4.5. Phương pháp liên
ngành: Phương pháp giúp cho việc huy động tri thức của một số ngành khác như
văn hóa học, triết học, tâm lý học, ngôn ngữ học... nhằm tham chiếu, soi tỏ các
vấn đề được khảo sát, tìm hiểu trong luận án.
4.6. Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Phương
pháp này được dùng để xem xét đối tượng nghiên cứu một cách toàn diện, nhiều
mặt, nhiều mối quan hệ khác nhau, trong trạng thái vận động và phát triển để
tìm ra nét bản chất và quy luật vận động của vấn đề được nghiên cứu trong luận án.
5. Đóng góp của luận án
Luận án
là công trình tìm hiểu, nghiên cứu Khuynh
hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại với một cái nhìn tập trung, hệ
thống và với tư cách là một vấn đề chuyên biệt.
- Luận án trong khi diễn giải trở lại các luận điểm đặc trưng của triết thuyết hiện sinh vì mục đích phục vụ cho nhiệm vụ chính yếu là nhận diện khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại ít nhiều cũng đã nêu bật được một số nhận xét cá nhân về quá trình tiếp nhận và vận dụng hiện sinh luận tại Việt Nam trong nửa thế kỉ qua.
- Luận án trình bày một cách bao quát, xác định và nhận diện khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại bằng và với những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu văn hóa học, thi pháp học thích hợp.
- Luận án là một sự khẳng định có cơ sở sự xuất hiện của khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại với diện mạo và những đặc điểm riêng trên cả hai phương diện nội dung biểu hiện và nghệ thuật tổ chức ngôn từ.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng vào việc dạy - học ngữ văn ở nhà trường.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài
Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án gồm bốn
chương.
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên
cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài.
Chương 2. Nhận diện khuynh hướng
hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại.
Chương 3. Những đặc điểm cơ bản của
khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại nhìn từ nội dung biểu hiện.
Chương 4. Những đặc điểm chính của
khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại nhìn từ hình thức nghệ
thuật.
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1.
Về nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh và những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh
trong văn học Việt Nam hiện đại
1.1.1.1.
Việc giới thiệu chủ nghĩa hiện sinh, mối liên hệ giữa chủ nghĩa hiện sinh với
văn học và văn học Việt Nam hiện đại
“Hiện sinh”, “Chủ nghĩa hiện sinh” là những khái niệm đã khá quen thuộc
với người Việt đương đại. Sự phổ biến của chúng trong ngữ vựng tiếng Việt có
thể đã bắt đầu từ giữa thập niên 1950 - 1960 ở miền Nam nước ta. Theo Từ điển Tiếng Việt, “chủ nghĩa hiện
sinh” là “khuynh hướng triết học quan niệm con người là độc nhất và đơn độc
trong một vũ trụ lãnh đạm, thậm chí thù địch, con người là hoàn toàn tự do và
chịu trách nhiệm về những hành động của mình” [160, tr. 176]. Điều đáng chú ý
là Từ điển Tiếng Việt coi “hiện sinh”
là một danh từ nói tắt của “chủ nghĩa hiện sinh”, và cụm danh từ đồng nghĩa với
nó là “chủ nghĩa sinh tồn” (được xem là từ cũ) [160, tr. 177].
Thực
ra, “Hiện sinh” hay hơn thế nữa, “chủ nghĩa hiện sinh” không đơn thuần chỉ là
triết thuyết (chủ nghĩa, lý luận, lý thuyết, học thuyết, …)
hay chỉ là một phương pháp nghiên cứu phê bình, một cảm hứng sáng tạo hay
khuynh hướng sáng tác hay đơn giản hơn nữa - một thái độ chính trị, tôn giáo...
“Chủ
nghĩa hiện sinh (Existentialism - còn gọi là Thuyết sinh tồn, Thuyết hiện
sinh, Triết hiện sinh, Phong trào hiện sinh) là một trào lưu
triết học phi duy lý phát triển với nhịp điệu chóng mặt (theo cách nói của một
số học giả nghiên cứu về triết thuyết hiện sinh) ở châu Âu và nhanh chóng trở
thành xu hướng thời thượng của xứ này sau thế chiến II. Khoảng hai mươi năm sau
năm 1945 là thời kỳ hoàng kim của triết thuyết này. Chủ nghĩa hiện sinh cắm rễ
và lan tỏa đến mọi ngõ ngách của đời sống, thấm cả vào những lĩnh vực khó biểu
hiện nhất như âm nhạc. Cũng có thể nói “Hiện sinh trở thành tôn chỉ cho phong
cách sống của những người dám là chính mình và sống cho chính mình” [29, tr.
69]. Theo Trần Nhật Thu, thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (L'existentialisme)
được nhà triết gia Pháp Grabiel Marcel tuyên xưng lần đầu và ngay sau đó được
J.P. Sartre sử dụng trong bài thuyết trình của mình vào ngày 29 tháng 11 năm
1945 tại Paris. Bài thuyết trình sau đó được xuất bản thành sách mỏng với tựa
đề “L’existentialisme est un humanisme” (Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản)”. Điều đáng chú ý là cuốn “sách
mỏng với tựa đề L’existentialisme est un humanisme” này đã được dịch giả Thụ
Nhân dịch sang tiếng Việt Hiện sinh - một
nhân bản thuyết và xuất bản ở Sài Gòn năm 1965 [124]. Trần Đình Sử cho
rằng “Chủ nghĩa hiện sinh đi theo cách nghĩ của hiện tượng học, kiên quyết phản
đối đối lập bản chất với hiện tượng mà chủ trương hiện tượng tức bản chất, kêu
gọi trở về với bản thân sự vật”. Bản thể luận của họ chính là tồn tại luận. Vì
thói quen ở đây vẫn dùng bản thể, nhưng sẽ hiểu là tồn tại luận. Theo Heidegger
vấn đề căn bản của triết học là đi tìm ý nghĩa của tồn tại (sein), chứ không
phải vật tồn tại, khách thể (seinde), mà tồn tại thì chỉ có con người là hiểu
được, bởi con người nêu ra vấn đề ý nghĩa của tồn tại. Ông gọi con người là
Dasein - Tồn tại đó (Da nghĩa là đó, đây, này, cái có thể nhìn thấy trước mặt.
Việt Nam có người dịch là Hữu đó, Trung Quốc dịch là Thử tại, tức tồn tại này.
Trần Công Tiễn dịch là hiện hữu, cái hữu hiện đó. Cái tồn tại đó khác các vật
tồn tại khác ở chỗ ngay từ đầu, nó đã cảm thấy mình ở đó, bị ném ở đó, và do đó
mà khác với mọi vật. Sự tự cảm thấy mình đó gọi là hiện sinh - ex-sistenz. Do
có năng lực tự nhận biết mình, biết ý nghĩa của tồn tại mình mà sự tồn tại được
hiện ra. Không có con người thì tồn tại sẽ vô nghĩa. Chủ nghĩa hiện sinh xem sự
tồn tại của con người là một hiện sinh, thực tồn (existenz/existence) và phân
tích trạng thái hiện sinh đó [128]. Theo Lê Công Sự, thuật ngữ Existentialism
(Chủ nghĩa hiện sinh), có gốc từ “Existence” có nghĩa là sự tồn tại hay hiện
hữu, nhưng không phải là sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng vật lý hay sự
tồn tại của sinh vật mà là sự tồn tại của con người” [130].
Như
vậy, đi tìm một định nghĩa đầy đủ về chủ nghĩa hiện sinh là rất khó “vì nó là
trào lưu vào loại phức tạp nhất, được diễn đạt dưới dạng tư tưởng phi lý, bằng
loại tư duy và từ vựng còn xa lạ nhiều với chúng ta” [127, tr. 219]. Chủ nghĩa
hiện sinh nghiên cứu về con người đang hiện hữu, đang sinh hoạt vật chất và đầy
cảm xúc sinh học.
Theo 150 thuật ngữ văn học, “Chủ nghĩa hiện
sinh là khuynh hướng triết học hình thành trước Thế chiến I ở Nga (L. Lshestov,
N.A. Bedyaev), sau Thế chiến I ở Đức (M. Heidergger, C. Japer, M. Buber), trong
thời kỳ Thế chiến II ở Pháp (J.P. Sartre, Merleau-Ponty, A. Camus, S. de
Beauvoir), sau đó phổ biến ở các nước khác tại châu Âu và ở Hoa Kỳ [17, tr.
75]. Bắt đầu là hiện tượng học thuần túy của Husserl, tiếp đến là hiện tượng
học hiện sinh của M. Heidegger và sau đó là triết học hiện sinh của J.P. Sartre. Các nhà triết học đã có cái nhìn mới về con người với tư cách là chủ thể trong quan hệ với khách thể. Triết
học hiện sinh đã xuất hiện như là triết học nhân sinh trong bối cảnh đổ vỡ và
khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực của đời sống ở phương Tây. Triết học hiện sinh
mặc dù đã tiếp thu những quan điểm cơ bản của hiện tượng học, nhưng nó đã phát
triển những quan điểm đó thành một học thuyết có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về
con người, nó kêu gọi con người chủ động dấn thân và nhập cuộc để vượt lên
những lo âu và bất an thường trực thế giới phi lí, nơi con người từ khi bị sinh
ra đã phải nhận bản án là “sẽ phải chết như một con chó” (ý của Kafka trong tác
phẩm Vụ án). Triết học hiện sinh cho
thấy nỗi lo âu và sự tha hóa là những hiện tượng đi cùng với nhau, cùng tăng lên
hoặc giảm đi trong quá trình lịch sử nhân loại. Xã hội hiện đại đang phát sinh
những nỗi lo âu mới, bên cạnh nỗi sợ có nguồn gốc tự nhiên đã xuất hiện nỗi sợ
có nguồn gốc xã hội do mối quan hệ giữa người với người ngày càng xấu đi. Mỗi
khi thế giới thay đổi thì cái sinh tồn cũng thay đổi theo.
Trong
chủ nghĩa hiện sinh, triết học được khảo sát như một lĩnh vực nhận thức gần với
sáng tác nghệ thuật và khác với khoa học. Nhận thức duy lý được coi là bất cập
đối với hiện sinh (esistenia) của con người. Các đại diện của chủ nghĩa hiện
sinh nhiều khi trình bày quan điểm của mình không phải dưới hình thức những
luận văn có cấu tạo hệ thống hóa mà là dưới hình thức tác phẩm nghệ thuật, như
tiểu thuyết, kịch... hoặc thông qua việc phân tích sáng tác nghệ thuật. Chủ
nghĩa hiện sinh được xem là triết học của sự khủng hoảng bởi nó ra đời vào thời
kỳ của những chấn động và tai biến xã hội. Chủ nghĩa hiện sinh có phái hiện
sinh hữu thần và hiện sinh vô thần. Nhánh vô thần có sự thừa nhận Thượng đế đã
chết, sự tồn tại của con người đã mất hết ý nghĩa. Nhánh hữu thần cho rằng
chính nghệ thuật là cái sáng tạo ra nội dung nhân loại cho thế giới. Điểm gặp
gỡ của các nhánh hiện sinh là “có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất
phát từ chủ thể cá nhân con người - không chỉ đơn thuần là chủ thể tư duy mà
còn là chủ thể hành động, cảm nhận và sống [158].
Trong
văn học, chủ nghĩa hiện sinh chỉ bộc lộ rõ rệt như một trào lưu ở Pháp thời kỳ
trước và trong thế chiến II (1939 - 1945) và thời kỳ ngay sau chiến tranh. J.P.
Sartre đã đưa chủ nghĩa hiện sinh đến với nhiều người trên thế giới.
Với
công trình nghiên cứu “Hành trình khám phá triết học phương Tây”, William F.
Lawhead đã nghiên cứu rất kĩ về các nhà hiện sinh như S.Kierkegaard - Người
sáng lập hiện sinh tôn giáo, F. Nietsche - người sáng lập chủ nghĩa hiện sinh
thế tục. Công trình nghiên cứu của William F. Lawhead đã diễn giải khá tường
tận về tư tưởng, quan điểm của các nhà hiện sinh từ hữu thần đến vô thần và các nhánh hiện sinh khác” [92, tr. 12].
Chủ nghĩa hiện sinh quan tâm đến
thân phận con người. Con người sinh ra không có bản chất
sẵn có, tự con người tạo nên chính nó. Chủ nghĩa hiện
sinh quan tâm nhiều đến
con người bản thể, soi chiếu vào chiều
sâu với nhiều chiều kích bên trong phức tạp, bí ẩn. Triết học hiện
sinh là triết học
về con người. Đây được xem
là một “nhân bản thuyết”.
Với thuyết hiện sinh “nó coi trọng tính
độc đáo tuyệt đối của con người có vị trí quan trọng,
hàng đầu” [113, tr.
23].
Chủ
nghĩa hiện sinh được du nhập nhiều vào các nước phương Đông trong đó có Việt
Nam và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần xã hội cũng như văn học ở
các nước này. Ở nước ta, có thể nói chủ nghĩa hiện sinh được du nhập sớm hơn cả
cũng như đã thực sự tạo dựng ảnh hưởng sâu rộng quy mô xã hội là ở miền Nam.
Huỳnh Như Phương đã dựng lại diễn trình du nhập của chủ nghĩa hiện sinh tại
miền Nam trong “Chủ nghĩa hiện sinh ở
miền Nam Việt Nam 1954 - 1975 (trên bình diện lý thuyết)”. Theo ông, “Để
chọn một lý thuyết triết học và mỹ học được du nhập và có ảnh hưởng rộng rãi nhất
trong lý luận và sáng tác văn học ở miền Nam Việt Nam những năm 1954 -1975, có
lẽ nhiều người sẽ không ngần ngại chọn chủ nghĩa hiện sinh. Ảnh hưởng đó thể
hiện ở chỗ đây là trào lưu, tuy lúc đậm lúc nhạt, nhưng đã hiện diện gần như
trọn cả một giai đoạn lịch sử đen tối và phức tạp. Ảnh hưởng đó thể hiện cả
trên bình diện lý luận lẫn trên bình diện sáng tác, cả trong giới chuyên môn
lẫn trong độc giả phổ cập, cả trong nhà trường lẫn ngoài nhà trường” [117, tr.
162]. Trong công trình này, Huỳnh Như Phương một mặt vừa tuân theo diễn biến
lịch đại, một mặt vừa điểm chọn những trường hợp đại diện, đồng thời ông cũng
không quên dừng lại bình luận. Ông viết “chủ nghĩa hiện sinh, đến một cách muộn
màng từ quê hương của nó sau gần hai thập kỷ, càng ngày càng lôi cuốn một bộ
phận lớn trí thức ở đây. Đáp ứng niềm say mê
của bạn đọc đối với chủ nghĩa hiện sinh, những tờ tạp chí lúc đó như Đại học,
Sáng tạo, Văn, Bách khoa… đều có những bài viết hay số báo đặc biệt về trào lưu
triết học và văn học này cùng những tác giả của nó như J.P Sartre, A. Camus… Hỗ
trợ có hiệu quả cho việc tìm hiểu và nghiên cứu đó là nỗ lực dịch thuật ngày
càng sâu rộng những đứa con tinh thần của các tác gia hiện sinh. Về lý thuyết
là các công trình của F. Nietzsche, K. Jaspers, M. Heidegger, J.P. Sartre… Về
sáng tác là tiểu thuyết, kịch bản văn học của A. Camus, J.P. Sartre, S. de
Beauvoir, F. Sagan…” [117, tr. 163]. Sau khi giới thiệu thời điểm du nhập và
các tên tuổi đại biểu của chủ nghĩa hiện sinh tại miền Nam như trên, tác giả
lần lượt điểm thuật những đại diện trí thức, nhà văn miền Nam đã tham dự vào công cuộc giới thiệu và thực hành hiện sinh luận tại miền Nam. Một trong những tên tuổi lớn
nhất được nhắc đến đầu tiên là Trần Thái Đỉnh.
Trần
Thái Đỉnh với Triết học hiện sinh tập
hợp một loạt bài giới thiệu về chủ nghĩa hiện sinh công bố trong quãng thời
gian từ tháng 10 năm 1961 đến tháng 9 năm 1962 tại miền Nam. Công trình cho
thấy cái nhìn tổng quan của tác giả về chủ nghĩa hiện sinh. Tác giả đã đưa ra
quan niệm về hiện sinh của các nhà hiện sinh tiêu biểu, nhấn mạnh nội dung cơ
bản của triết học hiện sinh là quan niệm con người như một nhân vị độc đáo tự
do. “Nội dung của triết học hiện sinh là con người, con người có xương thịt
đang hoạt động hàng ngày trong xã hội. Con người ở đây là tôi là anh, là chúng
ta hết thảy và từng người” [40 tr. 24]. Qua công trình Triết học hiện sinh, Trần Thái Đỉnh khẳng định hiện sinh với tư
cách là một phạm trù triết học được manh nha từ những tên tuổi lớn. Socrate là
nhà triết học đầu tiên đã quan tâm đến bản thể con người với phương châm nổi
tiếng “Hãy biết bản thân ta” [40, tr.
24]. Pascal tư duy về con người trong tình trạng bất an với tư cách một cá nhân
cụ thể và một toàn thể khi con người ý thức về sự liên quan của nó với những
cực đoan đối lập trong thế giới [28, tr. 25]. Pascal đã đưa ra kết luận về mối
quan hệ giữa con người và thiên đàng hay địa ngục chỉ có một cuộc sống duy nhất
và đó là thứ mong manh nhất trong vũ trụ. Chính vì vậy, con người luôn sống
trong sự bất an. Triết học hiện sinh kế thừa tư tưởng từ rất nhiều tên tuổi
trong quá khứ ở Anh như Bacon, Hobbes, Looke, Berkeley nhất là David Hume. Ở
Đức có các nhà triết học như Kant, Fichte, Scheling, Hegel và cả Mark… Chủ
nghĩa hiện sinh gắn với tên tuổi của một số tác giả tiên phong như Heidegger,
Sartre, Jacpers (Đức), Marcel (Pháp), Chestow và Berdiaev (Nga)… xuất hiện sau
Chiến tranh thế giới thứ II.
Trần
Thái Đỉnh chỉ rõ một số trường phái của chủ nghĩa hiện sinh. Trước hết là
trường phái hiện sinh hữu thần với đại diện là Kierkegaard - triết gia người
Đan Mạch. Đối với ông, điều quan trọng trong cuộc đời là có một Thiên Chúa.
Suy
nghĩ trọng tâm của Kiekegaard là cái cá nhân. Ông quan niệm rằng “mỗi cá nhân
không có trung tâm nào khác hơn chính mình” [127, tr. 225]. Và muốn là chính mình,
cần nhận ra sức mạnh của Người đã thiết định nên đó là Thiên Chúa. Hãy đến với
Chúa, con người sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Ông là một tín đồ Cơ đốc giáo,
đối với ông, chặng đường đời cuối cùng của con người là trở về với Chúa. Sống
một mình với Thiên Chúa mới là cuộc sống đầy đủ ý nghĩa của một nhân vị độc
đáo. Ông nhấn mạnh tính chủ thể và tính nội tâm đến mức rơi vào cực đoan. Trọng
tâm suy tư và triết học của Kiekegaard là khái niệm “tồn tại”, muốn đi tìm chân
lý của tồn tại mà triết học truyền thống chưa đạt tới. Ông quan tâm những câu
hỏi truy vấn: Tôi là ai? Tôi đến đây từ đâu? Tôi có mặt trong thế giới này như
thế nào? Trong tư tưởng của Kiekegaard, sự lo âu trở thành một khái niệm quan
trọng. Ông thường dùng các khái niệm như nội tâm cá tính, cảm xúc, đam mê để
miêu tả hiện sinh người. Ông phủ nhận chân lý khách quan... Thứ hai là trường
phái hiện sinh vô thần với đại diện là Nietzsche - triết gia người Đức. Ông
được coi như “người tiền bối của chủ nghĩa hiện sinh vì nhấn mạnh vai trò cá nhân,
nhấn mạnh sự vươn tới, sự tự do lựa chọn của cá nhân, nhấn mạnh bản năng đối
với lý trí” [127, tr. 243]. Ông không đồng tình với các tôn giáo và luân lí cổ
truyền về tội miệt thị những giá trị hiện sinh, khiến cho con người sống trong
sự bi quan bạc nhược trong tinh thần, khiến con người sống mà như chết. Theo
ông, những tư tưởng không gắn với cuộc sống hiện sinh thực tại thì thà đừng
sống nữa. Sống chối bỏ cuộc hiện sinh là một cuộc sống thừa, một cuộc sống câm,
thực chất đó là cách chờ chết chứ không phải là sống. Trái lại, Nietzsche lấy
những giá trị hiện sinh và các triết thuyết mà giúp con người phát triển khả
năng vô tận của hiện sinh. Triết học
hiện sinh của Nietzsche “gớm ghét tất cả mọi hình thức tôn giáo và coi tôn giáo
là hình thức hiện sinh nô lệ” [39, tr. 134]. Hiện sinh của ông cũng như Sartre
là hướng vào cuộc sống thực tại chứ không hướng về Thượng đế hay mai sau. Giá
trị đời sống không tự nhiên mà có. Điều đó do con người chủ thể hiện sinh đặt
ra cho nó. Tuyên ngôn của ông là “Hãy luôn luôn trở nên chính mình anh, hãy là
chủ nhân ông và là nhà điêu khắc để tạc nên chính mình anh” [117 tr. 136].
