“Thuốc đắng” khai mở thế giới thơ tôi
Mai Văn Phấn
Tôi viết bài thơ “Thuốc đắng” vào một chiều mùa hè năm
1990 cho Ngọc Trâm, lúc ấy mới ba tuổi. Con gái tôi bị sốt cao nhưng không chịu
uống thuốc. Thương con, nhưng tôi buộc phải ép con uống hết chén thuốc mới mong
khỏi bệnh. Sau đấy vài giờ con tôi ngủ yên, nhìn chiếc chén đã cạn thuốc đặt
trên cửa sổ, tôi vội viết bài thơ này. Nguyên văn bài thơ như sau:
Thuốc đắng
(Cho Ngọc Trâm)
Cơn
sốt thiêu con trên giàn lửa
Cha
cũng có thể thành tro nữa
Thuốc
đắng không chờ được rồi
Giữ
tay con
Cha đổ
Ngậm
ngùi thả lòng chén vơi...
Con
ơi! Tí tách sương rơi
Nhọc
nhằn vắt qua đêm lạnh
Và
những cánh hoa mỏng mảnh
Đưa
hương phải nhờ rễ cay.
Mồ
hôi keo thành chai tay
Mùa
xuân tràn vào chén đắng
Tuổi
cha nước mắt lặng lặng
Sự
thật khóc òa vu vơ.
Con
đang ăn gì trong mơ
Cha
để chén lên cửa sổ
Khi
lớn bằng cha bây giờ
Đáy
chén chắc còn bão tố.
(Hải Phòng, 7/1990)
Trước năm 1990 tôi
có làm thơ, một số bài viết khi còn học phổ thông và sau đó là trong quân ngũ.
Song ngày ấy, thơ tôi chủ yếu vẫn dưới hình thức mô phỏng thơ của thế hệ đàn
anh nên mờ nhạt, chưa thật với cảm xúc của mình. Cũng may, tôi sớm nhận ra điều
đó. Vì vậy, một thời gian dài tôi không làm thơ nữa, nhưng vẫn theo sát đời
sống văn chương.
Bài thơ “Thuốc đắng” đến với tôi, tựa như một
viên sỏi rơi vào lòng hồ lâu nay vốn đang yên lặng, tạo nên những vòng tròn
đồng tâm, từng làn sóng nhỏ lan trên mặt nước. Nó khiến lòng hồ không còn như
cũ. Khi ấy, tôi nhận thấy, bài thơ này đã khai mở cho tôi một thế giới mới lạ.
Nói đúng hơn với tôi, cảm giác vừa quen vừa lạ, là vậy nhưng lại không phải như
vậy… Sau này nhờ những trải nghiệm sáng tác tôi mới biết, đó chính là thế giới
kỳ lạ và bí ẩn của thơ.
Những năm gần đây
tôi có hành thiền. Lúc nhớ lại khoảnh khắc mình viết bài thơ “Thuốc đắng”, bỗng liên tưởng tới việc
khai mở các luân xa
trong cơ thể con người. Đối với những người không tu tập, các luân xa thường đóng, không
quay. Nhưng sau thời gian thiền định, các luân xa đó sẽ quay. Các luân xa chính
là các huyệt đạo mở ra những con mắt đặc biệt dẫn ánh sáng vào cơ thể và cũng
thải sạch thán khí ra ngoài qua các huyệt Lao cung và Dũng tuyền (gan bàn chân,
bàn tay). Đặc biệt, có một số người dù không hành thiền, nhưng khi họ gặp những
xung chấn về tâm lý hoặc vật lý, các luân xa trên cơ thể họ có thể tự mở.
Vậy phải chăng, nỗi
lo sợ, bồn chồn của tôi khi nhìn thấy con mình trong cơn sốt cao, lúc tự tay
tôi ép con phải uống thuốc, và, nhiều suy tư trăn trở lúc đó đã dẫn tôi tới “xung
chấn”. Nó kích hoạt nguồn năng lượng tiềm ẩn trong con người tôi, khai mở nhãn
quan đặc biệt để tôi nhìn thấy những điều vi diệu mà trước đây chưa được biết.
