Bài văn nghị luận về “Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc” - trung-sonnguyen4
Bài văn nghị luận về “Mười
nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”
trung-sonnguyen4
(Chưa rõ tên thật của tác giả bài viết)
ĐỀ BÀI:
Viết bài văn nghị luận về bài thơ “Mười
nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc” của Mai Văn Phấn
Mười
nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc
Tháng ngày gương lược về
đâu
Chân trời để xõa một màu
cỏ non
Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn
trong cây
Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay
trắng trời
Người ơi, tôi lại gặp
người
Hơi bom vẫn thổi rụng rời
cát khô
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.
(Mai Văn Phấn. In trong tập thơ "Cầu
nguyện ban mai", NXB Hải Phòng, 1997)
BÀI LÀM:
Bài thơ “Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc” của
nhà thơ Mai Văn Phấn được trao giải cao nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm
1995. Bài thơ lục bát giản dị mà ám ảnh, năm cặp lục bát với mười câu thơ như
mười nén nhang thắp trên mộ mười cô ở ngã ba Đồng Lộc. Bài thơ như lời khấn
thầm độc thoại với những day dứt trong tâm tưởng:
“Tháng ngày gương lược về
đâu
Chân trời để xõa một màu cỏ
non”
Ở đây nhà thơ đặt câu hỏi: “Gương lược về
đâu” chứ không phải “Các cô về đâu”. Chính chi tiết này đã làm thổn thức
lòng người, bởi gương lược là hai vật bất ly thân luôn bên người để làm đẹp cho
các cô. Từ cái cận cảnh “Gương lược” trên mộ các cô ống kính tâm trạng
của nhà thơ bỗng nới rộng không gian: “Chân trời để xõa một màu cỏ non”.
Một sự sống nhen nhóm và hồi sinh từ “tóc màu cỏ non” đến “Những chùm
bồ kết khô giòn trong cây”. Bồ kết là thứ quả gội đầu quen thuộc và ở khu
mộ mười cô cũng có cây bồ kết được trồng ở đó. Nhà thơ phát hiện thật tinh tế
khi chùm bồ kết không khô giòn trên cây mà ở “trong cây” cũng như các cô đang
nằm “trong đất”. Nhà thơ chọn mái tóc để đặc tả từ gương lược đến tóc màu cỏ
non và hương thơm bồ kết tạo ra hình ảnh vấn vương xúc động lòng người.
Bút pháp của Mai Văn Phấn trong bài thơ này khá
nhất quán, từ một chi tiết cụ thể đẩy lên khái quát mang tính biểu tượng:
“Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay
trắng trời”
Chính những liên tưởng đối xứng đan xen này đã
tạo ra độ ngân vang trữ tình, đó cũng chính là ý tưởng nhân văn khi viết về cái
giá của sự hi sinh. Chính cặp đôi của hai câu thơ giữa bài như một nhịp cầu
vồng lãng mạn bắc sang một sự thật chiến tranh khốc liệt:
“Người ơi tôi lại gặp người
Hơi bom vẫn thổi rụng rời
cát khô”
Ở đây nhà thơ không nói “khói bom còn thổi” mà
“hơi bom còn thổi”. Khói có thể bay và tan đi ngay nhưng hơi bom thì thời gian
làm sao xóa nhòa được nó thấm vào cỏ cây, nó ngấm vào da thịt (Rụng rời cát khô
hay là rụng rời da thịt của người đã mất). Hai câu thơ cuối như một lời tự vấn:
“Nhang này quặn nỗi đau xưa” chữ “quặn” như xoắn lại trong ta bao dấu
hỏi. Tự vấn cũng chính là sự thanh lọc tâm hồn: “Tôi nay tôi của cơn mưa về
nguồn”.
Mở đầu bài thơ là tóc xanh cỏ non, là mây trắng
và kết thúc là cơn mưa về nguồn gội mát rửa sạch cả hơi bom làm dịu cả cát khô.
Khung cảnh thiên nhiên và con người tạo ra một hòa âm kết nối yêu thương và
chia sẻ. Với ngã ba Đồng Lộc nhiều nhà thơ đã viết. Mai Văn Phấn vẫn tìm ra
cách riêng của mình: Anh không mô tả lại chiến tranh mà nốt nhấn sâu thẳm là
tâm trạng của người hậu chiến với người đã khuất. Đây cũng chính là nén nhang
thơ tri ân với cấu trúc một tứ thơ đẹp, kiệm lời nhưng có sức lan tỏa lay thức.
Thơ hay là thơ đọc lên người ta có thể quên thơ chỉ còn lại tình người, còn lại
cuộc đời…
Bài thơ được viết theo thể lục bát truyền
thống, hàm súc và cô đọng. Chỉ với năm khổ thơ, mỗi khổ gói trọn hai câu sáu
tám, đã lột tả tận cùng tâm trạng người viết khi đứng trước những ngôi mộ mười
cô gái thanh niên xung phong hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc trong thời kỳ ác liệt
nhất của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đấy là một tâm trạng
hàm ơn, da diết nhớ thương và thấu hiểu tận cùng sự hy sinh của mười cô gái ở
ngã ba Đồng Lộc (cũng như bao người con yêu khác đã ngã xuống vì nền độc lập,
tự do của dân tộc) là để đem lại sự sống vĩnh hằng cho Tổ quốc chúng ta:
“Tháng ngày gương lược về
đâu
Chân trời để xõa một màu cỏ
non”
Nhà thơ không hề giải thích sự hy sinh của mười
cô gái, mà chỉ với ba từ “màu cỏ non” đủ làm người đọc cảm nhận hết ý
nghĩa lớn lao của sự sinh đó.
Bài thơ không nặng về tả, hay kể, mà nghiêng về
gợi trí tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Thế nên, viết về mười cô gái ở
ngã ba Đồng Lộc, nhưng chỉ duy nhất một lần nhà thơ dùng từ chỉ giới tính “các
cô” trong câu: “Các cô nằm lại trên cồn”, còn không hề có lần nào nữa,
nhưng người đọc dẫu chưa một lần đến ngã ba Đồng Lộc, hay cũng chưa một lần
nghe kể về mười cô gái nằm lại ngã ba này, thì khi bắt gặp những từ “gương
lược”, “bồ kết”, “khăn thêu” ở ba khổ thơ đầu, cũng đều nhận ra đích thị là
đồ dùng chỉ những cô gái Việt Nam mới có. Sự kết hợp thi ca truyền thống và
hiện đại được vận dụng khá nhuyễn trong “Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc” là
điều người đọc dễ nhận ra và đấy cũng là một thành công của Mai Văn Phấn trong
cách tân thơ.
Đứng trước những ngôi mộ mười nữ thanh niên
xung phong ở ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ da diết nhớ thương, bồi hồi xúc động khi
mường tượng tới những vật dụng gương lược, bồ kết, khăn thêu của các cô như vẫn
còn kia, in đậm “dấu tay gày”. Những vật dụng ấy không còn là tĩnh mà trở nên
thiêng liêng và sinh động vô cùng trong sự mường tượng của nhà thơ, khi nhìn
“gương lược” như thấy cả mái tóc xanh rờn “xõa” xuống chân trời thành “màu cỏ
non”:
“Tháng ngày gương lược về
đâu
Chân trời để xõa một màu cỏ
non”
Hay, khi nhìn tấm khăn in dấu tay thêu của
người con gái, nhà thơ như thấy ở đó cả một trời mây bay:
“Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay
trắng trời”
Mây bay trắng trời hay là vành khăn tang của
nhân dân, của trời đất tưởng nhớ khôn nguôi những người con đã ngã xuống vì nền
độc lập, tự do của dân tộc. Thơ kiệm lời mà giàu sự gợi mở, liên tưởng. Chỉ
giây phút ngắn ngủi mà nhà thơ như gặp lại chính người thân của mình đang nằm
lại nơi đây, qua tiếng gọi gần gũi, thân tình: “Người ơi, tôi lại gặp
người”. Dường như khi sắp phải rời
ngã ba này, mười cô gái thì vĩnh viễn nằm lại nơi đây, còn nhà thơ thì ra về
trong tâm trạng bâng khuâng nhung nhớ đến không thể kìm nén khi cắm những nén
nhang lên từng phần mộ trong nghĩa trang:
“Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về
nguồn”
Đúng quá, mỗi người chúng ta ai mà quên ghi sâu
trong tâm khảm lòng nhớ ơn những người đã ngã xuống vì cuộc sống ấm no, hạnh
phúc của toàn dân và sự nhớ ơn ấy chính là truyền thống quý báu “ăn quả nhớ
người trồng cây” của dân tộc ta, được nhà thơ nói một cách đầy hình ảnh “cơn
mưa về nguồn”, chính xác và gợi mở. Đấy cũng là một nét đặc trưng thơ Mai
Văn Phấn gắn chặt truyền thống với hiện đại, mà trong “Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc” ta rất dễ nhận ra.
(Nguồn: FQA.vn)

"Khăn thêu những dấu tay gày"