Trong xã hội có bộ phận lớn vẫn sống trong cảnh nô lệ tinh thần, sống như vậy
còn đáng khinh bỉ và đáng thương hơn cảnh nô lệ thân thể nhiều nên Nietzsche
mong muốn con người phải vượt lên trên cái thông thường ấy. Ông muốn con người
phải tự chủ, dùng cuộc đời mình để thể hiện quyền tự chủ. Khi anh tự chủ tự
quyết được thì con người xứng đáng là người hùng, siêu việt. Muốn là người hùng
thì phải có cái nhìn khác biệt về vũ trụ. Vì vũ trụ do cái nhìn của ta tạo nên.
Muốn là người hùng thì phải có tính độc lập, tự chủ độc đáo thậm chí dám sống
cô độc chứ không sống theo quan niệm dân chủ của quần chúng. Đó là lối sống của
bọn nhu nhược tầm thường. Khi sống tự chủ con người không tránh khỏi cô đơn.
Theo ông, con người cần hãnh diện với sự cô đơn đó. Cô đơn giúp người quân tử,
người anh hùng tách ra khỏi đám đông quần chúng tầm thường. Cô đơn được xem là
nhân đức đưa con người tới chỗ cao thượng. Không chỉ có người hùng, tư tưởng của ông còn đề cao con người siêu nhân. Đó là con người biết xấu hổ khi nhìn vào những gì mình làm được và
không nên tự bằng lòng thỏa mãn mà luôn nỗ lực vươn lên. Con người siêu nhân
cần tự giác hành động. Sự xuất hiện của Nietzsche được cho là như một cơn bão
táp kinh thiên động địa tạo nên sự rung động ghê sợ lay tỉnh toàn nhân loại.
Đại
diện nổi bật tiếp theo trong nhánh hiện sinh vô thần cần phải nói đến là J.P.
Sartre, một trong bốn triết gia được biết đến nhiều nhất trong nền hiện sinh.
Ông quan niệm triết học cũng như cuộc sống luôn vận động. Con người không phải
là một cái gì thiết yếu. Nó là một cái gì thừa thãi với sự bất lực của lý trí.
Lý trí của con người bất lực trong việc tìm hiểu vận mệnh của mình. Do đó cần
phải sống theo tiếng gọi sâu thẳm của tâm hồn, tiếng gọi mà Pascal gọi là tiếng
nói của con tim, sự nhảy vọt của con người. Con người phải nỗ lực tuyệt đỉnh để
tạo nên cuộc đời của mình bằng cách tiến vượt, nhảy vọt, hàng giây, hàng phút,
mặc dầu là nhảy vọt vào hư vô, sự phóng thể. Con người không thể làm chủ được
mình, không tự làm chủ được cuộc đời mình. Đời người có giới hạn, thần chết lại
vội vã. Sự thật đầy bi đát của cuộc sống đó là sinh ra để rồi chết đi. Sự cô
độc và bí mật. Con người có xu hướng sống đơn độc và chết cô độc.
Sau
Trần Thái Đỉnh có khá nhiều tác giả quan tâm và tìm cách giới thiệu chủ nghĩa
hiện sinh: Phạm Công Thiện, Ngô Trọng Anh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị, Nguyễn
Văn Trung, …vv… Nói đến “chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam, cần phải dành một chỗ
quan trọng cho Nguyễn Văn Trung, không chỉ vì ông là một trong những giáo sư
triết học viết nhiều về trào lưu này mà còn vì các tác phẩm của ông có một
tiếng vang lớn trong những năm tháng đó. Có thể nói Nguyễn Văn Trung là nhịp
cầu chính dẫn chủ nghĩa hiện sinh đi vào xã hội miền Nam và toả ra đến tầng lớp
trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên” [117, tr. 186].
Trong
các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh cần phải nhắc đến bản dịch Hiện sinh - một nhân bản thuyết của dịch
giả Thụ Nhân. Cuốn sách đã thể hiện trung thành những lời biện luận của J.P.
Sartre dành cho chủ nghĩa hiện sinh rằng thuyết hiện sinh là một thuyết yêu
đời, thuyết hiện sinh không mang tư tưởng vô vi vì nó định nghĩa con người bằng
hành động của chính họ, thuyết hiện sinh không hề bi quan vì nó khẳng định vận
mệnh của con người nằm trong tay của con người, rằng con người chỉ có thể hi
vọng vào hoạt động của chính bản thân mình.
Từ sau
ngày giải phóng miền Nam, bẵng đi một thời gian cả hàng thập niên, đề tài chủ
nghĩa hiện sinh dường không còn được nhắc đến bao nhiêu. Ở mức chuyên khảo phải
đợi đến mốc 1986. Có thể nhắc đến cuốn sách Về
tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại (Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội, 1986) của Phạm Văn Sĩ. Sách đã giành toàn bộ chương ba từ trang
219 đến trang 336 để bàn về chủ nghĩa hiện sinh. Tác giả cho rằng chủ nghĩa
hiện sinh là trào lưu tư tưởng vào loại phức tạp nhất, nó lại được diễn đạt
dưới dạng tư tưởng phi lý, bằng loại tư duy và từ vựng còn xa lạ nhiều với
chúng ta. Tác giả cũng nêu nguyên nhân ra đời, các trường phái, các tác giả
tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh. Tác giả nhấn mạnh mối quan hệ giữa chủ nghĩa
hiện sinh và chủ nghĩa chủ quan phi lý. Ông cho rằng “người hiện sinh chủ nghĩa
muốn coi tính chủ thể như là nguồn cội duy nhất,
là kho tàng đầu tiên và cuối cùng mà mỗi cá nhân có thể khai thác” [127, tr.
247]. Tác giả bàn về các quan niệm về tự do, dấn thân của chủ nghĩa hiện sinh.
Theo tác giả, tự do của chủ nghĩa hiện sinh là tự do lựa chọn, “Tôi lựa chọn ấy là tôi tồn tại” (K.
Jasper). Tác giả cũng cho rằng người hiện sinh chủ trương nhập cuộc, ném mình
vào cuộc sống để tạo nên bản chất của mình
Nguyễn Hào Hải trong công trình Một số
học thuyết triết học phương Tây hiện đại (2001) đã giành chương 3 từ trang
149 đến trang 223 để bàn về chủ nghĩa hiện sinh. Tác giả bàn về bối cảnh, nguồn
gốc ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Theo tác giả, yếu tố đưa đến khả năng xuất
hiện chủ nghĩa hiện sinh là nguồn gốc bản thể luận, cơ sở nhận thức luận, hiện
tượng luận của Husserl. Trong đó, tác giả nhấn mạnh yếu tố nhận thức về vai trò
của lý tính khoa học. Khoa học và lý tính bị tố cáo là sai lầm vì đã xem con
người như một khách thể vật lý thuần túy trong thế giới vật chất và không thấy
được vị thế đặc biệt độc đáo của tồn tại người
[48].
Một
trong số ít những nhà văn, nhà phê bình nổi tiếng sinh trưởng tại miền Nam, tu
nghiệp tại Pháp mà sau hồi đất nước thống nhất, đặc biệt là sau thời kì Đổi mới
có sách xuất bản tại Hà Nội là Trần Thiện Đạo. Năm 2001, Nhà xuất bản Văn học
xuất bản cuốn Chủ nghĩa hiện sinh &
Thuyết cấu trúc. Tuy nhan đề là “Chủ
nghĩa hiện sinh” nhưng thực tế tác giả dành giới thiệu đại biểu vĩ đại của
triết thuyết này - J.P. Sartre. Ông viết: “Chủ nghĩa hiện sinh trình bày sự
hiện sinh, l'existence, như một hiện
tượng đối lập với bản chất, l'essence,
vốn hết sức mù mờ, đổi thay, thay đổi không ngừng; sự hiện sinh do ngẫu sinh, contingence, mà ra, nghĩa là có đó vậy
thôi, có một cách vô cớ, không bao hàm một ý nghĩa tiên nghiệm nào, và không được biện minh bởi một bản chất có sẵn
nào. Chủ nghĩa hiện sinh đã được chính Jean - Paul Sartre tóm tắt và định nghĩa bằng một câu cô đọng: Hiện sinh có trước bản chất”
[34, tr. 18]
Đoạn
văn trên còn có một chú thích của chính tác giả. Vì tầm quan trọng của nội dung
của nó chúng tôi xin trích dẫn kèm đây
cả chú thích (ngoại trừ phần tiếng Pháp): “Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định rằng ở con người - và chỉ ở con người
thôi - sự hiện sinh có
trước bản chất. Câu này có một ý nghĩa giản dị là con người trước hết là có đó
rồi chỉ sau đó mới là thế này hay thế
nọ. Tóm lại, con người phải tự tạo ra cho mình chính bản chất của mình (Jean - Paul Sartre, trong tạp chí Action, Hành
động 29-XII-1944)”.
Diễn
giải trên đây càng cho thấy mối liên hệ tự nhiên, khăng khít giữa một triết
thuyết và bản thân hoạt động nghệ thuật nói chung, sáng tác văn chương nói
riêng. Vì rằng, khác với khoa học tự nhiên tìm hiểu “bản chất” vật vô tri, nghệ
thuật chỉ là sự biểu hiện trực tiếp hình tượng con người trong sống - tức con
người có đó hiện sinh. Thậm chí, xuất phát từ tinh thần định nghĩa “hiện sinh”
của J.P Sartre, ta dường như còn thấy trong văn chương, trữ tình thơ ca còn
“hiện sinh” hơn cả tự sự tiểu
thuyết. Vì thơ là sự tự giãi bày trực
tiếp cảm thức cuộc sống, làm thơ hay rung động trữ tình đó chính là hiện sinh…,
khác với tự sự tiểu thuyết dù sao cũng là một sự hồi cố, hoặc là một giả định
tương lai và quá trình kể chuyện ít nhiều cũng nhắm tới phát hiện lại “bản
chất” cuộc đời.
Ở Việt
Nam có các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài được dịch ra tiếng
Việt như Chủ nghĩa hiện sinh của
Jacques Colette (do Hoàng Thạch dịch, Nxb Thế giới, 2011) [75]. Tác phẩm đề cập
các chủ đề hiện sinh như tự do, siêu việt, thời gian, … và giới thiệu về lý thuyết và thực hành suy tư qua các
tác giả tiêu biểu như Kiekegaard, Marcel, Jaspers, Husserl, Heidegger, Sartre,
Merleau-Ponty. Trong công trình này, tác giả cho rằng triết học hiện sinh là
triết học về sinh tồn. Con người căn cứ vào khả năng tồn tại riêng của mình con
người biết rõ chính mình làm nên giá trị hiện sinh cho chính mình, tự chịu
trách nhiệm về cuộc sống của chính mình.
Trong
công trình Giáo trình hướng tới thế kỷ
XXI - Triết học phương Tây hiện đại của Lưu Phóng Đồng, tác giả đã trình
bày khái luận về chủ nghĩa hiện sinh và phân tích tư tưởng của các nhà triết
học hiện sinh như M. Heidegger, K. Jaspers, J.P. Sartre. Qua công trình tác giả
nhấn mạnh những nguyên nhân dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là
những mâu thuẫn xã hội và cuộc khủng hoảng của chế độ tư bản chủ nghĩa và hiện
tượng tha hóa nghiêm trọng bắt đầu từ thế kỷ XX.
Thuộc
vào loại tài liệu dịch quan trọng, có tính cách tổng kết khái quát hóa về chủ
nghĩa hiện sinh, được công bố trở đi trở lại trên vài trang web lớn, có tác
dụng giới thiệu, dẫn giải cập nhật đối với giới học thuật, có thể kể đến bài
“Đôi nét về chủ nghĩa hiện sinh” của học giả Gordon E. Bigelow do Cao Hùng Lynh
dịch, vừa được đăng lại trên Phebinhvanhoc.com.vn ngày 7/6/2021 [46]. Tác giả
bài viết nói rõ ngay từ đầu mục đích bài viết: “Hoá ra, hiện sinh lại đóng một
vai trò rất mực quan trọng đối với văn chương và nghệ thuật, đối với triết học
và thần học, và ngày càng quan trọng hơn đối với các lãnh vực khoa học xã hội.
Thế nên, nơi đây, tôi muốn cung cấp một điều gì đó được coi là hiển nhiên trong
hầu hết các cuộc luận bàn về chủ nghĩa hiện sinh, một sự trình bày giản lược về
các đặc điểm căn bản của chủ thuyết này. Đây quả thực là một hành động khinh
suất, bởi vì có nhiều loại hiện sinh, và những gì người ta nói về loại này lại
có thể không đúng với loại kia; tuy nhiên, vẫn có một lãnh vực đạt được sự đồng
thuận, và đây chính là điểm chung mà tôi muốn trình bày” [46]. Tác giả đã tổng
kết và lí giải 6 nét đặc trưng tổng quát của trào lưu hiện sinh: 1) Hiện sinh
có trước bản chất (existence precedes
essence); 2) Lý trí luôn bất lực khi đề cập đến chiều sâu của đời sống con
người; 3) Sự xung khắc với đấng tối cao hay niềm tin; 4) “Run sợ” và âu lo; 5)
Đối diện với hư vô; 6) Lý tưởng tự do. Tác giả đề cập lại một lần nữa tinh thần
của nhận thức về hiện sinh trong những lời hết sức cô đúc: “Sở dĩ được gọi là
chủ nghĩa hiện sinh là vì chủ nghĩa này nhấn mạnh rằng đời sống nhân loại chỉ
có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông qua kinh
nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời. Người ta sống, chứ không phải tồn tại,
trong mỗi phút giây, và kinh nghiệm về cuộc sống của mỗi người luôn có tính
chất độc đáo, khác biệt hoàn toàn với kinh nghiệm của mọi người, và chỉ có thể
được hiểu đúng thông qua sự dấn thân của anh ta vào cuộc sống” [46].
Thấu
hiểu điều trên là điều thực sự có ích cho việc tìm hiểu khuynh hướng hiện sinh
trong thơ Việt Nam đương đại. Luận giải của tác giả ở đoạn trên cho thấy chỉ có
văn chương là biểu hiện, phản ánh tốt nhất, đáng tin nhất điều đó. Đó là lý do
mà các chủ nghĩa hay triết thuyết khác có thể chỉ cần trình bày thẳng các biểu
hiện tư tưởng, hoặc cùng nữa để cho sinh động - mượn văn chương. Trong lúc với
chủ nghĩa hiện sinh thì bản thân văn chương nói chung, thơ ca nói riêng chính
là sân vườn của chính triết thuyết này.
Trong
diễn giải về đặc trưng thứ hai của hiện sinh, chúng ta thấy mối liên hệ tự
nhiên, ý nghĩa tất yếu của mối liên hệ đó giữa tinh thần hiện sinh và nghệ
thuật. Hiện sinh cho thấy lý trí luôn bất lực khi đề cập đến chiều sâu của đời
sống con người: Chủ nghĩa hiện sinh trong thời đại chúng ta, đây là một trong
những đặc điểm quan trọng nhất của nó, nhất mực thống nhất phần “thấp kém”,
phần phi lý trí của tinh thần, với phần “cao cả”. Nó khẳng định rằng con người
phải được thừa nhận trong thực thể trọn vẹn của anh ta, chứ không phải trong
một tình trạng phân chia nào đó, đồng thời nó cũng đòi hỏi rằng con người trọn
vẹn không chỉ hàm chứa tri thức, mà còn cả những âu lo, tội lỗi và ước vọng
quyền lực - những thứ làm biến đổi, và đôi khi, lấn át chính lý trí. Con người
được nhìn thấy dưới quan niệm này là một con người, về cơ bản, hết sức mơ hồ,
nếu không nói là huyền bí, đầy rẫy những vấn đề mâu thuẫn và căng thẳng tiềm
ẩn, những vấn đề không thể giải quyết một cách đơn giản bằng tư duy”. Nó như
đồng nghĩa với việc nêu cao một thông điệp cho rằng con người không thể chỉ
sống nổi với triết học và khoa học, mà cơ bản là bằng văn chương, đặc biệt là
văn chương hiện sinh.
Diễn
giải về đặc trưng thứ ba của hiện sinh luận càng làm cho chúng ta thấy rõ hơn
liên hệ tất yếu cũng như tính cách thời sự của những vấn đề văn chương hiện
sinh ngày nay. Theo các nhà hiện sinh, “các thế lực chính của lịch sử, kể từ
thời kỳ Phục hưng, đã không ngừng tách con người ra khỏi cuộc sống trần thế,
buộc anh ta phải sống theo những tiêu chuẩn trừu tượng cao cả, tập thể hoá con
người cá nhân, đưa Thượng đế ra khỏi thiên đàng và trái tim của con người. Con
người hiện đại đang sống trong tình trạng xung khắc với Thượng đế, với thiên
nhiên, với người khác và với chính mình. Sự xung khắc với Thượng đế được thể
hiện qua tiếng kêu thống thiết của Nietzsche: “Thượng đế đã chết” một tiếng kêu
âm vọng mãi trong những tác phẩm của các nhà hiện sinh, đặc biệt là các tác giả
Pháp quốc. Đề tài về sự trống vắng tâm linh là một đề tài thường gặp trong văn chương
của thế kỷ này” [46].
Nếu
thay thế hai chữ “Thượng Đế” trong phân tích trên bằng từ niềm tin hay lý tưởng thì
chúng ta cũng thấy một âm vọng tương tự trong văn học Việt Nam đương đại - Tín
điều đã chết. Các nghệ sĩ ít nhiều đều cảm thấy “sự trống vắng tâm linh”. Hoặc
để đúng hơn với thực tiễn văn học Việt Nam đương đại, ta có thể viết lại câu đó
thành “sự trống vắng trong/của tâm linh”. Những đặc trưng cơ bản trên thế tất
dẫn đến các cảm giác “Run sợ” - Âu lo (Worry), chạm trán với hư vô và khát vọng
tự do. Hoàn toàn có thể nói, đó đều là những biểu hiện của khuynh hướng hiện
sinh trong văn chương nói chung, thơ ca đương đại Việt Nam nói riêng.
Tác giả
Goron E. Bigelow cũng đã kết lại bài viết với một ý hết sức sắc sảo và không
kém phần ý vị. Chính kết luận này đã cổ vũ chúng tôi mạnh dạn đến với đề tài
luận án, đặc biệt là thêm cơ sở lý luận cho việc triển khai chương 4 - Những đặc điểm chính của khuynh hướng hiện
sinh trong thơ Việt Nam đương đại nhìn từ hình thức nghệ thuật. Có thể nói,
“khi nào một người không mong tìm thấy tất cả những đặc điểm của chủ nghĩa hiện
sinh như vừa được mô tả trong một nhà văn riêng biệt nào đó, thì khi ấy, anh ta
sẽ biết rằng một số trong các lối thể hiện nổi bật nhất của chủ nghĩa hiện sinh
trong văn chương và nghệ thuật thường đến với chúng ta một cách gián tiếp,
thông qua các biểu tượng, hoặc thông qua những sự cách tân hình thức thể hiện
truyền thống […]. Lối thể hiện như thế trong văn chương không nhất thiết có
nghĩa rằng những tác giả ấy là lý thuyết gia của chủ nghĩa hiện sinh, hoặc họ
đã biết nhiều đến các tác phẩm của
những lý thuyết gia loại ấy […]. Một trong những điểm lôi cuốn, và cũng là một
trong những điều nguy hiểm, của các đề tài hiện sinh là: mỗi khi người ta bắt
đầu tìm kiếm chúng, thì chúng có mặt khắp mọi nơi. Nhưng nếu anh ta áp dụng
chúng một cách dè dặt và hạn chế, thì lại phát giác ra rằng chúng soi sáng phần
lớn nền văn chương đương đại, và đôi khi nền văn chương của quá khứ nữa” [46].
