Phát biểu của Mai Văn Phấn tại Lễ trao giải Cikada 2017 - Mai Văn Phấn’s speech at Cikada award ceremony in 2017
Phát biểu của Mai Văn Phấn tại Lễ trao giải Cikada 2017
(tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội, 01/12/2017)

Tôi vui mừng và cũng bất ngờ
khi nhận được thư của nhà thơ – tiến sỹ Lars Vargö, Chủ tịch Ban Giám khảo giải
thưởng Cikada báo tin tôi đoạt giải năm nay. Trước đó, tôi thật khó hình dung
không gian thơ riêng biệt, thậm chí có phần dị biệt của tôi có thể chạm tới
trái tim bạn đọc ở những không gian văn hóa, chính trị khác. Phải chăng thơ ca,
với quyền năng và vẻ đẹp tinh khôi của nó luôn đủ sức dẫn dụ, gắn kết những tâm
hồn đồng điệu dù ở bất kỳ đâu trên hành tinh này?
Khoảng mươi năm gần đây tôi
ít khi xa nhà, hàng ngày hầu như chỉ qua lại với lối ngõ nhỏ và những cảnh quan
quen thuộc của mình. Tôi kết nối với thế giới và biết được từng cơn dư
chấn bên ngoài chủ yếu thông qua chiếc máy tính cá nhân. Từng đợt sóng của
những cơn dư chấn ấy đã dội vào tôi, thôi thúc tôi không ngừng sáng tạo. Bằng trực
giác và cảm xúc sáng tạo, tôi biết nhìn những điều tưởng như đơn giản, lặp đi
lặp lại, thậm chí vặt vãnh trong đời sống hàng ngày qua lăng kính của một đứa
trẻ. Chứng kiến những biến động khôn lường của đời sống xã hội, của môi trường
sinh thái bị hủy hoại, của trật tự thế giới bị đảo lộn... Tôi khao khát một xã
hội công bằng, bác ái, không có áp bức, con người được tôn trọng, được tự do,
được hưởng hạnh phúc, được sống trong môi trường thiên nhiên trong sạch.
Song hành với đời sống nhân
loại, thơ ca ngày một hiện đại hơn trong cách thức biểu đạt và đa dạng hơn về
quan niệm thẩm mỹ. Thơ đã góp phần quan trọng làm nên thế giới tinh thần đẹp đẽ
của con người. Cõi thơ ấy cảm hóa, liên thông tâm hồn nhà thơ với bạn đọc. Nhà
thơ có được tứ thơ hay, thực sự là một mối duyên. Càng hạnh phúc hơn khi mối
duyên ấy được hòa đồng cùng khát vọng của con người tiến bộ, dũng cảm đấu tranh
để bảo vệ đời sống con người, vì mọi người.
Trong thông cáo báo chí của
nhà thơ – tiến sỹ Lars Vargö, Chủ tịch Ban giám khảo có nêu: “Giải Cikada được trao cho các nhà thơ Đông
Á, nơi cảm quan thơ ca của họ chỉ ra tính bất khả xâm phạm của đời sống.”
Tôi thực sự tâm đắc với nhận định này và rất hạnh phúc khi biết rằng, giải
thưởng Cikada được sáng lập năm 2004 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của
Harry Martinson,
nhà thơ đoạt giải Nobel Văn chương năm 1974.
Thơ H. Martinson cũng như
thơ của các nhà thơ lớn của Thụy Điển như Karin Boye,
Artur Lundkvist,
Gunnar Ekelöf, gần
đây nhất là Tomas Tranströmer
có sự hòa quyện giữa minh triết, sự chính xác của thơ phương Tây với thế giới
tâm linh huyền hoặc, thẳm sâu của phương Đông.
Nhân đây, tôi xin dẫn một
đoạn thơ trong bài “Cánh bướm”
của H. Martinson để minh chứng:
“Trăng lên, xa lắc. Tôi không sợ hãi
Tôi nghe từng ánh trăng
Đôi mắt tôi kéo màng bảo vệ
Hạt sương dán đôi cánh tôi dấp dính
Tôi đậu trên cây tầm ma”
Qua đoạn thơ trên, chúng ta
dễ dàng nhận thấy cách thiết lập không gian đa chiều cùng những thủ pháp đồng
hóa các thi ảnh của H. Martinson khá gần gũi và có phần tương đồng với thi pháp
của các nhà thơ châu Á như So Sakon,
Bắc Đảo
(Trung quốc), Ko Un và
Shin Kyeong-nim,
cũng như một số nhà thơ Việt Nam theo khuynh hướng cách tân hiện nay.
Nếu so sánh với những loại
hình nghệ thuật khác, thơ luôn bị hạn chế và chịu sự ràng buộc bởi rào cản ngôn
ngữ mỗi khi tìm đến một quốc gia khác. Dĩ nhiên, ngôn ngữ mỗi dân
tộc đều tiềm ẩn những vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt, và cũng chính
điều đó đã góp phần tạo nên thần thái, bản sắc độc đáo cho nền thơ của dân tộc
đó.