Phải chăng đó là không gian thơ? Tôi nhớ rõ lúc ấy mình đã viết trọn vẹn bài
thơ đó trong thoáng chốc. Tôi đã ghi lại vội vàng từng câu thơ vì cảm thấy
những hình ảnh đang hiện về kia có thể nhanh chóng biến mất, từng con chữ cũng
có thể sẽ bay đi tức khắc. Giờ nhớ lại khoảnh khắc viết bài thơ đó, tôi biết
bản năng thi sĩ trong tôi đã thức dậy, mở lối và đẩy tôi vào cuộc lữ. Vài câu
thơ trong bài sau này được bạn đọc nhắc tới và có hỏi tôi tại sao lúc ấy lại
viết:
“Và những
cánh hoa mỏng mảnh
Đưa hương phải nhờ rễ cay”.
Thú thật cho đến
giờ tôi cũng không thể giải thích tường tận được. Có lẽ, khoảnh khắc ấy có sự
vô thức nào đó mách bảo tôi chăng! Nay, dù đã viết hàng ngàn bài thơ, tôi vẫn
ngỡ ngàng không hiểu sao lúc ấy mình nghĩ ra được từ cay trong câu thơ trên (gần đây có biên tập viên còn chữa chữ cay thành cây khi đăng báo vì tưởng tôi viết sai!).
Hoặc trong khổ kết
của bài thơ:
“Con đang ăn gì trong mơ
Cha để chén lên cửa sổ
Khi lớn bằng cha bây giờ
Đáy chén chắc còn bão tố”.
Lúc ấy, một số
người đã phản đối nó quyết liệt, thậm chí còn quy cho tôi có ngầm ý ám chỉ gì
điều đó. Sau này chuyện ồn
ào lắng xuống, họ đã bình tĩnh hiểu ra ý
đoạn thơ trên. Xin được phép thưa lại với bạn đọc rằng, tôi đơn thuần được bản
năng, vô thức mách bảo, không phải lao tâm khổ tứ nhiều để viết câu kết. Những
hình ảnh và câu chữ cứ ùa đến với tôi như một cơn lũ, bất chợt dâng lên trong
tôi lúc ấy. Và khi viết xong khổ thơ đó, tôi cảm thấy đủ để đặt dấu chấm hết
cho cả bài thơ.
Tôi viết bài thơ “Thuốc đắng” khi ba mươi sáu tuổi, chạm
ngưỡng của tuổi biết phân biệt điều phải trái, đã nếm trải nhiều cung bậc của
thế thái nhân tình và đời sống xã hội lúc đó. Đến năm 2011, cố nhà văn Cao Năm
đã có bài viết về bài thơ này của tôi, trong đó có đoạn: “Hai mươi năm trôi qua, bây giờ nhìn lại có thể nói giải thưởng văn nghệ
Nguyễn Bỉnh Khiêm của thành phố Hải Phòng năm ấy trao giải cao nhất cho bài thơ
“Thuốc đắng” của Mai Văn Phấn là chính xác. Nhưng buồn
thay, sau khi báo Hải Phòng đăng trên trang nhất bài thơ này, ngay hôm sau Ban
Biên tập chúng tôi đã nhận được thư bạn đọc gửi đến phê phán khá gay gắt và đậm
chất quy chụp, không chỉ tác giả, mà cả người chọn thơ. Nhớ lại hồi ấy, có đến
hàng tháng trời sau cuộc trao giải thưởng văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm, không khí văn chương đất Cảng vẫn nóng lên về bài thơ
“Thuốc đắng”
Cảm nhận tác phẩm
như thế nào là quyền của bạn đọc, dĩ nhiên vậy. Nhưng tôi muốn chia sẻ cách mà
bài thơ này đến với tôi. Những “xung chấn” thực sự đã mở ra một “cơ duyên”. Và
tôi đã viết bài thơ này với cảm xúc chân thành, được soi rọi bằng ánh sáng trong
suốt của thi ca. Tôi thẳng thắn và chân thật với những gì mà vốn sống và kiến
thức đã kết thành thành máu thịt và tinh thần mình. Nhà thơ Vũ Thị Huyền đã
viết về bài thơ này như sau: “Những đứa
trẻ “uống thuốc” của hơn hai thập kỷ trước giờ đã trưởng thành lại sắp trở thành cha, thành mẹ. Thấy nỗ lực mình “bỏ ra” để “thẩm
thấu” một bài thơ đã cho lại mình một bình tĩnh, tự tin. Thấy vững vàng hơn trước
“Thuốc đắng”, bởi đã biết rằng, sau thuốc là tình yêu vô bờ bến giữa người với
người. Tình phụ tử thiêng liêng “ruột đứt con xót” mà có lúc vẫn phải cần…
thuốc đắng. Toa thuốc đặc trị cứu rỗi cuộc đời mỗi con người hay “sự thật khóc
oà” trong “nước mắt lặng lặng” như dự cảm của chính nhà thơ về “hai mươi năm
sau” trong khổ thơ cuối cùng?”
Sau “Thuốc đắng” tôi đã viết liên tục, càng
viết không gian thơ mở ra càng rộng với nhiều màu sắc và cung bậc. Trong quá
trình đó, tôi cũng phải loại bỏ một số bài vì đọc lại thấy chúng chưa thật...
thơ. Những trải nghiệm này cũng cho tôi bài học về cách kiếm tìm, dồn nén ý
tưởng và cảm xúc để có được những bài thơ hoàn chỉnh tiếp theo. Làm được điều
đó phần lớn do “Thuốc đắng”, tôi biết
tựa vào bài thơ ấy để đi tiếp. Bài thơ đã cho tôi hiểu được thế nào là hồn
cốt của một tác phẩm. Nó ẩn hiện từ lúc chớm nở trong ý nghĩ đến khi hiển lộ
sừng sững trước người viết. Thời gian trôi đi, tôi càng thêm kinh nghiệm để dẫn
dụ, nắm bắt lấy những hồn cốt khác trong các tác phẩm mới đến với mình.
Mấy năm gần đây,
thơ tôi được dịch ra một số ngôn ngữ khác. “Thuốc
đắng” cũng là một trong những bài thơ được các nhà thơ, dịch giả quốc tế
chú ý và trao đổi với tôi về những quan niệm thơ ca, về mối quan hệ giữa cái
tôi người sáng tác với cộng đồng, xã hội, rộng hơn là với dân tộc, lịch sử...
Khi bàn bạc về chất lượng bản dịch, nhà thơ Susan Blanshard
đã lấy bài thơ “Thuốc đắng”, qua bản
dịch của nhà thơ Lê Đình Nhất-Lang (Nxb Page Addie Press của Anh Quốc), để nói
với tôi về “ánh sáng” của tác phẩm thơ. Bà quan niệm mỗi bài thơ có ánh sáng
riêng của nó, dịch giả không chỉ là
người chuyển ngữ nghĩa của văn bản, mà quan trọng nhất, phải truyền tải được
“ánh sáng” của tác phẩm ấy. Theo ý bà thì bài thơ “Thuốc đắng” được phát sáng từ tình cảm cha con: người cha luôn muốn
bao bọc, che chở cho con khôn lớn; nỗi lo lắng, bất an của người cha khi con bị
ốm đã phát ra nguồn sáng từ những ưu tư, những di biến mà người cha đã nếm trải
trong cuộc đời; và bản dịch quả đã truyền tải được thứ ánh sáng đó của bài thơ.
Có bạn đọc từng hỏi
tôi, khi đã có lộ trình cách tân thơ, liệu tôi có còn “chằm bặp” bài thơ “Thuốc đắng” như hai mươi lăm năm trước.
Xin thưa, ý thức hệ đang dần thay đổi, những quan niệm thẩm mỹ hiện cũng phong
phú, đa tạp hơn trước đây. Tôi đã khởi hành từ những giá trị truyền thống, sau
đó mạnh dạn đổi mới và tìm cho mình phong cách riêng. Tôi cũng biết “tu luyện”
từ một cây bút nghiệp dư thành tác giả chuyên nghiệp, chuyển hóa cái vô thức
thành ý thức, tự biến bản năng thành khả năng của mình để có thể đi xa, trường
sức. Để làm được điều đó, tôi đã bình tĩnh nhìn lại những bài thơ của mình đã
được bạn đọc bình xét, lắng lọc qua thời gian.
Đến nay, tôi đã đi được chặng đường dài,
hướng tới sự cách tân thi pháp, đã có thêm những bài thơ được bạn đọc yêu
thích. Khi viết bài thơ “Thuốc đắng”, tôi chưa có ý thức về kiến
tạo hình ảnh hay thiết lập ngôn ngữ thơ theo khuynh hướng nào, mà đơn giản là
để ý thơ và cảm xúc dẫn dụ mình đi. Nhưng tôi nhớ khi ấy mình có một
tâm trạng lớn và nguồn cảm xúc mạnh mẽ để từng câu chữ như bật ra từ đầu ngọn
bút. “Thuốc đắng” đã vô thức hội tụ đủ điều kiện và nội lực để
khai mở cho thơ tôi một thế giới.
10/2015
- Đã đăng: Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 831, cuối tháng 10/2015
- Rút từ cuốn sách “Không gian khác”, NXB Hội Nhà văn, 2016
Mẹ con Ngọc Trâm, 8/2015