Như
vậy, các công trình nghiên cứu đã cho thấy tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh về
hiện hữu của con người. Hiện hữu có trước bản chất. Lí trí không thể lý giải
hết được chiều sâu cuộc sống của con người. Con người luôn đối diện với cô đơn,
âu lo vì con người luôn vươn tới tự do để khẳng định nhân vị.
Các nhà
nghiên cứu cũng bàn về các phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh như: Cái bản thể, buồn nôn, cô đơn, phi lý, dấn
thân, dục tính... Nội dung cốt lõi của triết học hiện sinh được cho là biểu
hiện ở sự coi trọng sự hiện diện của cá nhân, sự cảm thụ chủ quan, sự thể hiện
tâm lý có tính chất phi lý của cá nhân hay là cái bản thể của con người. Các
nhà hiện sinh quan niệm con người là một hữu thể đang tồn tại, đang sống đích
thực và chỉ có con người mới hiện sinh. Hiện sinh quan tâm đến sự tồn tại tinh
thần của nhân vị. Chỉ có đặt trong cảnh ngộ đau khổ, cô đơn, tuyệt vọng thì con
người mới có thể trực tiếp, cảm nhận được sự tồn tại của chính mình chứ không
thu nhận được bằng khoa học dựa trên lý tính. Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định
cái tôi bản thể gắn với sự tự do, tự do là bản chất của hiện sinh cá nhân. Mặt
khác, chủ nghĩa hiện sinh quan niệm cuộc đời là phi lý, là buồn nôn. Cuộc đời
con người là phi lý, hư vô. Albert Camus cho rằng tự con người không phải phi
lý. Sự phi lý xuất hiện thông qua sự không tương thích giữa con người và thế
giới mà họ sống. Sự phi lý còn xuất hiện bởi hành động của con người khi vươn
tới tự do. Cuộc sống hiện sinh chứa đầy những cái vô nghĩa, phi lý mà Sartre
gọi là “buồn nôn”.
Buồn
nôn khi chỉ thấy cuộc sống lặp lại những cái chán nản, thừa thãi, phi lý của
vạn vật. Nhân vật Roquentin của Camus có cảm giác xa lạ và khó chịu không chỉ
với xung quanh mà cả với chính mình. Sự chán nản khó chịu của nhân vật chính là
“sự thức tỉnh” trước cái phi lý của hiện
hữu, hàm chứa ý nghĩa phê phán thực trạng của xã hội tư sản. Buồn nôn khiến con
người cần thiết phải tỉnh ngộ để nhận ra giá trị cuộc sống của chính mình. Và
đó là nguyên nhân con người sống trong ưu tư lo âu. Tuy nhiên nó không mang ý
nghĩa đấu tranh xã hội như trong văn học hiện thực. Văn học hiện sinh không
phản ánh hiện thực mà chỉ suy ngẫm về hiện thực. Như vậy, sự buồn nôn của con
người chính là sự ý thức về tình trạng đáng buồn, đáng âu lo trước thực tại phi lý và cảm giác về sự vô vị của cuộc
sống. Đó là “cái cảm giác buồn nôn chóng mặt khi nó chợt nhận ra cái thân phận
đáng buồn của nó trong cái thế giới luôn xa lạ với nó” [127, tr. 294].
Đỗ Đức
Hiểu lí giải “Buồn nôn là trạng thái trầm tư có phê phán và phủ định toàn diện
để con người nhận thức được thế giới và bản thân mình” [55]. Thế giới cuộc sống
của con người ngẫu nhiên xuất hiện và mọi cái lại ngẫu nhiên mất đi không lí
giải được điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Kể cả mỗi một con người cũng xuất hiện
ngẫu nhiên và ngẫu nhiên kết thúc. Khi hiểu ra như vậy con người sẽ từ giã quá
khứ, quẩn quanh bởi những sự tầm thường để thoát ra khỏi thực tại, vươn tới một
cái gì cao hơn mình. Đó là một quá trình đoạn tuyệt từ bỏ quyết liệt để vượt
qua và vươn tới phía trước. Chính sự bừng tỉnh về nhận thức đã khiến con người
được lay động, được đánh thức nguồn năng lượng sống mạnh mẽ và khao khát vươn
tới với tự do nhân vị để khẳng định mình. Buồn nôn chính là sự ưu tư khi con
người cá nhân nhận ra sự phi lí, sự vô vị của cuộc sống hiện tại đòi hỏi một sự
thay đổi, từ bỏ cuộc sống trong quá khứ dấn thân vào cuộc sống mới tích cực
hơn. Vậy để thoát khỏi sự tha hóa (degeneration) buồn nôn buộc con người phải
sống có ý thức như một nhân vị, phải đi tới hiện sinh trung thực. Điều đó lí
giải được buồn nôn là thái độ triết học giúp con người vượt thoát khỏi sự tầm
thường để vươn tới cuộc sống xứng đáng với con người.
Cùng
với chủ đề buồn nôn là cảm thức về nỗi cô đơn và thân phận lưu đày. Triết học
hiện sinh khẳng định tự do là nguồn gốc của âu lo, cô đơn. Con người hiện sinh
âu lo vì biết rằng cuộc đời đầy bí ẩn còn nhiều điều chưa hiện ra rõ rệt. Cô
đơn là một thái độ triết học mà con người không sợ hãi, không lẩn tránh, trái
lại chịu đảm nhiệm bởi con người hiện sinh tự xác định do mình tạo ra sự cô
đơn, tự mình tạo nên chính mình. Vì vậy, họ luôn sống trong sự mâu thuẫn trong
bi kịch mang màu sắc bi quan [124, tr. 103]. Cũng theo Sartre, con người bị ném
vào thế giới một cách phi lý và cô đơn: “Con người có ý thức về thân phận của
nó trong thế giới. Con người bị ném
vào trong thế giới như một cô đơn, không nơi nương tựa, nhưng con người có tự
do, có dự định, dự định vươn tới, tự vượt lên nó, vượt qua bình diện sự vật để
tự làm nên mình” [127, tr. 251].
Cuộc
sống thực tại không đưa đến cho con người một chân lí nên con người luôn cảm
thấy đau khổ. Khi đề cập nỗi cô đơn, con người hiện sinh thường nghĩ đến phạm
trù cái chết (the death). Con người hiện sinh quan niệm cái chết gắn với nhân
vị vì nếu cuộc sống là của riêng tôi thì cái chết cũng của riêng tôi, do tôi
đảm nhận. Lo âu không chỉ là sự bất an tiêu cực mà còn là một sự hấp dẫn. Lo âu
tuy khủng khiếp ghê sợ nhưng lại quyến rũ. Lo âu là bản chất của con người mở
ra sự sáng tạo và là dấu hiệu của sự trung thực. Tuy nhiên cần phải hiểu cô đơn
trong triết hiện sinh không chỉ hiểu theo quan niệm thường ngày cô đơn vì mình
bị bỏ rơi, không được chia sẻ giãi bày, rơi vào trạng thái bế tắc hằn học.
Nguyễn Tiến Dũng nhấn mạnh “Cô đơn không
nên hiểu theo quan niệm thường ngày, đó là một thái độ triết học” [28, tr.
103]. Chính vì thế, người hiện sinh không lẩn tránh sự cô đơn mà là đảm nhiệm
cô đơn. “Con người cô đơn vì tự mình làm
nên mình, không sống theo một mẫu người nào cả. Con người cô đơn cho nên càng
đau khổ, luôn sống trong tấn bi kịch của cuộc đời” [28, tr. 103]. Tuy nhiên, nỗi buồn hiện sinh khác với nỗi
buồn bình thường ở chỗ “nỗi buồn hiện sinh không có nguyên nhân cụ thể như nỗi
buồn thường nhật và mang tính vĩnh viễn” [113, tr. 37]. Đó là nỗi buồn của
những con người nhận thức được giá trị cuộc sống bản thân, biết dấn thân vượt
thoát khỏi cái cuộc đời tù túng và vô nghĩa bằng sự nỗ lực tự thân [113, tr.
37]. Triết học nhân bản xem cô đơn là một phương thức tồn tại của con người. Cô
đơn hiện sinh được nghiệm ra trong mối quan hệ con người với con người, con
người với chính nó. Nhận thức về cô đơn tức là nhận thức về tình trạng bản thân
khi đang sống giữa cuộc đời. Cô đơn xuất hiện khi con người nhận ra sự độc đáo,
bản thân mình là một giá trị, giá trị duy nhất và không thể lặp lại. Nỗi buồn
lớn như dồn chứa trong khắp vũ trụ bao bọc bủa vây lấy con người. Con người
hiện sinh khi càng ý thức được về thân phận mình càng thấm sâu nỗi cô đơn. Và
chỉ mình con người tự đối diện với nỗi cô đơn không ai gánh vác thay điều đó
cho con người.
Cô đơn
hiện sinh mang yếu tố tích cực ở chỗ không làm con người trở nên yếu hèn ủy mị,
ngược lại có sức mạnh giúp con người hiểu hơn về chính mình, đánh thức tiềm
năng sáng tạo và bản lĩnh sống. Cô đơn được xem như một nghiệp dĩ của con
người... Con người tự đảm nhiệm về mình cho nên cô đơn là một tất yếu. Tuy
nhiên cô đơn hiện sinh chấp nhận sự tồn tại của người khác, của tha nhân và xem
đó là điều kiện thiết yếu để nhận ra cô đơn bản thể. Bởi vì khi con người sống
với người khác thì mới cảm nhận rõ hơn sự cô đơn của chính mình. “Ta cảm thấy
cô đơn khi chỉ mình hiểu mình ở giữa những người khác. Vậy người khác là thiết
yếu của cô đơn” [113, tr. 42]. Cô đơn theo quan niệm của Sartre luôn đặt con
người trong mối quan hệ đa chiều. Con người hiện sinh nhận ra sự khác biệt với
chính nó trong quá khứ, trong hiện tại và cả tương lai. Cái con người đang là
trong hiện tại khác với cái con người trong quá khứ và tương lai sắp đến. Khi
con người ý thức về sự cô đơn thì sẽ ý thức được trách nhiệm tạo nên chân lý
cho mình. Chủ nghĩa hiện sinh xem cô đơn là điều kiện để con người vươn tới
chân lý. Chân lý tạo ra trong quá trình chiêm nghiệm tự thân, không chịu ảnh
hưởng của bất kỳ ai, bất kỳ điều gì. “Khi cô độc một mình, cá nhân mới có thể
tiếp nhận, nhận biết và truyền đạt chân lý” [128, tr. 44]. Nỗi cô đơn đối với
con người là tuyệt đối. Muôn đời con người luôn cảm thấy cô đơn. Cô đơn nảy
sinh khi con người xung khắc với cuộc sống. Người cô đơn bị tách ra khỏi các
mối quan hệ xã hội vốn lỏng lẻo.
Các nhà
hiện sinh cho rằng “Cô đơn là điều kiện thể hiện bản chất đích thực của con
người. Đó là vấn đề mấu chốt trong quan hệ của con người của chủ nghĩa hiện
sinh” [113, tr. 25]. Con người hiện sinh không sợ cô đơn, không lảng tránh mà
đảm nhiệm cô đơn, tự chịu trách nhiệm về sự cô đơn. Đó là phương thức tồn tại
của con người. Cô đơn hiện rõ khi con người ý thức được giá trị của bản thân.
“Một khi đã ý thức sâu xa về tính chất độc đáo hiện sinh của mình, con người tự
cảm thấy cô đơn” [113, tr. 41]. Tiền đề cho sự cô đơn là khi con người nhận
thức được sự độc đáo của bản thân. Nhà triết học M. Heidegger đã cho rằng con
người tồn tại trong cuộc đời như những vật bị bỏ rơi, không hiểu gì về quá khứ,
hiện tại không lí giải được và cũng mơ hồ về tương lai. Con người không được tự
quyết cho số phận mình do vậy luôn đặt họ vào tình thế “vong thân” tức là bị
đánh mất chính mình. Chính điều này khiến con người luôn cảm thấy lo lắng và
bất an.
Cô đơn
không phải là cô độc mà là khi ở giữa mọi người vẫn thấy mình cô đơn. Cô đơn ấy
là tự tìm thấy sự khác biệt của mình giữa cuộc đời, ý thức được giá trị của bản
thể. Con người cô đơn vì “Cuộc đời của đa số người là tầm thường, là buồn nôn”
[40, tr. 41]. Điều đó khiến con người phải tỉnh ngộ và tự quyết, tự ý thức về
bản thân mình là một nhân vị độc đáo. Và chỉ khi con người ý thức được về bản
thân thì khi đó mới thực sự sống đúng với hiện sinh của mình. Cô đơn là bản
chất người, cô đơn ngay cả khi ở giữa nhân quần, khi xung quanh con người có
bao dáng vẻ và khuôn mặt của tha nhân. “Cô đơn được xem là định mệnh, là phức
cảm tâm lý có sẵn từ trong tiềm thức nên nó gần như di truyền từ thế hệ này qua
thế hệ khác” [145 tr. 64]. Có khi con
người đặt niềm tin vào một đấng siêu nhiên, một vị thần hộ mệnh che chở cho
mình như đức Chúa. Nhưng khi họ nhận ra Chúa đã chết, họ càng thấm thía nỗi bơ
vơ, lạc lõng. Đặc biệt, khi thời đại kĩ trị lên ngôi, con người cũng nhầm tưởng
đó là chiếc đũa thần có thể giúp họ thoát nỗi cô đơn. Thực tế trong thời đại kĩ
trị con người càng dễ dàng bỏ rơi nhau trong tất cả mọi mối quan hệ. Nỗi cô đơn
khiến con người nhìn cuộc sống bi quan, bi thảm nhưng đồng thời cũng nhắc nhở
đòi hỏi thức tỉnh con người luôn vươn tới những khát vọng tốt đẹp.
Những
chủ đề trọng tâm trên đây của chủ nghĩa hiện sinh chính là cơ sở để luận án
nhận diện và soi sáng những dấu ấn hiện sinh được biểu hiện trong tác phẩm thơ
Việt Nam đương đại từ đó đi đến khẳng định sự hình thành, sự tồn tại của khuynh
hướng hiện sinh trong đời sống thơ ca Việt Nam đương đại. Với văn học hiện
sinh, cuộc sống con người được miêu tả như một thảm kịch, hư vô, vực thẳm mà
con người luôn bị chơi vơi, lơ lửng, tựa như con người sa vào bế tắc, luôn có ý
chí vùng vẫy để thoát ra bằng ý thức tự thân. Qua các cuộc chiến tranh, thân
phận con người trở nên mong manh, thê thảm trước sự chết chóc, bần cùng. Mọi
giá trị dường như bị đảo lộn, con người đánh mất đi bản ngã của chính mình, bị
cuốn vào vòng quay của xã hội công nghiệp. Trong nhiều tác phẩm của văn học
hiện sinh, những biểu hiện của con người tha hóa đã được các tác giả biểu đạt
với nhiều thủ pháp nghệ thuật hiện đại, gửi gắm tới độc giả thông điệp về tâm
trạng của những thế hệ con người sau chiến tranh với nhiều đổ vỡ, mất mát, luôn
đặt vấn đề tồn tại, hiện sinh của con người trong xã hội tư bản công nghiệp.
Không chỉ tồn tại và thịnh hành ở châu Âu, tư tưởng hiện sinh đã vươn xa, tạo ảnh
hưởng sâu sắc trong đời sống và trong văn học ở các nước châu Á, đặc biệt là ở
Nhật Bản và Việt Nam, những nước chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo phong
kiến Trung Quốc. Ở miền Nam Việt Nam vào những thập niên 50 và 60 của thế kỉ
trước, tư tưởng hiện sinh xuất hiện đã được đón nhận nồng nhiệt và cắm rễ sâu
trong đời sống xã hội cũng như trong văn học. Tuy nhiên chưa có tác giả nào bàn
về những biểu hiện của chủ nghĩa hiện sinh tạo thành một khuynh hướng trong văn
học hoặc thơ ca.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về biểu hiện của
chủ nghĩa hiện sinh trong văn học Việt Nam hiện đại
Chủ
nghĩa hiện sinh xuất hiện ở Sài Gòn vào những năm năm mươi của thế kỷ XX. Mặc
dù bắt nguồn từ phương Tây nhưng khi vào Việt Nam nó đã được cấu trúc lại bằng
những yếu tố bản địa và xuất hiện ồ ạt ở miền Nam, được đón nhận nhiệt tình.
Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ xuất hiện trên sách báo với những tên tuổi như
Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Thị Hoàng mà còn trở thành đề tài cho các công trình
nghiên cứu của nhiều luận án tiến sĩ và cao học. Vì chủ đề được quan tâm của
chủ nghĩa hiện sinh là nhìn nhận cuộc đời là hư vô, như một thảm kịch, số phận
con người mong manh chơi vơi… do vậy, nó nhanh chóng tìm được tiếng nói chung
với độc giả, nhất là thế hệ trẻ.
Tháng 5
năm 1956, Pháp rút quân và Mỹ vào thay chân đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính
quyền, xã hội miền Nam bước vào cuộc biến động về mọi mặt. Chủ nghĩa hiện sinh
đi vào miền Nam Việt Nam trong bối cảnh ồn ào phức tạp ấy do có sự phù hợp giữa
các quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh về thân phận con người với tâm trạng bi
quan hoang mang, khao khát tự do, khao khát nổi loạn để xua tan nỗi hoài nghi
bi quan chán nản của con người trong chiến tranh. Chủ nghĩa hiện sinh đi vào
miền Nam nước ta khi có những con người hoang mang trước những biến cố xã hội,
nhìn đời với con mắt hồ nghi bi quan. Chiến tranh gây ra tổn thất, thảm kịch,
đẩy con người vào sự bất an và họ thấy sự bi đát chán chường của chiến tranh.
Chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện và thịnh hành ở châu Âu nhưng đã có những phù hợp
thực tại Việt Nam. Khi con người Việt
Nam trải qua những mất mát trong chiến tranh, họ cũng rơi vào trạng thái bi quan vì những
khủng hoảng và muốn đi tìm
một chỗ dựa tinh thần. Trong hoàn cảnh đen tối đó, họ đã nhanh chóng
thích nghi với chủ nghĩa hiện sinh. Đặc
biệt là giới trẻ đã sùng bái
chủ nghĩa hiện sinh bởi họ “ăn hiện sinh, ngủ hiện
sinh” và xem đó như
là lẽ sống mới.
Ở miền
Nam xuất hiện hàng loạt những bài nghiên cứu, các giáo sư giảng dạy các trường
Đại học như Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm. Từ năm 1955, hàng
loạt các tác phẩm văn học hiện sinh phương Tây cũng được dịch và giới thiệu ở
Sài Gòn, nhiều nhất là tác phẩm của J.P. Sartre, A. Camus, F. Sagan, S. Becket. Trong sáng tác văn học miền Nam lúc
này “ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
thể hiện ở nhiều nơi trong đó rõ nhất là ở thơ và văn xuôi” [58, tr. 45].
Văn học
Việt Nam giai đoạn chống Pháp và chống Mỹ với nguyên tắc phản ánh hiện thực và
sáng tác xã hội chủ nghĩa không chấp nhận chủ nghĩa hiện sinh vì quan điểm sáng
tác khác nhau. Văn học hiện thực được xem là tấm gương nhận thức và phản ánh xã hội. Ngược lại chủ nghĩa
hiện sinh chỉ quan tâm thân phận của cá nhân
con người. Chủ nghĩa hiện sinh quan tâm đến những chủ đề liên quan số kiếp con
người, nhìn cuộc đời con người là phi lý, là cô đơn, là bi kịch hoàn toàn trái
ngược cái nhìn lạc quan cách mạng, do vậy, văn học hiện sinh bị phê phán.
Sau năm
1986, trong điều kiện đất nước mở của, hội nhập nhưng con người phải đối mặt
với mặt trái của cơ chế thị trường. Nhiều tệ nạn xã hội như tham ô, tham nhũng,
thất nghiệp nghèo đói khiến con người hoang mang. Và đó là điều kiện thuận lợi
cho chủ nghĩa hiện sinh xuất hiện trở lại. Tuy nhiên, các nhà văn nhà thơ Việt
Nam không phải là những nhà tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Họ chỉ muốn đưa
một số ý tưởng nào đó của chủ nghĩa hiện sinh vào tác phẩm. Nguyễn Tiến Dũng
khẳng định “Họ chỉ là những nhà văn muốn đưa vào tác phẩm của mình một số ý
tưởng nào đó của chủ nghĩa hiện sinh. Vì vậy ta khó có thể đòi hỏi họ phải có
một hệ thống tư tưởng nào đó của chủ nghĩa hiện sinh.” (Chủ nghĩa hiện
sinh, lịch sử và sự hiện diện của nó ở Việt Nam [28, tr. 155].
Nguyễn
Tiến Dũng cũng cho rằng “vì lẽ đó cho nên có thể thấy hiện sinh ở tác phẩm này
mà không có ở tác phẩm khác, thậm chí có những phương pháp sáng tác không giống
nhau” [28, tr. 155].
Chiến
tranh chống đế quốc Mỹ kết thúc, đất nước được thống nhất. Tâm trạng con người
vừa có niềm vui chiến thắng vừa phải đối mặt những mất mát trong chiến tranh.
Từ đó “con người có điều kiện nhìn nhận lại cuộc chiến và chính bản thân mình”
[58 tr. 49]. Bối cảnh xã hội sau chiến tranh và thời kì đất nước bước vào hiện
đại hóa dẫn đến sự xuất hiện của khuynh hướng hiện sinh và tư tưởng hiện sinh
cũng được nhìn nhận đánh giá theo hướng khách quan, khoa học. Sự thay đổi hoàn
cảnh xã hội kéo theo sự thay đổi về văn học. Sự thay đổi rõ nhất là ở quan niệm
về con người hiện thực. Trước chiến
tranh thân phận con người không được coi trọng. Sau chiến tranh, văn học quan
tâm đến con người “như một thực thể độc đáo, đa chiều, không chỉ có ý thức mà còn có vô thức, tiềm thức,
không chỉ có khát vọng chung của tập thể mà còn có đời sống tình cảm riêng tư
sâu kín” [58, tr. 52]. Yếu tố hiện sinh xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam
khi chạm tới vấn đề con người như một bản thể riêng biệt, như những hữu thể
hiện tồn. Chẳng hạn tác phẩm Thời xa vắng
đề cập đến bi kịch đánh mất mình của Giang Minh Sài...; tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh đề cập nỗi cô đơn
lạc lõng không được là chính mình qua nhân vật Kiên. Dấu ấn hiện sinh thể hiện
qua nỗi ưu tư trăn trở về bản thể, về thân phận con người qua các tác phẩm Một cõi nhân gian bé tí của Nguyễn Khải, Những đứa trẻ chết già của
Nguyễn Bình Phương với những trăn trở về thời gian của
đời người. Cuộc sống với vòng quay hỗn độn tất cả chỉ vận hành về sự chết. Đó
chính là những ưu tư không bao giờ dứt về phận người mang tâm thức hiện sinh. Một ngày và một đời của Lê Văn Thảo với
triết lí một đời thì thoáng qua, một ngày dài lê thê thể hiện sự phi lí của đời
người. Quan niệm về con người về hiện thực, về tư duy nghệ thuật thay đổi tất
yếu đòi hỏi văn chương cũng thay đổi. Và đó là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa
hiện sinh trong văn học Việt Nam bám rễ sâu trong sáng tác văn học và thơ ca
đương đại. Trước năm 1975, các chủ đề của trào lưu hiện sinh như cô đơn, âu lo,
hoang mang, nổi loạn… đều được thể hiện rõ trong văn xuôi hiện sinh ở miền Nam.
Một mặt, chủ nghĩa hiện sinh được đông đảo bạn đọc Sài Gòn đón nhận vì đã phần
nào nói lên tâm trạng của một bộ phận người dân miền Nam lúc bấy giờ đang hoang
mang mất phương hướng. Mặt khác, tư tưởng hiện sinh còn là tiếng nói “bi quan, bế tắc sa đọa trong hoàn cảnh xã
hội rối ren loạn lạc” [58, tr. 47]. Chủ nghĩa hiện sinh “nhận được sự quan tâm nghiên cứu phiên dịch
và giới thiệu rộng rãi” [113, tr. 31]. Sau năm 1975, đặc biệt từ sau năm
1986 những biến đổi mạnh mẽ của đất nước sau chiến tranh đã đưa đến sự thay đổi
về tư duy, về nhận thức, sự đi vào khám phá chiều sâu bên trong bản thể con
người đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện trở lại của chủ nghĩa hiện sinh. Chủ
nghĩa hiện sinh được tầng lớp trí thức miền Nam đón nhận. Hàng loạt tờ tạp chí
được dịch thuật từ các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh ở nước
ngoài. Tiếp đến là sự xuất hiện đội ngũ các nhà nghiên cứu và sáng tác văn học
trong đó có thơ ca. Chủ nghĩa hiện sinh còn lan tỏa trong đời sống đặc biệt là
bộ phận thanh niên không tìm được hướng đi và niềm tin với cuộc sống trong
chiến tranh. Chủ nghĩa hiện sinh góp phần giúp cho tầng lớp trẻ thay đổi quan
niệm sống định hướng cho họ về ý thức trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Ảnh
hưởng này tuy rầm rộ ở đô thị miền Nam sau năm 1975 nhưng hoàn toàn vắng bóng
trong văn học miền Bắc. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong giai đoạn này
nằm trong một ngữ cảnh văn hóa mới khác ngữ cảnh trước năm 1975. Sau năm 1986,
Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới. Hoàn cảnh lịch sử xã hội thay đổi kéo theo
thay đổi về nhận thức tư duy, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tái xuất của
chủ nghĩa hiện sinh. Năm 1986, nghị quyết Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu sự
đổi mới về tư duy của Đảng và toàn xã hội. “Đây được xem là bước ngoặt quan
trọng tác động một cách toàn diện đến ngữ cảnh sáng tạo của văn nghệ sĩ” [145,
tr. 31]. Người nghệ sĩ được cởi trói và có điều kiện để sáng tạo với những tiếng nói mang dấu ấn riêng. Mặt khác, với quan điểm nhìn thẳng vào sự
thật, chối bỏ lối viết minh họa và ca ngợi một chiều văn học mới, sáng tạo lại
hiện thực trăn trở nhiều vấn đề cụ thể thiết thực trong đời sống xã hội. Nếu
như trước đây văn học chỉ quan tâm đến chiều kích sử thi, ca ngợi chiến công,
thì giờ đây, văn học hướng về những vấn đề thế sự, quan tâm nhiều hơn đến những
vấn đề đạo đức, nhân cách, lẽ sống, những góc khuất. Thậm chí văn học mạnh dạn
đề cập đến những vấn đề trước đây văn học né tránh như vẻ đẹp phồn thực hay vấn
đề dục tính với màu sắc nhân văn. Sau năm 1975, tư duy văn học đã thay đổi khi
các nhà văn đi sâu tìm hiểu, suy ngẫm trăn trở về tính phi lý, sự vô nghĩa, đơn
điệu tẻ nhạt của cuộc sống khi con người không được sống là chính mình.
Các
công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ nhiều góc độ. Có nhà
phê bình phê phán văn học hiện sinh, cho rằng chủ nghĩa hiện sinh nói về sự mất
niềm tin của con người, thậm chí còn cho là sự suy đồi của văn nghệ và chủ
nghĩa hiện sinh là tư tưởng của giai cấp tư sản không đem lại niềm tin, niềm hi
vọng vào cuộc sống thực tại. Nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu (2000) cho rằng chủ nghĩa
hiện sinh đượm màu bi quan yếm thế, sản sinh ra những con người có lối sống yếu
ớt bạc nhược về tinh thần: “Quẩn quanh với thế giới đóng kín, văn học hiện sinh
chủ nghĩa sản sinh ra được những con người khắc khoải, dở sống dở chết, những
con người bừng bừng thức dậy với những cơn mê sảng dữ dội, những kí ức huyễn
hoặc, những ám ảnh khủng khiếp, những hình bóng mơ hồ mà nó gọi là “thế giới
thứ hai”, “xao xuyến náo động làm chấn động con người và vũ trụ” [55, tr.
13-14]. Tác giả chỉ trích khá gay gắt, thậm chí đã áp đặt gọi đó là tư tưởng
phản động, thần bí, “Chỉ là những ảo ảnh lừa dối. Triết học hiện sinh là một
triết học thần bí, một triết học linh thần hóa con người và tự nhiên” [55, tr.
12]. Nguyễn Thị Bích Phụng (2013) trong bài viết “Cảm thức hiện sinh trong tập thơ Hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn” đã khẳng định: “Cảm thức hiện sinh
là những cảm giác mang tính trực cảm có ý thức và vô thức trước sự vật hiện
tượng, trước quy luật tạo hóa tự nhiên, trước muôn màu biến ảo của cõi ta bà,
cả những bất cập lệch chuẩn của giá trị đạo đức trong hiện thực đời sống”
[114]. Có thể thấy, nhiều người đã không ngần ngại phản đối tư tưởng của chủ nghĩa
hiện sinh. Các tác giả cho rằng đó là chủ nghĩa mang đến cho con người cái nhìn
bi quan về cuộc sống, tư tưởng gieo vào lòng người cảm giác bi quan, thất vọng
về cuộc sống của chính mình.
Bên
cạnh đó cũng có những quan điểm bình tĩnh khách quan khi tiếp cận tư tưởng chủ
nghĩa hiện sinh. Huỳnh Như Phương với Chủ
nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam đã có một cái nhìn khái quát về sự hiện
diện và ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam. Ông đã đánh giá
cách nhìn nhận của các tác giả về chủ nghĩa hiện sinh. Bên cạnh Trần Thái Đỉnh
có một văn phong mạch lạc sáng rõ và dễ tiếp nhận, tác giả Lê Tôn Nghiêm diễn
đạt những vấn đề triết học chuyên sâu khá nặng nề. Lê Tôn Nghiêm dành những lời
lẽ nồng nhiệt cho hai ông tổ hiện sinh là Kiekegaard và Nietzche...
Nhìn
chung các nhà nghiên cứu xem chủ nghĩa hiện sinh là biểu hiện cho sự vận động
của văn hóa văn học dân tộc. Họ cho rằng chủ nghĩa hiện sinh đề cập những nỗi
buồn, những phản ứng trước thực tại của tri thức và nghệ sĩ. Họ khẳng định chủ
nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản vì nó quan tâm đến số phận con người.
Chủ nghĩa hiện sinh là những truy vấn của tồn tại người, Với những câu hỏi ta
là ai? Ta đến với cuộc đời để làm gì? Không những thế, nó còn giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về sự chuyển biến văn hóa của thời đại. Đỗ Minh Hợp (2016) cho rằng
“Việc phân tích chủ nghĩa hiện sinh còn cho phép chúng ta hiểu rõ hơn những
chuyển biến văn hóa ở thế kỉ XX, những chuyển biến vẫn đang có tác động mạnh mẽ
tới đời sống tinh thần của con người phương Tây hiện đại” [62].
Thời kì
đổi mới, con người phải đối mặt với những nỗi đau phần nào xuất phát từ sự phát
triển có tính chất bùng nổ của khoa học kĩ thuật.
Thơ
Việt Nam đương đại có sự bùng nổ về số lượng, đến với người đọc bằng nhiều con
đường, nhiều hình thức như thơ in, thơ đăng báo, thơ trên sóng phát thanh
truyền hình, thơ trên mạng internet, thơ in trên bưu ảnh, thơ lịch, thơ chép
tay... Đặc biệt, thơ đương đại mở rộng nội dung phản ánh “từ bề nổi, bề sâu, bề
xa, từ cao siêu đến trần thế, tâm hồn và xác thịt, từ hiện thực xã hội đến tâm
linh, từ khát vọng, lý tưởng, bổn phận đến tình cảm riêng tư...” [150, tr. 2].
Từ năm 1988, thơ ca đổi mới mạnh mẽ, đặc biệt vào những năm 1993 -1994, với sự
ra đời của hàng loạt tập thơ cách tân
theo hướng hiện đại chủ nghĩa. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như Đêm mặt trời mọc (Nguyễn Quốc Chánh, Nxb
Trẻ, 1990), Khí hậu đồ vật (Nguyễn
Quốc Chánh, Nxb Trẻ, 1997), Sự mất ngủ
của lửa (Nguyễn Quang Thiều, Nxb Lao động, 1992), Ô mai (Đặng Đình Hưng, Nxb Hội Nhà văn, 1993), Bóng chữ (Lê Đạt, Nxb Hội Nhà văn, 1994), Người đi tìm mặt (Hoàng Hưng, Nxb Văn hóa-Thông tin, 1994), Về Kinh Bắc (Hoàng Cầm, Nxb Văn học,
1994), Cầu nguyện ban mai (Mai Văn
Phấn, Nxb Hải Phòng, 1997).
Nhiều
công trình luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ khoa học và các bài báo đề cập đến
tâm thức hiện sinh hoặc cảm thức hiện sinh trong văn học nói chung, trong thơ
nói riêng. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như “Người đàn bà qua hai mùa tóc và tâm
thức hiện sinh trong thơ Ánh Hồng” (Trần Hoài Anh - Tạp chí Sắc màu thời gian số 7/2015), “Cảm thức
hiện sinh trong thơ Lưu Quang Vũ” (Trần Hoài Anh - Tạp chí Khoa học thời đại), “Cảm thức hiện sinh trong tập thơ Hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn” (Nguyễn
Thị Bích Phụng - Tạp chí khoa học Văn hóa
và Du lịch, số 13/9/2013), Huỳnh Thị Kiều Diễm với Dấu ấn hiện sinh trong thơ Bùi Giáng (Luận văn thạc sĩ, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Đà Nẵng, năm 2013), Cảm thức hiện sinh trong thơ Cát Du (Trần
Hoài Anh). Gần đây nhất là Trần Khánh Phong với Tâm thức hiện sinh trong Thơ mới (Luận án tiến sĩ Ngữ văn, năm
2018). Dương Thị Lan với Quan niệm về con
người trong triết học hiện sinh của Albert Camus (Luận văn thạc sĩ triết
học, năm 2016). Hay tác giả Hải Bằng với nghiên cứu Tư tưởng lãng mạn, hiện sinh, siêu thực trong thơ Việt Bằng. Các
công trình, bài viết, đã cho thấy sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả về
chủ nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu về khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam
đương đại một cách đầy đủ và hệ thống.
Trong
sự chuyển mình của văn học Việt Nam, thơ giữ một vị trí hết sức quan trọng. Các
nhà nghiên cứu đã chỉ ra, thơ hôm nay có một xu thế đang ngày càng được khẳng
định và mở rộng. Hàng loạt các cây bút
trẻ đang nỗ lực thể hiện mình trên con đường riêng đến với thi ca đồng thời góp
phần tạo nên xu hướng cách tân mạnh mẽ cho thơ đương đại. Theo thống kê từ luận
án của Đặng Thu Thủy (2009), nhiều thế hệ lứa tuổi như Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn
Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Xuân Quỳnh, Đoàn Thị Lam Luyến, Trương Nam Hương, Trương
Đăng Dung, Mã Giang Lân, Phan Hoàng, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Phong Việt, Dư Thị
Hoàn, Nguyễn Việt Chiến, Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Vi Thùy Linh, Phan Thị Vàng Anh, Từ Huy, Đỗ
Doãn Phương, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lữ Thị Mai, Phan Huyền Thư, Đinh Thị Như
Thúy, Nguyễn Phan Quế Mai, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lê Thị Mai, Nhụy Nguyên... đã
có những tác phẩm mang tư tưởng hiện sinh và đã tạo nên một khuynh hướng sáng tác trong thơ Việt một
diện mạo mới với những sự cách tân táo bạo về tư duy, về nội dung và thể loại [150].
Cùng
với sự thay đổi của xã hội và thực tại đời sống, sau năm 1986, nhiều tác giả đã
có sự nhìn nhận thấu đáo hơn về chủ nghĩa hiện sinh. Một số công trình luận văn,
luận án đã tìm và đánh giá lại văn học đô thị miền Nam trong đó có thơ ca. Từ
năm 1977, Nguyễn Văn Dân trong công trình Văn
học phi lí đã đề cập đến dấu ấn của văn học hiện sinh trong văn học Việt
Nam. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm hơn đến sự có mặt của
chủ nghĩa hiện sinh như Nguyễn Tiến Dũng, Thái Phan Vàng Anh, Nguyễn Thành
Thi... Các nhà văn Việt Nam chưa phải là những tư tưởng gia của chủ nghĩa hiện
sinh song họ lại muốn đưa vào tác phẩm của mình một số ý tưởng nào đó của chủ nghĩa
hiện sinh, vì vậy chưa thể đòi hỏi họ phải có một hệ thống tư tưởng đồng kết
[28, tr. 155]. Mặc dầu vậy, để chọn một lý thuyết triết học và mỹ học có ảnh
hưởng rộng lớn đến lý luận và sáng tác của văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn
1954-1975, nhiều nhà nghiên cứu không ngần ngại chọn chủ nghĩa hiện sinh. Đó là
triết học về con người, đặt vị trí quan trọng nhất là “tính độc đáo, tuyệt đối của con người” [113, tr. 23].
1.1.2.
Về nghiên cứu tư tưởng hiện sinh và khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam
đương đại
1.1.2.1. Những nghiên cứu về cảm hứng và tư
tưởng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại
Những
dấu ấn của hiện sinh thực sự đã xuất hiện ở thơ ca Việt Nam từ rất sớm. Có thể
tìm thấy những biểu hiện hiện sinh ở sáng tác của các tác giả trung đại Việt
Nam như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... Các tác giả
này ít nhiều đã thể hiện ý thức về cái tôi cá nhân qua cá tính với những sự bứt
phá, nổi loạn để khẳng định mình. Nguyễn Du khái quát kiếp người qua những câu
thơ đầy ưu tư: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn
lòng”. Hồ Xuân Hương nổi loạn để nói lên khát vọng tình yêu, hạnh phúc đầy nhân
bản: “Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt/ Khối tình cọ mãi với non sông”. Con
người là trung tâm của vũ trụ, mang trong mình nỗi buồn lớn lao bao trùm cả
không gian, thời gian. Cái tôi của Nguyễn Công Trứ là cái tôi “ngông”, ngất
ngưởng, đó là cái tôi muốn được sống đúng là mình trong lòng xã hội phong kiến
đầy định kiến khắt khe nghiệt ngã. Đó cũng là khát vọng được khẳng định nhân vị
“Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.
Đến
thời kỳ Thơ mới, tâm thức hiện sinh
thể hiện rõ nét hơn. Cảm quan nỗi buồn trong Thơ mới được bày tỏ qua tác phẩm
của những tác giả như Chế Lan Viên, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn
Bính... qua sự suy tư của thi nhân về ý nghĩa tồn tại của kiếp người. Nhà thơ
Chế Lan Viên cảm nhận sự cô đơn vô nghĩa của cuộc đời: “Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”. Ông
từng đi tìm câu hỏi trước vũ trụ “Ta đứng
trước cõi Ta khôn hiểu thấu/Như không sao hiểu được nghĩa Thời gian” (Cõi Ta- Chế Lan Viên). Nhà thơ Huy Cận
cảm nhận nỗi cô đơn mênh mang rợn ngợp trước không gian mênh mang của vũ trụ: “Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ
sầu”. “Buồn vạn lớp trên mái nhà rợn
sóng”. Đó là nỗi sầu dưới đáy hồn nhân thế. Thơ Hàn Mặc quằn quại đau
thương trong sự giằng xé giữa linh hồn và xác phàm: Hồn là ai? Là ai? Tôi chẳng biết! Hồn là ai? Là ai? Tôi không biết.
Nhà thơ Thế Lữ cũng với nỗi sầu buồn không lí giải : Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn
ơi xa vắng mênh mông là buồn. Nhà thơ Nguyễn Bính với nỗi cô đơn trước
không gian “Sầu nghiêng theo cánh chim
lìa tổ/ Biết lạc về đâu lòng hỡi lòng”. Xuân Diệu thì luôn cảm thấy vũ trụ
cao vút, chi có con người là cô đơn tuyệt đối “Ta lên cao như một ý siêu phàm/Nhìn vũ trụ muốn tranh phần cao vọt/ Chỉ
riêng ta đứng mãi/ Ở nơi đây không dấu vết loài người” …Tuy nhiên, người
đọc mới chỉ cảm nhận được nỗi buồn thế thái nhân tình, nỗi buồn thiên cổ qua
tác phẩm chứ chưa quan tâm, có cái nhìn hệ thống về nỗi buồn như một biểu hiện
của chủ nghĩa hiện sinh. Có rất ít công trình chuyên sâu về chủ nghĩa hiện sinh
hoặc vận dụng tư tưởng hiện sinh vào nghiên cứu văn học.