Nhà thơ, dịch giả Erik Bergqvist
khi nói về tiếng Thụy Điển của mình đã viết: “Tiếng Thụy Điển có một đặc điểm thường được người nước ngoài nhận xét:
đó là tiếng nói “như đang hát” với ngôn điệu phóng khoáng và uyển chuyển. Tiếng
nói Thụy Điển giống như phong cảnh thay đổi liên tục, với đồi núi, thung lũng,
những cánh rừng rậm bước ra với ruộng đồng bát ngát, những hồ nước lạnh thẫm
mầu và những dòng suối ngoằn ngoèo lên xuống, khi dề dà khi chảy siết, lúc chồm
lên lúc tỉa tót, chỗ là những hang hốc phụ âm và chỗ bất ngờ với những nguyên
âm rộng mở. Những yếu tố này thực sự diễn cảm hơn là ngữ nghĩa, và chúng thay
đổi ở từng người nói, ở phương ngữ, ở tâm trạng con người mỗi ngày v.v...”.
Trong khi, tiếng Việt của chúng tôi là ngôn ngữ có nhiều thanh điệu đơn âm, đa
thanh và giàu tính biểu cảm. Dù viết bằng bất kỳ thủ pháp nào, các nhà thơ Việt
Nam thường sử dụng thanh điệu để diễn tả sự tinh tế, phong phú của tâm hồn. Một
số nhà thơ còn sử dụng cách chơi chữ, hoặc cố ý làm mờ nhòe ngữ nghĩa của từ
vựng nhằm tạo nên sự rung vang, đa nghĩa của câu thơ. Và đó cũng là cách để tác
giả “nhập đồng” vào tác phẩm của mình. Tôi muốn nói thêm về khái niệm “nhập
đồng” trong thi ca Việt. Chắc các bạn có cách diễn đạt riêng về khái niệm này,
song những người sáng tạo chúng tôi khi viết thường hóa thân vào không gian thơ
do mình tạo ra. Ở đó, chúng tôi trở lại bản ngã của mình, là chính mỗi nhân vật
trong cõi thơ mà mình vừa thiết lập. Đây là khái niệm đặc trưng gắn với tín
ngưỡng thờ Mẫu, mang đậm nét văn hóa của Việt Nam.
Từ những đặc thù của mỗi
ngôn ngữ cho thấy, việc dịch một bài thơ từ nguyên tác sang một ngôn ngữ khác
là công việc khó khăn và rất khó trọn vẹn. Nhà thơ Tomas Tranströmer từng nói,
"Dịch thơ nên được coi là điều phi
lý, nhưng thực tế chúng ta vẫn phải tin vào nó.", và "Làm thơ, ngay từ ban đầu đã là một công việc
dịch thuật". Tôi nhắc đến điều này nhằm bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc
nhất của tôi tới các dịch giả, đặc biệt tới dịch giả-nhà thơ- nhà phê bình văn
học Erik Bergqvist và dịch giả-nhà phê bình văn học Maja Thrane, những người đã
lao động hết sức nghiêm túc và say mê, vượt qua những rào cản, khó khăn của đặc
thù từng ngôn ngữ để đưa trọn vẹn những tác phẩm thơ của tôi tới tay bạn đọc
nước ngoài, đặc biệt là bạn đọc Thụy Điển.
Tôi chân thành cảm ơn Ban
Giám khảo giải thưởng Cikada, cảm ơn Viện Thụy Điển, cảm ơn nghệ sĩ Gunilla
Sundström đã sáng tạo tác phẩm tranh gốm tuyệt đẹp dành tặng những tác giả đoạt
giải. Xin cảm ơn Ngài Styrbjörn Gustafsson, Tổng Biên tập nhà xuất bản Tranan
đã tuyển chọn và xuất bản tác phẩm của tôi cùng tác phẩm khác của các nhà văn,
nhà thơ Việt Nam sang tiếng Thụy Điển.
Trân trọng cảm ơn Ngài
Pereric Högberg, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Thụy Điển tại Việt Nam
và Bà Ylva Jansson, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt
Nam đã trao cho tôi giải thưởng cao quý này.
Xin cảm ơn Ban Quản lý Di
tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã tạo điều kiện tốt nhất để buổi lễ trao giải
diễn ra trang trọng và ý nghĩa.
Xin gửi tới tất cả các bạn
lời chúc sức khỏe và hạnh phúc.
Xin trân trọng cảm ơn các
bạn!

Mai
Văn Phấn’s speech at Cikada award ceremony in 2017
I
was delighted and surprised when I received the letter from the poet - Dr. Lars
Vargö, Chairman of the Cikada Jury Prize, announcing that I had won this year.
Before that, it was difficult for me to visualize the space of individual
poetry; even more surprising was that my differences could touch your heart
being that I am from such a different cultural and political strata. It is true
that poetry; with its pure power and beauty, is always able to lead and
coalesce souls anywhere in the world.
For
the past ten years I have rarely been away from home. My days are filled with
familiar landscapes. Through my computer I connect with the world and
experience the aftershocks. Each wave of aftershock echoes within me,
constantly urging me to create. Through personal energy I see simple,
repetitive, and even trivial things in everyday life, as if through the lens of
a child.
