Tôi nghe rất rõ tiếng
chim
(Đọc bài thơ “Con chào mào” của
Mai Văn Phấn)
Tác giả Tuệ Mỹ
Tuệ Mỹ
CON CHÀO MÀO
Con chào mào đốm trắng
mũ đỏ
Hót trên cây cao chót
vót
triu… uýt… huýt… tu
hìu…
Tôi vội vẽ chiếc lồng
trong ý nghĩ
Sợ chim bay đi
Vừa vẽ xong nó cất
cánh
Tôi ôm khung nắng,
khung gió
Nhành cây xanh hối hả
đuổi theo
Trong vô tăm tích tôi
nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ
những con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu… uýt… huýt… tu
hìu…
Chẳng cần chim lại
bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi
nghe rất rõ.
M.V.P
(Rút từ tập thơ “Bầu trời không
mái che” của Mai Văn Phấn, Nxb Hội Nhà văn, 2010)
Lời bình của Tuệ Mỹ:
Có thể
nói, Mai Văn Phấn là nhà thơ có duyên với thiên nhiên, hòa đồng, đằm sâu trong
thiên nhiên. Ông còn được đồng nghiệp coi là nhà thơ của sinh thái, giàu sắc
màu vũ trụ. Bài thơ “Con chào mào” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của
Mai Văn Phấn thể hiện đầy đủ tinh thần này. Đây không chỉ là tác phẩm có bút
pháp độc đáo, lạ, pha trộn hài hòa giữa hiện thực và huyền ảo, mà nó mở lối dẫn
bạn đọc vào/ về với thiên nhiên bất tận; đồng thời, cho họ thấy được vẻ đẹp
nguyên khởi, cảm nhận trọn vẹn mạch nguồn cảm xúc của ông.
Hình tượng
trung tâm của thi phẩm này là con chào mào, được tác giả thể hiện ngay trong
tiêu đề bài thơ. Với lối đặc tả gần, khá kỹ, nhà thơ khắc họa hình tướng “Con
chào mào” ngay từ câu thơ mở đầu “Con chào mào đốm
trắng mũ đỏ”. Ông cũng đồng thời đặt định
vị trí “Hót trên cây cao chót vót” của “nhân vật” này. Hai câu thơ đã mở
ra một khung cảnh thanh bình, có thể đó là ban mai trong suốt hoặc hoàng hôn
ráng vàng, thanh tịnh. Nó mang đến cho bạn đọc cảm giác yên bình về một khoảng
không thiên nhiên thanh sạch, mướt xanh. Đến câu thơ thứ ba của khổ thơ này là
một bản ký xướng âm giọng chim đầy thú vị: “triu… uýt… huýt… tu hìu…”.
Nhân đây xin bàn rộng về cách “ký xướng âm” trong thơ của Mai Văn
Phấn. Ông là tác giả ít khi đưa trực tiếp những âm thanh của đời sống vào trong
tác phẩm. Qua khảo sát nhiều tập thơ của Mai Văn Phấn cho thấy, hiếm khi ông sử
dụng những tiếng động tự nhiên ở dạng nguyên sơ, như tiếng meo meo (mèo kêu),
gâu gâu (chó sủa), tắc tắc (thạch sùng), cạc cạc (tiếng ngan), ò ó o (tiếng
gà), leng keng (tiếng kẻng), bính boong (tiếng chuông) v.v… Những âm thanh này
thường được nhà thơ cho khúc xạ, hoặc tái hiện bằng những hình ảnh phổ quát, biến
dị. Ví dụ “Ta đem tiếng hót xuyên ngày vào đêm” (Thay lời chim làm tổ);
hay, “Ngày tràn đêm vỗ lên bông” (Trương Chi)… Có thể nói, những âm
thanh trong thơ Mai Văn Phấn là những bông hoa “giấu mặt”, một kiểu buông “thả”
theo cách của riêng ông.
Nhưng ở bài thơ “Con chào mào”, bạn đọc như nghe được trực tiếp chuỗi tiếng
hót của con chim. Ở đây, tác giả đã ghi lại từng nốt nhạc để sắp đặt trọn vẹn một
câu thơ mang giọng chim. Mỗi “nốt nhạc” đều tạo nên giai điệu có độ rung vang
khác thường: “triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Đây không chỉ đơn thuần là
tiếng hót huyền diệu của con chào mào, mà là tiếng vọng của thiên nhiên trong
khoảng không kỳ vĩ, bí ẩn. Sự vang vọng của câu thơ thứ ba này được phát ra từ
hình ảnh “đốm trắng mũ đỏ” và “cây cao chót vót” ở trên. Tác giả đã sử dụng lối
tả chân, kiệm lời, tạo một bức tranh tối giản tràn đầy âm thanh, ánh sáng. Khổ
thơ đầu đã mở ra và cũng khép lại bằng bút pháp tả thực, và, nó có quyền đứng độc
lập như một bài thơ ba câu mà Mai Văn Phấn hay viết.
Đến khổ thơ tiếp theo, tác giả đã đặt bày một không gian khác với
nhiều tầng bậc, lối viết rất gần với thủ pháp tượng trưng. Đây là không gian
trong tâm tưởng, hình dung mà có: “Tôi vội
vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ/ Sợ chim bay đi”. Nhà thơ đã nghĩ phải
nhanh chóng vẽ chiếc lồng cho con chào mào. Vậy “chiếc lồng” của ông được đan bện
bằng tưởng tượng với mục đích kìm giữ, nhốt “con chào mào” kia chăng? Dĩ nhiên
không! Chiếc lồng của Mai Văn Phấn biểu đạt quyền sở hữu thiên nhiên, phô bầy
cái đẹp của riêng ông. Và nỗi “sợ chim
bay đi” chính là nỗi lo cái đẹp biến/ vuột mất. Đây là một câu thơ kỳ lạ. Ta
thấy từ vựng trong câu thơ đều mang ý nghĩa ràng buộc, giữ lại, bắt, bó hẹp…
nhưng nội hàm câu thơ lại mở ra, trải rộng, bay bổng… Câu thơ này cho thấy, tác
giả khao khát mở rộng “chiếc lồng” của ông thành không gian bất tận, muốn để
tâm hồn mình bao trùm cả thiên nhiên rộng lớn cho con chào mào khoe sắc và cất
tiếng tự do.
“Vừa vẽ xong nó cất cánh”. Đây
chính là thời khắc nhà thơ và con chào mào hóa thân vào nhau. Xin lưu ý hai
hành động diễn ra gối nhau liên tiếp, nhà thơ “Vừa vẽ xong” chiếc lồng, và con chim bắt đầu “cất cánh”. Bạn đọc có quyền đưa ra một giả thuyết khác rằng, con chim cất
cánh trước hoặc đồng thời với thời điểm nhà thơ vẽ chiếc lồng, dĩ nhiên điều ấy
sẽ làm cho không gian của nhà thơ và con chim tách rời nhau, đơn điệu, và vẻ đẹp
huyền ảo của thơ ca sẽ sớm trở về hiện thực khô cứng, trần trụi. Mục đích thẩm
mỹ của tác giả, cũng như đích đến của khổ thơ đã không như giả thuyết.
“Tôi ôm khung nắng, khung gió/ Nhành cây xanh hối hả đuổi theo”.
Từ đây, tác giả và “nhân vật chính” của câu chuyện bắt đầu liên tiếp những dịch
chuyển, mặc dù bài thơ đã thay đổi không gian từ khi “vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ”. Đây là cuộc đuổi bắt ngoạn mục
làm hiển lộ vẻ đẹp của con chim và tâm thế của tác giả. Cái “khung nắng,
khung gió” và cả “nhành cây xanh” kia chính là chiếc lồng mà nhà thơ
đã vẽ ra trong ý nghĩ ở khổ thơ thứ hai. Hành động “đuổi theo” con chim lúc này
cho thấy vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ được cất cánh, thăng hoa.
“Trong vô tăm tích tôi nghĩ/ Lát nữa chào mào sẽ mổ những con
sâu/ Trái cây chín đỏ/ Từng giọt nước/ Thanh sạch của tôi”. Khổ thơ này khắc
họa khá đầy đủ đời sống sinh động của con chào mào. Nó thường ăn những con sâu,
trái cây chín, uống nước... Nhưng nếu tác giả chỉ miêu tả đơn giản như vậy thì
dĩ nhiên bạn đọc không còn gì để cảm nhận và bàn luận. Một đời sống thực tế/ dụng
trong trường hợp này chính là con đường cụt của quá trình sáng tạo. Sự thần diệu
của đoạn thơ này nằm trong hai cụm từ “trong vô tăm tích” và “của tôi”. Nội hàm
của vô tăm tích ở đây chính là sự vô thủy vô chung của thiên nhiên, vũ trụ. Có
điều lạ là nhà thơ lại “nghĩ”, thực ra là ông đã nhìn, quan sát kỹ, sống cùng,
cảm nhận, nương theo cái “vô tăm tích” bằng vũ trụ quan của ông. Ở đây lại thêm
một lần nữa nhà thơ cho bạn đọc nhìn thấy sự hòa trộn giữa ông và thiên nhiên
được hiển hiện trong đời sống muôn vẻ của con chào mào. Tất cả những dịch chuyển
sống động và bất tận ấy được nhà thơ khảng định trong câu thơ “Thanh sạch của
tôi”. Khái niệm “của tôi” trong trường hợp này cho thấy hồn vía kẻ
sáng tạo đã được chiết ra, gạn lọc lấy những gì tinh túy nhất, đẹp nhất để “nuôi”
chú chim bé nhỏ của ông.
“triu… uýt… huýt… tu hìu…”. Tác giả đã cho những thanh âm của
thiên nhiên điệp khúc, vang lên lần nữa ở cuối bài thơ. Chuỗi âm thanh được nhắc
lại trọn vẹn như từng cất lên lần đầu, nhưng bạn đọc lại cảm nhận “con chào
mào” đã đi qua một hành trình, từ đơn lẻ tới hòa nhập, từ âm vực có phần lảnh
lót, chói gắt đến phối bè, vang vọng.
“Chẳng cần chim lại bay về/ Tiếng hót ấy giờ tôi nghe rất rõ”. Hai
câu thơ kết cho thấy “con chào mào” đã bay đi xa, trở về với thiên nhiên rộng lớn,
với thế giới tự do và hồn nhiên của nó. Tác giả viết rằng “chẳng cần chim lại
bay về” bởi ông đã cảm thấy đủ, thấy trọn vẹn một thiên nhiên tuyệt đẹp
trong cõi hồn mình. Câu thơ đa nghĩa cho thấy, nhà thơ đang tràn đầy hạnh phúc,
mong cho con chào mào bay xa, bay cao hơn, nhưng cũng gợn một chút tiếc nuối dù
rất nhỏ. Người viết bài này lại nghiêng nhiều về sự tiếc nuối, bị ám ảnh bởi tiếng
hót con chim mà tôi cũng đã “nghe rất rõ”.
Bình Định, 7-8-2020
T.M