Nhìn
chung, nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại còn rất
lẻ tẻ. Đề cập đến vấn đề này phần lớn có ở các bài báo hoặc các đề tài luận văn
thạc sĩ như đã được luận án nói đến. Chẳng hạn các bài báo “Tâm thức hiện sinh
trong thơ Cát Du” (Trần Hoài Anh), “Cảm thức hiện sinh trong thơ Lưu Quang Vũ”
(Trần Hoài Anh), “Thời gian và phận người trong thơ Trương Đăng Dung” (Nguyễn
Đăng Điệp), “Cảm thức hiện sinh” trong tập thơ Hoa giấu mặt của Mai Văn Phấn” của Nguyễn Thị Bích Phụng, luận văn
thạc sĩ “Dấu ấn hiện sinh trong thơ Bùi Giáng” của Huỳnh Thị Kiều Diễm, “Triết
lý hiện sinh trong thơ Lê Khánh Mai” của Lê Thùy Nhung... Đáng chú ý là bài
“Khuynh hướng hiện sinh trong thơ nữ Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Trần Hoài
Anh (Tạp chí sông Hương, số 320, tr.
10-15) đã khẳng định “ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh đã tạo thành một khuynh
hướng sáng tác trong thơ của nhiều tác giả thuộc các thế hệ cầm bút khác nhau”
[11].
Có thể
thấy trong đội ngũ đông đảo các nhà thơ Việt Nam đương đại, đã xuất hiện hàng
loạt cây bút mà tác phẩm của họ in đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh. Luận án
quan tâm khảo sát tác phẩm của các tác giả như Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang
Thiều, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Phạm Thị Ngọc Liên, Trương Đăng Dung,
Inrasara, Phan Huyền Thư, Đoàn Thị Lam Luyến...
1.1.2.2. Những nghiên cứu về khuynh hướng hiện
sinh trong thơ Việt Nam đương đại
Trước hết, xin được nói rõ hai từ khuynh hướng trong khuynh hướng hiện sinh (tên đề tài luận án là “khuynh hướng hiện
sinh trong thơ Việt Nam đương đại”). “Khuynh hướng” là một từ Hán Việt, xuất
hiện và được dùng rộng rãi trong ngữ vựng tiếng Việt từ những thập niên đầu của
thế kỉ 20. Vì vậy, người quan tâm từ vựng Việt ngữ đã sớm có thể tra thấy từ
này trong Giản yếu Hán Việt Từ điển của
Đào Duy Anh (1932). Trong tính cách là một từ điển giản yếu, định nghĩa mục từ
này của từ điển Đào Duy Anh rất vắn tắt: “khuynh
hướng: Xu hướng về, xoay theo” [2, tr. 224]. Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) một mặt chú ý tới tính cách
từ vựng Hán Việt (kèm thêm chữ Hán) mặt khác cập nhật văn cảnh mới nên đã thực
hiện một sự chú giải khá đầy đủ và cô đọng mục từ này như sau: “khuynh hướng 傾 向 : Sự
thiên về một phía nào đó trong hoạt động, trong quá trình phát triển. Ví dụ: Dòng văn học theo khuynh hướng hiện thực phê
phán; khuynh hướng gia tăng dân số thế giới [111, tr. 804]. Từ điển này
đồng thời cũng xem từ xu hướng là từ
đồng nghĩa của từ khuynh hướng. Chúng
đồng nghĩa ở cấp độ nghĩa từ vựng, nhưng một khi đã trở thành thuật ngữ - khái
niệm học thuật thì sự phân biệt cách dùng chúng là rất rõ rang (dĩ nhiên ngay cả
khi đã trở thành thuật ngữ thì việc quan tâm tới nét nghĩa từ vựng cơ bản vẫn
là điều cần thiết cho việc lý giải nội hàm nghĩa
thuật ngữ). Đó cũng chính là lý do vì sao mà chúng tôi không quản dài dòng
trích dẫn cụ thể các cuốn từ điển. Thực vậy, nét nghĩa từ vựng cơ bản “sự thiên
về một phía nào đó trong hoạt động, trong quá trình phát triển” vẫn là được
dùng làm cốt lõi nội hàm nghĩa khi nó kết hợp với từ “văn học” (hay “văn
chương”) để cấu tạo thuật ngữ “khuynh hướng văn học”.
Các
khái niệm trên dùng để chỉ những hiện tượng của quá trình văn học. Khuynh
hướng, trào lưu là những “cộng đồng” các hiện tượng văn học được liên kết lại
trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các định hướng thẩm mĩ - tư tưởng và
về các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật. Trong mĩ học, nghệ thuật học, nghiên cứu
văn học còn chưa có sự thống nhất về tương quan phối thuộc giữa hai khái niệm
này. Một số nhà nghiên cứu muốn coi trào lưu là phạm trù rộng hơn, dung chứa
nhiều khuynh hướng. Quan niệm được dùng phổ biến hơn thì coi khuynh hướng là
phạm trù rộng, dung chứa nhiều trào lưu. Theo 150 thuật ngữ văn học hai khái niệm còn được dùng theo nghĩa rộng
như là đồng nghĩa với nhau; “trào lưu” đôi khi được đồng nhất với “trường
phái”, “nhóm phái”; khuynh hướng đôi khi được đồng nhất với “phương pháp sáng tác” hoặc “phong cách”. Diễn
giải của công trình 150 thuật ngữ văn học
và diễn giải của Từ điển văn học nói
chúng gần gũi về nội dung: “Khuynh hướng trào lưu là những cộng đồng các hiện
tượng văn học được liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về các
định hướng thẩm mĩ tư tưởng và các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật”. Như vậy,
khái niệm khuynh hướng văn học hay trào lưu văn học dùng để chỉ những hiện
tượng của một quá trình văn học mang những nét thống nhất tương đối về tư tưởng
về các nguyên tắc thể hiện cũng như quan niệm thẩm mĩ.
Lại
Nguyên Ân nhận thấy những “hiện tượng của quá trình văn học”, “cộng đồng các
hiện tượng văn học được liên kết lại trên cơ sở một sự thống nhất tương đối về
các định hướng thẩm mĩ - tư tưởng và về các nguyên tắc thể hiện nghệ thuật”.
Khuynh hướng đôi khi được đồng nhất với trào lưu [17, tr 176]. Một số nhà
nghiên cứu muốn coi trào lưu là phạm trù rộng hơn, dung chứa nhiều khuynh
hướng. Quan niệm phổ biến cho rằng khuynh hướng dung chứa nhiều trào lưu. Chúng
tôi đã tìm hiểu đề tài “khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại”
trên nền tảng nhận thức rằng: “Có thể xem lịch sử văn học dưới dạng khái quát
như lịch sử các khuynh hướng, bởi vì chúng đánh dấu tiến trình chiếm lĩnh thế
giới bằng ngôn từ nghệ thuật, đánh dấu tiến bộ nghệ thuật trong văn học” [17,
tr. 178]. Và cũng vì đã xác định “khoảng” thời gian là “đương đại” nên hơn bất
cứ lúc nào chúng tôi thấy càng phải lưu tâm hơn đến nhận định của Lại Nguyên Ân
nhấn mạnh “Khuynh hướng văn học mang tính chất mở chứ không khép kín”. Một điều
cũng nên nói rõ là tuy đặt chung trong một mục từ (khuynh hướng, trao lưu văn học) nhưng thực tế diễn giải chủ yếu là
để nói về “khuynh hướng”. Thêm nữa, như đã nói ở mục 2.1.2 (Vấn đề phân loại các
khuynh hướng thơ Việt Nam đương đại), thực tế cho thấy các tác giả không
phải bao giờ cũng sáng tác với một ý thức phân minh rằng mình “thuộc về” khuynh
hướng nào. Những khái quát định danh hóa “tên gọi khuynh hướng” là việc về sau
của các nhà lý luận hay văn học sử. Sự thực các tác giả đâu cứ phải luôn bận
tâm về “khuynh hướng” khi viết bài thơ. Việc mạnh dạn sử dụng cụm từ “khuynh
hướng hiện sinh” như là một thuật ngữ giúp giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của đề tài luận án của chúng tôi xuất phát từ một nhận thức như thế.
Chủ
nghĩa hiện sinh dù biểu đạt trong và bằng văn chương thì điều đó vẫn được nói
đến như là một triết thuyết. Nói cách khác, đó là một tư tưởng. Nếu không còn
dẫn dụng từ điển thuật ngữ mà phải lấy ví dụ từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi
cũng tìm thấy chí ít một vài ý kiến giới thuyết thuật ngữ “khuynh hướng văn
học” của các nhà nghiên cứu nói chung - giới thuyết giúp chúng tôi thêm dữ liệu
đi đến định hình nội hàm cụm “khuynh hướng hiện sinh” sử dụng ở bản luận án
này. Trong trường hợp này, chúng tôi xin dẫn giới thuyết của tác giả công trình
“Khuynh hướng hiện thực trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”. Theo
tác giả này, khuynh hướng văn học “là
một xu thế tư tưởng bắt nguồn từ cuộc sống bao giờ cũng toát ra một cách tự nhiên
từ sự miêu tả sinh động của đời sống chứ không phải qua những lời lý thuyết khô
khan, hoặc những tư tưởng trừu tượng” [71 tr.
9-10].
Chúng
tôi hiểu khuynh hướng xuất hiện là
khi các nhà văn cùng có chúng quan điểm sáng tác, hệ tư tưởng trong việc cảm nhận
lý giải đối tượng, thực tại. Nó có cơ sở về mặt triết học và mĩ học. Khuynh hướng là sự gặp gỡ nhau, có sự
tương đồng, thậm chí gặp gỡ nhau trong mục đích khám phá và biểu đạt thực tại
nhân sinh bằng nghệ thuật của nhóm hay quần thể tác giả. Khuynh hướng là chỉ sự
nghiêng về một hướng nào đó, đi tìm một hướng nào đó. Khuynh hướng chỉ “sự gần
gũi trong cách hiểu của các nhà văn đối với các vấn đề của đời sống, bởi sự
giống nhau về các tình thế xã hội, thời đại, văn hóa, nghệ thuật” [145, tr. 9].
Thực ra, liên quan đến đề tài hiện sinh trong văn chương ta cũng bắt gặp không
ít những công trình hay bài viết đề xuất cách nói “cảm thức hiện sinh trong
sáng tác/tác phẩm…”. Nhưng chúng tôi trước sau đồng ý với quan điểm cho rằng
cảm thức hiện sinh chỉ “Là sự thể hiện những sắc thái hiện sinh trong quá trình
sáng tác của nhà văn một cách cảm tính (không chủ ý)” [145, tr. 3].
Các khuynh hướng nghệ thuật hiểu theo nghĩa
rộng đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Nguyễn Tiến Dũng đã nhắc lại những mốc
thời gian đáng chú ý cho thấy dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh đã hiện hữu từ lâu. Từ
trong triết lý Phật Giáo qua câu nói của Phật Thích Ca “Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn”. Trong quá trình tu hành
đắc đạo Đức Phật đã ngộ ra bốn chân lý tối cao về cuộc đời con người “Sinh-Lão-Bệnh-
Tử”. Ở phương Tây, người ta nhắc đến câu nói nổi tiếng của Sokrates “con người hãy tự nhận thức chính mình”. Thời trung
đại, thánh Augustin đã khẳng định “hãy đi sâu vào bản thân, chân lý nằm trong
nội tâm con người”. Kế sau, tính hiện sinh đã tiềm ẩn trong tác phẩm Các suy tư của triết gia người Pháp
Pascal, trong tiểu thuyết Tội ác và trừng
phạt của nhà văn hào Nga Dostoievsky... Khuynh hướng hiện sinh mà chúng tôi
đề cập là tư tưởng hiện sinh theo nghĩa hẹp gắn với tên tuổi của triết gia Đan
Mạch - Kierkegaard (1813-1885), triết học hiện sinh vô thần của Sartre, chủ
nghĩa hiện sinh hữu thần theo quan điểm của Albert Camus. Điểm gặp gỡ ở các nhà
hiện sinh này là ở chỗ khẳng định chủ
nghĩa hiện sinh là sản phẩm của thời đại. Đó là thời kỳ lịch sử có nhiều biến
động lo âu khắc khoải về con người trở thành nỗi lo âu thường trực của các nhà
văn. Nhà văn trăn trở quan tâm đến thực tại đang diễn ra.
Luận án
quan tâm đến ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh từ các triết gia nêu trên đến thơ
Việt Nam đương đại. Thực tiễn sáng tác thơ ca Việt Nam đương đại cho thấy các
tác giả ít nhiều đều có ý thức tự giác trong việc biểu hiện hiện sinh. Có thể
nói khuynh hướng hiện sinh bao hàm
nhiều tác giả mà tác phẩm của họ có những biểu hiện, những sắc thái của chủ nghĩa
hiện sinh. Như vậy, khái niệm khuynh hướng hiện sinh rộng hơn khái niệm cảm
thức hiện sinh.
Nhìn về
giai đoạn “trước đương đại” ở miền Nam, có thể thấy, chủ nghĩa hiện sinh đã len
lỏi và có ảnh hưởng đối với lý luận và sáng tác văn học đô thị miền Nam Việt
Nam giai đoạn 1954 - 1975. Nhiều tác giả nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh ở đô
thị miền Nam như Trần Hoài Anh với “Lý luận - phê bình văn học ở đô thị miền
Nam 1954 - 1975”; Nguyễn Thị Việt Nga với “Sự hiện diện của triết học và văn
học hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954 -1975”; Huỳnh Như Phương với “Chủ nghĩa
hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954 -1975”... Trong bối cảnh chiến tranh khốc
liệt leo thang, tâm trạng người dân lo âu chán chường, chủ nghĩa hiện sinh đã
trở thành chỗ dựa tinh thần cho người dân đô thị miền Nam, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Theo thống kê của Võ Phiến trong cuốn Văn
học miền Nam, riêng ở Sài Gòn đã có cả ngàn nhà in, 150 nhà xuất bản. Đời
sống văn học phát triển phong phú, đa dạng, đáp ứng đủ mọi cung bậc cảm thụ,
thưởng thức văn chương của mọi tầng lớp độc giả. Văn học dịch phát triển, thị
phần sách, theo Võ Phiến, năm 1970 chiếm đến 60% và đến năm 1972 đã lên đến 80% toàn bộ đầu sách xuất bản ở miền Nam. Những tác giả được dịch nhiều nhất là J.P. Sartre, A. Camus, F. Sagan, P.
Buck,…Ngoài ra còn có nhiều bài báo, tạp chí bàn về chủ nghĩa hiện sinh như
“Khái niệm về chủ nghĩa hiện sinh” (Sáng tạo số 28/ 1959) của Quang Ninh; “Vị
trí của trào lưu hiện sinh trong lịch sử triết lý” (Đại học số 18/1960); “Bộ
mặt thật của triết học hiện sinh” (Bách khoa số 114/1961); “Những đề tài chính
của triết học hiện sinh” (Bách khoa số 115/1961) của Trần Hương Tử; “Chủ nghĩa
hiện sinh” (Báo Mai số 30/1961) của Bùi Giáng và Hoàng Minh Tuynh...
Từ
trước năm 1960, chủ nghĩa hiện sinh đã rất nhanh nhạy được giảng dạy và đề cập
đến trong giảng đường và các trường Đại học như Văn khoa Sài Gòn, Huế, Vạn
Hạnh, Đà Lạt... Nhiều cuộc tọa đàm nói chuyện về chủ nghĩa hiện sinh được tổ
chức và lôi cuốn sự chú ý của đông đảo trí thức. Các tác giả như Nguyễn Văn Trung,
Nguyễn Sa, Quang Minh, Thạch Chương, Trần Văn Toàn, Cô Liêu, Nguyễn Anh Linh…đã
đăng nhiều bài viết rải rác trên sách báo, tạp chí giới thiệu về chủ nghĩa hiện
sinh. Các tác giả có cái nhìn thiện cảm với chủ nghĩa hiện sinh. Họ xem đây là
một chủ thuyết phù hợp với tâm thức với
hoàn cảnh sống của con người thời hiện đại. Và tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện
sinh chỉ thực sự mạnh mẽ và sâu rộng
từ sau 1960. Từ đây, nhiều công trình nghiên cứu giới thiệu về chủ nghĩa hiện
sinh được xuất bản thành sách. Chẳng hạn như Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương (1970), Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường
triết lý từ Kant đến Heidegger (1970), Những
vấn đề triết học hiện đại (1971), Bùi Giáng với Tư tưởng hiện đại (1974) …Các tác giả đã khẳng định rằng ảnh hưởng
rõ nét nhất của chủ nghĩa hiện sinh vào văn học miền Nam giai đoạn 1954 -1975
gặt hái được nhiều thành công nhất ở thể loại thơ ca, ở các chủ đề như nỗi
buồn, thân phận, kiếp người... Các tác giả tiêu biểu cho thơ ca mang khuynh
hướng hiện sinh là Bùi Giáng, Nguyễn Sa, Đình Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo,
Du Tử Lê, Nhã Ca, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn..., trong đó Du Tử Lê là một
ngòi bút thơ tài hoa.
Việc
nghiên cứu về khuynh hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại, có thể thấy,
số lượng rất khiêm tốn. Chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu ngoài sự
đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh trên các bài báo, hay các luận văn thạc sĩ.
Trong số đó có bài báo của Trần Hoài Anh quan tâm nhiều hơn đến vấn đề khuynh
hướng hiện sinh trong thơ Việt Nam đương đại thông qua bàn luận về “khuynh
hướng hiện sinh trong thơ nữ Việt Nam thời kỳ đổi mới”. Qua bài báo ông khẳng
định “Khảo sát thơ nữ Việt Nam từ sau năm 1986 đến nay chúng tôi nhận thấy ảnh
hưởng của tư tưởng hiện sinh đã tạo thành một khuynh hướng sáng tác trong thơ
của nhiều tác giả thuộc các thế hệ cầm bút khác nhau: Ý Nhi, Phan Thị Thanh
Nhàn, Lê Thị Mây, Lâm Thị Mĩ Dạ, Dư Thị Hoàn, Đinh Thị Thu Vân, Đoàn Thị Lam
Luyến, Bùi Kim Anh, Thảo Phương, Thúy Nga, Phạm Thị Ngọc Liên, Ánh Hồng, Ly Hoàng
Ly, Cát Du, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Đinh Thị Như Thúy, Đoàn Ngọc Thu,
Nguyễn Thị Đạo Tỉnh, Nguyệt Phạm, Khương Hà, Phương Lan, Thanh Xuân, Ngô Thị
Hạnh Nguyễn Ngọc Minh Châu, Chiêu Anh Nguyễn, Bùi Tuyết Nhung, Đào Phong Lan,
Phạm Phong Lan, Lê Thùy Vân, Trần Lê Sơn Ý, Đinh Thu Thủy...” [11].
Thơ Việt Nam đương đại
Theo Từ điển Tiếng Việt (2006), đương đại “thuộc về thời đại hiện nay”.
Thơ đương đại “là khái niệm cụ thể hóa về mặt thời gian của thơ hiện đại từ
thời điểm đổi mới (1986) đến nay, gồm những tác phẩm thơ ca của các cây bút làm
thơ người Việt cả trong nước và ngoài nước” [152, tr. 15]. Trần Mạnh Tiến cho
rằng khơi nguồn thơ đương đại từ cuối những năm 1980 của thế kỷ XX: “Từ năm
1986 đến năm 2000 là thời kì đầu đổi mới. Trong khoảng trên 10 năm đầu thế kỷ
XXI là thời đoạn tập trung các nhân tố mới hình thành và phát triển thơ đương
đại”. Ông quan niệm “Thơ đương đại là nói đến toàn bộ các tác phẩm thơ ra đời
trong thời kì đổi mới trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến nay mang dấu ấn riêng,
chứ không chỉ bàn đến thời điểm xuất hiện nhà thơ hay tuổi tác người làm thơ
trong thời gian đó” [152, tr. 27]. Ông khẳng định chưa bao giờ thơ ca dân tộc
có sự phát triển quy mô rộng lớn đến như vậy. Đó là thời kỳ có sự đa dạng về
lực lượng, về quy mô sáng tác và quan niệm nghệ thuật về đề tài, chủ đề, cảm
hứng tư tưởng, thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu, bút pháp thể thơ. Với
cái nhìn bao quát, ông cho rằng thời gian 30 năm phát triển thơ đương đại trở
thành “một trào lưu sáng tác sôi nổi, một sân chơi rộng rãi chưa từng có”. Tính
rộng rãi biểu hiện qua các chủ đề mà các nhà thơ đề cập. Các chủ đề như “chiến
tranh, lịch sử, tình yêu, tình bạn, tình đồng đội, gia đình, thiên nhiên, lao
động, sản xuất, nghề nghiệp, hòa bình, môi trường, biên giới, hải đảo, nhà
trường, nông thôn, miền núi, thành thị, nước ngoài, quá khứ, hiện tại, về thế
giới tâm linh vô thức và huyền ảo, về bản năng tính dục, những trạng thái tâm
hồn, những trăn trở về thế sự, những ước vọng, cái đẹp, cái thiện, cái ác và
cái xấu, cái nghịch lí ở đời, những miền quê xa lạ, những cảm xúc đời thường...
đều xuất hiện trong thơ”. Đó là thời kỳ đánh dấu sự đổi mới của lịch sử dân tộc
cũng như sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy sáng tác và quan niệm thẩm mĩ của
người viết và người đọc. Thơ đương đại vẫn đang trên hành trình khám phá nhưng
“đã có những sắc màu và phẩm chất của một thời đại mới” [152, tr. 32].
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
11.2.1. Chủ nghĩa hiện sinh
Đề tài
luận án là Khuynh hướng hiện sinh trong
thơ Việt Nam đương đại, do đó, cơ sở lý thuyết của đề tài, trước hết, là lý
thuyết của chủ nghĩa hiện sinh. Cùng với chủ nghĩa hiện sinh, một số lý thuyết
khác như phân tâm học, liên văn bản, cũng được chúng tôi xem là nền tảng quan
trọng để làm “điểm tựa” cho luận án. Qua việc tổng thuật lịch sử nghiên cứu về
chủ nghĩa hiện sinh, có thể thấy, để hiểu một cách hệ thống về “chủ nghĩa” này
là việc không đơn giản. Tựu trung lại, chủ nghĩa hiện sinh là khuynh hướng
triết học được hình thành trước Chiến tranh thế giới lần thứ I, phổ biến vào
những năm sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, quan tâm nhiều nhất đến vấn đề
cá nhân và quan hệ của nó với thế giới. Đời sống con người chỉ có thể được hiểu
thông qua sự hiện sinh của cá nhân, nghĩa là là thông qua kinh nghiệm, trải
nghiệm, sự dấn thân của mỗi người về/vào cuộc đời. Mỗi con người tự tạo ra thế
giới riêng, “cuộc đời cá nhân” và hiện sinh tồn tại thế giới riêng ấy.
Sự ra
đời của chủ nghĩa hiện sinh là một hiện tượng xã hội tất yếu, bởi sau những
nghiên cứu về nguồn gốc vũ trụ, về nhận thức, thì vấn đề thân phận con người,
vấn đề mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và tất yếu... rất cần
được quan tâm. Đó là những vấn đề thiết thân, thực tế, “hiện sinh” với con
người hiện đại. Chủ nghĩa hiện sinh đã đưa ra một số quan niệm, khái niệm có
tính chất căn cốt như hiện hữu có trước bản chất, tính chủ thể, tính tự do, sự
phi lí, tha nhân..., chúng đều hướng đến việc nhấn mạnh con người cá nhân, con
người với tư cách là chủ thể tư duy, chủ thể hành động, cảm nhận và sống, đặc
biệt là đặc trưng tính chủ thể. Tính chủ thể thể hiện ở việc con người có khả
năng hồi tưởng, nghĩ, dự tính, có đời sống nội tâm, có ý thức phản tư, tự quy
chiếu. Vì là chủ thể nên con người có sự chủ động. Khi đã ý thức được tính chủ
thể thì các lực lượng siêu nhiên không còn có thể gây ra sự sợ hãi hay uy hiếp
con người. Con người hiện sinh không sống theo những quan niệm trừu tượng, vô
căn cứ mà quan tâm vào ý nghĩa đích thực, bản chất của mỗi sự vật, hiện tượng.
Chủ
nghĩa hiện sinh nhận thấy sự bất lực của lí trí trong việc khám phá chiều sâu
đời sống con người. Lí trí không có sức mạnh thần thánh như đã từng được quan
niệm trong chủ nghĩa duy lí của Descartes từ thế kỉ XVII. Nó vẫn có những bất
toàn, những giới hạn. Hơn nữa, trong đời sống con người cũng có nhiều vùng “phi
lí trí”, lí trí khó có thể thâm nhập. Vì thế, sự hoài nghi, cái ngẫu nhiên,
ngẫu hứng, cái hỗn độn được nhấn mạnh. Cái vô nghĩa, đơn điệu của đời sống cũng
là một sản phẩm của cái phi lí. Đó là lí do tại sao trong sáng tác của văn học
hiện sinh, nhiều nhà văn thường diễn tả tập trung cái nghịch lí, sự bí ẩn không
dễ gì giải thích.
Trong
văn học, sự “hiện diện” của chủ nghĩa hiện sinh được thể hiện khá đa dạng với
những đậm - nhạt khác nhau ở các tác phẩm cụ thể. Hình tượng con người cô đơn,
con người nổi loạn, con người lo âu phổ biến, thể hiện hình tượng thân phận con
người hiện đại. Cùng với đó, cấu trúc không gian, thời gian, các motif, biểu
tượng cũng thể hiện tinh thần hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh đã đáp ứng nỗi ưu
tư của con người và khát khao tự khẳng định gương mặt tinh thần của chính nó,
những nét độc đáo, riêng biệt của nó so với các khuynh hướng, trào lưu khác.
1.2.2.
Một số lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh trong
văn học
Lý thuyết phân tâm học
Lý
thuyết phân tâm học nghiên cứu về thế giới bên trong con người, nhằm tìm ra lời
giải cho những biểu hiện ra bên ngoài của khách quan, thể hiện qua hành vi của
con người mà biểu hiện của loại hành vi đó là những hoạt động gây ảnh hưởng đến
những giá trị của đạo đức và xã hội. Người sáng lập ra lý thuyết này là S.
Freud, một bác sĩ tâm thần học người Áo. Học thuyết Freud ra đời trong bối cảnh
văn hóa xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX đang lâm vào khủng hoảng, hoang mang
mất phương hướng trước thời đại khoa học kĩ thuật phát triển buộc họ chuyển
sang tìm hiểu về thế giới nội tâm con người. Ưu thế của phân tâm học là đã đưa
đến những phát hiện mới về con người
chứa đựng những hiểu biết mang tính triết học sâu sắc về tồn tại người trong
thế giới hiện đại. Trong quan niệm của Freud, đời sống tâm lý hàng ngày diễn ra
ở con người không phải chủ yếu do ý thức mà do vô thức điều khiển. Vô thức được
cho là nơi chứa đựng tầng sâu thẳm nhất của tâm thần con người. Đó là nơi dung
chứa phần bản năng, tình cảm và dục vọng của con người. Con người là một bản
thể phức tạp. Nếu chỉ xem xét con người như một sinh thể có ý thức và hoàn toàn
duy lý sẽ dẫn đến một cái nhìn thiếu toàn diện về con người. Tri thức về phân
tâm học giúp con người hiểu hơn về chính con người, điều này rất gần với tư
tưởng cốt lõi của chủ nghĩa hiện sinh quan tâm đến thân phận con người trong
đời sống thực tại. Luận án vận dụng mối liên hệ của phân tâm học với chủ nghĩa
hiện sinh để lí giải rõ hơn về các phạm trù hiện sinh trong thơ ca đương đại.
Rất nhiều phạm trù của phân tâm học như “vô thức” (unconscious), “mặc cảm”,
“tính dục” (sexuality), “cái tôi” (ego), “cái siêu tôi” (super ego) đều có mối
quan hệ chặt chẽ và được thể hiện trong quá trình sáng tạo văn học.
Cảm
thức nghệ thuật theo quan niệm của S. Freud là sự biểu hiện của những ham muốn
vô thức. Điều đó trở thành tiền đề lí luận để nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh
trong thơ ca đương đại. Thậm chí, như ta biết, chính đại biểu lớn của chủ nghĩa
hiện sinh Jean-Paul Sartre đã đề xuất thuật ngữ “phân tâm học hiện sinh”
(existential psychoanalysis) để chỉ một hình thức của phân tâm học, có nhiệm vụ
chính yếu là “khảo sát” lịch sử một cá nhân nhằm “phát hiện ra bản tính của sự
lựa chọn nền tảng độc nhất của anh ta về chính anh ta và dự phóng nền tảng rút
ra từ đó”. Tức là Sartre đồng ý với Freud khi cho rằng nền tảng sáng lập rằng
tính nhân vị đã được hình thành tự tuổi thơ. Nhưng ông không đồng ý rằng các
động cơ và ham muốn nền tảng đó là bất biến và quyết định một lần cho suốt đời.
Nếu Freud coi ham muốn tính dục là thứ giúp soi sáng các hành động và ứng xử
phức tạp và ham muốn gốc đó tác động gần như là đồng nhất thì Sartre cho rằng
nền tảng đó không phải là bất biến, trải nghiệm sinh trong đời (tiểu sử và kinh
nghiệm sống) làm thay đổi và hòa trộn “kiến tạo lại” nền tảng bản năng đó.
Chính Sartre đã thực hành vận dụng phương pháp phân tâm học hiện sinh vào các
tác phẩm phân tích tiểu sử nhà văn cụ thể như các chuyên luận Beaudelaire (1946), Saint Genet (1952).
Lý thuyết liên văn bản
Lý
thuyết liên văn bản là hệ thống những diễn ngôn về văn bản trong sự cố gắng soi
tỏ các vấn đề của văn bản. Với lý thuyết liên văn bản, ta có thêm công cụ hiểu
sâu về mọi thuộc tính bản thể của một văn bản văn học nói chung, một văn bản
thơ ca nói riêng. Lý thuyết liên văn bản tạo điều kiện tìm ra cách tiếp cận phù
hợp đáng tin cậy đối với những sáng tác mang tâm thức của thời đại mới và chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại
như các tác phẩm mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh. Vì chủ nghĩa hiện sinh
vốn được xem là một trong những triết học khó hiểu bậc nhất do vậy sử dụng lý
thuyết liên văn bản sẽ góp phần giải mã những quan niệm trái chiều, những quan
niệm trừu tượng, mới mẻ và có phần xa lạ. Theo lý thuyết liên văn bản hiện đại
thì vòng đời của tác phẩm được hoàn tất là nhờ có bạn đọc. Tác phẩm của nhà văn
luôn chịu sự chi phối của quy luật các mối liên hệ: đời sống - tác giả - văn
bản - người đọc. Người đọc sẽ đóng vai trò định giá làm cho tác phẩm được hoàn
thành. Tác phẩm có giá trị hay không chính là phụ thuộc tầm đón nhận của bạn
đọc. Tầm đón là một khái niệm do K.
Mannheim (1893-1947) - nhà triết học xã hội học người Đức nêu ra, sau đó được
Hans Robert Jauss (1921-1997) vận dụng vào văn học. Lý thuyết liên văn bản nhấn
mạnh tính kết nối giữa các văn bản. Với một văn bản, ở đó, người ta có thể
“nhìn” được sự khúc xạ của vô vàn văn bản trước đó hoặc cùng thời. Ở Việt Nam,
kể từ những năm 1971 cho đến nay, có nhiều tên tuổi đã có công lan tỏa thuyết
liên văn bản vào đời sống văn học như Nguyễn Văn Hạnh, Trần Đình Sử, Phương
Lựu, Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào, Trương Đăng Dung, Lã Nguyên, Nguyễn Hưng Quốc,
Phùng Văn Tửu, Nguyễn Văn Dân, Hoàng Phong Tuấn...
Trước
một vấn đề mới mẻ gây nhiều quan điểm trái chiều như chủ nghĩa hiện sinh thì lý
thuyết liên văn bản sẽ giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng. Chẳng hạn hiện
tượng thơ Lê Đạt, thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng
Ly, Bùi Giáng, Cát Du... khi vừa xuất hiện đã gây nên làn sóng bàn luận. Lý thuyết
liên văn bản góp phần hóa giải những quan niệm trái chiều để hướng đến nhìn
nhận công bằng về tác phẩm và ghi nhận sự đóng góp của các nhà thơ đương đại
trong việc tiếp thu và sáng tạo những tinh hoa của văn học thế giới.
Lý thuyết về nghiên cứu loại hình - thể loại
và khuynh hướng thơ
Thơ ca
là khái niệm chỉ các sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc
tích nhiều ý cô đọng. Thơ thường dùng như hình thức biểu cảm xúc trữ tình hoặc
tình cảm xúc động trước hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Thơ tồn tại như một
thể loại văn học, là tất cả những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối
của cảm xúc rung động đa dạng của con người.
Loại
hình học chú ý đến những đặc trưng mang tính quy luật chi phối sự hình thành,
phát triển của một hiện tượng hay một nhóm hiện tượng văn học. Nghiên cứu loại
hình để chỉ ra một cộng đồng thẩm mĩ trong thơ. Nghiên cứu loại hình dựa trên
một hệ tiêu chí xác định sự tương đồng có tính quy luật giữa các hiện tượng
thơ, nghĩa là nghiên cứu trên một hệ quy chiếu xếp chồng những tác phẩm thơ để
tìm ra những trùng hợp nhất định làm nên tính tương đồng để từ đó nắm bắt được
những quy luật, xác định được những nguyên tắc chi phối việc hình thành và phát
triển của tác phẩm. Nguyễn Thanh Tâm nhấn mạnh “Tư duy loại hình đem đến cho
chúng ta cái nhìn mạch lạc về đối tượng” và “Lịch sử loại hình không tách rời
lịch sử phát triển của tư duy, văn học và nghệ thuật” [134, tr. 32]. Lý thuyết
loại hình giúp truy tìm quy luật và
sự hình thành vận động của các hiện tượng văn học, thơ ca “Lý thuyết loại hình
trong nghiên cứu văn học mang tham vọng truy tìm quy luật bất biến, hằng định
chi phối sự hình thành, vận động và phát triển của các hiện tượng văn học, chỉ
ra tính nhất dạng trong phong phú, lý giải cơ sở tồn tại và hiệu quả thẩm mỹ
của các hiện tượng văn học đó” [134, tr. 32].
Trong
thời đại toàn cầu hoá, con người có sự thay đổi về tư duy, quan niệm thẩm mỹ,
từ đó cũng hình thành kiểu thi sĩ, kiểu sáng tác, kiểu tư duy sáng tạo mới.
Trong bối cảnh đương đại, người ta nhận ra những thay đổi thực sự quan trọng
trong quan niệm của các nhà thơ về chất thơ. Thơ đi sâu khám phá đời sống nội
tâm chủ quan của con người cá nhân cá thể. Thơ đương đại có sự thay đổi về chất
thơ và cách thức biểu hiện. Đó là tiếng nói đa thanh, phức điệu. Nhà thơ được
“cởi trói”, được tự do trong sáng tạo, được sống đúng với cái tôi cá thể. Thơ
hôm nay biểu hiện sự hòa hợp giữa ý thức và vô thức, cái cá thể, bản thể, đạo
đức, bản năng. Chính quan niệm mới về
chất thơ trong cuộc sống mới đã kéo theo sự thay đổi trong cách biểu đạt. Cách sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu, hình
ảnh, biểu tượng, cấu trúc cú pháp đã có sự đổi khác phù hợp với việc biểu hiện
tính hiện sinh khai thác chiều sâu bản thể con người với những tầng sâu, phần
chìm trong sâu thẳm tâm hồn con người với những âu lo khắc khoải, những khát
vọng vươn lên để khẳng định nhân vị con người. Thơ là hình thức nghệ thuật dùng
ngôn từ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp
dưới hình thức logic nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh khơi gọi
xúc cảm thẩm mĩ nơi người đọc, người nghe.
Lý thuyết về nghiên cứu các khuynh hướng thơ
Các
khuynh hướng văn học và thơ ca luôn vận động và phát triển. Một khuynh hướng
văn học hay khuynh hướng thơ ca xuất
hiện là sự tổng hợp của những yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Tính khuynh hướng
là điều kiện cần thiết để có tính tư tưởng và tính nghệ thuật cao trong sáng
tác. Nó biểu hiện không những quan điểm và thái độ nhìn nhận đúng đắn các hiện
tượng đời sống được miêu tả, mà còn ở sự nhận thức được chiều sâu của các hiện
tượng ấy, miêu tả được sự vận động và xu thế phát triển tất yếu của cuộc sống.
Tính khuynh hướng là một xu thế tư tưởng bắt nguồn từ cuộc sống, từ đấu tranh
xã hội. Nhà văn phải nhạy bén cảm nhận được bước đi của thời đại, nhìn ra chiều
hướng phát triển của lịch sử theo quy luật thì mới có thể sáng tác được những
tác phẩm giàu tính khuynh hướng.
Khuynh
hướng là những hiện tượng cùng gặp gỡ nhau, có nét tương đồng, thậm chí gặp gỡ
nhau trong mục đích đi tìm con người có trong từng tác giả. Khuynh hướng là
nghiêng về một hướng nào đó, đi tìm một hướng nào đó. Tính khuynh hướng trong
văn học nghệ thuật bao giờ cũng toát ra một cách tự nhiên từ sự miêu tả sinh
động đời sống chứ không phải qua những lý thuyết khô khan hoặc những tư tưởng
trìu tượng. Khuynh hướng xuất hiện có cơ sở xã hội chứ không phải là từ ý đồ
sáng tác mang tính chủ quan của nhà văn. Qua khuynh hướng sáng tác cho thấy quá
trình vận động và phát triển của văn học nói chung thơ ca nói riêng. Có nhiều
khuynh hướng thơ. Chẳng hạn, khuynh hướng thơ truyền thống, khuynh hướng thơ
hiện đại, khuynh hướng thơ trữ tình, khuynh hướng thơ tự sự...
Một số khái niệm, phạm trù của lý thuyết thi
pháp học hiện đại.
Trước hết, cần nói đến khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người. Quan
niệm nghệ thuật về con người, theo Trần Đình Sử, là một loại nội dung, cái lí,
cái logic của sự miêu tả về con người, tức là nội dung của riêng hình thức, nó
trả lời câu hỏi vì sao nhà văn lại miêu tả con người như thế, chọn chi tiết như
thế. Đây không phải là vấn đề quan niệm về nhân vật cụ thể mà là quan niệm về
con người nói chung, như một phạm trù khái quát, từ đó mà miêu tả nhân vật cụ
thể. Như vậy, khi nói tới “quan niệm nghệ thuật về con người”, quan niệm ấy
phải mang ý nghĩa phổ quát. Đồng thời, chính nó cũng có sự vận động, biến đổi.
Chính sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người cho thấy sự vận động và
cách tân của văn học. Với các thể loại văn học khác nhau, quan niệm nghệ thuật
về con người cũng có những điểm khác nhau căn bản. Đi vào sáng tác của mỗi nhà
văn, rõ ràng, quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện rõ nét dấu ấn cá nhân
của người nghệ sĩ, cho thấy những phát hiện bất ngờ, độc đáo của anh ta so với
các nhà văn khác.
Thứ hai, khái niệm thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể. Trong văn học nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức; sự
sống, cái chết, gặp gỡ chia tay, … tạo nên nhịp
điệu trong tác phẩm. Thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, bay tới tương lai, có thể dồn nén thời gian dài trong chốc lát, có thể kéo dài cái chốc lát thành vô tận. Thời gian nghệ thuật là một phương thức giúp con người tự cảm thấy sự tồn tại, sự có mặt của mình trong thế giới. Mặt khác thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ
thời gian của con người trong từng thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển. Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật
xuất hiện như một hệ quy chiếu đều được giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả. Phạm trù thời gian nghệ thuật cung cấp một cơ sở để phân tích cấu trúc bên trong của hình tượng
văn học, cũng như nghiên cứu loại hình các hiện tượng nghệ thuật trong lịch sử.
Thứ ba, khái niệm không gian nghệ thuật. Là hình thức bên
trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần
thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong
trường nhìn nhất định. Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ về không gian
của chủ thể nên mang tính chủ quan.
Ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng. Không gian nghệ thuật có thể mang tính địa điểm, tính phân giới dùng để mô hình hóa các phạm trù thời gian
như các cách nói bước đường đời, con đường cách mạng. …Không gian nghệ
thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học mà còn cho
thấy quan niệm của nhà văn, người nghệ sĩ về thế giới, chiều sâu cảm thụ của
tác giả hay của một giai đoạn, thời đại văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan
để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của hình tượng nghệ thuật.
Thứ tư là khái niệm cấu trúc tác phẩm. Là tổ chức nội tại,
mối quan hệ qua lại của các yếu tố của tác phẩm mà sự biến đổi một yếu tố nào
trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi các yếu tố khác. Cấu trúc của tác phẩm văn học
được hiểu như là mối quan hệ qua lại của các kí hiệu thẩm mĩ đặc thù, bởi tác
phẩm là một thông báo bằng ngôn ngữ đặc biệt. Muốn hiểu tác phẩm cần đặt các
yếu tố vào trong cấu trúc của nó. Toàn bộ các yếu tố như nội dung, tư tưởng,
chủ đề, kết cấu, ngôn ngữ, biểu tượng đều tham gia vào cấu trúc của tác phẩm
tạo ra một hình thái về mối quan hệ thẩm mĩ giữa chủ thể và thế giới. Sự lặp
lại một cách bền vững các yếu tố trong cấu trúc cho phép nghĩ đến các mẫu gốc
của tư duy nghệ thuật. Cấu trúc tác phẩm của thơ đương đại Việt Nam vừa cho
thấy sự tuân thủ nghiêm ngặt về đặc trưng loại thể đồng thời cũng cho thấy
những khoảng không gian sáng tạo của các tác
giả.
Mỗi một
tác phẩm văn học là một chỉnh thể gồm hàng loạt các yếu tố như chủ đề, tư
tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật, hình tượng, cốt truyện. Sự kết hợp các yếu
tố này tạo cho tác phẩm tính chỉnh thể mang tính thống nhất hữu cơ giữa nội
dung thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. Tác phẩm văn học được hiểu như một quá
trình vận động sáng tạo và tiếp nhận, phản ánh sự tương tác từ tác giả đến độc
giả và từ độc giả tác động trở lại chính tác giả văn học. Vòng đời của tác phẩm
vận động nhờ sự cảm thụ của độc giả. Độc giả là người nghiên cứu phê bình, lý
giải làm phát sinh những phán đoán, đánh giá về nội dung thẩm mĩ của tác phẩm.
Tác phẩm văn học được hiểu như một quá trình đồng sáng tạo và tiếp nhận. Cách
thức tổ chức tác phẩm bị chi phối bởi thể loại văn học, cá tính sáng tạo của
nhà văn, cách thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm...
Tiểu
kết chương 1
Chủ
nghĩa hiện sinh là trào lưu triết học xuất hiện ở phương Tây trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng của chiến tranh. Đến cuối Chiến tranh thế giới lần thứ II, nó
trở thành một phong trào được biết đến rộng rãi. Có nhiều công trình nghiên cứu
về chủ nghĩa hiện sinh của các học giả uy tín trên thế giới và trong nước. Tại
Việt Nam, có thể kể đến Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Tiến Dũng, Huỳnh Như Phương,
Nguyễn Văn Trung, Phạm Văn Sĩ, Ngô Kim Châu... Các công trình nghiên cứu đã đưa
đến cho người đọc một cái nhìn khá rõ nét về chủ nghĩa hiện sinh và sự hiện diện
của nó ở Việt Nam. Dấu ấn hiện sinh thể hiện rõ nét, phong phú là từ những năm
1955-1975 ở miền Nam, khi có sự soi chiếu của triết học - mĩ học hiện sinh. Từ
sau năm 1986, trong bối cảnh xã hội với những điều kiện lịch sử mới, chủ nghĩa
hiện sinh đã tái xuất hiện và có ảnh hưởng sâu rộng trong thơ ca và đời sống xã
hội. Khuynh hướng hiện sinh chịu sự ảnh hưởng bởi tư tưởng của các nhà triết
học hiện sinh vô thần và hữu thần như Heidegger, Jean-Paul Sartre, Albert
Camus. Chính vì quan tâm đến cuộc đấu tranh thầm lặng của mỗi cá nhân trước sự
vô nghĩa của cuộc sống, chủ nghĩa hiện sinh có sự phù hợp với hoàn cảnh xã hội
và con người Việt Nam khi vừa thoát ra khỏi những năm tháng chiến tranh triền miên. Khi mới
xuất hiện ở Việt Nam, chủ nghĩa hiện sinh được nhìn nhận bởi nhiều quan điểm
trái chiều. Có quan niệm cho rằng đó là tư tưởng bi quan, bế tắc. Thậm chí có
người còn cho rằng, đó là tư tưởng “mang tính phản động”. Càng về sau, chủ
nghĩa hiện sinh càng khẳng định được vị thế và tầm quan trọng trong văn học nói
chung và thơ Việt Nam đương đại nói riêng. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra chủ
nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản. Điều khác biệt ở triết học hiện sinh
so với triết học truyền thống là nó quan tâm đến thân phận con người trong thực
tại, không đi tìm lẽ huyền bí xa xôi nào mà quan tâm vào chính bản thể con
người với các chủ đề như cái bản thể, nỗi cô đơn, sự phi lý, buồn nôn, tự do,
dục tính, cái chết. Thơ Việt Nam
đương đại có sáng tác mang đậm dấu ấn các chủ đề của chủ nghĩa hiện sinh. Từ
những điểm tương đồng trong tư tưởng, tư duy sáng tác, các nhà thơ đương đại đã
tạo ra một khuynh hướng hiện sinh trong thơ, đưa đến những đóng góp đáng ghi
nhận cho nền thơ ca dân tộc.
Chương 2
NHẬN DIỆN KHUYNH HƯỚNG HIỆN SINH TRONG THƠ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Bức tranh toàn cảnh thơ Việt Nam đương
đại và việc phân loại các khuynh hướng thơ
2.1.1. Bức
tranh toàn cảnh thơ Việt Nam đương đại
Nghị quyết đại hội VI của Đảng vào tháng 12
năm 1986 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo ra cho dân tộc và văn học một bước
ngoặt mới sau một thời kỳ dài sống trong sự tù túng, bế tắc. Sau năm 1975, con
người Việt Nam bước ra khỏi chiến tranh phải đối mặt với tàn dư của cuộc chiến
như đói nghèo, lạc hậu. Cùng với đó, trên thế giới có sự khủng hoảng sụp đổ của
hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa và Liên bang Xô viết. Cơ cấu quản lý quan
liêu bao cấp đã khiến con người mất hết quyền tự do, tự chủ. Quyết định đổi mới
về tư duy, quyết định “mở cửa”, xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp đã có
sự tác động thay đổi mạnh mẽ về đời sống chính trị xã hội đem lại cho đất nước
một không khí dân chủ mới. Đất nước ta bước vào hội nhập quốc tế trở về với
cuộc sống đời thường. Giới nghệ sĩ có điều kiện nhìn nhận lại, suy tư trăn trở,
chăm lo cho cuộc sống của chính bản thân mình. Giới trí thức có điều kiện tự do
tìm tòi sáng tạo. Họ được cởi trói tinh thần và tự do sáng tạo, tự do nói lên
những cung bậc cảm xúc thật đầy thăng hoa của người nghệ sĩ. “Chưa bao giờ
chúng ta chứng kiến con người Việt Nam mở rộng tất cả các chiều kích như lúc này”
[Dẫn theo 150, tr. 22].
Sự xuất
hiện cơ chế kinh tế thị trường cũng tác động sâu sắc đến đời sống xã hội và thơ
ca. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà trong đó người mua người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hóa dịch vụ trên thị trường. Mô hình này vừa có ưu điểm vừa có những mặt
tồn tại. Về ưu điểm, nó kích thích nhu cầu sản xuất tiêu thụ hàng hóa, tạo ra
động lực sản xuất và tính cạnh tranh về lợi nhuận, thúc đẩy năng suất lao động.
Nó khích lệ cá nhân lao động, sáng tạo để tăng năng suất lao động. Mô hình kinh
tế thị trường mở rộng giao thương hàng hóa, tạo thị trường lao động, tìm kiếm
việc làm cho con người. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng mang những mặt
trái ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Cơ chế phân bố nguồn lực trong nền kinh tế
thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội và quan niệm. Khoảng cách
giàu nghèo ngày càng xa hơn tạo nên sự phân chia giai cấp, tạo sự bất ổn trong
xã hội. Trong một số tình huống, vì quá đề cao nền kinh tế thị trường, thiếu sự điều tiết của nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá
nhân, vì lợi ích cá nhân mà vô cảm với cộng đồng. Con người mải mê chạy theo
lợi nhuận vật chất, bất chấp cả những giá trị đạo đức, từ đó dẫn đến con người
luôn cảm thấy cô đơn trong tinh thần. Chính đặc điểm của nền kinh tế thị trường
cũng tác động đến hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Một bộ phận chạy theo lợi
nhuận viết tác phẩm để câu khách, không chú trọng việc kiến tạo những sáng tạo
có giá trị trường tồn.
Cùng với mô hình kinh tế thị trường, sự phát
triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật cũng là một yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống và văn học nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng. Khoa học kĩ
thuật phát triển, nhất là sự bùng nổ của ngành công nghệ thông tin kết nối
internet đã tạo ra một thế giới phẳng. Một kho tư liệu khổng lồ khiến con người
bị cuốn theo và việc xử lí, “gạn đục khơi trong” lượng thông tin khiến cho một
bộ phận tiếp nhận một cách thái quá, lệch lạc. Trong xu thế hội nhập đa dạng
thông tin nghe nhìn, thơ được cho là bị mất nơi trú ẩn đòi hỏi phải có sự thay
đổi nhanh chóng... Tất cả những yếu tố trên đã tác động đến đời sống, nhận thức
của con người Việt Nam. Hoàn cảnh xã hội thay đổi đòi hỏi các nhà thơ cần có sự
thay đổi sâu xa trong tư duy, quan niệm thẩm mĩ để thích ứng với thời đại.
Trong
bài viết “Thơ Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn toàn cảnh”, Nguyễn Đăng Điệp đã
có cái nhìn bao quát và những bàn luận đánh giá trung thực, khách quan, cụ thể về bức tranh chung của thơ Việt
Nam đương đại trên nhiều phương diện. Cách phân chia thơ đương đại theo trục
thời gian như thơ giai đoạn 1975-1985, thơ giai đoạn sau năm 1986, đã đưa đến
cho người đọc một cái nhìn cụ thể hơn về sự vận động của thơ Việt Nam đương
đại. Thơ giai đoạn 1975-1985 được cho là giai đoạn chuyển đổi về tư duy nghệ
thuật. Từ chỗ là những ca sĩ ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi
và cảm hứng lãng mạn, giờ đây, các nhà thơ chuyển sang cái nhìn phi sử thi thể
hiện tinh thần dân chủ sâu sắc. Ở giai đoạn này, “Cảm hứng nhân bản và sự thức
tỉnh cá nhân đã trở thành nét riêng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca
sau 1975” [37, tr. 59]. Về sự vận động của tư duy thơ giai đoạn này, Nguyễn Đăng Điệp nhấn mạnh hai mạch chính. Mạch thứ
nhất là cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối. Nhưng các nhà thơ có cái nhìn đa
chiều về chiến tranh. Bên cạnh ngợi ca tôn vinh, thơ ca còn quan tâm đến số
phận, những bi kịch mất mát của cá nhân con người. Mạch thứ hai, thơ ca những
năm 1975-1980 quan tâm nhiều đến cuộc sống đời thường. “Chưa bao giờ nhà thơ
thấy nhiều bi kịch đến thế”. Các nhà thơ quan tâm nhiều đến những mặt trái của
đời sống, những thay đổi các bậc thang giá trị, những vô lý bất công. Thơ giai đoạn sau năm 1986 với tinh thần “Đổi mới” góp phần xác lập một quan niệm mới về nghệ thuật. Nguyễn Đăng Điệp cho
rằng với tinh thần đổi mới, sự ảnh hưởng của
cơ chế thị trường đã tác động đến sự thay đổi về tư duy nghệ thuật của
thơ ca giai đoạn này. Và thơ ca Việt Nam giai đoạn sau năm 1986 có ba quan điểm
về sự đổi mới. Đó là ý thức nhìn cuộc đời
bằng cái nhìn tỉnh táo, thơ hiện ra như một hình thức tra vấn về lịch sử. Thực
chất đó là cái nhìn “giàu chất suy tư” về cuộc sống. Tiếp theo là nỗ lực khám phá sự phong phú của cái tôi ẩn
giấu, phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn quá ổn định...
Đặc điểm thứ ba, thơ như một ngôn ngữ. Thơ
bắt đầu xuất hiện những giọng thơ lạ, đậm màu sắc phương Tây, hiện đại.
Thơ
Việt Nam nói chung và thơ Việt Nam đương đại nói riêng luôn vận động đổi mới để
tồn tại và phát triển. Nói về sự đổi mới của thơ đương đại là nói sự đổi mới
trong hệ hình tư duy, trong cảm xúc và trong cách thức thể hiện. Thơ Việt Nam
đương đại vận động trong bối cảnh hội nhập với thơ ca thế giới đưa đến sự xuất
hiện nhiều khuynh hướng cách tân thơ. Sáng tạo thơ là sáng tạo chữ. Các tác giả
như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Dương Tường... là những người đã làm nên
thành quả từ quan niệm mới này. Thơ Việt Nam đương đại có xu hướng cách tân thể
thơ, ngôn ngữ. Nhiều tác giả được xếp vào hàng ngũ những nhà thơ thực hiện
thiên chức thơ thời kỳ đổi mới, đó là “cuộc vật lộn tiếp diễn của sáng tạo và
tiếp nhận” (Vi Thùy Linh). Đó là Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Inrasara, Vi
Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Văn Cẩm Hải, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh,
Nguyễn Thiên Ngân, Lê Khánh Mai...
Nhận định về thơ sau năm 1975, Nguyễn Đăng
Điệp nhấn mạnh điểm nổi bật của thơ Việt Nam sau năm 1975 “đa dạng về phong
cách, phong phú về giọng điệu”. Có nhà thơ vẫn tiếp tục phát triển nền tảng thi
ca dân tộc, cũng có những nhà thơ có sự cách tân theo kiểu phương Tây với cách
viết tỉnh táo, giấu kín cảm xúc. Ở thời kỳ này, mỗi nhà thơ có cách thể hiện và
cái nhìn nghệ thuật riêng của mình. Quá trình vận động của các tác giả cho thấy
những điểm gần gũi, sự gặp gỡ về tư duy, quan niệm thẩm mĩ, cách nghĩ, cách thể
hiện. Và chính “Sự gần gũi về quan niệm và phong cách giữa một số nhà thơ có
thể hình thành một xu hướng, một phái nhóm” [37, tr. 57]. Cảm hứng chủ đạo và nền tảng của thơ đương đại sau 1975 là
cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh cá nhân. Sự đổi mới thơ đương đại có những
biểu hiện như: Ý thức nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo, thơ ca hiện ra như
một hình thức tra vấn không ngừng về lịch sử.
Nhưng đó không phải là những suy tư về cái tôi cá nhân riêng lẻ mà là sự bộc lộ
“năng lực cảm nhận chiều sâu thế giới của nghệ sĩ”.
Trong
chuyên luận Thơ Việt Nam hiện đại, tiến
trình và hiện tượng, Nguyễn Đăng Điệp thực hiện một sự phân loại các xu
hướng thơ Việt sau 1975 như sau: 1) Xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc
ca bi tráng về số phận của dân tộc; 2) Xu hướng trở về với cái tôi cá nhân,
những lo âu của đời sống thường nhật; 3) Xu hướng đi sâu vào những vùng mờ tâm
linh, đậm chất tượng trưng, siêu thực; 4) Xu hướng hiện đại (và hậu hiện đại)
[37]. Về xu hướng thứ nhất - xu hướng viết về chiến tranh qua những khúc ca bi
tráng. Với xu hướng này, các nhà thơ đã có độ lùi cần thiết để có cái nhìn toàn
diện hơn về chiến tranh. Chiến tranh trở về trong kí ức với những lý giải tỉnh
táo hơn. Chiến tranh không chỉ là khúc ca hào hùng, là sự ngợi ca lý tưởng một
chiều mà còn là những mất mát đau thương, sự phi lý. Xu hướng thứ hai trở về
với cái tôi cá nhân, những âu lo của đời sống thường nhật. Nguyễn Đăng Điệp
viết “đây là xu hướng nổi bật nhất trong thơ sau 1975”. Nhà thơ chuyển từ giọng
điệu ngợi ca sang giọng điệu thấm nhuốm nỗi buồn nhân sinh. Nhiều nhà thơ công
khai nói về nỗi buồn gắn chặt với một thực tại mới với một cảm quan nghệ thuật
mới. Theo Nguyễn Đăng Điệp, “nét nổi bật của xu hướng này là các nhà thơ rung
động trước những biến thái tinh tế, sâu kín, nhiều khi ngỡ như thật mong manh”.
Nỗi buồn thể hiện trên nhiều cấp độ. Đó là nỗi buồn vì sự sụp đổ thần tượng vốn
được tôn thờ và là chỗ dựa tưởng
chừng kiên cố. Nỗi buồn vì cái tôi bản thể, cái tôi cá nhân bị lãng quên. Đó còn
là nỗi niềm suy tư về tình cảm riêng tư. Để diễn tả nỗi buồn nhân sinh, các nhà
thơ sử dụng giọng điệu tự thú, tự bạch. Xu hướng thứ ba đi sâu vào những vùng mờ tâm linh đậm chất tượng trưng siêu thực.
Thơ ca sau năm 1975 vận động theo nhiều hướng. Nhưng chủ trương đào sâu vào bản
thể tâm linh là một trong những hướng đi được nhiều người tìm đến. Nét nổi bật
của xu hướng này là “nỗ lực đào sâu vào cái tôi ẩn giấu, cố gắng phát hiện
chiều sâu tâm linh của con người” [37, tr. 68]. Các nhà thơ chú trọng “khai
thác sự đa chiều của cái tôi”, khai thác “cấu trúc của cái tôi trong quan hệ
với chính nó”. Sau cùng cần phải nói đến xu hướng thứ tư - xu hướng thơ hiện
đại và hậu hiện đại. “Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong sáng tác của nhiều
cây bút trưởng thành sau 1975 như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương,
Inrasara, Trần Tiến Dũng, Phan Huyền Thư, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Nguyễn
Hữu Hồng Minh. … [37]. Cùng với việc chỉ
ra các xu hướng nổi bật nêu trên, Nguyễn Đăng Điệp còn cho thấy sự biến đổi về
thể loại thơ đương đại. Sự biến đổi đầu tiên là ở sự “nới lỏng” các thể loại thơ truyền thống. So với truyền thống, thơ đương đại sử dụng nhiều thể thơ tự do và thơ văn xuôi. Tác giả chỉ rõ thơ
tự do được sử dụng áp đảo do “đây là thể thơ cho phép nhà thơ triển khai tự do
hơn những phức hợp cảm xúc cá nhân”. Sử dụng thơ tự do thể hiện sự giao thoa
thể loại, trong đó đáng kể nhất là ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thi ca. Và
một lý do nữa là khi sử dụng thể thơ tự do và thơ văn xuôi khiến cho giọng điệu
thơ trở nên thô ráp hơn, nhịp điệu thơ mang nhiều bất ngờ hơn. Nguyễn Đăng Điệp cũng chỉ ra những động
hình ngôn ngữ trong thơ đương đại “ngôn ngữ thơ sau 1975 trở nên trúc trắc,
ngôn ngữ thơ phong phú, giọng điệu thơ đa dạng hơn” [37, tr. 77]. Trong ngôn
ngữ thơ đương đại có các kiểu ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ thơ giàu chất tượng
trưng, ngôn ngữ thân thể và những “trò chơi” ngôn ngữ.
Cùng
với Nguyễn Đăng Điệp, Trần Mạnh Tiến trong công trình nghiên cứu “Thơ Việt trên
hành trình đổi mới” đã có sự đánh giá thỏa đáng về thơ Việt Nam đương đại. Ông
khẳng định “Từ thời điểm đổi mới trở đi, thơ đương đại ngày càng thể hiện rõ
quan niệm nghệ thuật mới bằng cảm hứng sáng tác, cái tôi trữ tình, những hình tượng, giọng điệu,
ngôn từ mới, phản ánh tính chất đa thanh phức điệu của cuộc sống muôn màu muôn
vẻ” [152, tr. 19]. Theo ông, “khi bước vào thời kỳ đổi mới các quan niệm thẩm
mĩ, đạo đức tín ngưỡng, các thể loại văn học, các loại hình nghệ thuật khác
trong và ngoài nước đều chuyển động theo trào lưu văn hóa mới, tác động đến tâm
hồn tư tưởng nhà thơ và bạn đọc” [152, tr. 21]. Mặc dù thơ đương đại Việt Nam
chưa có tác phẩm nào làm chấn động tâm can hàng triệu con người, chưa có những
đỉnh cao nhưng “cái hay của thơ Việt Nam đương đại thường là những mảnh hiện
thực mới, những nét tâm tư và một số lối diễn ngôn mới lạ” [152, tr. 23]. Đồng
quan điểm với Nguyễn Đăng Điệp, Trần Mạnh Tiến cũng nhấn mạnh sự thay đổi trong
tư duy thơ đương đại Việt Nam, đó là “nhà thơ đi tìm tiếng nói riêng và công
chúng bạn đọc cũng quan tâm đến cái tôi trữ tình của nhà thơ”. Thơ thời kỳ Đổi
mới tiếp cận và lí giải hiện thực theo hướng khai thác đời sống nội tâm bên
trong, đi tìm hiện thực sâu kín của phận đời, phận người. Nhà thơ Mai Văn Phấn
quan niệm lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật
trong nhịp điệu đời sống hiện đại.
Khi viết “Một số vấn đề trong thơ đương đại’,
Lưu Khánh Thơ cũng nhận định rằng: “Thơ đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống,
gắn bó với mỗi cá nhân, mỗi số phận. Thơ bắt nhịp cuộc sống mới đa chiều, phức
tạp hơn” [146]. Trong bài viết “Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại”,
Inrasara đã cho rằng: “Cảm thức chủ yếu của hậu hiện đại là lối cảm nhận về thế
giới như là một hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức, nơi mọi bảng giá trị đều
đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích”. Trong bài viết “Thơ Việt ba mươi năm đổi mới”, Hồ Thế Hà đã có cái nhìn xuyên suốt về văn học nói chung và thơ Việt Nam đương đại nói riêng. Khi đề cập đến thơ, ông nhấn mạnh: “Thơ ca đã nhanh chóng chuyển mình để đáp ứng nhu cầu phản ánh những hiện thực mới của đất nước và con người trong tính chân thật, cụ thể và tính nhân văn, nhân ái, đa dạng sinh động”. Theo đánh giá của ông Hồ Thế Hà, sự đổi mới đầu tiên là ở lực lượng sáng tác. Đó là đội ngũ sáng tác đa
dạng, đa thanh, đa phong cách, đa thi pháp...
Chính
tổng số thi pháp đó đã làm nên “một thời đại thi ca Việt”. Tiếp sau lực lượng
sáng tác ông đề cập đến quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực mới “cái
nhìn nghệ thuật mới cho thơ giai đoạn này”. Mốc Đổi mới do Đảng khởi xướng đã
thực sự tạo thành bệ phóng, thành cú hích cho mọi lĩnh vực của đời sống, trong
đó có văn học. Nhà thơ nhìn lịch sử và dân tộc, Tổ quốc, quê hương, con người
trong tinh thần nhân văn mới để không ngừng phát huy những giá trị văn hóa trầm
tích trong quá khứ để nó có cơ hội tái hiện trong tâm thức của con người hiện
đại. Kế đến, thơ quay về với muôn mặt đời thường và bộn bề xuôi ngược để yêu
thương và căm giận, để đồng cảm và sẻ chia, để tự thoại và tự thú. Cũng theo
ông Hồ Thế Hà, hoàn cảnh xã hội thay đổi, con người cũng có sự thay đổi trong
nhu cầu thể hiện về cá tính, tính dục, tâm linh trở nên gấp gáp và nhiều khi
như một mode thời thượng. Ông nhấn mạnh vai trò của các nhà thơ thế hệ 6X, 7X
như Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Quyền, Đặng Thân. Khuynh hướng thi
ca mới từ các lý thuyết văn học nước ngoài trên cái nền văn hóa và ngôn ngữ
Việt. Đó là trường hợp Trần Dần, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng
Hưng, Hoàng Vũ Thuật. Đây là những nhà thơ đóng vai trò chủ đạo trong việc luôn
làm mới thi ca cùng các thế hệ trẻ. Và, theo ông, sự thay đổi quan niệm nghệ
thuật về nhân vật trữ tình trong thơ sớm muộn gì cũng kéo theo sự thay đổi ngôn
ngữ thơ. Giọng thơ tự thú, tự bạch trở thành nhu cầu chính của nhà thơ. Ngôn
ngữ trong thơ Việt Nam đương đại là ngôn ngữ đa thanh, đa giọng điệu. Cùng với
ngôn ngữ là thể loại thơ cũng rất đa dạng. Bên cạnh các thể thơ truyền thống có
các thể thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ không vần, thơ mini…như một nhu cầu cần
thiết để thể hiện nội dung đời sống và các trạng thái cảm xúc đặc biệt của
mình. Ông Hồ Thế Hà còn chỉ ra sự đổi mới của thơ Việt Nam hiện đại trên phương
diện khuynh hướng “Một nền thơ phát triển và diễn ra trong điều kiện bình
thường của lịch sử xã hội thì việc xuất hiện nhiều khuynh hướng, trào lưu,
trường phái là cần thiết và hợp quy luật.” Nó thể hiện sự kiếm tìm dân chủ và
khát vọng đổi mới trong học thuật sáng tạo để tạo ra sự đa dạng cho cả nền thơ và đa dạng trong bút pháp của từng chủ thể sáng tạo. Những khuynh hướng được ông
chia thành ba loại: Khuynh hướng nghiêng về thi pháp truyền thống, Khuynh hướng
nghiêng về thi pháp hiện đại. Khuynh hướng nghiêng về thi pháp hiện đại-hậu
hiện đại. Mà chủ thể chính là các nhà thơ trẻ trưởng thành sau 1975 như Nguyễn
Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Đặng Thân, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Inrasara,
Nguyễn Bình Phương, Ly Hoàng Ly, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Hữu Hồng Minh, nhóm thơ
Ngựa biển, Vụt hiện, Dự báo phi thời tiết...
Nhìn
chung, bức tranh toàn cảnh thơ 30 năm đã khẳng định nỗ lực sau một chặng đường
dài. Đồng thời bối cảnh lịch sử của thời đại mới đòi hỏi các nhà thơ không thể
nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thay đổi sâu sắc về tư duy nghệ
thuật. Một trong những sự thay đổi đó là các nhà thơ đương đại đã tiếp nhận
những luồng tư tưởng mới mẻ hiện đại của thế giới trong đó có sự tiếp thu ảnh
hưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Việc xuất hiện hàng loạt tác giả mà tác phẩm của
họ in đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh đã góp phần hình thành nên một khuynh
hướng thơ đánh dấu sự hiện diện của tư tưởng chủ nghĩa hiện sinh trong thơ Việt
đương đại và là tác nhân trực tiếp tạo sự đa dạng phong phú phức tạp trong đời
sống thơ ca dân tộc nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung.
2.1.2. Vấn đề
phân loại các khuynh hướng thơ Việt Nam đương
đại
Xuất phát từ những hệ thống và mục đích
nghiên cứu khác nhau, cách phân loại sẽ khác nhau. Theo chúng tôi, từ sau năm
1986 trở đi, thơ Việt Nam chia theo thi pháp thể loại có thơ cách luật, thơ tự
do, thơ văn xuôi, thơ tân hình thức, thơ truyền thống. Phân loại theo đối tượng
nhận thức của thi ca gồm có: thơ chính trị, thơ xã hội, thơ điền viên, thơ làng
quê …Ở luận án này, do hạn định phạm vi của đề tài nghiên cứu, chúng tôi tập
trung vào sự phân loại khuynh hướng thơ Việt Nam đương đại theo tiêu chí cảm
hứng sáng tác chủ đạo. Đề tài chúng tôi quan tâm, phân loại theo cảm hứng tư
tưởng sáng tạo và tập trung sự phân tích chủ yếu vào khuynh hướng cảm hứng hiện
sinh. Cảm hứng sáng tạo là tình cảm mãnh liệt, một ham muốn tinh thần tích cực,
là tư tưởng bão hòa cảm xúc của nhà văn được thể hiện cụ thể, sinh động trong
hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Đó là những vấn đề thuộc về thân phận con
người khiến cho người nghệ sĩ trăn trở, khắc khoải suy tư. Biểu hiện của cảm
hứng tư tưởng thể hiện qua việc khẳng định hoặc phủ định đối với những điều
được nhà văn nhà thơ miêu tả. Nghệ thuật vận dụng quy luật riêng của tình cảm
nên khi tác giả đứng về thiên hướng nào thì sẽ có cảm xúc mãnh liệt về vấn đề
đó. Chính điều đó khiến cho tác phẩm có tính khuynh hướng. Nhà văn Nga
Shchedrin (1826-1889) cho rằng: “Ngẫu nhiên, rời rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó
là đặc trưng lớn nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng”.
Cụm từ “cảm hứng và tư tưởng sáng tạo” ở đây gợi ta nhớ đến cụm từ “tư duy thơ”.
Trong ngữ vựng phổ thông cách dùng phân biệt giữa “tư tưởng”, “tư duy” với “cảm
hứng”, “tình cảm” là một thực tế. Nhưng trong sáng tác thơ ca nói riêng, văn
chương nói chung ranh giới giữa tư tưởng và tình cảm không phải là một đường
vạch sẵn hay là giải phân cách không thể vượt lẫn. Nói cách khác, tư duy sáng
tạo thơ là một tư duy bão hòa cảm hứng tình cảm sáng tạo. Và cách dùng “tư duy
thơ” như một tiêu chí để phân loại các xu hướng sáng tác thơ là cách làm của
tác giả Giáo trình tư duy thơ hiện đại
Việt Nam. Trong phần 3 chương 8 sách này, tác giả chia thơ ca từ sau 1986
thành các xu hướng như sau:
1) Xu
hướng đối thoại dân chủ và cảm hứng phê phán;
2) Xu hướng chối bỏ các thể thơ
truyền thống;
3) Xu hướng duy trì các thể thơ truyền thống;
4) Thế tục hóa và
dung tục hóa biểu tượng thi ca;
5) Đổi mới về chức năng xã hội và xu hướng thơ
chơi [139, tr. 423-596].
Phân
loại khuynh hướng sáng tác thơ ca dựa trên cảm hứng tư tưởng sáng tạo cũng có
thể đưa đến một hình dung đáng chú ý. Nói chung, phân loại này thích hợp với
cách quan sát lịch đại: xem xét sự nối tiếp và chiếm thế chủ đạo của cảm hứng
sáng tác nổi trội trong một lưu vực các dòng chảy của một nền thi ca. Nhìn từ
góc độ này, ta có thể thực hiện một mô tả đại lược như sau. Khuynh hướng cảm
hứng sử thi thơ trữ tình công dân trước năm 1975 thiên về ngợi ca tôn vinh vẫn
còn một dư vọng nhất định trên thi đàn. Rồi thơ ca bắt đầu chứng kiến cuộc
chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời tư thế sự. Nói như chứng nhân
và cũng là người trong cuộc - nhà thơ Phạm Tiến Duật - thì đó là “Thơ từ vị trí
cái ta chuyển sang cái tôi, từ sự hướng ngoại chuyển sang hướng nội” (“Thơ và
sự phát triển”, báo Văn Nghệ, số 10,
11/3/1989). Bước vào thời hậu chiến, con người công dân trở về với tồn tại đời
thường với chằng chéo quan hệ thế sự, số phận cá thể nổi lên thay thế cho đội
hình và tập thể. Các nhà thơ lắng lòng lại với thế giới nội cảm và những trải
nghiệm riêng tư của mình. Những “niềm riêng” sống dậy, chiều sâu trữ tình được
kích động, thơ trở về và lan tỏa với kinh nghiệm thuần túy cá thể. Có thể kể đến
những thành tựu tiêu biểu của cảm hứng đời tư thế sự như: Bóng chữ của Lê Đạt, Những
cánh hoa tiên tri của Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Quang Thiều với Sự mất ngủ của lửa, Vọng trắng của Trần Anh Thái, Một
chấm xanh của Phùng Khắc Bắc, Những
con ngựa đêm của Nguyễn Việt Chiến,
Củi lửa của Dương Kiều Minh và Cầu nguyện ban mai của Mai Văn Phấn…
Hoàn toàn có thể mượn trích dẫn sau đây từ bài viết của nhà thơ đồng thời là
nhà phê bình Vũ Quần Phương để tổng kết về khuynh hướng cảm hứng đời tư thế sự
trong sáng tác thơ Việt Nam đương đại lúc đó: “Khu vực trữ tình cá thể vốn ít
được khai thác trước kia, ny được nói tới nhiều. Nỗi buồn từng bị coi là một
nhược điểm có tính thẩm mĩ, một thiếu sót về đạo đức cách mạng, giờ đây có phần
được thơ nâng niu. Nhiều nỗi éo le thế sự được thơ biết tới. Dung lượng sự đời
của thơ nhờ vậy lớn hơn, thấm thía, từng trải hơn, gửi gắm nhiều kinh nghiệm
sống” [119].
Nhưng
thơ ca với cảm hứng thế sự đời tư chưa phải là thơ ca hiện sinh thực sự. Thơ
cảm hứng thế sự đời tư dĩ nhiên cũng nói đến thế giới nội cảm tâm linh, nhưng
rốt cuộc đó vẫn là một khuynh hướng lấy tâm linh làm đề tài, hay nói cách khác
“phản ánh” tâm linh. Cảm thức hiện sinh trong thơ cho thấy nhà thơ đi sâu vào
thế giới tâm linh để nói đúng mình hơn. Nó ném đặt con người chủ thể vào chính
trong cảm nhận sâu thẳm của ta về hữu hạn và vô hạn, khoảnh khắc và muôn đời
nhân sinh. Bản thân hình tượng thơ chứa đủ cả ảo và thực, cả phi lý và hữu lý.
Tinh thần của cảm hứng hiện sinh trong sáng tác thơ ca đương đại có lẽ chính là
cái tinh thần toát lên từ diễn giải sau đây: “Existentialism, có người gọi là
thuyết Hiện sinh, có người gọi thuyết Sinh tồn hoặc chủ nghĩa Hiện hữu. Chữ gốc
La Tinh: Esse, có nghĩa (tự nhiên, đương nhiên, bẩm sinh) + (sinh vật, con
người, sự sống, sự tồn tại). Vậy thì căn bản của Existentalism là Đang Sống và Phải Sống. Đang sống gần
với Hiện sinh. Phải sống gần với Sinh tồn. Nói một cách dễ hiểu là “kinh nghiệm
đang sống cái phải sống và kinh nghiệm
phải sống cái đang sống” là nền tảng của cảm nhận hiện sinh trong lãnh vực sáng
tác”, “Sáng tác không còn quan tâm về chủ thuyết mà chỉ cưu mang kinh nghiệm
đang sống cái phải sống và phải sống cái đang sống” [166]. Theo nghĩa đó, những
câu thơ sau có thể được xem là biểu hiện cụ thể của khuynh hướng cảm hứng hiện sinh
của thơ ca đương đại Việt Nam: “Khát vọng
rủi ro khát vọng chẳng thành tên/ Cuộc sống ngẫu nhiên/ Đời người may rủi/ Bị
dẫn dắt để bất ngờ lầm lỗi/ Vinh quang ngắn ngủi đến nhường kia” (Tuyết Nga).
Ở đây cần nhắc lại một lần nữa - khi nói đến
khuynh hướng hiện sinh trong thơ ca đương đại là nói đến một cảm hứng sáng tác
đã và đang trở nên phổ biến trên thi đàn chứ không phải nói đến một sự minh họa
cho triết thuyết cụ thể bằng thơ ca. Tình hình vẫn đúng như diễn giải của tác
giả bài viết vừa trích dẫn trên: “Những con đường triết học ngổn ngang và những
đại lộ tôn giáo một chiều đều dẫn về hai câu hỏi: Người đến từ đâu? Và về nơi nào? Then chốt là cánh cửa sự chết.
Chết là một sự kiện quan trọng. Vì phải chết mà con người phải chọn lựa thái độ
sống. Hiện sinh chọn sống ý thức về cái đang sống và phải sống. Vô số thơ văn
nhận diện sự chết để đối phó sự phi lý của sống, cùng một lúc "tiêu
hóa" chất phi lý để làm đời sống hay đẹp hơn "một cách phi lý".
Thơ hiện sinh để chủ nghĩa Hiện Sinh lại trong thư viện và tiếp tục cưu mang
chất sống phi lý vào tâm tình hàng ngày” [163]. Quả thật “Hiện sinh chọn
sống ý thức về cái đang sống và phải
sống”, điều mà như biểu đạt hình tượng ngôn từ trong Kinh cầu trong mưa với nhiều sắc thái như sau:
Hai hàng cây âm thầm
Nhớ một làn môi đỏ
Một cung mưa rất trầm
Nhớ hai người qua phố
Trôi trên hai nấm mộ
Một nghìn năm mông lung
Một nỗi khát vô cùng
Khô trên hai phiến đá
Gõ hai đầu âm dương
Một kinh cầu vô vọng
Gửi hai cành hoa trắng
Về một màu khói hương
Hai cánh chim bay về
Một tinh cầu đã tắt
Hai ánh sao sa mạc
Tan thành một cơn mưa
Trên tài hoa nhầu nát
Trên trần gian khói sương
Trên mặt người biến sắc
Mưa in dấu vô thường
(Hoàng
Phủ Ngọc Tường - Kinh cầu trong mưa)
Như
vậy, trong thơ có sự phân biệt thơ cảm hứng thế sự đời tư với thơ cảm hứng hiện
sinh. Dĩ nhiên đó không phải là một sự phân biệt phải thực hiện đến mức cực
đoan triệt để hoàn toàn. Bởi vì suy cho cùng đã là thơ - kết quả của xung động
tư tưởng tình cảm đến độ. Khuynh hướng cảm hứng thế sự đời tư cũng như khuynh
hướng hiện sinh cả hai đều hướng đến thế giới nội cảm đầy biến chuyển, đa cung
bậc. Chỉ có điều nội cảm tâm tư trong khuynh hướng thơ cảm hứng thế sự đời tư
trước sau vẫn hiển hiện lên như là đối tượng của một sự trữ tình. Nói cách khác
những tình tự, xúc cảm hay nói khái quát hơn - thế giới nội tâm con người vẫn
có tính cách là một thực tại của sự phản ánh thơ. Nhà thơ hướng về nó, viết về
nó, đồng hóa nó vào trong một chủ thể trữ tình. Chủ thể trữ tình đó nói chung
cũng là đang bộc lộ mình, bộc lộ cảm xúc suy tư của mình về/trước “thế sự - đời
tư”. Khuynh hướng thơ cảm hứng thế sự đời tư rốt cuộc vẫn là ở trong tư thế
“viết về…” những tâm trạng, nỗi niềm khởi dấy lên từ tiếp xúc kiểu “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Đó dù sao vẫn
là một lối tức cảnh sinh tình của những cái Tôi
thay vì tức cảnh sinh tình ngâm vịnh của cái Ta thơ ca trung đại xưa. Ngược lại, khuynh hướng thơ hiện sinh quan
tâm chính “kinh nghiệm đang sống cái phải sống và kinh nghiệm phải sống cái
đang sống”. Thơ hiện sinh không để nói về “điều trông thấy” mà chủ yếu nói
chính cái “đau đớn lòng”. Nó không nói về (đề tài) ngoại vật - thế sự hay phản
ánh (nội tâm nhưng như là một đối tượng được vẽ lại) mà tự nó là một tiếng nói
- tiếng nói của đang sống - phải sống (hiện hữu sống và hiện hữu để đi đến mất
đi). Thơ hiện sinh không hình dung cái tâm linh như một sự thể được nhìn nhận
trở lại mà nó chính là bản thân cái tâm linh đang tự biết mình. Cái tâm linh
chẳng hạn như ở thơ Nguyễn Thiên Ngân cất lời Có những ngày (bài thơ trong tập thơ Mình phải sống như mùa hè năm ấy, Nxb Văn học, 2012; Nxb Văn hoá -
Văn nghệ tái bản, 2019) đề cập đến tồn tại sống của chính nó: