image advertisement
image advertisement





























 

Người tạo dựng không gian thơ bằng giấc mơ (phê bình) - Mai Văn Phấn

Người tạo dựng không gian thơ bằng giấc mơ

 

 

Nhà thơ Đào Quốc Minh

 

 

Mai Văn Phấn

 

Tập thơ "Phục sinh" (Nxb. Hội Nhà văn, 2024) của Đào Quốc Minh mở ra không gian thơ bằng những giấc mơ. Mỗi giấc mơ trong ấy hé lộ bao điều kỳ lạ, có thể một sự thật, một bí ẩn từng được phong kín, kho báu bị lãng quên, một con đường đã bị gió bụi phủ lấp hay vẫn ảo mờ phía trước... Những mộng mị ấy trong “Phục sinh” đã hé lộ cho người đọc thấy những gì diễn ra trong tâm hồn nhà thơ, những thứ dường như huyền hoặc, phi lý, bí ẩn không thể thấy được ở trạng thái tỉnh thức. Kể từ thời khắc mỗi bài thơ xuất hiện, tác giả của nó đã biến mình thành người khách lạ đang quan chiêm đời sống diễn ra quanh mình và đời sống của chính mình; ngoái trông một phần cõi sống mà anh ta tạo dựng lại đang khởi phát từ một bến lạ, kết nối với chân trời lạ.

 

“trong cuộc đời cô độc này

anh chỉ còn lại một giấc mơ

long lanh như viên sỏi...

ai đã ném xuống lòng sông

nơi những kẻ lang thang

tìm - kiếm khắp - cánh - đồng"

(Giây phút cuối cùng);

 

"có người uống ánh trăng tan

ngủ quên trong đống tro tàn nghìn thu"

(Đống tro tàn)

 

Đó là khoảnh khắc của tan biến, hay thoáng hiển lộ vừa đủ cho tâm trí ta cảm nhận đường nét của hiện thực tâm hồn, hữu hình mà cũng rất vô hình; nó kỳ ảo, nhẹ nhàng và bảng lảng khói sương. Hình ảnh ấy tựa một chấm sáng cho độc giả thấy những chuyển động xung quanh; tựa như cột trụ cho các sự kiện diễn ra hỗn loạn, đứt gãy quanh nó. 

 

"em vẫn ngồi đó...

một mình kể chuyện

về một dòng - sông

và bến - đá - năm - nào..."

(Con chim hoàng yến)

 

Hành động "em... một mình kể chuyện" có vẻ phi lý, bất tuân quy luật của thực tại, nhưng lại tồn tại hợp lý trong diễn tiến một giấc mơ. Ẩn sau những hình ảnh hiển hiện đó là lời nhắc nhở hãy ghi nhớ khoảnh khắc vừa chợt hiện, bởi có thể chỉ sau chớp mắt, vạn vật sẽ nhanh chóng biến đổi, nhanh chóng dịch chuyển.

                                                                              

Hiện thực giấc mơ trong thi tập “Phục sinh” rất đa dạng, phong phú. Đó là hiện thực đời sống được thăng hoa, cộng hưởng với hiện thực tâm hồn, tạo lên một thế giới kì ảo, nối thông các phương chiều không-thời-gian, đôi khi mang tính tiên tri.

 

"trong một giấc mơ mọc lên

từ nấm mồ. như một cây cỏ lạc loài lạ lẫm

nỗi buồn thõng hai tay trắng...

mà ngực trần lấp lánh địa cầu trong"

(Lấp lánh địa cầu trong);

 

"chiều rất hoang và mây rất xưa

anh thả con thiên cầm bé nhỏ từ chiếc lồng

đan kết bằng vết thương và cái chết

của những nhánh - cây già - cỗi"

(Chiều mây).

 

Nỗi buồn "thõng hai tay trắng", hay hình bóng "con thiên cầm bé nhỏ" trong hai khổ thơ trên là những điều ảo diệu khó cầm giữ, mà cũng không dễ dàng buông bỏ. Nó là sự hiện diện của cái bất khả tri trong khuôn khổ những quy luật đã được chấp nhận. Diễn tiến của sự ảo diệu ấy là quá trình phá vỡ những quy tắc bất biến, cố định của thế giới hiện tồn; nó làm lệch nhịp những nguyên tắc lý tính để tạo ra một hiện thực mới, trật tự mới.

 

Hiện thực kỳ ảo mà Đào Quốc Minh tạo ra trong tập thơ này tựa "những đoàn tàu miên man" xuất phát từ tuổi thơ của tác giả, đi xuyên qua không-thời-gian để phục hiện "những giấc mơ ăm ắp trời sao" (Đoàn tàu và đứa bé chăn trâu). Giấc viễn mộng này vang xa thành “hồi chuông ngàn năm cũ”, vọng âm ấy đem lại cho độc giả một không gian chứa đựng “dấu tích ai nằm. bóng ai qua” mang vẻ đẹp huyền bí, đầy ma lực trong bài thơ “Tây Thiên”. 