Witnessing
the upheaval of social life, of the deteriorating ecological environment, and
the reversed world order, I long for a just society: charity, rather than
oppression. A world where humans are respected: free, happy, and living in a
pure natural environment.
In
line with human life poetry is more modern in expression and more diverse in
aesthetic conception. Poetry has made an important contribution by creating
through the beauty of the individual heart, the spiritual world of man. And
poetry only lasts as those who are faithful to create, are passionate about
sharing their gift. On the contrary, for those who stand outside that
particular school, poetry does not exist. When a poet’s words connect with the
heart of a reader the poetry becomes the charm that connects human life. This
connection creates happier relationships with the aspirations of human progress
as well as uniting brave struggles to protect all human life.
The
jury president, poet - Dr. Lars Vargö, stated in his press release, “The Cikada
Award is given to East Asian poets whose poetic sensibilities point to the
inviolability of life and ones who show in his/her poems such spirit. I am really happy with this statement and
delighted to hear that the Cikada Prize was founded in 2004 on the
100thanniversary of Harry Martinson’s birth: the recipient of the 1974 Nobel
Prize in Literature.
H.
Martinson’s poetry, as well as the poetry of the great Swedish poets Karin Boye
(1900-1941), Artur Lundvist (1906-1991), Gunnar Ekelof (1907-1968), Edith
Sodergran (1892-1923), and in particular, Tomas Transtromer (1931-2015), is a
blend of wisdom and the accuracy of Western poetry with the spiritual world of
mysticism: the depths of the East.
In
order to validate this hypothesis I will share a stanza from the poem titled “Butterfly”
written by H. Martinson.
“Moon rises; it is remote, I am not afraid,
I listen to its beams.
My eyes are protected by a thin film.
My wings glued together by dew.
I sit on the nettle.”
Through
the above verse it is easy to see how the establishment of multidimensional
space, with the assimilation of the image which H. Martinson used, is quite
close and somewhat similar to the poetry of Asian poets: Sakon (Japan), North
Island (China), Ko Un and Shin Kyong-Rim (South Korea), as well as some
Vietnamese modernist poets.
The
poet and translator Erik Bergqvist, when speaking about his Swedish language
wrote: “One phenomenon with Swedish, often claimed by foreigners: it has a
“singing” tongue; the prosodic range is wide and elastic. Swedish speech can be
like a rapidly shifting landscape, with hills, valleys, thick forests
renouncing to open fields, dark cold lakes and irregular creeks: full of rising
and sinking, lingering and stresses, jumps and ornaments, clusters of dense
consonants and sudden areas of wide vocals. Many of these facets are actually
more expressive than semantic, and change with the person speaking, the
dialect, one’s mood of the day, etcetera”. While, on the other hand, our
Vietnamese language is monotone, multi-tone and expressive. Although written by
any method, Vietnamese poets often use tone to express the sophisticated
metamorphosis of the soul of the poetry. Some poets use puns or intentionally
blur the semantics of the vocabulary in order to create the resonance of the
verse. Using these distinctive tones and personal characteristics is how the
poet expresses his unique style. I would like to talk more about the concept of
“immersion” in Vietnamese poetry. More than likely you have a particular way of
expressing this concept, but our Vietnamese poets, when writing, incarnate
space into their poetry. In that space we return to our ego which is found in
the characters of the poem. This is a unique concept associated with Mother
Goddess worship, or “Đạo Mẫu”, which portrays the Vietnamese’s bold culture.
From
the peculiarities of each language, it is most often difficult to translate a
poem from its original meaning into another language and have it truly indicate
what the poet wanted it to convey. The poet Tomas Tranströmer once said,
"translating poetry must be regarded as absurd. But practically we must
believe in it." And further: "Writing a poem is a kind of translation
in the first place."
I
would also like to express my gratitude to the translators, especially to the
translator-poet- literary critic, Erik Bergqvist and translator literary
critic, Maja Thrane who worked earnestly and passionately to overcome the
barriers and difficulties of each language in order to fully translate my
poetry to foreign readers; especially for Swedish readers.
I
sincerely thank the Jury for the Cikada Prize; thanks to the Swedish Institute,
and to the artist Gunilla Sundström for creating the beautiful pottery pictures
for the winners. Thank You Mr. Styrbjörn Gustafsson, Editor-in-chief of Tranan Publishing
House for publishing my work and other writings of Vietnamese poets, and
especially to those who translated it into Swedish.
Thanks
to Mr. Pereric Hogberg, Ambassador Extraordinary and Plenipotentiary of the
Kingdom of Sweden in Vietnam and to Ms. Ylva Jansson, H.E. Charge D’Affairs for
awarding me this honorable prize.
I
would like to send my thanks to the Management Board of the Văn Miếu - Quốc Tử
Giám for creating the best conditions for the ceremony to take place in a
solemn and meaningful way.
I
extend to all of you, best wishes, health, and happiness.
Thank
you very much!
(Translated
by Du Thuy Nguyen & Kathleen Martens)
