả chuông nào của nó” (Phần
thứ nhất: “Hoa với chuyện của ba
người và chuyện của nhiều người”);
lúc âm thầm làm giọt mồ hôi
ngoằn nghèo rủ rỉ trên lưng (Phần
thứ mười: “A, B, C… (hay là tiếng gọi)”), lúc khắc khổ, ưu tư dè dặt:
“Chính trị thời tôi chẳng phải như
ong
Chẳng phải như hoa để dễ dàng xúc động
Ý thức hệ nào chìm trong mật nóng
Mặc ong vô tình và hoa ngây thơ” (Phần thứ bảy: Bồng bế một thời).
Trong Phần thứ chín: “Thành phố nơi tôi sinh trưởng”, Thi
Hoàng có câu thơ
“Một đầu đường chẳng có ai trông
ngóng
Một buổi chiều không biết cất vào đâu”,
ấy là chân dung tự họa của ông trên cái
nền chiều thành phố cảng rất độc đáo. Cả thành phố và nhà thơ hiện lên trong
“bức tranh” với tâm trạng ngổn ngang, vừa muốn chuyển động vừa muốn dừng lại,
thèm khát sẻ chia lại muốn cô đơn. Ở Phần
thứ mười: “A, B, C… (hay là tiếng gọi)”
– , phần về đích của trường ca này, tôi nghe thấy giọng gọi của nhà thơ đã khàn
qua những “vách núi” ngăn
cách giữa con người với con người, giữa những cá thể nhỏ nhoi với thiên nhiên,
xã hội, và với cả những tập tục, ý thức hệ.
á
Thi Hoàng bắt đầu
những cách tân khi thơ ông đã định hình phong cách, tạo được chất giọng riêng
trong thơ Việt đương thời. Phần lớn những bài thơ của ông đều thấm đẫm tinh
thần này, ngoại trừ một số bài viết về thiên nhiên, người thân, trẻ nhỏ, như những đứa trẻ chơi trước cửa đền, chú chim sâu bé nhỏ… ông mới chịu rời xa
cái “cội rễ” thế sự. Thi Hoàng thường trăn trở, quan tâm những vấn đề lớn, như
ý thức hệ, lý tưởng, dân sinh, những áp bức, bất công đè lên vai những người
khốn khổ, những thân phận trôi nổi bèo bọt… Trong trường ca “Gọi nhau qua vách núi”, ông dành trọn
vẹn Phần thứ tư để viết về chính trị. Lúc đầu, phần này có cái tên khá “khiêu
khích”: “Chính trị”, sau ông đổi
thành “Bồng bế một thời”. Thơ Thi
Hoàng, truớc hết vẫn là cách nói của thi sĩ, đau đớn mà giàu liên tưởng, phản
tỉnh, gai góc, thậm chí dữ tợn nhưng đậm chất nhân văn:
“Buổi chiều đẹp
và mệt mỏi
Mặt trời như người đàn ông vừa ra khỏi
nhà
Đi đánh bạc cho đến sáng
Để bóng tối lấp đầy mặt người đàn bà
như bông hoa rau muống tím
Nghĩ mà thương cái bông hoa âm thầm…
Cờ của Tổ quốc tôi
là bàn tay mẹ
Nắng gió sống trên năm ngón tay nứt nẻ...” (Bồng bế một thời).
Dù viết về thế sự
hay bất cứ điều gì, ông luôn hướng đến cái Đẹp. “Lẽ phải”, trong
nội hàm cái Đẹp, không đến dễ dàng, có khi phải chờ đợi, phấp phỏng qua nhiều
thế hệ:
“Lẽ
phải dềnh dàng còn tế nhị gửi thưa
với muôn trùng biến dịch
Lẽ phải không tự tử cũng không bị ai
giết chết
Lẽ phải đến kia rồi ta đã già rồi thôi
để con ta ra đón” (Lại theo đuổi tự
nhiên).
Giai đoạn đầu cách
tân, thơ Thi Hoàng dùng các mảng cắt ghép giống như bức tranh, thiên
về màu lạnh, như cố tình tạo ra những “bức tường” ngăn cách trong không gian
ngột ngạt, ngổn ngang, gây cảm giác khó chịu, buộc bạn đọc tìm cách thoát ra
khỏi nó, giải phóng nó. Hình ảnh trong thơ thường được ông bóp méo, kéo căng,
chồng lấn, như cố tình cho chúng mọc ra những “chiếc gai” sắc nhọn, và, có lúc
quá cỡ so với cái thông thường:
“Nắng rầng rậc
một sắc vàng quát thét
Con còng chạy như điên băng qua cát
ngạt
Rất muốn ngọt ngào mà biển phải đành
lòng mặn chát
ta một nỗi niềm, biển một nỗi niềm,
cát cũng một” (Với cát bỏng).
Mọi câu thơ trong
bài đều được kết thúc bằng những thanh trắc (quát thét, cát ngạt,mặn chát,
cũng một, lạnh buốt, gai nhọn…) tạo dựng một khoảng không lộn xộn với những
va đập chói tai, nghe như tất cả bộ gõ trong dàn giao hưởng được tấu lên mà
không có loại nhạc cụ nào khác. Bài thơ này biểu hiện đặc trưng cách viết của
Thi Hoàng ở giai đoạn đầu đổi mới:
“Nắng quất nắng
quật ư? Cũng chưa ghê gớm
Bằng ánh mắt ta sao lại mọc những tia
nhìn như gai nhọn”.
Thi Hoàng đã tạo
những xung động, sản sinh những nghĩa mới của chữ, tạo chữ mới lạ, sự biến ảo
đa nghĩa trong từng câu thơ trên nền tảng của “đại tự sự”. Bài thơ “Tự thú”, rút trong tập “Đom đóm và sao” (Nxb Hải
Phòng, 1997) là một minh chứng cách viết của Thi Hoàng giai đoạn khởi đầu cách
tân của ông:
“Ngày nép vào
mắt mở
Đêm nép vào mắt nhắm
Tôi rình mò sự hoàn thiện đến cỗi cằn
xương thịt
Hóa ra khoảng không yên lành là mẹ của
ước mơ
Còn nhịp bước tự nhiên của bàn chân,
thế nghĩa là triết học”.
Câu thơ Tôi
rình mò sự hoàn thiện đến cỗi cằn xương thịt là một cách nói hình
tượng hóa rất mới mẻ; ngoài nghĩa trực diện, nó còn cho thấy chuyển động bên
trong của quá trình phân hoá, quá trình tự hủy diệt và hoàn thiện trong mỗi cá
thể. Kết hợp cái cụ thể với những khái niệm trừu tượng là cách viết của Thi
Hoàng. Ông tự thú mình là kẻ
“thất thường hoang
tưởng
Từng tạo ra những hốc tối om cho sự
thông minh ngồi im
Rồi đột nhiên nhảy xổ ra đâm chết tâm
hồn”.
Bài thơ là một cách
nhà thơ cật vấn chính mình, là lời tâm sự những điều gan ruột, cho vơi đi nỗi
lo lắng, bức bối đang chứa chất. Tâm trạng chán nản, cô đơn, nghi ngờ chính là
“xương sống” đỡ lấy toàn bộ những “câu chuyện” trong bài thơ. “Tự thú”, là cách ông “lộn ngược chiếc
túi” của mình, từ chuyện ngồi gãi lưng dưới bóng cây… và ngáp,
chuyện giày dép trẻ con, xó bếp, người được phong thánh, kẻ bị tử hình,
đến chuyện quốc gia, chính trị cao sang như nước sạch, đều được ông
“thưa gửi” thẳng thắn, chân thành, lúc nghiêm trang, lúc cười cợt bi hài. Cả
bài thơ như thấy ông đang ngất ngưởng, và dừng lại ở những hình ảnh đẹp dù chỉ
thoáng qua:
“Giày dép trẻ con
không phải chuyện đùa
Có thể có thiên thần trong xó bếp…
Tôi xin, mỗi sớm mai như cằm cô gái
đẹp”.
Trong hai câu kết bài thơ, nhà thơ tự đẩy mình xa vị trí tự thú ban đầu, mở ra
ba góc nhìn: tác giả, hiện thực đời sống và người đọc, tạo những liên tưởng đa cực:
“Tôi xa lạ với
chính tôi
Như mảnh trăng giữa trời nhìn trăng
dưới đáy hồ, ngơ ngác”.
Cường điệu hóa những
chuyển động của hình ảnh cũng là cách viết dụng ý của Thi Hoàng. Có lúc ông như
cố ý “bình phương”, “lập phương” những hình ảnh, liên tưởng vốn đã được phúng
dụ, như cố tình “đùa bỡn” người đọc, khiến họ hình dung một thế giới vừa được
bày đặt trong thơ ông, thật như giả, giả mà như thật. Những câu thơ có cách
liên tưởng kỳ thú này chắc chỉ Thi Hoàng mới có:
“Những nét chữ
hay là những con giun
Nguấy lên làm râm rẩm những cơn đau
bụng thẩm mỹ…
Tiếng phi cơ xé
rách trán trời xanh” (Hiện thực tập mờ);
“Chiếc lọ cổ rất
lâu mới cất tiếng thở dài
Tưởng nhả ra chiếc đinh khoảng không
lút trong cuống họng” (Dấu vết);
“Khoảng tối
trong mồm bị nắng mắng mỏ
Dẫu chỉ há ra kinh ngạc vì thế kỷ qua
mau” (Giật mình… hoa phượng).
Âm thanh và hình
ảnh trong thơ Thi Hoàng thường đan quyện, gợi những chuyển động nhanh:
“Ai đang hát
trong mưa
Nước như băm như thái” (Ai đang hát trong mưa);
“Vo ve tiếng
muỗi thả dây câu
Ta dẫu nghỉm chìm nghe vẫn thấy” (Chân dung âm bản).
Ông vận dụng cách
nói của ngôn ngữ thông tấn, giao tiếp, thể hiện ý tưởng của mình bằng những câu
thơ lạ, chính xác: Người bồm xộp như cắt ra từ nệm mút (Để nhớ một cái tên); bằng những hình ảnh
ám thị, ám ảnh:
“Máy tính ti-vi
màn hình có hôm nhùng nhầy như cục đờm thằng nghiện
Trong ấy có không biết bao nhiêu vi
trùng” (Lại theo đuổi tự nhiên);
lúc sắc lạnh:
“Lông con chó
vàng bắt nắng đẹp thế kia
Đừng có mà hoạnh họe” (Trình bày);
những xúc cảm bộc
phát, ngộ nghĩnh:
“Bố con tôi xin
chào nắng mới
nắng thò tay sờ vào má mình” (Nắng mới và con);
“Lá ngang nhiên
xanh dưới trời da cá lạnh” (Dưới bóng cây).
Chữ của ông tinh
tường, khôn hoạt, có lúc như dư vị cánh trà nhâm nhi trong miệng sau một ngụm
trà:
“À ơi! Loé sáng
ru mù tịt” (Chân dung âm bản);
“Nước rê vê hạt
rơi soi rọi
Rau ngây ngô từ lúc biết ngây ngô” (Tưới rau);
“Sự chai lì cứ
bóng bẩy dần lên cho mình trượt ngã” (Thế kỷ mới);
“Những đêm tăm
vũng nước tối mơ hồ” (Mùa hè của
tôi);
“Ý nghĩ lỏng ra
đuôi cá quẫy đều” (Bóng tối dưới
chân đèn);
có lúc tỉnh táo,
biến hóa tài tình, nhiều lúc như một trò chơi, cho ta hình dung những quân bài
đô-mi-nô đang theo nhau đổ xuống:
“In trên bao nẻo
mưa rơi
Dấu chân một thời hăm hở
Bước qua thời hăm hở nữa
Cơn mưa đang tạnh kia rồi” (Mưa);
lúc lại dùng từ gợi
thanh, gợi hình lạ mà chuẩn xác: Chiều áp tết tiếng giã giò thộp thệp (Lại theo đuổi tự nhiên).
“Chú chim sâu bé nhỏ”, viết năm 1992, là
bài thơ tiêu biểu cho cách dùng chữ của Thi Hoàng giai đoạn đầu đổi mới. Chữ, ở
đây được ông tinh lọc kỹ lưỡng, có thể nói là điêu xảo, được đặt trong từ
trường cảm xúc nhất quán xuyên suốt bài thơ. Chỉ có hai nhân vật, nhà thơ và
con chim sâu, nhưng bạn đọc được chìm ngập trong không gian rộng lớn và thanh
sạch, hình dung ông đang hóa thân, tan chảy vào thiên nhiên:
“Chú chim sâu
nhỏ giọt xuống lòng ta
Những giọt đoan trang cho hồn ta nhuần
nhị”.
Đây là cách chơi
chữ:
“Chú chim sâu bé
nhỏ
Chim chim cơm nóng nuông chiều
Chim chim nếp xôi đỗ ngậy”.
Ánh sáng trong mỗi
câu thơ vừa đủ cho ta thấy tài nghệ của ông, nhưng không lấn át cái “khí” của
cả bài thơ như ta thấy ở một số bài khác ở giai đoạn sau này của ông. Bài thơ
này mang vẻ đẹp nhân bản và hiện sinh, được viết với lòng biết ơn trời đất,
thiên nhiên đã cho con người được ân hưởng từng giây phút kỳ diệu:
“Tiếng tinh tích
dường như ăn được vậy
Ráng chiều như váng canh riêu”.
Tuy nhiên cách dụng
chữ của Thi Hoàng đôi lúc lại như phản đề:
“Chỉ biết đây là
rừng xanh thành thực
Vỗ về xanh rồi lại nỉ non xanh” (Lang thang ở Cúc Phương),
những chữ tinh điệu
trong câu sau không hợp với ý
thành thực ở câu trước. Ánh sáng, tiếng động từ vỗ
về xanh vừa
phát ra, chưa kịp lan tỏa đã bị nỉ non xanh chặn lại. Vỗ về và nỉ non lại biến thành hai gọng kìm xiết lấy câu thơ, chúng giống
như đôi chim quý bị nhốt trong chiếc lồng hẹp. Đôi khi chữ của ông cũng cho cảm
giác khiên cưỡng, đại ngôn:
“Tiếng còi xe
được nhìn thấy như mỡ rịn ra hai bên mép” (Lại theo đuổi tự nhiên);
“Hắc ín kín bưng
dính khét giọng rồ…
Nắng sặc gạch đôi
co đá bỏng…
Vỡ ngữ pháp động từ
đi tị nạn…
Sáng quá ghê răng,
sáng quá vỡ bát” (Quen thuộc với nỗi
buồn).
Thơ có tính truyện
được Thi Hoàng vận dụng linh hoạt, sáng tạo. Trong bài “Ngẫu cảm”, ông kể cứ tưng tửng từng mẩu chuyện như chúng chẳng ăn
nhập gì với nhau. Chuyện thứ nhất:
“Hòn đá rơi
trúng đầu
Chàng trai vào bệnh viện... rồi
thành vợ thành chồng quấn quyện”.
Tiếp đến mẩu chuyện
thứ hai, bông hoa đẹp nở kề bên ngọn thác làm người
phải lòng hoa với ra hái, tuột
chân mà chết. Hai cửa sổ ấy mở ra trong một bài thơ để ông quan
sát, làm xuất hiện câu thơ kết rất độc đáo: Sáng dậy thấy còn mình cũng đã
là vui! Những “câu chuyện” ấy đã đem đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng
xa hơn, đa chiều về tính thiên biến vạn hóa của đời sống, nhân sinh, thế sự.
Thơ văn xuôi được
ông sử dụng trong trường ca “Oản tù tì,
ra…” với nhiều ngữ
nghĩa cùng lúc được triển khai, tạo được những va đập, cộng hưởng:
“Sông ngòi giãi bày chảy cộn ruột
gan, phù sa để tóc dài với tay tắt vợi đi những chói gắt phân chia cho đài các
dần lên, nền nã dần lên lùm bóng râm lương thiện”.
Những câu thơ văn xuôi của Thi Hoàng
thường có nghĩa khá xa nhau, nhưng được liên kết bằng cảm xúc mạnh; thủ pháp
này đã tạo được những khoảng trống cần thiết. Trong một vài trường hợp, ông để
những hình ảnh chồng lấn thái quá trong một câu thơ:
“Những dấu chấm kia sau cơn mưa đã
thành ra muôn vàn xoáy nước dìm chết không tiếc thương những tư tưởng váng dầu,
nhưng mô thức lá khô củi mục”.
Thơ viết cho trẻ
nhỏ là một mạch chảy ngầm, riêng biệt trong thơ Thi Hoàng. Nó xuyên suốt lộ
trình thơ ông, luôn cuộn chảy dưới bề mặt ngổn ngang, gai góc và thô nhám của
đời sống hiện đại; và trong từng thời khắc, bất chợt phun lên những mạch nước
trong suốt, mát lành. Mạch thơ cho trẻ nhỏ có lẽ được khởi nguồn từ phần thứ
sáu của trường ca “Gọi nhau qua vách
núi”, là nơi để nhà thơ nương náu, tránh những cạm bẫy dù là của ngôn từ
hay do trí thông minh sắc sảo lấn át. Bài thơ “Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, viết năm 1999, nằm trong mạch
thơ hay viết về trẻ nhỏ. Đây là một “trò chơi” của trẻ thơ được nhà thơ đặt vào
một không gian linh thiêng mà không huyền bí. Mọi nghi thức, tập tục đang diễn
ra đều được “đại xá”, bởi nhà thơ đã xin ông từ giữ đền không
“Chấp với bọn
trẻ ranh rửng mỡ làm gì…
Cho chúng nó chơi đừng đuổi chúng đi”.
Nhà thơ gọi tên
từng đứa trẻ, gợi cách đặt tên cho trẻ con vần với tên cha mẹ ở các làng quê
Việt từ xa xưa, như thằng Tâm con nhà bố Tầm, cái Nhân con bà Nhẫn. Ngôn
ngữ sinh hoạt, giản dị đậm chất dân dã được nhà thơ vận dụng hợp lý, tài tình;
như cách ông răn dạy, “mắng yêu” lũ trẻ:
“Trước cửa đền
không được giồng cây chuối…
Lại còn hét lên như giặc cái”.
Những hành động vui
đùa, nghịch ngợm hồn nhiên của trẻ con trong một buổi chiều làm chúng ta thêm
hy vọng khi thấy chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn. Bài thơ có cách viết tự
nhiên, tinh nghịch như những cử chỉ hồn nhiên, bản năng của trẻ, hợp với cách
chơi chữ tung tẩy của nhà thơ, được Thi Hoàng viết trong tâm thức tỉnh táo, không
sa đà vào u minh, mù mịt… Khổ cuối bài thơ, ông có cách liên tưởng bất
ngờ:
“Chợt ngẫm thấy
trẻ con là giỏi nhất
Làm được buổi chiều rất giống ban
mai”.
Thi Hoàng đã để
những trò chơi của lũ trẻ mở cửa một không gian khác, trong lành, thánh thiện ở
câu thơ cuối:
“Thánh cũng hân
hoan. Đố ai biết được
Ngài ở trong kia hay ở ngoài này”.
Từ tập thơ “Đóm đóm và sao” (1997), rồi “Bóng ai gió tạt” (2001), tiếp đến “Cộng sinh với những khoảng trống”
(2005), thơ Thi Hoàng đã chuyển đổi cấu tứ và ngôn ngữ. Những hình ảnh, liên
tưởng trong thơ ở giai đoạn sau thường được chồng gối lên nhau nhiều hơn trước,
càng khác xa với cấu tứ truyền thống, gây cho một số bạn đọc vốn quen với cách
đọc cũ cảm giác phi lý, khó hiểu. Đọc thơ Thi Hoàng giai đoạn sau này, ta ngỡ bị
đẩy vào không gian mờ tối, rồi bất chợt thấy những đốm sáng ở những điểm nhìn,
những cạnh góc cần thiết để tự do kết nối tưởng tượng, và quan trọng hơn, ta
phải tự hình dung ra hiện thực phong phú, bí ẩn trên “cái nền” không gian tối
thẫm ấy.
“Nhấp chuột vi
tính thấy một cô trượt qua màn hình thúc gót chân vào bụng
Cái gót chân cách ta mấy nghìn cây mà
cũng làm vùng rốn ta đau
làm sao tìm được người ngoài hành tinh
mà quan hệ” (Lại theo đuổi tự nhiên).
“Cộng sinh với những khoảng trống” ít chú
trọng đến chủ đề, tôi gọi
đây là tập thơ có tính tự phân rã, tự hủy.
Những tính chất ấy trong tập thơ này đôi khi thể hiện ở sự thái quá trong cách
vận dụng ngôn ngữ giao tiếp, sinh hoạt, hoặc cách thức chồng lấn những sự kiện,
khái niệm trong một mạch thơ. Nếu lối tạo mạch thơ ấy được sử dụng liên tiếp
trong những khổ thơ dài, dễ gây cảm giác như tác giả cố ý đánh mất cái không
gian riêng biệt được mở ra từ đầu bài thơ:
“Dúm gói cá nhân
thăng hoa thăng hoét, thèm khát danh xước rách, suy nghĩ tận lực lôi ra từ ruột
gan một trạng thái cũ mèm sao vẫn phải thăng hoa vẫn phải nghiến răng tận lực” (Bóng tối dưới chân đèn).
Đoạn thơ sau đây lại như khúc hát của một gã
du ca thời hiện đại, với giọng điệu đầy nghi hoặc và chán nản:
“Phải tìm đường
đi cho phế thải đi
Chính gan ruột ta cũng đang làm việc
ấy
Khoác áo choàng tang của thuốc trừ sâu
Thì đến ma-nơ-canh cũng chết huống chi
người
Trẻ con thích làm đám tang của búp bê
thôi
Còn người lớn rất thích làm đám tang
cho các nguyên thủ” (Mở đường).
Không gian thơ của
Thi Hoàng thường hiện ra trước mắt bạn đọc, nửa như nhà thơ chủ ý sắp đặt, nửa
như vô tình mà thấy:
“Vỏ chuối trượt
chân trời mạt rệp
Hôi xì ghì ý nghĩ xuống đằng mông
Buồn đại tiện chứ không buồn sáng kiến
Đã khá lâu vợ chẳng muốn gần chồng” (Mở đường).
Cũng trong bài thơ
dài “Mở đường” này, Thi Hoàng đang
vận dụng cách ví von kiểu đồng dao “rồng rắn lên mây…”, thật ngây thơ, mê
đắm:
“Phủ nắng Vàng
có nàng Mưa nhỏ
Trong quán trọ có khách gió to”.
Nhưng bất chợt ông
nổi xung bằng thứ ngôn từ “thất thường”, gây chú ý đặc biệt:
“Đắc thời thì
nhắm rượu với đít của mình, mặt ghế với mặt người là một”.
Ở giai đoạn sau
này, những hình ảnh trong một câu thơ thường được Thi Hoàng nén chặt, cô đọng
hơn trước đây. Chúng gây cho ta cảm giác như lấn chiếm cảm xúc chủ đạo của cả
bài thơ:
“Đèn quán đêm
bạc ra như mủ chảy;
hay
Ý hóa bãi lầy làm
lời trượt ngã
Lời ơi lời bùn đất có thương không” (Bệnh).
Có một số trường
hợp, ngay khi câu thơ vừa được xướng lên, thì nhà thơ đã tỏ thái độ nghi ngờ
tính xác thực của nó: Hay cú ngã ấy ở trên bùn đất giả. Cách viết
này đã làm nên đặc điểm, nhưng cũng bộc lộ những hạn chế của thơ Thi Hoàng. Rất
nhiều những ý nghĩ vụn rời, biệt lập nhau trong liên tuởng, ngữ nghĩa lại đứng
cạnh trong trong một khổ thơ:
“Khi thật vui
hay thật buồn
thì thích ở ngoài sân hay trong nhà
Đây không phải là một câu thơ
Tóc còn đen mà làm quan rất to
Đây cũng không phải là một câu thơ
Mẹ ta mất đã hơn mười năm rồi” (Người đem thơ đi đâu).
Cùng với những câu
thơ hay, độc sáng, thơ Thi Hoàng luôn giữ khoảng cách cần thiết giữa nhà thơ và
người đọc, mà ít có những phiêu lưu, mạo hiểm. Có lúc ông cố tình giải thích
một ý tưởng vừa viết, vốn đã khá rõ ràng, nhưng vẫn băn khoăn sợ người đọc có
thể chưa hiểu hết. Ông là nhà thơ giỏi tự diễu, tự biết mình và thích cách nói
thái quá:
“Thì bằng những
câu thơ vơ bèo vạt tép
Ta cũng thành nhà thơ đấy thôi” (Người ta ai lại thế).
Nếu đánh giá suốt
hành trình sáng tạo của Thi Hoàng, thì tính cường điệu trong tự chiếu, tự giễu
lại chính là thế mạnh, giúp cho nhà thơ bình tĩnh, lạnh lùng nhìn lại mình và
liên tiếp thực hiện những cuộc khai phóng.
Đến tập thơ “Chìm vào mật nóng” (Nxb Hội Nhà văn,
2011), ngoài sự ổn định về cấu tứ nội dung và thủ pháp nghệ thuật, nhà thơ đã trở
về cách biểu hiện trong sáng của tập thơ đầu “Nhịp sóng” (1976), phát huy sự giản dị nhiều nội lực của “Ba phần tư trái đất” (1979), tầm vóc và
phồn sinh trong “Gọi nhau qua vách núi”
(1996), hay thăng hoa và bay bổng trong “Đom
đóm và sao” (1997) và “Bóng ai gió
tạt” (2001). Thơ ông lúc này như con nước lặng lẽ trong bài thơ “Sông đêm”:
“soi thấy ta
trong ánh đêm một khuôn mặt lạ lùng
bí ẩn xoã tóc đen mượt
hơi ẩm bảo nơi người, ngày bối rối thì
đêm chải chuốt”.
Hai câu thơ
kết
“Nước ong óng
phải lòng và lịch duyệt
Ăn mặc tử tế vào ra chào dòng sông.”
trở về tư duy và
cảm thức quen thuộc trong tập “Đóm đóm và
sao”:
“Bố con tôi xin
chào nắng mới
nắng thò tay sờ vào má mình” (Nắng mới và con).
Thơ Thi Hoàng gần
đây tuy vẫn gai góc, sắc nhọn nhưng ít nhói buốt hơn trước, vẫn giữ thái độ tự
chiếu, phản tỉnh mà không cay cú:
“Một im lặng săn
chắc
Nối vào miền tăm cá bóng chim
Từ một tịt đến muôn vàn, chó đá giữ
bình yên
Trong lòng người có cái đẹp thường
không thèm chấp” (Ngồi với chó đá).
Mọi chuyển động, dư
ba trong lòng ông như đã lặng dần xuống, muốn lắng đến trong veo:
“thương giàn
mướp leo qua vai ta ra quả
mùi mướp hương thương mái bếp nhà
nghèo” (Về cái không phải là tôi
của tôi).
Những cung bậc hờn
giận, mất còn buốt xót trong “Chìm vào
mật nóng”, ngỡ như không còn nhiều hệ lụy đối với Thi Hoàng nữa. Ông là
người
“Kéo mộng gửi
vào mơ tìm đêm rơi ngày tuột
Miệng vết thương lên cao vút một giọng
ca nhói buốt
Tôi leo lên cái giọng ca kia nhìn
xuống vết thương mình” (Mộng gửi vào mơ).
Ở đây, ta gặp cách
nói chân thành, nhuần nhụy hơn trước:
“Phận em chữ
nghĩa rỉa ơ hờ
trên trang giấy có dấu chân bỏ chạy” (Thương chị).
Thi Hoàng là nhà
thơ luôn tự làm mới từng câu, từng ý, cố nhích lên theo dấu mốc thời gian dù
chỉ nửa bước chân. Tôi trân trọng ông ở thái độ ứng xử với thi ca trong những
câu thơ:
“Nhớ lại câu thơ
mình riết róng viết ra
Về phố cũ đường nét xưa di chú
Chữ béo ú mắt díp lại ngái ngủ
Trang giấy mặt đường không ra được ngã
năm thiết tha…
Đem đốt bài thơ đi
cho nước non đứng đắn
Cho trăng đàng hoàng thanh sạch sáng
nghiêm minh” (Tôi không thấy thơ mình như
trước nữa).
Phải chăng ông tự
thấy đã cố hết sức mình, biết chấp nhận “thất bại”, tuy ta có thể hiểu sự “thất
bại” ấy chỉ do ông tự hoạch định, tự đặt ra ranh giới khắc nghiệt cho bản thân
mình. Như nương vào sự thông minh, ông đã nhìn thấy đích đến hoặc chân trời xa
hơn, nhưng biết sức mình không thể vượt qua nữa.
á
Nhà thơ Thi Hoàng
từng đoạt nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn Việt
Nam, năm 1996, cho tác phẩm “Gọi nhau qua
vách núi” và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2007, cho nhóm tác
phẩm “Nhịp sóng”, “Ba phần tư trái đất”, “Gọi nhau qua vách
núi”, “Bóng ai gió tạt”. Có thể gọi Thi Hoàng là nhà thơ của trường ca. Đây
là miền đất rộng để ông được tự do sắp đặt ý tưởng và thể hiện bút lực của
mình. Từ “cội rễ” nhân sinh, thế sự, thơ ông lan tỏa, bời ngợp nhiều lĩnh vực,
giàu có liên tưởng, phồn tạp cảm xúc trong đa dạng bút pháp. Trong lời mở đầu
bài viết, tôi nhận xét thơ Thi Hoàng là gạch nối giữa thế hệ ông với thế hệ các
nhà thơ cách tân sau 1986, nếu mỗi thế
hệ có ý thức hệ, có tiếng nói của riêng mình, thì Thi Hoàng đã đi xa hơn thế hệ
của ông. Trong thơ ông có hai con người, vừa già vừa trẻ. Thi Hoàng trẻ trung
với sức bật dũng mãnh, liên tiếp thực hiện những cuộc lên đường, làm cho thơ
mình biến đổi rõ nét qua từng giai đoạn. Nhưng ông khác biệt thế hệ trẻ, là
luôn tự chiếu, tự biết giới hạn dừng lại, như trong thơ ông có một thứ chân trời:
“Đắp một con đê
theo dọc lòng mình
Ngăn ý chí đẩy xô tới chân trời kim
loại”.
Thi Hoàng đã vượt
qua sự cản ngăn của thứ chân trời kim loại nội tại. Ông là con người không ngừng tìm tòi những giá trị
cách tân về tư tưởng cho thơ ca, không chịu làm kẻ soi ngắm những thành quả đã
gặt hái trong đời thơ của mình. Ông đã nâng chiếc mầm lên tận đỉnh cây
cao, bằng sức bật của kẻ gắn thơ với triết luận.
12/2012
Nhà thơ Thi Hoàng