 

"anh đi qua hình - bóng - em trầm lặng...

một mặt trời vàng - vọt thiêng - liêng

đang tắt - lụi - dần trong - đồng - tử - cháy"

(Những con kiến)

 

Đào Quốc Minh đã dùng lối tư duy phi logic, nghịch lý, xáo trộn trật tự tự nhiên để tái tạo giấc mơ – những cơn mộng thiện lành, trong suốt và tinh khôi như sương sớm. Chiều kích của "giọt sương" kia có lẽ sẽ được xác định bằng độ đàn hồi của tâm trạng, bằng tần số cảm xúc của đối tượng tiếp nhận. Giọt sương trong suốt ấy như treo lơ lửng trước mắt chúng ta, mở ra nhiều hướng nhìn, nhiều cung bậc xúc cảm.

 

Thơ Đào Quốc Minh trong "Phục sinh" khá đa dạng về phong cách, anh thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống với hiện đại, một thứ “bình cũ rượu mới”. Độc giả sẽ thấy thú vị khi đọc những câu thơ mới lạ, tươi non mang thi liệu truyền thống của anh:

 

"trái tim tôi cất cánh bay đi...

để trống lồng ngực xanh rì cỏ hoang"

(Lồng ngực rêu phong);

 

"ôi mái lá, ong vàng hè bỏng lửa

đập cánh bay ươm mật cả chân trời"

(Quê hương);

 

"vẳng nghe hồi trống già nua

từ ngàn xưa cũ mái chùa bóng trăng

đêm nay tiếng gỗ nứt toang

có đàn trâu bỏ nhân gian về rừng"

(Đàn trâu).

 

Truyền thống và hiện đại, có thể ví như hai đầu của chiếc cầu bập bênh – một trò chơi gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ. Bập bênh vốn là trò chơi tìm cách cân bằng, nhưng bản chất chữ “bập bênh” lại cho thấy sự bất cân bằng. Thi tập “Phục sinh” cũng “bập bênh” như vậy trong cuộc chơi chữ nghĩa, nhưng tác giả lại không chủ ý theo đuổi sự cân bằng.

 

"gió lạnh cuốn em đi miên trường mãi mãi" (Cánh hoa rụng); "lưng mẹ còng trĩu gánh thương yêu" (Quê hương); "anh nhớ em một chiều tà thắm đỏ" (Lồng ngực nam phương). Đó là những câu thơ trĩu nặng tâm thế truyền thống trong tập thơ "Phục sinh", nó mang cho người đọc thơ hôm nay, nhất là giới trẻ, cảm giác da diết quen thuộc, hoài cổ... Ở phong cách này, phải chăng nhà thơ đã nương theo quán tính của thơ truyền thống, hơn là cố ý trụ lại trên nền tảng ấy.

 

"tôi như hồn

lữ khách tha phương..."

(Lữ khách);

 

"chợt nghe có kẻ buông đò nhỏ

bóng chiếc ai soi sáng huy hoàng"

(Câu cá)

 

Đôi khi Đào Quốc Minh có những câu thơ mang phong vị cổ thi, nhưng tiết tấu lạ lẫm và cảm xúc tươi mới.

 

"ta ngồi trên thuyền cỏ

chầm chậm thả cần câu

hiểu rằng xuân đang đến

hoa lê thơm mái đầu..."

(Cành lê)

 

Qua "Phục sinh" cho thấy, Đào Quốc Minh hầu như ít khi "yên vị" trong một không gian nghệ thuật ổn định, mà anh luôn dịch chuyển để khai phá, kiếm tìm, thay đổi thi pháp. Có lúc tác giả sử dụng phong cách thơ truyền thống làm chiếc bình cổ đựng thi tứ là thứ rượu mới cất mang hơi thở của thời đại.

 

"đêm qua dây đàn guitar rừng rực cháy

người nghệ sĩ ngồi cô độc trước vầng trăng

có người điên xóa đi lớp bụi đường trên con mắt gốm

độc bình xưa thơm lại cánh hoa rằm"

(Cây đàn guitar)

 

Trong khổ thơ tiếp theo dưới đây, nhà thơ đã sử dụng tài tình lối kết cấu đa tầng, nhưng các thi ảnh vẫn hiện lên sáng rõ bằng ngôn từ giản dị. Những "rừng thu", "cúc trắng", "dấu chân", "khói sương"... được Đào Quốc Minh phục dựng một hiện thực tâm tưởng trong không gian ba chiều của nghệ thuật sắp đặt. Trong đó, vị trí của mỗi thi ảnh đều chứa đựng tính đa nghĩa của hình tượng, tạo một khoảng không huyền hoặc, mà chìa khóa mở vào khoảng không ấy chính là câu thơ "anh đi giữa em...". Câu thơ ấy tựa cánh cửa đầu tiên dẫn độc giả vào một thực tại ảo, đầy những hình ảnh và chuyển động phi lý, phi logic, sống động.

 

"anh đi giữa em...

và rừng thu cúc trắng

chân trời là mây

và cuối ngàn là nắng

dấu chân là khói

và lối mòn là sương"

(Có và không)

 

Những câu thơ, bài thơ trong "Phục sinh" với thi pháp hiện đại đã tạo được từ trường riêng, ấn tượng mạnh mẽ hơn hẳn những bài kết hợp phong cách truyền thống. Tuy số lượng những bài như thế không nhiều trong "Phục sinh", nhưng năng lượng, ánh sáng của chúng vẫn đủ soi rọi cho người đọc nhận biết chân dung một thi sĩ trẻ, tài hoa, ấp ủ năng lượng bứt phá.

 

"trong tiếng nổ lách tách của cây củi sưởi

kể cho nhau huyền thoại về tiếng ngân nga nơi đường chân trời"

(Hoàng nhạn);

 

"anh không còn hát em nghe

người lính môi kèn. lưng ngựa trắng

khung cửa sổ mùa lá rụng"

(Lưng ngựa trắng)

 

Không gian kỳ ảo của những giấc mơ trong thơ Đào Quốc Minh chứa những diễn tiến của nhiều tầng cảm xúc. Đoạn thơ dưới đây của anh giải mã được đa tầng cảm xúc của người viết. Cá nhân tôi cảm nhận như có cơn gió mạnh thổi qua những thi ảnh trong đoạn thơ này, làm bạt cả ngọn nến... Nhưng cơn gió đó chỉ là một “làn gió hiu hắt”, cái nghịch lý này thể hiện rõ cảm xúc đa tầng của tác giả.

 

"ngọn nến lắt lay trên bàn hoa đã thắp

nhưng kỳ lạ làm sao làn gió hiu hắt cuối đông

đã thổi tung chiếc hộp ra khỏi ô cửa cũ

bay về phía dải đất phù sa trồng đào phai...

trong ánh nến sáng lập lòa. của ngôi nhà bóng đổ..."

(Tặng phẩm của mùa xuân)

 

Một số bài thơ trong "Phục sinh" được viết theo phong cách hiện đại toàn triệt từ kết cấu, cách liên tưởng, thiết lập thi ảnh đến sử dụng ngôn ngữ... Thơ hiện đại của Đào Quốc Minh gợi mở, giản dị, khá gần với ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, nhưng ám ảnh, có hấp lực mạnh. Xin dẫn nguyên văn một bài thơ.

 

Mùa khô Tây Nguyên

 

Tây Nguyên... mùa khô

tôi sống trong một kho củi mục...

hằng đêm có đứa bé ăn mày

đứng trước mặt tôi

ngạc - nhiên và đau - khổ

kể trong tia - chớp xanh - xao

rạch - ngang chân - trời

có một đám người tí hon

khuôn mặt xanh đen u sầu

đang gánh cát mịt mù

và bước đi vội vã...

 

"Mùa khô Tây Nguyên” là một truyện lồng trong truyện, một thực tại ảo đặc trưng của nhà thơ. Hình ảnh “đứa bé ăn mày” bất  ngờ xuất hiện như một ảo ảnh trong hiện thực tâm tưởng, đứa bé đến để kể câu chuyện của mình và nhà thơ kể câu chuyện về nó. Hình ảnh đứa bé “ngạc nhiên và đau khổ” hiện ra trong kho củi mục và hình ảnh đám người tí hon “mặt xanh đen u sầu” trên vùng đất cao nguyên mịt mù là một sự đồng hiện rất ám ảnh, tựa những cái bóng được ánh sáng hắt lên một mặt phẳng. Những cái bóng thoắt ẩn thoắt hiện trong không gian mịt mù đó khiến tim ta nhói buốt vì gánh nặng mà họ phải mang vác trong mùa khô khắc nghiệt ở Tây Nguyên.  

 

Cùng với "Mùa khô Tây Nguyên", Đào Quốc Minh có một số bài thơ hiện đại khác khá lạ, đẹp và nhiều ấn tượng, như: "Đôi chim liền cánh", "Có và không", "Ngã ba sương", "Lời hoa hồng dại", "Cánh hạc đầu tiên", "Tấm gương đêm", "Bóng đen gọi mặt trời", "Những tiếng gào", "Lũ trẻ trần truồng", "Không còn những đoàn quân", "Đồi hoa quế trắng"...

 

"hài nhi nào

nằm - lạnh mãi

bên song

con mắt vẫn xanh

mái đầu đã bạc

thương cánh chim câu

rời rã khát

chân trời

một thế kỷ rầu...

như hơi thở trong nôi"

(Đôi chim liền cánh);

 

"đêm như con chim nhỏ

lông màu xanh biếc

hót bên em một...

điệu hót không lời"

(Lời hoa hồng dại)...

 

Thơ Đào Quốc Minh trong "Phục sinh" nhìn chung có tiết tấu chậm, khoan thai, thể hiện một phong thái an nhiên, tự tại của người thiền định. Đoạn thơ dưới đây cho thấy, tâm hồn người viết đã thoát khỏi mọi ràng buộc, cám dỗ, mọi chấp niệm.

 

“những con kiến. bò qua thành phố cũ

thành phố đóng băng bỗng cất tiếng trầm buồn

cuộc hành hương. qua nhân gian. vô định!

chỉ một người bật khóc trước hoàng hôn...”

(Những con kiến)

 

Khổ thơ trên và một số bài thơ của Đào Quốc Minh sử dụng thủ pháp dòng ý thức, một kỹ thuật tự sự hiện đại, nhằm diễn tả dòng chảy của cảm giác, thị giác, thính giác, xúc giác, liên tưởng, tiềm thức... Đặc điểm nổi bật của bút pháp này là coi trọng ý thức và những phản ánh tâm lý của chủ thể. Một số bài thơ của Đào Quốc Minh có những dấu chấm khá lạ ở giữa câu, tạo sự bất ngờ, thú vị. Những chữ xuất hiện ngay sau dấu chấm thường không viết hoa, đó phải chăng là ngụ ý riêng của người viết. Với cá nhân tôi, những dấu chấm ấy mang lại hiệu ứng thị giác, giống như dấu lặng nhằm thể hiện một khoảng nghỉ trong tác phẩm âm nhạc; nó mang cho người đọc cảm giác lắng đọng, hay thoáng chốc được đảo nhịp thở; Tuy vậy, ta vẫn thấy các thi ảnh trong mạch thơ chuyển động liên tục theo quỹ đạo của riêng chúng.

 

Nhà thơ Đào Quốc Minh sinh năm 1986, tại Hà Nội. Những tác phẩm của anh đã xuất bản gồm chín tập thơ ("Mưa tháng ba", "Nguyệt nương", "Dấu vân tay màu xanh lục", "Những người vũ công Memphis", "Phục sinh"), hai tập truyện ngắn ("Người tù không số", "Đứa con của nấm mồ"), và trên 20 đầu sách dịch thuộc nhiều lĩnh vực, bao gồm Lịch sử, Triết học, Giáo dục, Nghệ thuật... Năm 2015, tập thơ "Những người vũ công Memphis" của Đào Quốc Minh được trao tặng Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội.

 

Đào Quốc Minh là người lặng lẽ, kiệm lời. Cách đây mấy năm, tôi tình cờ gặp Minh chốc lát trong sân Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Sau đó, tôi đọc truyện ngắn "Hải âu lạc lõng" của anh đăng trong Đặc san Viết & Đọc (số Mùa Xuân 2024). Tôi thích cách tạo tình huống và giọng văn của Đào Quốc Minh, và bị cuốn hút vào đoạn kết của truyện ngắn này. Nhân vật "tôi" trong truyện dường như đã khắc họa chân dung Đào Quốc Minh: "Tôi đứng trầm ngâm, bên bờ biển gầm vang tiếng sóng. Bất giác, nghe như có tiếng hải âu lạc lõng, từng con, từng cặp, từng bầy rời bỏ bến tàu hoang phế, chỉ còn mình tôi, như ngọn hải đăng, mà con mắt chói lọi cứ sáng lên, dọi vào đêm tối trước mặt...". Cảm giác cô đơn, lạc lõng như tiếng con hải âu kia có thể sẽ thường đến với Đào Quốc Minh khi anh bứt phá thi pháp, tiếp tục thử nghiệm, mạnh dạn mở lối đi riêng cho hành trình sáng tạo.

 

Trước khi kết thúc bài viết tôi muốn trở lại với hình tượng chiếc cầu bập bênh đã nhắc ở trên. Giữa thi pháp truyền thống và thi pháp hiện đại của Đào Quốc Minh, tôi thiên về thi pháp hiện đại của anh hơn. Thi pháp đó mở ra nhiều phương chiều không-thời-gian, rất ám gợi, được kiến tạo bằng hiện thực kỳ ảo của giấc mơ. Những giấc mơ đã kết thành không gian thơ trong "Phục sinh".

 

Hải Phòng, 26/9/2024

M.V.P

 

 

 

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 5 
image advertisement
image advertisement

image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị