Tính hiện thực được khẳng định trong thơ Mai Văn Phấn - The Affirmation of Reality in the poetry of Mai Văn Phấn (phê bình - review) - Raymond Keen
Tính hiện thực được khẳng
định trong thơ Mai Văn Phấn
(Bài phê
bình về “Thơ tuyển Mai Văn Phấn”, Nxb Hội Nhà văn, 2015)
Nhà thơ - Nhà phê bình VH Raymond Keen
Dịch giả Phạm Văn Bình
maivanphan.com: Nhà thơ-Nhà phê
bình văn học Raymond Keen (Hoa Kỳ) vừa gửi tới maivanphan.com bài phê bình về
“Thơ tuyển Mai Văn Phấn”. Đây là bài phê bình thứ 3 ông viết về thơ Mai
Văn Phấn. Qua trò chuyện được biết, ông đã dành gần như trọn vẹn hơn 3 tháng để
nghiên cứu và hoàn thành bài viết này. Xin được gửi tới Nhà thơ-Nhà phê bình
văn học Raymond Keen lời cảm ơn trân trọng nhất! Kính chúc ông luôn vui khỏe,
hạnh phúc và giàu sức sáng tạo! Quý Bạn đọc có thể đọc thơ của Raymond Keen qua
bản dịch của Nguyễn Thị Thùy Linh, đăng trên website này.
maivanphan.com: Poet-Literary critic Raymond Keen (USA) has just
sent to maivanphan.com a review of "The Selected Poems of Mai Van
Phan". This is the third critique essay he has written about Mai Van
Phan’s poetry. Through conversations, I knew that he spent almost more than 3
months to thoroughly study and complete this article. Let me express my warmest
gratefulness to the Poet-Literary critic Raymond Keen! Wish him health, happiness
and creative wealth! You readers can read the poetry by Raymond Keen through
the translated version of Nguyễn Thị Thùy Linh posted on this website.
Raymond
Keen (Hoa Kỳ)
Phạm Văn
Bình dịch từ Anh ngữ
“Nghệ thuật không sao chép
lại những thứ hữu hình, mà đúng hơn, nó làm cho mọi thứ trở thành
hữu hình” (Họa sĩ người Thụy Sĩ, Paul Klee – 1920).
“Thơ là không gian, là thế giới
tuyệt đẹp, mà như chỉ nhà thơ mới nhìn thấy nó và truyền lại bằng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ này tạo nên một không gian của riêng tôi mà trong đó đời sống
tâm hồn luôn luôn được gắn kết với thế giới bên ngoài (cuộc sống
thực). Thơ tôi là một thế giới riêng biệt tâm hồn tôi. Tuy nhiên, nó
được gắn kết với mọi thứ” (Mai Văn Phấn đã nói như thế trong một
cuộc trò chuyện riêng tư với Raymond Keen về bản chất của thơ mình).
“Người trải qua sự hợp nhất
của cuộc sống sẽ thấy bản thể của riêng mình trong mọi sinh linh
cũng như mọi sinh linh trong bản thể của riêng mình, và nhìn mọi thứ
bằng một cái nhìn công bằng (Đức Phật).
Giới thiệu:
Mai Văn Phấn là một trong số những nhà thơ có uy tín, hiện sống
ở Việt Nam và thành quả của ông thực sự phong phú: Ông đã có 22 tập
thơ được xuất bản, nhiều tập trong số đó đã được dịch sang tiếng Anh
và các ngôn ngữ khác. Người ta có thể tin tưởng nói rằng, Mai Văn
Phấn hiện là một nhà thơ toàn cầu.
Ở Hoa Kỳ, bốn tập thơ của Mai Văn Phấn đã hiện diện trên
trang Amazon.com. Đây là tên và ngày xuất bản được ghi trên trang bìa
sau của chúng: “Bầu trời không mái
che” (11 - 2012), “Những hạt giống
của đêm và ngày” (10 - 2013), “Buông
tay cho trời rạng” (11 - 2013) và “Ra
vườn chùa xem cắt cỏ” (5 - 2014).
Bài phê bình này sẽ tập trung vào tập thơ được xuất bản
gần đây nhất, đã được dịch sang Anh ngữ “Thơ tuyển Mai Văn Phấn.” Tập thơ tuyển này đến tay chúng
ta từ Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam, ấn hành trong năm 2015.
“Thơ tuyển Mai Văn Phấn.”
được chia làm 5 phần:
I. Hoa giấu mặt
II. Bầu trời không mái che
III. Buông tay cho trời rạng
IV. Những hạt giống của đêm và
ngày
V. Ra vườn chùa xem cắt cỏ
Từ phần II đến phần V bao gồm các bài thơ được trích từ những
tập thơ cùng tên. Phần đầu tiên và là phần dài nhất trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn” là “hoa
giấu mặt” gồm những bài thơ được tập hợp từ hai tập thơ khác của Mai
Văn Phấn:
1. “từ tháng Giêng”
(chưa xuất bản) – các bài thơ từ trang 11 đến trang 194.
2. “hoa giấu mặt” (đã
xuất bản ở Việt Nam - 2010 và Thái Lan – 2012) – các bài thơ từ trang
197 đến trang 281.
Như tôi đã viết trong bài phê bình của mình (ngày 28 tháng
11 năm 2012) trên trang U.S. Amazon.com về tập thơ “Bầu trời không mái che” lung linh của Mai Văn Phấn (phần thứ
hai trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn”):
Thơ của Mai Văn Phấn diễn tả ánh hào quang của con người ở chính nơi đây, vào
chính lúc này trên trái đất hiện hữu. Trong thơ tôn vinh hành tinh của
chúng ta ở mọi phương diện biểu hiện cả bằng thể xác lẫn tâm hồn, nhà
thơ Mai Văn Phấn cởi mở lòng mình với thế giới, với bầu trời. Thơ
của ông không hát quá nhiều cho
thế giới và vì thế giới mà nó
hát cùng thế giới và trong thế giới. Vì nó hát trong thế giới, ngôn ngữ của nó diễn tả những vật thể sống
của thế giới như là những thực thể có thật, đang sống và chia sẻ sự tồn tại của chúng với chúng
ta.
Trong bài phê bình sau này của tôi (ngày 6 tháng 12 năm
2013) trên trang U.S. Amazon.com về “Những
hạt giống của đêm và ngày” đầy ma lực của Mai Văn Phấn (phần thứ ba
trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn”), tôi đã viết:
Ngay từ đầu và qua việc đọc những bài thơ này, hiện thực
được diễn tả bằng sự minh ngộ của con người khi có thể thay thế cho
những chất liệu còn nguyên sơ của thiên nhiên. Trong sự giao lưu theo
chiều sâu, bản chất con người và “thiên nhiên bên ngoài” được hợp nhất
trong một bức tranh toàn cảnh bằng thi ca về vẻ đẹp và mối xúc cảm
mãnh liệt.
Như tôi đã kết thúc bài phê
bình của mình về “Những hạt giống của đêm
và ngày”:
Trong thơ của Mai Văn Phấn, mọi
thứ được mang đến hiện tại trong sự xác nhận về một hiện thực tươi mới,
huy hoàng. Đây không phải là tiếng nói khô khan thường được tìm thấy
ở trong loại thơ phân tích của phương Tây. Đây là loại thơ cố gắng
diễn tả thực tại như là một tổng thể không bị chia cắt.
* * *
Vì vậy hãy cho phép tôi được
bắt đầu bằng sự minh ngộ đến toàn triệt của Mai Văn
Phấn như đã được bộc lộ ở nhiều bài thơ trong tập thơ “hoa giấu mặt”.
Thật đáng lưu ý rằng tất cả các bài thơ từ lúc bắt đầu phần này
đến trang 248 đều là những bài thơ chỉ có ba câu. Những bài thơ này
được nối tiếp bằng một mục thơ dài, Con
mắt nghiêng, gồm 99 bài thơ ba câu. Điều được tâm thức dễ dàng cảm nhận
cùng với những bài thơ này là hình thái thơ Nhật Bản được biết đến
như là thơ “haiku”. Thực ra thì
Max Verhart, học giả người Hà Lan và là bậc thầy về thơ haiku đã
viết nên định nghĩa sau: “Một bài thơ haiku là một cấu trúc nhỏ nhất
về ngôn từ mang theo chức năng khơi gợi một sự minh ngộ thấu đáo về sự sống”. Tôi nghĩ định
nghĩa này đã miêu tả một khía cạnh vô cùng quan trọng trong thơ Mai
Văn Phấn, mặc dù ông không khẳng định là mình làm thơ haiku. Tôi thực
sự nghĩ rằng tính sáng tạo của ông vượt lên trên bất kì “phạm trù”
nào về thơ.
Đây là “Sáng mồng một” non tơ (trang 13):
Sáng mồng một
Nhặt được chiếc tất trẻ con
Mềm
Như trái chín
Hình ảnh và âm thanh của bài thơ này (ngay cả trong bản
dịch) khơi gợi một sự minh ngộ thấu đáo về sự
sống”.
Cùng với mối xúc cảm mãnh liệt này là một sự ngạc
nhiên thường hiện, làm nổi bật giây phút tồn tại đó của con người,
chẳng hạn như trong bài “Bị sưng
khớp gối” (trang 94):
Bị sưng khớp gối
Cố lết gần cửa sổ
Con bướm trắng bay qua
Gây tê
Trong rất nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn, chúng ta đều nghe
và nhìn thấy khoảnh khắc thực tại đó. Làm sao mà bất kì ai có thể
đã từng tiên đoán về sự bất ngờ của “một con bướm trắng” sau khi
đọc hai câu thơ đầu? Chính hoạ sĩ Juan Gris quả quyết: “Bạn bị sai
lạc chính vào giây phút mà bạn biết kết quả sẽ là cái gì”
Thậm chí chúng ta có một sự ngạc nhiên to lớn như ở trong
bài “Vòm cây đan vào nhau” (trang 85):
Vòm cây đan vào nhau
Dựng thánh đường
Lá rụng
Vào địa ngục
Chúng ta không thể bỏ qua sự hóm hỉnh tinh tế mà siêu
việt của nhà thơ uy tín này, một sự hóm hỉnh thường hiện như ở trong
bài “Ngồi giữa lá sen” (trang 164):
Ngồi giữa lá sen
Con nhái bén
Thè lưỡi
Liếm trăng
Trong khoảnh khắc huyền diệu này, chúng ta nhìn thấy mặt
trăng từ điểm nhìn của con nhái, nhưng chúng ta cũng nhìn thấy toàn
bộ cảnh vật vì nó có thể thực sự xuất hiện trước mắt chúng ta ở đằng
xa. Từ cảnh vật thứ hai, ai sẽ nói rằng cái lưỡi của con nhái bén
không rất gần để liếm được mặt trăng? Phải chăng điều mà bạn thực
sự nhìn thấy mà không mang gánh nặng của cái tâm trí thiên về phân
tích thuộc phương Tây trong con người bạn cũng không phải là thật?
Một yếu tố khác về khoảnh khắc này là sự trải nghiệm cơ
duyên một cách trực tiếp. Trong thế giới thơ của Mai Văn Phấn, chúng ta
tự do và không bị vướng bận bởi gánh nặng của triết học và bệnh
dịch của “thuyết định mệnh khoa học” khiến người ta suy nhược. Khoảnh
khắc trải nghiệm vượt qua sự định nghĩa hoặc sự giải thích. Đó
chính là bản thân sự vật (câu die
Sache selbst của Martin Heidegger). Bài thơ sau đây diễn tả một cách
đẹp đẽ sự thanh khiết và sự tự do của cơ duyên - “Chú tiểu chùa nghèo”
(trang 161):
Chú tiểu chùa nghèo
Xuống núi gánh nước tưới cây
Về đến sân chùa
Trời đổ mưa
Tất nhiên là như chuyện thường xảy ra, chúng ta thấy được
sự hóm hỉnh tỉnh queo của Mai Văn Phấn trong bài thơ trên. Tôi có thể
tưởng tượng rằng nhà thơ đang nháy mắt khi ông viết xong bài thơ này.
Còn điều gì nữa đầy ma lực và không sao quên được có thể
được trải nghiệm đầy đủ trong khoảnh khắc này? Vẻ đẹp. Đúng vậy,
vẻ đẹp hữu hình của bài “Cuối
tháng giêng” (trang 20):
Cuối tháng giêng
Chưa thấy mưa xuân
Từng cánh hoa đào
Rơi chậm
Hay là vẻ đẹp hữu hình của bài “Sương mù” (trang 25):
Sương mù
Giăng
Mãi thế này
Gỗ mục đơm hoa
Hoặc vẻ đẹp bù đắp cho thân phận con người như ở trong
bài “Cụ già” (trang 33):
Cụ già
Răng rụng hết
Cười bên gốc hoa
Lác đác vài bông
Trong thế giới hiện đại của khoa học, chúng ta đã vẽ ra
cho mình một thế giới nhân quả của những sự kiện, một lịch sử phức
tạp đầy những sự kiện được quan sát và thậm chí được đo lường, một
sợi dây chuyền nhân quả kết nối hiện tại với một chuỗi nguyên nhân
trong quá khứ. Những miêu tả về các sự kiện nhân quả này không bao
giờ chỉ là bản thân các sự kiện, tuy nhiên chúng ta luôn luôn từ chối
việc miêu tả các sự kiện và việc miêu tả nguyên nhân của các sự
kiện như chính bản thân chúng. Đây là một ảo tưởng lớn được tạo ra
bởi “trí tuệ loài khỉ” của con người phương Tây, và những tiểu xảo
mà ngôn ngữ đó có thể thi triển khi nó thực sự cản trở sự trải
nghiệm thực tế một cách trực tiếp. Mai Văn Phấn chứng minh tính vô lí
của cách tư duy theo lối nhân quả, cũng như tính ưu việt của sự trải
nghiệm so với ngôn ngữ, bằng hai lần minh tưởng đầy hóm hỉnh về
thuyết nhân quả như đã được trải nghiệm từ bên trong. Đây là bài “Sáng
nay” (trang 36):
Sáng nay
Quên chưa bóc lịch
Đun ấm nước
Lâu sôi
Đây là bài “Ra vườn” (trang 37):
Ra vườn
Nhổ cỏ
Bình minh đến
Sớm hơn
Bài thơ trên có thể được coi là nực cười, hoặc thậm chí
là ngây ngô. Tuy nhiên, nó vô cùng trung thực và chân xác về sự trải
nghiệm trực tiếp của nhà thơ khi viết bài thơ này. Khi người ta xem
xét cái cách mà con người của thế kỉ 21 thoát li khỏi sự trải
nghiệm trực tiếp, cái cách mà con người đó hãnh diện trên ưu thế
trí tuệ của mình đối với thiên nhiên, cái cách mà con người đó
hoạch định cuộc sống để có được thành công và thắng lợi thì chúng
ta nhận thức được ngay rằng bài “Ra vườn” sâu sắc đến nhường nào.
Bài thơ giản dị gồm ba câu này làm nổ tan cái cảm giác ngạo mạn
hiện đại. Trong thi ảnh giản dị của mình về tình trạng của những
sự vật, bài thơ này quan sát mà không cần ưu thế nổi trội và bất
kì tham vọng thao khống nào cả.
Cần phải lưu ý rằng hầu hết mọi người trong chúng ta đều
nhất trí là mình đang sống ở trong một “thế giới bị tan vỡ”. Một
trong những mặt vĩ đại và mang tính bù đắp của nghệ thuật là nó mang
lại cho chúng ta cơ duyên trải nghiệm cuộc sống của chính mình và
toàn bộ thế giới. Một đề tài lớn khác trong thơ Mai Văn Phấn là sự
khẳng định tính hợp nhất của thế giới này. Chúng ta trải nghiệm
điều này trong bài “Tắm xong” (trang 38):
Tắm xong
Trời
Đã chuyển mùa
Cây mộc lan già đi
Điều gì có thế khẳng định hơn và thực sự làm yên lòng
ta – chính là bầu trời và các mùa trên mặt đất, được gắn kết với
một thân cây mộc lan đơn chiếc đang già đi.
Trong các bài thơ của Mai Văn Phấn, sự trải nghiệm thực tế
được diễn tả trực tiếp mà không cần nhãn mác hay sự giải thích như
trong bài “Nghe tiếng đập cánh” (trang 65):
Nghe tiếng đập cánh
Uống cạn chén nước
Chưa kịp biết tên loài chim
Vừa bay
Khi đó có lòng trắc ẩn sâu lắng dành cho mọi sinh linh
trong bài “Nhìn thấy” (trang 82):
Nhìn thấy
Con gián què
Lết trên sân rộng
Không nỡ giết
Lòng trắc ẩn của Mai Văn Phấn dành cho mọi sinh linh bao
gồm cả sự minh ngộ kì lạ về thân phận riêng tư của chúng như trong
bài “Cầm xác con ve” (trang 83):
Cầm xác con ve
Nhẹ tênh
Như nó
Chưa từng có
Sự minh ngộ kì lạ và lòng trắc ẩn dành cho mọi sinh linh
này bao gồm cả tầm hiểu biết về sự sống của chúng vượt qua cả
thời gian như trong bài “Con chim lạ” (trang 69):
Con chim lạ
Đậu xuống sân
Nhìn tôi
Thân từ kiếp trước
Lòng trắc ẩn của Mai Văn Phấn rộng mở đến cả “thế giới
không vật sống” nơi mà ông không chỉ thổi sinh khí vào đó mà còn làm
cho “giọt sương” này trở thành một phần của gia đình mình như trong
bài “Nguồn cội” (trang 115):
Nguồn cội
Mình và giọt sương
Nhìn nhau
Hai anh em
Đôi khi, “tính công việc” trần tục của thế giới này vẫn
bò vào sự hiện diện siêu nghiệm được diễn đạt trong thơ Mai Văn Phấn
như trong bài “Hoa ở hội trường” (trang 93):
Hoa ở hội trường
Còn tươi
Vẫn phải thay
Vì cuộc họp khác
… và điều gì có thể trần trụi hơn cái điều mà nhà thơ viết
với sự tiêu khiển về “Facebook” trong bài “Bác tôi” (trang 136):
Bác tôi
Sống kín đáo
Giờ có facebook
Gặp cảnh gì cũng chụp
* * *
Bây giờ tôi sẽ chọn mục thơ
cuối cùng trong tập “hoa giấu mặt” (Phần đầu tiên trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn”) - Con mắt
nghiêng, gồm 99 bài thơ ba câu (từ trang 249 đến trang 281).
Như trong nhiều bài thơ trước, có một điều kì diệu và
phép màu thường hiện được phản ánh trong bài thứ 19 (trang 255):
Nhặt cỏ, xới đất, tưới cây…
Đâu biết
Rập rình đám cưới đôi bướm trắng
Bản thân thiên nhiên được thổi sinh khí bởi sự minh ngộ –
bài thứ 22 (trang 256):
Cây lắc lư
Tưởng chim sơn ca
Làm mình say
Trong vẻ đẹp hợp nhất của thơ Mai Văn Phấn, ngay cả các
giác quan của con người cũng vượt qua những đường ranh giới và âm
thanh cũng được nhìn thấy – bài thứ 41 (trang 262):
Lễ cầu siêu
Chân linh
Tiếng chuông màu cỏ non
Dường như có một nốt nhạc buồn được nhắc đến bên trong
mục Con mắt nghiêng – bài thơ thứ
29 (trang 258):
Lá rụng
Che gốc cây cằn cỗi
Buồn hơn
Tôi nghĩ rằng điều rõ ràng và quan trọng nhất mà người
ta có thể nói về tâm thức thơ của Mai Văn Phấn là nó mở ngỏ với tất cả mọi thứ. Trong
bài thơ trên, chúng ta có mối quan hệ không thể lầm lẫn giữa “nỗi
buồn” và “sự che phủ”.
Trong bài thơ thứ 69 (trang 271) chúng ta có một cảm giác
lan toả về sự che phủ hay là đóng kín:
Đám mây
Che mặt trăng
Nhắm mắt
Điều gì có thể bị đóng kín hay bị che giấu hoặc thiếu
vắng sự hiện hữu hơn là bản
thân cái chết, điều mà Mai Văn Phấn giới thiệu rõ ràng hơn trong các
bài thơ thuộc mục Con mắt nghiêng.
Trong bài thơ thứ 68 (trang 271), nhà thơ đã viết:
Một ngày làm việc
Xây mộ hoàng đế
Góc nào biết góc ấy
Những đề tài liên quan đến cái chết và bị cắt lìa khỏi
hiện tại còn tiếp tục ở trong bài thơ thứ 79 (trang 275):
Cỏ trên mộ cha
Như vừa trồng
Tự bao giờ
Trong bài thơ thứ 90 (trang 278), chúng ta có được cái cảm
giác về sự tận cùng của cái chết:
Đêm
Xuống đều
Thương bông hoa không còn hương
Tuy nhiên cái chết và những biểu tượng của nó cùng sống
chung với một vầng mặt trời đang chuyển động trong bài thơ thứ 81 (trang
275):
Mặt trời
Len qua sương mù
Dịu mát lúc hạ huyệt
Trong tâm thức thơ rộng mở của Mai Văn Phấn, sự sống và
cái chết, mở và đóng, âm và dương, thậm chí cái tốt và cái xấu
cùng tồn tại – sự xác nhận cả hai cực bên trong một tổng thể con
người. Tâm thức phán định chia rẽ và phân tách, nhưng tâm thức thơ
nhìn thấy những điều như khi chúng thực sự là chúng mà không cần
đến sự phán định. Nhà soạn kịch vĩ đại người Anh là William
Shakespeare có một trong số các nhân vật vĩ đại nhất của mình là
Hamlet, đã miêu tả quá trình chia tách này: “... không có gì hoặc là
tốt hoặc là xấu cả, chỉ có tư duy làm cho nó trở thành như thế”.
* * *
Tất cả các bài thơ trong phần II (“Bầu trời không mái che”) được lấy từ tập thơ “Bầu trời không mái che” của Mai Văn
Phấn. Phần này kéo dài từ trang 283 đến trang 386, vào khoảng 100 trang.
Tựa đề của phần này liên kết ý tưởng về một bầu trời mở ngỏ và
lối lên Thiên đường.
Đây
là điều mà nhà phê bình văn học Việt Nam, Lê Vũ, viết về “Bầu trời không mái che”: “Bầu
trời không mái che”, ba phần chia biệt nhưng là một thể thống nhất trong cái
nhìn đậm màu sắc tâm linh của Mai Văn Phấn về thế giới mà nổi lên là mối quan hệ giữa thiên nhiên và người, giữa
động và tĩnh, giữa sinh và tử, giữa tình và dục.
Ba phần riêng biệt của “Bầu trời không mái che” là Cửa Mẫu (từ trang 287 đến trang 299), Mùa
trăng (từ trang 300 đến trang 314) và Hình đám cỏ (Từ Nhịp I đến Nhịp IX – từ trang 315 đến trang 386).
Cửa Mẫu được chia thành 9 phần. Ngay lập tức,
người ta hiểu được nhiều hơn về thế giới loài người, dễ dàng hơn để
nhận biết nhà thơ là một người đàn ông khi Mai Văn Phấn sử dụng ngôi thứ
nhất, xưng “con” trong suốt các bài thơ. Ở đây, chúng ta có một sự
hiểu biết sâu sắc qua lời kể về nhà thơ này khi ông so sánh và tương
phản, mở và đóng, chuyển và rẽ trong một sự trình bày hấp dẫn đến
mê hồn về sự kết nối mọi thứ với
mọi thứ. Người mẹ, đứa con, gia đình và tình cảm con người được
kết nối với tất cả mọi thứ trên bầu trời và trái đất, được kết nối
chặt chẽ trong tiếng kể chuyện đơn lẻ của một con người (trang 290):
Con
bật khóc cuốn đi lưới nhện
Tiếng
con vạc khàn khàn
Tàn
tro loé sáng
Mặt
trăng run
Trong thế giới loài người này, nhà thơ cảm thấy gánh
nặng của trách nhiệm (trang 291):
Giọng nói rất gần
Dưới bình minh con hãy lột xác!
Với gánh nặng của trách nhiệm này, nỗi buồn thương ập đến
chủ yếu là vì gia đình (trang 294):
Cha bỗng thều thào hãy dìu cha đi
nghỉ
Tiếng lá khô trượt trên mái nhà
làm cha và con cùng rơi nước mắt.
Những khoản tiền đặt cược cho sự sống sót của con người
thì cao vời, thậm chí trong sự minh ngộ trầm lặng của Mai Văn Phấn (trang
295):
Màu đen
tràn lên mọi điều sẽ kết thúc
Hãy
nguyện cầu cứu lấy nhân gian
* * *
Phần “Mùa trăng” gồm 9 bài thơ. Âm thanh, cảnh tượng và sự
đụng chạm xác thịt trong những bài thơ này ngọt ngào đến mức không
thể nào quên như trong bài Cốm hương:
Khăn áo ấy mịn màng da thịt
Dâng heo may lên trời (trang 304)…
Lá sen xanh ủ cốm em anh
Chín nẫu chân mây mùa hạ
Đêm ái ân lặng phắc ngọn đèn
Trái hồng đượm trong hương cốm
nõn. (trang 305)
Rồi thì trong bài Thu
đến (trang 307):
Chú bê non chạm lưỡi mềm mặt cỏ
Trong bài thơ cuối
cùng của “Mùa trăng” (cũng có tựa đề Mùa trăng), sức mạnh tình yêu
đầy ma lực và hầu như vô tận được hiển lộ:
Anh dìu em lồng lộng váy hoa
Hôn em, ngón tay út
Nâng em lên trăng (trang 313)…
Ngày mai mặt đất này
Và thế giới sẽ đổi khác. (trang 314)
* * *
Phần thứ ba cũng là
phần cuối cùng của “Bầu trời không mái che” mang tựa đề Hình
đám cỏ, bao gồm Nhịp I đến Nhịp IX (từ trang 317 đến trang 386).
Mai Văn Phấn gõ lên một
nốt nghịch âm mới và thực tại vô vị về công việc của con người trong
một thế giới thường nhật (Nhịp III
– trang 334):
Công
việc thường ngày nhàm chán
Cơ thể
lỏng ra
Đầu óc
đâu đâu
Các
khớp xương rã rời trên ghế
Tay
này, đúng tay trái
Mỏi mệt
mở cổng từ sớm
Vung
nhẹ lúc phân chim rơi vô tình
Còn tay
kia
Giơ lên
cách đây một giờ
Lúc mọi
người biểu quyết
Có việc
phải vào biên bản
Thế giới gồm toàn những thứ đồ nhân tạo này cũng là
một phần của hiện thực, một phần của thế giới không vật sống. Tính
bao dung rộng lớn của Mai Văn Phấn cũng hàm chứa cả khía cạnh này trong
cuộc sống loài người của chúng ta (Nhịp
III – trang 339):
Trên bàn em bày biện đủ thứ
Cặp sách, tờ báo, chùm chìa khóa
Điện thoại di động
Trong cảnh tương phản
gay gắt với tính vô vị của cuộc sống con người được diễn tả trực
tiếp ở trên, người ta phát hiện ra ở trong thơ của Mai Văn Phấn sức
mạnh cứu rỗi trong tình yêu con người giữa hai cá thể. Tuy nhiên, tình
yêu con người mà nhà thơ viết về này còn nhiều hơn thế và bao gồm
một mối quan hệ với tất cả sinh linh và tất cả các mặt của thế
giới vật chất hiện hữu (Nhịp V –
trang 352):
Lùa cơ thể vào nhau
Ném từng thanh củi lửa
Em và anh cùng phát sáng bóng tối
Trong Nhịp VI, nhà thơ ngợi ca
tình yêu này với tất cả những điều hứa hẹn, niềm đam mê, sự bối
rối và tính điên cuồng của nó. Nó có thể mang tính cứu rỗi nhưng
nó không hề đơn giản hoặc dễ dàng (trang 357):
Eo lưng em nửa chiếc bánh vừa cắt
Làm dĩa làm thìa nâng bổng em lên
Chênh chao môi sâu hố thẳm
Anh nhai, hàm răng ghì chặt
Con chim ưng chộp bằng móng vuốt
Hổ báo vặn mình hùng dũng bật lên
Loài rắn độc ngậm con mồi truyền nọc
Thân cây lớn bật tung bờ cát
Khoái cảm của tình yêu
con người còn tiếp tục ở trong Nhịp
VIII (trang 377):
Anh u mê không chân em tay anh
Hơi thở lạc trong làn tóc rối
Tung lên bọt sóng quay tròn
Con trăn khổng lồ xiết con mồi nhỏ
Đây là sự điên cuồng
của tình yêu có thể làm rung chuyển toàn bộ hành tinh này (Nhịp IX – trang 379):
mặt đất lồng lộng đỉnh đầu tâm xoáy
lưỡi gió miết thân lả tả càng bám
chặt càng lay giật mạnh khản đặc hú
gào hối thúc nghiêng ngả ngậm chặt lá
khô giãy giụa càng lảm nhảm bóng đè
thập thõm con đường mải hôn càng căng
mơn mởn dìu anh miệng vực lẩm bẩm
không thể rời nhau sợ sâu toát vã
Tất cả “sự hỗn loạn
đẹp đẽ” này được tạm thời neo lại bởi lời tuyên bố của Mai Văn Phấn
về sự tự minh ngộ rằng ông là một nhà thơ có ý định viết về sự
hỗn loạn đẹp đẽ này. Theo một cách thức đơn giản nhất mà lại sâu
sắc nhất, ông nhắc cho chúng ta nhớ rằng ông đang làm thơ. Có lẽ đây
là một điều nhắc nhở cần thiết bởi vì không có nhà thơ nào ở
phương Tây hay ở phương Đông diễn tả hiện thực một cách trực tiếp hơn
thế. Bởi vì Mai Văn Phấn rất có năng khiếu về điều ông làm (làm thơ),
chúng ta có thể quên rằng ông là một nghệ sĩ miêu tả thế giới bằng
ngôn từ và ngôn từ không phải là bản thân thế giới. Trong Nhịp IX (trang 381), ông viết:
Muốn viết câu thơ tự nhiên
Như đi trên đất
Không nghi ngờ gì, một
trong những nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỉ 20 theo tiêu chuẩn phương
Tây là Wallace Stevens. Trong một bài thơ thần diệu của mình là bài
“Ý tưởng về trật tự tại Key West”, ông mang đến cho chúng ta một qui
trình chuẩn xác về cách thức để loài người tạo ra thực tại bằng
ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt tư tưởng của họ. Ngôn ngữ, đặc biệt
là ngôn ngữ thơ, khiến cho ý nghĩa trở thành có thể. Không có ngôn
ngữ, chúng ta có một thực tại trống rỗng không thể chia sẻ hay ghi
nhớ được – vì thực tại lưu chuyển mà không có sự nhận thức sẽ trở
thành hư vô. Trong bài thơ “Ý tưởng về trật tự tại Key West”, Wallace
Stevens tiết lộ một trí tuệ loài người tạo ra ngôn ngữ và định
nghĩa bản chất loài người của chúng ta trong bài thơ đó là “nàng”.
Đây là âm nhạc của trí tuệ loài người vì “nàng” diễn tả thực tại
về “biển cả” trong cách khả dĩ duy nhất mà nó có thể được đưa vào
vương quốc loài người:
Và khi nàng hát, biển cả,
Bất kì bản thể nào mà nó có đều
trở thành bản thể ấy
Đó là bài ca của nàng, vì nàng
là người sáng tạo. Lúc đó chúng ta
Vì chúng ta trông thấy nàng sải
bước ở nơi đó một mình,
Biết rằng đã không bao giờ có một
thế giới cho nàng
Ngoại trừ cái mà nàng đã, đang ngợi
ca và đã tạo ra.
(Trích từ “Wallace Stevens: Tuyển tập thơ và văn xuôi” –do Frank Kermode và
Joan Richardson biên tập – Thư viện Hoa Kì, New York, N.Y., 1997, trang 106).
* * *
Phần thứ ba trong “Thơ
tuyển Mai Văn Phấn” mang tựa đề “Buông tay cho trời rạng” và những bài thơ này là lấy từ
tập thơ cùng tên của ông.
Không cần phải ngạc nhiên rằng Mai Văn Phấn có thể viết
một cách đầy quyền uy về cái chết và những giấc mơ. Cũng cần phải nói
rõ ràng với bất kì bạn đọc nào của thơ ông rằng phạm vi nội hàm
của ông bao gồm tất cả mọi thứ.
Tính bao dung đáng ngạc nhiên này vẫn còn nằm ngoài vòng cương toả
của sự phán định đầy tính chuyên chế. Vì Đức Phật nhận ra rằng tâm
thức phán định gây ra sự chia rẽ và tình trạng bất hoà.
Trong bài thơ thứ hai của phần này là bài Biến tấu con quạ (từ trang 393 đến
trang 398), cái chết được kết nối trực tiếp với cuộc sống và ánh
sáng, với một sự soi rọi vào thân phận con người. Con quạ thường
được coi là biểu tượng của cái chết hoặc là biểu tượng của sự thay
đổi và hoán chuyển: Để cho một thứ gì đó được thay đổi, một phần
của nó phải tử vong. Mai Văn Phấn bắt đầu bài thơ này bằng cái chết (trang
393):
Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh trời
Con quạ rực sáng.
Cũng trong bài thơ ấy, lúc đó ông giới thiệu điều có thể
được miêu tả tốt nhất như là một cảnh tượng đầy ác mộng về những điều
vô lí xứng đáng được so sánh với các tác phẩm của nhà văn vĩ đại
người Séc (nhà văn này viết bằng tiếng Đức) là Franz Kafka (trang
397):
Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn
đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy
điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi
móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu
thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều
người vẫn tìm được lối đi vào
Cơn ác mộng và cảnh tượng vô lí nhất trong thơ Mai Văn Phấn
còn tiếp tục ở bài Chỉ là giấc mơ (trang 408):
Chúng bịt miệng
trấn lột mọi thứ
và xin tôi bộ phận sinh dục.
Nói rằng xin
bởi nếu tôi không đồng ý
của quý kia phải liệng xuống hố
phân
(chúng biết cả bí quyết thần
chú).
Tôi bảo:
các ông có thể lấy hết
nhưng cho tôi giữ lại chút riêng
xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ
lau, trâu chó.
Tôi cúi xuống đón chiếc ách lên
vai
Tôi xù lông và bắt đầu sủa lớn
Tôi lúc lắc và kêu bíp bíp
Tôi mài cơ thể mình xuống sàn
nhà.
Ai sẽ nghĩ rằng một nhà thơ trầm lặng như Mai Văn Phấn –
có khả năng diễn tả sự tiếp xúc thanh nhã và trực tiếp nhất với
thế giới thực – cũng có thể mang đến cho chúng ta một cảnh tượng vô
lí nhất khiến người xem bực bội một cách tuỳ hứng như là một cơn
ác mộng như trong bài Hắn (trang
410):
Hắn là nơi hoàn thiện:
của gương đã lành/ sâu đã nở/
trinh đã mất/ cáp đã đứt/ cống đã thông...
là bãi phế thải của giẻ rách/
mảnh thủy tinh/ băng vệ sinh/ giày dép lạc mốt...
Thật là hấp dẫn khi nghiên cứu tài năng của Mai Văn Phấn được
mang ra để miêu tả sự vô lí đến mịt mờ thậm chí mang tính lật đổ
khiến người ta không thể không nhớ đến các tác phẩm của Franz Kafka,
nếu nhà thơ này quen thuộc với tác phẩm nổi tiếng nhất của Kafka là
“Hóa thân” (The Metamorphosis), một cuốn truyện mang tính tường thuật được
xuất bản lần đầu tiên trong năm 1915. Trong cuốn truyện mang tính tường
thuật của Kafka, nhân vật chính là Gregor Samsa thức dậy vào một buổi
sáng và nhận ra rằng không biết vì sao mình đã bị biến thành một
con gián kếch xù. Đây là bản dịch tiếng Anh đoạn đầu tiên của tác
phẩm vĩ đại này:
Khi Gregor Samsa thức dậy vào
một buổi sáng từ những cơn mộng mị đầy bức bối, anh thấy mình đã
bị biến thành một con côn trùng kếch xù ở trên giường. Anh đang nằm ngửa
với cái lưng cứng như là một tấm áo giáp và khi anh ngẩng đầu một
chút thì có thể trông thấy cái bụng màu nâu hình vòm cung của mình
được chia thành những đốt cong cứng ngắc mà ở phía trên đỉnh của
chúng, tấm chăn khó có thể giữ ở đúng vị trí và sắp sửa tuột hết
xuống. Vô số những cái chân của anh, khẳng kheo một cách đáng thương
khi so sánh với phần thân thể còn lại to kinh khủng đung đưa một cách
bất lực trước mắt anh
(Trích từ “Franz Kafka: Những truyện đã viết xong” – biên tập bởi Nahum
N. Glatzer, Schocken Books, New York, 1971, trang 89. Bản dịch tiếng Anh
của Willa và Edwin Muir)
Trong bài Chuyện còn dài,
Mai Văn Phấn viết trực tiếp về một con gián, kết nối nó theo một
cách thức thân mật với người kể chuyện trong bài thơ (trang 424):
Con gián bò quanh tôi và nói
vừa đầu thai được ba tháng tuổi
kiếp trước từng là người đàng
hoàng
Đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?
Tôi không tin và đu lên khung cửa
Thế nhân chứng đâu? Vật chứng
đâu?
Con gián giơ một chân lông lá
Ừ, thì tạm coi đây là cánh tay
đang chới với qua ô cửa sắt,
hay chìa ra từ vạt áo sang trọng
của người miệng rộng, lưng thuôn
bước đi xoải dài, gối cứng
Như đã nói từ trước, thơ của Mai Văn Phấn phong phú về giọng điệu và tính đa dạng đến khó tin.
Chẳng hạn như ở trong những bài thơ trên, chúng ta nhìn thấy sự hóm
hỉnh “tỉnh queo” của nhà thơ khi ông miêu tả một “con gián hay chuyện”
nói về việc mình là một “con người đàng hoàng” ở một “kiếp trước”.
Các tác phẩm của Franz Kafka cũng hàm chứa một sự hóm hỉnh “tỉnh
queo” (và có người còn nói là “chết người”)
Sự hóm hỉnh tỉnh queo và tài hoa của Mai Văn Phấn được
tìm thấy theo từng đợt suốt phần thứ ba trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn” (“Buông
tay cho trời rạng” – từ trang 391 đến trang 490). Thí dụ như ở trong bài Hội chứng từ một tin đồn, ông
viết cho bạn đọc như thể ông đang khuyên bảo một đứa trẻ chưa trưởng
thành (trang 417):
Nhớ không thò đầu và tay ra ngoài
Nhớ suy tư hoặc chăm đọc sách
Nhớ không đạp chân và khạc lên
tường
Nhớ hắt hơi lấy tay che miệng
Nhớ dùng xong xả nước bồn cầu
Nhớ phát âm tròn vành rõ chữ
Nhớ nâng ly và uống từ từ
Nhớ nằm ngủ đắp chăn ngay ngắn
Nhớ đánh răng và dùng lược chải
đầu...
Ở ngay trong bài thơ tiếp theo, Biết thì sống, nhà thơ
có thể đang miêu tả những người đã trưởng thành mà có cách hành xử
sai trái khi ông viết (trang 418):
Nhận đúng
nốt ruồi bên mắt trái chị thu tiền điện
đêm qua bị bắt quả tang
đang ôm hôn ông trưởng thôn trong quán thịt chó...
"Biên bản lập thành 05 bản
Có giá trị pháp lý như nhau".
Sau đó, từ những điều vô lí đến những
điều thực sự cao thượng, Mai Văn Phấn lôi cuốn chúng ta bằng thi ca
phong phú và uyên thâm như bất kì bài thơ nào mà tôi đã từng đọc.
Trong bài thơ đáng kinh ngạc, Anhanhemem,
nhà thơ vượt qua tính đồng nhất về tình dục cá nhân giữa một
người đàn ông và một người đàn bà qua những khoảnh khắc sẻ chia
tình yêu của họ khi họ trở thành Một
trong một phép màu miêu tả bằng thơ. Lưu ý đến sự hài hước rõ ràng
trong tựa đề, những đặc điểm riêng của đôi uyên ương này được kết hợp
lại thành một để tạo thành “Anh anh em em”. Trong trang 448 của bài Anhanhemem, nhà thơ đã viết:
Miệng anh còn thơm trái cây và
hương trà em uống. Chiếc bánh ngọt pha kem lẫn với quế chi. Anh còn nhớ. Chiếc
ghế rộng lắm. Khi bờ vai trổ những bông hoa, môi anh thắp ngọn đèn linh thiêng
góc tối. Bông hoa chỉ nói được phần nhỏ nhoi lòng đất rộng. Lòng đất rung
chuyển khi bông hoa đứng yên.
Nhà thơ kết thúc bài thơ này ở trang 449 với đoạn sau:
Yêu nhau. Là những nghi thức dâng
tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa
làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn đọt mầm từ thân
thể nở bung.
Trong bài thơ hoa lệ này, Mai Văn Phấn đã cải biến vũ trụ
– các hành tinh, động vật và con người, thậm chí những vật vô tri vô
giác và những nguồn sức mạnh của “Kim, Hoả và Thuỷ” thành một tổng
thể hài hoà vĩ đại.
Trong bài thơ cuối cùng trích từ phần “Buông tay cho trời rạng”, nhà thơ đạt tới những tầm cao vời
vợi về ngôn ngữ trong bài thơ gồm 27 đoạn, Những bông hoa mùa thu (từ
trang 458 đến trang 490). Ông đã viết:
Em và anh tụ thành nước mát
mưa xuống những nụ hôn làm lại
thế gian. (trang 459)
Ông còn tiếp tục trong ngôn ngữ rực rỡ chỉ dành riêng cho
Mai Văn Phấn:
Không cần sấm chớp, tụ mây
ta mưa vào nhau cơn mưa cỏ xanh
nắng lại trải vàng mặt đất (trang
475)
Trong giây phút ái ân với Người khác, thế giới này được
hàn gắn lại (trang 483):
Gần em
cho mưa bay
cỏ dưới
chân đang hàn gắn thế giới
dòng sông em tắm mát cánh đồng
chân dài em chao nghiêng mặt đất
vòm ngực em dâng tới đỉnh trời
hơi thở em thổi tung bờ bãi
làn môi em nghiền anh thành bụi
Trong những đoạn thơ kết thúc bài Những bông hoa mùa thu (từ đoạn 24 đến đoạn 27), bằng ngôn
ngữ, Mai Văn Phấn đã sinh hạ một thế giới mới, một thế giới được tái
sinh trong từng khoảnh khắc để mãi mãi trường tồn (trang 487):
đất yên
bình những ngọn đồi nhấp nhô trong thênh thang gợi lưng em mềm mại chuyển động
qua cành la cành vượt hàng cây mới trồng gốc còn ẩm ướt bước
tới chân trần eo thon yểu điệu anh nhìn bằng ý nghĩ biết lơ đãng quay
lưng đuôi tóc cùng mở mắt thấu tỏ thôi đừng hỏi không nghe nhẹ hẫng bay cao
vướng vào chim chóc luồng đạn hoa cải rơi xuống ngọt ngào cơn mê ai biết nói vô
thức hoá thành bé nhỏ lặn sâu vào cơ thể không có sóng ngất ngây trong cân đối
rã rời buông xuống thân anh làm đỉnh núi tôn vinh mặt đất
ngước lên khuôn mặt em đọng mãi không gian trong suốt tỉnh dậy làm cục sắt
nung nóng ngơ ngác giữa thiên nhiên suối chảy trái cây vừa rụng vỡ oà trên tảng
đá nuối tiếc không uống hết thơm ngon đừng chảy ra ngoài vạn vật nối vào cuống
nhau nuôi anh từ bất tận gọi sẽ thưa lay mạnh sẽ đau sang vật khác hài hoà
chạm khẽ thanh cao.
Bài Những bông hoa mùa
thu kết thúc bằng một hiện thực ngọt ngào, dịu êm luôn luôn thay
hình đổi dạng (trang 490):
Tỏa
hương thanh khiết em bảo: mình vừa tái sinh dưới đám mây bay.
* * *
Phần thứ tư trong “Thơ tuyển của Mai Văn Phấn” mang tựa
đề “Những hạt giống của đêm và ngày”.
Khi tôi nói đến trong phần giới thiệu, các bài thơ trong phần này được trích từ tập thơ cùng tên của ông. Phần
này mở ra bằng sự sùng kính ở trong bài thơ Những bông hoa Yên Tử (trang 495):
Bảy trăm năm trước
Đức - Phật - Hoàng Trần Nhân Tông
Cúi đầu đi qua
Sự
sùng kính này còn tiếp tục, một sự sùng kính đôi khi gợi ý rằng
sự hồi sinh của thiên nhiên phải trải qua một sự hi sinh. Trong bài Linh hồn
đã bay... (trang 499), nhà thơ đã viết:
Trong đất máu đã phục sinh
Hóa nhựa non rưng rưng lá
rụng
Nhưng nhà thơ nhạy cảm này, với cuộc đời rộng mở trước
toàn bộ thiên nhiên, phải dâng hiến, có thể là bị tràn ngập, như
trong bài Từ những hạt mưa (trang
513):
Sủi bọt. Rạn nổ.
Vụn nát
Hơi nóng bốc cao
ngùn ngụt giữa trời
Nỗi khắc khoải
không còn ý nghĩa
Sự đổi thay vượt
quá sức mình
Chưa kịp đắn đo,
chưa kịp tưởng tượng
Đã chìm trong mưa,
đã cuốn theo mưa
Bỗng nhận ra mình
trong tiếng kêu người khác
Những khẩu hình tựa phôi thai, miệng
hạt, nhụy hoa...
Có lẽ hai khổ thơ trên gợi ra một đầu mối cho lí do tại
sao mà Mai Văn Phấn ràng buộc đời mình vào nghệ thuật thơ ca để sẻ
chia cùng thế giới. Như chuyện thường xảy ra với các nghệ sĩ, họ vô
cùng nhạy cảm và cần được diễn đạt những điều ở trong tâm thức của
mình nhằm giải phóng bản thân ra khỏi gánh nặng của dung lượng này.
Bản thân là một nhà thơ và cũng là độc giả của thi ca, tôi có thể
không ngần ngại mà nói rằng tôi chưa bao giờ gặp được một nhà thơ
cởi mở lòng mình với tất cả mọi mặt trong cuộc sống con người như Mai
Văn Phấn.
Trong bài Giọng nói (trang
514), nhà thơ đã trực tiếp nói về tài năng thơ của mình và cả điều
bí ẩn về xuất xứ của nó:
Vừa tỉnh dậy
Tôi ngỡ nghe giọng nói
Chưa biết từ đâu
Vang vọng đi đâu
“Sự thú nhận” này của nhà thơ liên quan đến sự bí ẩn về
các xuất xứ nghệ thuật của ông
không phải là điều đáng ngạc nhiên. Nó tiết lộ rằng ông có
một sự tiếp xúc trực tiếp với cái mà các nhà tâm lí học nói đến
như là “tính vô thức” luôn luôn được ẩn giấu khỏi “minh thức”. Các
nghệ sĩ, mang tính đơn nhất, có được lối đi trực tiếp tới sự bí ẩn
bao la của tính vô thức này.
Trong bài
Bức ảnh, trái cây và giấc mơ (trang 517) Mai Văn Phấn miêu tả cách thức mà ông biến cải
thiên nhiên và hiện thực thành một phép màu kì diệu của thơ ông:
Nhưng khắp nơi đang bắt đầu những dòng đổ vào ký
ức, cả từ bức ảnh, trái cây, giấc mơ thành giọng nói đêm qua.
Tuy nhiên, đôi khi nhà thơ miêu tả một thế giới tan vỡ không
dễ dàng tiếp cận hoặc tiết lộ. Ngay cả khi đó, Mai Văn Phấn vẫn là
một bậc thầy về cách diễn đạt “sự thất bại này” để tạo ra sự
tiếp xúc với những gì có thực, vì bản thân thời gian dường như bị
cầm giữ bởi “chứng động kinh thời thơ ấu” (Niệm khúc số 18, trang
524):
Bóng vật
ngược vào thân ăn trọn giãi bày mở phút giây tưởng niệm mắt tỏa mềm góc quét
chợt hiện bầu trời từ cách nhìn kim đồng hồ lên cơn sài giật dù kêu gào hay im
bặt không cách gì chạm được nhựa trái non.
Bài thơ cuối cùng trong phần thứ tư (“Những hạt giống của đêm và ngày”) là bài Tỉnh dậy trong mưa, được chia thành 27 đoạn. Trong đoạn 9,
điều hết sức rõ ràng là nhà thơ đã tìm lại được sự tiếp xúc trực
tiếp với thế giới thiên nhiên đầy hấp dẫn, khi ông viết phần sau đây (trang
542):
Chạm
vào anh biết viên sỏi rất mềm, cọng rơm khô trĩu nặng, sợi tóc thở nhẹ.
Anh
cầm rất lâu.
Gieo
xuống đất. Tung lên trời và hứng một hạt mưa.
* * *
Ở phần thứ năm và là phần cuối cùng trong “Thơ tuyển Mai Văn Phấn” – “Ra
vườn chùa xem cắt cỏ” – như trước đây, tất cả các bài thơ trong phần
này đều được trích từ tập thơ cùng tên của nhà thơ.
Như là điều xảy ra với các phần khác, sẽ tiếp tục có
một sự hoà trộn đầy hấp dẫn giữa niềm vui và nỗi sợ trong cuộc
sống con người. Tâm thức rộng lớn bao dung của Mai Văn Phấn – giống như Đức Phật – không làm ra
sự phán định nào về cái thiện và cái ác, và thông qua thơ mình thể
hiện bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái thô bỉ và cái
thanh nhã, cái tinh khiết và cái vẩn đục, cái đơn giản và cái phức
tạp, cái sâu sắc và cái hời hợt, sự buồn cười (dí dỏm) và nỗi
buồn phiền, cái hài và cái bi, điều vô lí và điều hợp lí. Đức
Phật đã dạy rằng một con đường dẫn đến trí huệ là phải duy trì một
khoảng cách với những ý nghĩ hoặc những khuôn thức dựa trên các
khái niệm. Sức mạnh và vẻ đẹp phi thường của thơ Mai Văn Phấn là nó
duy trì được sự chân thực đối với sự trải nghiệm trực tiếp thực
tại của loài người và thế giới mà không cần đến học thuyết hay
khái niệm trừu tượng của trí tuệ. Thậm chí với hiệu quả làm xa cách
vẫn thường thấy mà ngôn ngữ nói áp đặt lên sự trải nghiệm trực
tiếp không qua lời nói, ngôn ngữ của nhà thơ vĩ đại này đôi khi còn
trực tiếp và toả sáng hơn cả tác phẩm của các nghệ sĩ không dùng
văn bản hay lời nói, thí dụ như các hoạ sĩ và các nhà soạn nhạc.
Đây là một đoạn trong một bài thơ rõ ràng là không nghiêm
túc, lại còn cố ý không thật thà và rất thú vị (Còn cậu hãy đứng
đằng kia – trang 569):
Đêm nay
Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành
phố
Nhưng đừng sợ!
Nhà nào bây giờ cũng thiết kế
kiểu lô cốt
Trời tối không ai ra đường.
Trong hai câu thơ cuối của bài Nhìn kỹ, Mai Văn Phấn nhận
xét rằng những lời tuyên bố của các quan chức chính quyền thiếu
chính xác và thậm chí ngớ ngẩn làm sao khiến cho chúng tạo ra một
sự vô lí đến tức cười (trang 571):
Nắp thùng
rác có dòng chữ in sẵn:
“Ở đây
không ô nhiễm. Xin bạn yên tâm!”
Ở ngay bài thơ tiếp theo là bài Tỉnh táo tột cùng, nhà thơ vẫn tiếp tục theo mạch ngớ
ngẩn đó, miêu tả để đạt đến hiệu quả gây cười to lớn một tình
huống đối lập với “tính minh mẫn tuyệt đối” (trang 572):
Ý nghĩ
tôi muốn điều khiển con chuột chui từ cống hẹp
từ tốn bò
vào thùng rác nằm chết ngay ngắn
Xe chở
rác đem những con chuột đi chôn
vĩnh viễn
trong thành phố không còn chuột.
Theo sát ngay sau đó, Mai Văn Phấn thay đổi giọng điệu hơi
hài hước và ngớ ngẩn sang một sự điên cuồng và thiếu vắng bất kì
ý nghĩa nào trong một thế giới gồm toàn những thứ đồ bị vỡ nát và không còn giá trị sử dụng.
Nó chỉ bổ sung vào nỗi kinh hoàng mang tính gây cười mà nhiều thứ
trong đó bị mắc kẹt vào nhau. Bản thân thời gian đã trở lên điên
cuồng trong thế giới này, vì kim giây lại chuyển động chậm hơn kim
giờ. Trong bài Quay theo mái nhà, ông đã viết (trang 574):
Những đồ vật quay
không thể dừng lại. Thùng rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, dây điện
thoại. Chiếc quần lót mắc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi cùn,
bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh. Con cá tắt thở trên đường gần đến cửa
sổ. Lũ chuột nhắt chết đuối bơi qua chảo mỡ. Bột giặt vừa quay vừa rắc lên hoa
quả, dao thớt, bàn thờ. Bát nước chấm quay cùng bìa đậu phụ. Lọ tương ớt lao đi
trong tư thế lộn ngược. Và kim giây quay chậm hơn hẳn kim giờ.
Bài thơ cuối cùng của phần thứ năm và cũng là bài thơ
cuối cùng trong “Thơ tuyển Mai
Văn Phấn” mang tựa đề Tĩnh lặng. Người
ta có thể nghĩ rằng nhà thơ đang ám chỉ rằng sau khi đọc xong bài thơ
dài được chia thành 45 phần này sẽ là một sự “tĩnh lặng” bởi vì
tập thơ của ông đã kết thúc. Có khả năng hơn nữa là sự minh ngộ sắc
sảo của nhà thơ về tính uyên thâm của sự tĩnh lặng và trí khôn ngoan
của việc lắng nghe và chú tâm đến thế giới và các sinh linh của nó
trong sự tĩnh lặng. Trong phần 18 của bài thơ này, nhà thơ đã viết (trang
615):
Trí huệ
vang âm thanh
Sắc giác
Càng tĩnh
lặng
Tự do
trong vạn vật
Trong phần 29 của bài Tĩnh
lặng, ở khổ thơ cuối cùng, Mai Văn Phấn đã đưa ra một hình ảnh
đáng kinh ngạc và sáng chói về bản chất con người (trang 626):
Cơ thể
tôi ở giữa
Là chiếc
lõi
Hạt đắng
Của một
trái ương.
Trong phần 35 của bài Tĩnh
lặng, nhà thơ gợi ý một cách giản dị và thật khó quên về
tính không thể huỷ diệt được của bản thể thiên nhiên (trang 632):
Nhìn khung cửa và chắn song
Tôi biết không thể bẻ gãy
Những đường gân lá
Trong phần 42 của bài Tĩnh
lặng, Mai Văn Phấn nhắc đến một linh hồn huyền bí, chạm vào
ông ở cả trên cao lẫn dưới thấp:
Tôi ngồi
dưới vạt áo Ánh sáng
Nơi tận
cùng
Người
bước đi
Vạt áo
chạm tôi
Lúc trên
cao
Lúc thấp
Đây là linh hồn của một người đàn ông không thể và không
được gọi tên một cách chắc chắn, nhưng “Ngài” gợi nhớ về sự hiện
hữu của một linh hồn vĩ đại như khi được tìm thấy trong Đức Phật hay
Đức Chúa Giê-su.
* * *
Kết luận:
Trong “Thơ tuyển Mai Văn
Phấn”, nhà thơ mang đến một ngôn ngữ thơ nguyên chất và sinh
động ngay từ lúc khởi đầu cho toàn bộ thực tại về cuộc sống con
người trong bối cảnh rộng lớn hơn của thiên nhiên và vũ trụ đến mức
nó bất chấp cả sự định giá và phê bình khi chúng ta đón nhận sự
kì diệu của nó. Tuy nhiên, tôi đã cố gắng đưa ra một sự đánh giá như
trên trong bài tiểu luận này với “tâm thức phán định” của mình, thậm
chí khi tôi nhận ra rằng ánh hào quang lung linh của nghệ thuật vĩ
đại khước từ cả sự phân tích, và sự hiểu biết đầy đủ về nó vượt
quá phạm vi giải thích bởi minh thức của chúng ta.
Raymond Keen
Sahuarita, Arizona
Hoa Kì
Ngày 26 tháng 2 năm 2016
* * *
Tiểu sử:
Raymond Keen được đào tạo tại trường đại học Case Western
Reserve và trường đại học Oklahoma. Ông có ba năm làm công tác thầy
thuốc tâm lí trong Hải quân cùng với một năm ở Việt Nam (từ tháng 7 năm 1967 đến tháng 7 năm
1968). Raymond đóng quân ở Việt Nam cùng với tiểu đoàn y khoa số 1,
phối thuộc sư đoàn thuỷ quân lục chiến số 1 ngay bên ngoài thành phố Đà
Nẵng. Từ thời gian đó, ông đã làm công việc của nhà tâm lí học nhà
trường và nhà tư vấn tâm thần được cấp phép ở Hoa Kì và hải ngoại
cho đến khi về hưu vào năm 2006. Ông là nhà tâm lí học nhà trường ở
các bang California và Washington, và là nhà tư vấn tâm thần được cấp
phép ở bang Washington. Raymond sống cùng vợ là Kemme tại Sahuarita,
Arizona. Họ có hai người con đã trưởng thành là Anne-Elise và Michael.
Raymond là tác giả của tập thơ “Những bài thơ tình dành cho những kẻ ăn thịt người”, được
xuất bản vào tháng 2 năm 2013. Ông cũng là tác giả vở kịch“Cuộc đời tư và công của đức vua Able,”
được xuất bản vào tháng 1 năm 2016. Thơ của Raymond đã được xuất bản trên 32 tạp chí văn học.
“The
Affirmation of Reality in the poetry of Mai Văn Phấn”:
A review of “The Selected
Poems of Mai Văn Phấn” by Raymond
Keen – February 2016
“Art does not reproduce the
visible; rather, it makes visible.” (Swiss painter, Paul Klee – 1920).
“I think that poetry is the space
of the beautiful world, which the poet sees for the first time, and passes on
to the readers with his unique poetic language. This language creates a space
of my own, in which the life of the soul is always connected with the external
world (real life). My poetry is my soul, as a separate world. Yet my poetry is
connected with everything.” (Mai Văn Phấn in private conversation with Raymond
Keen about the nature of his poetry).
“He who experiences the unity of
life sees his own Self in all beings, and all beings in his own Self, and looks
on everything with an impartial eye.” (The Buddha).
Introduction:
Mai Văn Phấn in one of the greatest living poets in Vietnam, and
his output has been prolific: He has published 22 books of poetry, many of
which have been translated into English and other languages. One could say with confidence that Mai Văn
Phấn in now a poet on the world’s stage.
In the United States, four of Mai Văn Phấn’s poetry books are on
Amazon.com. Here are the titles and
paperback publication dates: “Firmament
Without Roof Cover” (November
2012), “Seeds of Night and Day”
(October 2013), “Out of the Dark”
(November 2013) and “Grass Cutting in a Temple Garden” (May 2014).
This
review will concern itself with Mai Văn Phấn’s most recent book
translated into English, “The Selected
Poems of Mai Văn Phấn.” This fine book comes to us from the “Publishing
House of the Vietnam Writers Association,” and was published in 2015.
“The Selected Poems of Mai
Văn Phấn” is divided into 5
sections, as follows:
I. The Veiled Flower
II. Firmament Without Roof Cover
III. Out of the Dark
IV. Seeds of Night and Day
V. Grass Cutting in a Temple
Garden
The poems in sections II through V consist of poems from those
books with that same title. The first and longest section of “The Selected Poems of Mai Văn Phấn” is “The Veiled Flower,” which consists of
poems found in two other books by Mai Văn Phấn, as follows:
1. “From January”
(unpublished) – poems on pages 11 to 194.
2. “hidden face flower”
(published in Vietnam - 2010 & Thailand – 2012) – poems on pages 197 to
281.
As I wrote in my review (November 28, 2012) on U.S. Amazon.com of
Mai Văn Phấn’s luminous “Firmament
Without Roof Cover” (second section of “The
Selected Poems of Mai Văn Phấn):
The poetry of Mai Văn Phấn expresses the radiance of being human
here and now on this earth. In this poetry that celebrates our planet in all
its physical and spiritual manifestations, poet Mai Văn Phấn opens his heart to
the world, to the firmament. His poetry
does not sing so much to the world or
for the world, as it sings with and in the world. As it sings in the
world, its language renders the living objects of the world as real and
alive and as sharing their being with
us.
In my later review (December 6, 2013) on U.S. Amazon.com of Mai
Văn Phấn’s magical “Seeds of Night and
Day” (third section of “The Selected
Poems of Mai Văn Phấn) I wrote:
From the very beginning and throughout the reading of these poems,
one is presented with human consciousness as interchangeable with the raw
substance of nature. In this profound
exchange, human nature and “external nature” are unified in a poetic panorama
of beauty and intensity.
As I concluded in my review of “Seeds of Night and Day”:
In the poetry of Mai Văn Phấn,
everything is brought to the present in a new, shining reality of affirmation. This is not the desiccated voice so often
found in Western analytic poetry. This
is poetry that attempts to express reality as an undivided whole.
* * *
So let me begin with the
consummate awareness of Mai Văn Phấn as revealed in the many poems of “The Veiled Flower.”
It is noteworthy that all of the poems from the beginning of this section to
page 248 consist of one stanza with three lines each. These poems are followed by one long poem, Angle of Vision, which consists of 99
stanzas of three lines each. What comes
readily to mind with these poems is the Japanese form of poetry known as “haiku.”
Indeed, Max Verhart, Dutch scholar and master of haiku has written the
following definition: “A haiku is a
minimal construction of words with the function of evoking an intensified
awareness of being.” I think this definition does describe a very important
aspect of the poetry of Mai Văn Phấn, although he is not claiming to write
haiku. I actually think his originality is beyond any “category” of poem.
Here is the tender “First Morning of New Year” (page 13):
First Morning of New Year
I find a child’s sock
Soft
As a ripened fruit
The vision and sound of this poem (even in translation) evokes “…
an intensified awareness of being.”
Along with this intensity of emotion is an ever-present sense of
surprise, enhancing that moment of human existence, as in “Swelling Knees”
(page 94):
Swelling Knees
Hobbling to the window
I am anesthetized
By a white butterfly
As with so many of the poems of Mai Văn Phấn, we hear and see the
reality of the moment. How could anyone have ever predicted the surprise of “a
white butterfly” after reading the first two lines? It was the painter Juan
Gris who asserted, “You are lost the instant you know what the result will be.”
We even have cosmic surprise, as in “An Arcade of Interlocking
Trees” (page 85):
An Arcade of Interlocking Trees
Forms a cathedral
Their leaves fall
Into hell
We cannot leave out the subtle yet brilliant wit of this great
poet, which is ever-present, as in “Sitting Among Lotus Leaves” (page 164):
Sitting Among Lotus Leaves
A toad
Sticks out its tongue
To lick the moon
In this miracle of the moment, we see the moon from the point of
view of the toad, but we also see the whole scene as it might actually appear
to us from a distance. From the latter perspective, who is to say that the
tongue of the frog is not very close to licking the moon? Is what you actually
see without the encumbrance of your Western analytic mind not also real?
Another element of the moment is the direct experience of
chance. In the poetic world of Mai Văn
Phấn, we are free and unencumbered by the heavy weight of philosophy and the
depressive plague of “scientific determinism.”
The moment of experience is beyond definition or explanation. It is the
thing itself (Martin Heidegger’s die
Sache selbst). The following poem beautifully expresses the purity and
freedom of chance – “A Lay Brother From a Poor Pagoda” (page 161):
A Lay Brother From a Poor Pagoda
Goes down the mountain to carry
water for the plants
As he comes back to the pagoda
yard
It rains
Of course, as is so often the case, we see the dry wit of Mai Văn
Phấn in the above poem. I can imagine
the poet winking as he finished writing this poem.
What else that is magical and unforgettable and can be experienced
fully in the moment? Beauty. Yes, the
visual beauty of “Late January” (page 20):
Late January
Spring rain has yet to come
Peach flowers fall
One petal at a time
Or the visual beauty of “Fog” (page 25):
Fog
Hovers
For so long that
Rotten wood spawns flowers
Or the beauty that redeems the human condition as in “Old Man”
(page 33):
Old Man
All his teeth are gone
He smiles next to the plant
With scattering flowers
In the modern world of science, we have described for us a causal
world of events, an elaborate history of observed and even measured events, an
elaborate causal chain linking the present to a series of past causes. These
descriptions of causal events are never the events themselves, yet we
invariably confuse the description of events and the description of the cause of
events as the event itself. This is the great illusion wrought by the “monkey
mind” of Western man, and the tricks that language can play as it actually
obstructs the direct experience of reality. Mai Văn Phấn demonstrates the
foolishness of causal thinking, as well as the primacy of experience beyond
language, with these two witty meditations on causality as experienced from
within. Here is “This Morning” (page 36):
This Morning
I forget to peel off a calendar
page
A pot of water
Takes longer to boil
Here is “Going into the Garden” (page 37):
Going into the Garden
As I pull out weeds
Dawn comes
Earlier
The above poem can be considered funny, or even foolish. Yet it is
profoundly honest and true to the direct experience of the poet writing this
poem. When one considers how the human
being of the 21st century is out of touch with direct experience, how he/she
glories in his/her intellectual dominance of nature, how he/she plans a life
for success and victories, then we realize just how profound is “Going into the
Garden.” This simple poem of three lines explodes the arrogant modern
sensibility. In its simple vision of how things are, this poem observes without
dominance and without any desire to control.
It must be noted that most of us would agree we live in a “broken
world.” One of the great and redeeming aspects of art is that it gives us the
opportunity to experience our lives and the world as whole. Another great theme
of Mai Văn Phấn’s poetry is the affirmation of the unity of the world. We experience this in “After My Bath” (page
38):
After My Bath
The sky
Moves to another season
The magnolia tree grows older
What could be more affirming and actually reassuring – the sky and
the seasons of the earth, united with a single aging magnolia tree.
In the poems of Mai Văn Phấn, the experience of reality is
expressed directly without labels or explanation, as in “Sounds of Wings
Flapping” (page 65):
Sounds of Wings Flapping
I drink my cup of water
Yet do not know the name of the
bird
That just flew away
Then there is the exquisite compassion for all living creatures in
“Seeing” (page 82):
Seeing
A hobbling cockroach
Crawling across the big yard
I don’t have the heart to kill it
Mai Văn Phấn’s compassion for all living creatures includes an
uncanny awareness of their individual being, as in “Holding the Body of a
Cicada” (page 83):
Holding the Body of a Cicada
So light
As though it
Has never existed
This uncanny awareness and compassion for all living creatures
includes knowledge of their existence that extends beyond time, as in “A
Strange Bird” (page 69):
A Strange Bird
Lands in the yard
Looking at me
We know each other in our past
lives
Mai Văn Phấn’s compassion extends to the “nonliving world,” which
he not only animates with life, but also makes of this “dewdrop” a part of his
family, as in “The Root” (page 115):
The Root
A dewdrop and I
Look at each other
Two siblings
Occasionally, the mundane “business” of the world will creep into
the transcendent presence expressed in the poetry of Mai Văn Phấn, as in
“Conference Room Flowers” (page 93):
Conference Room Flowers
Still fresh
But they must be replaced
Because of another meeting
… and what could be more
mundane than this poet writing with amusement about “Facebook” in “My Uncle”
(page 136):
My Uncle
Lived private life
Now with Facebook
He takes pictures of anything
* * *
Now I will take up the last poem in “The Veiled Flower” (first
section of “The Selected Poems of Mai Văn
Phấn”) – Angle of Vision, which
consists of 99 stanzas of three lines each (pages 249 – 281).
As in many poems before, there is the ever-present wonder and
magic reflected in stanza 19 (page 255):
Reaping grasses, tilling soils,
watering trees…
How would you know
A wedding of two white
butterflies is taking place
Nature itself is animated with consciousness – stanza 22 (page
256):
A swaying tree
Thinks that a nightingale
Has made it drunk
In the unified beauty of Mai Văn Phấn’s poetry, even the human
senses cross their boundaries, and sounds are seen – stanza 41 (page 262):
Requiem for a dead soul
A faint bell ringing
Sounds like the color of young
grass
* * *
It does seem that a note of sadness is introduced within Angle of Vision – stanza 29 (page 258):
A fallen leaf
Hiding in the stump of a stunted
tree
Much more sorrow
I think the most obvious and important thing one could say about
the poetic mind of Mai Văn Phấn is that it is open to everything. In the above poem we have the unmistakable
relationship between “sorrow” and “hiding.”
In stanza 69 (page 271) we have a pervasive sense of covering or
closing:
A cloud
Covering the moon
Closing the eye
What could be more closed or hidden or absent of presence than death itself, which Mai Văn Phấn more clearly introduces in
the stanzas of Angle of Vision. In
stanza 68 (page 271) the poet writes:
A day of working
Constructing an emperor’s
mausoleum
Knowing which angle is which
Themes related to death and being cut off from the present
continue in stanza 79 (page 275):
Grass on the tomb of father
Seems planted
In another time
In stanza 90 (page 278) we get a sense of the finality of death:
A night
Falling steadily
A dead flower, no more scent
Yet death and its symbols co-exist with a moving sun in stanza 81
(page 275):
The sun
Moving through a mist
Cooling down while a coffin is
placed in a grave
In the wide-open poetic mind of Mai Văn Phấn, life and death, open
and closed, positive and negative, and even good and evil exist together –
affirming both polarities into one human whole. The judging mind separates and
divides, but the poetic mind sees things as they actually are without judgment.
The great English playwright, William Shakespeare, has one of his greatest
characters, Hamlet, describe this separating process:
“… there is nothing either good or bad, but thinking makes it so.”
* * *
All of the poems in section II (“Firmament Without Roof Cover”)
are from Mai Văn Phấn’s book, “Firmament
Without Roof Cover.” This section extends from page 283 to page 386,
approximately 100 pages. The very title of this section communicates the idea
of an open sky and access to the heavens.
Here
is what Vietnamese Literary Critic, Le Vu, writes about “Firmament Without
Roof Cover”: “Firmament Without Roof Cover” consists of three separate sections, but they
are united in the spiritual vision of Mai Văn Phấn about the world, in which
the relationships between nature and people, the static and the dynamic, birth
and death, love and sex have emerged.
The three separate
sections of “Firmament Without Roof Cover” are Mothergate (pages 287 – 299), Moon
Season (pages 300 – 314) and Figure
A Patch of Grass (Cadences I through
IX – pages 315 – 386).
Mothergate is
divided into 9 sections. Immediately one senses a much more human world, easier
to identify with the poet as a man, as Mai Văn Phấn uses the first person “I”
throughout. Here we have the narrative mastery of this great poet, as he
compares and contrasts, opens and closes, shifts and turns in a spellbinding
display of connecting everything to
everything. Mother and child and family and human emotion are connected
with all the things in heaven and earth, grounded in the narrative of a single
human voice (page 290):
I burst into tears to sweep away
the spider web
Sound of the heron’s hoarseness
The ashes flashing up
Moon trembling
In this human world, the poet feels the weight of responsibility
(page 291):
The voice very close
Under the light of dawn you must
transform yourself!
With the weight of this responsibility comes grief and sadness,
particularly for family (page 294):
Father suddenly whispering:
Please help father go to rest
Sound of dried leaves sliding off
the roof makes father
and I shed tears together.
The stakes are high for human survival, even in the serene
awareness of Mai Văn Phấn (page 295):
The black spilt on everything
will end us
Let’s pray to save the people of
this world
* * *
The “Moon
Season” section contains 9 poems. The
sounds, sights and sensual touch in these poems are unforgettably sweet, as in The Scent of Cốm:
That dress, that scarf, as smooth
as silk, the skin, the flesh…
The northeast wind is rising up
to heaven. (page 304)…
The green lotus leaves are giving
succor to you and me,
Over-ripening the horizon clouds
of summer
To nights of making love in
lamplit silence,
Persimmsons drenched with the
fragrance of flawless Cốm. (page 305)
Then in Autumn Came! (page 307):
The young calf touching his soft
tongue on grass blades
In the last poem of “Moon Season” (also
titled Moon Season), the magical and almost infinite power of love is unveiled:
I lead you by the hand, the wind
lifts up your flower dress;
I kiss you, my little finger
Lifts you up to the moon. (page 313)…
Tomorrow this earth
And the whole world will change. (page 314)
* * *
The third and last section
of “Firmament Without Roof Cover” is titled Figure A Patch of Grass, which consists of Cadences I through IX
(pages 317 – 386).
Mai Văn Phấn strikes a new
note of dissonance and the banal reality of human work in an everyday world (Cadence III – page 334):
Everyday jobs are boring.
The body worn out,
the mind unfounded,
the joints exhausted on a chair.
This hand, the left hand to be
exact,
wearily opens the gate I left
ajar early morning;
I gently brandish it when bird
shit happens to fall on it.
And the remaining hand
rose up an hour ago
when everybody voted,
There is something that must be
recorded in the report.
This world of man-made things is also part of reality, part of the
non-living world. The great
inclusiveness of Mai Văn Phấn must include this aspect of our human existence (Cadence III – page 339):
On your desk everything is
displayed;
briefcase, a newspaper, keychain,
cell phone.
In sharp contrast to the
banality of human existence expressed directly above, one finds in the poetry
of Mai Văn Phấn the redemptive power of human love between two human
beings. Yet this human love that the
poet writes about is much more, and includes a relationship with all living
things and all aspects of the physical world (Cadence V – page 352):
Sliding our bodies into each
other,
throwing on each new stick of
fire-wood,
you and I together light up the
dark.
In Cadence VI, the poet sings
this love with all its promise, passion, confusion and madness. It may be
redemptive, but it is not simple or easy (page 357):
Your hips are a half of a fresh
cut cake, a spoon lifting you up from the plate, the deep lips quivering, the
sweet abyss I am mouth with teeth clasping, the eagle seizing with its talon, the
tiger, the panther twisting its awesome flanks, rebounding, a poisonous snake
that sucking delivers warm venom, the great tree uprooted in the flood,
pressing against your sandbank.
The ecstasy of human love
continues in Cadence VIII (page
377):
I’m blinded with passion; I can’t
distinguish your hand from my legs, my breath gets lost in your disheveled
hair, I’m thrown up on the foam of a whirlpool, a giant python swallowing its
helpless little prey.
This is a madness of love
that can shake the whole planet (Cadence
IX – page 379):
On the immense surface of the
earth, the tongue of the wind presses its chaotic body – the crown of my head
at the center of whirlwind. The tighter I grasp, the stronger the shaking and
jerking, the hoarse howling and screaming, vacillating, urging, keeping the dried
leaf tight in your mouth. the more we strive, the more we talk nonsense – in
the anxious nightmare, the path of passionate kissing, the more we move in this
freshness, leading me by the hand to the mouth of the abyss, mumbling how we
can’t ever part from each other, because we’re both so afraid of the deep,
which leaves us in a cold sweat.
All of this “beautiful
chaos” is temporarily anchored by Mai Văn Phấn’s statement of self-awareness
that he is a poet, who intends to write about this beautiful chaos. He reminds
us in the simplest and yet the most profound way that he is writing poetry. Perhaps
this is a necessary reminder because there is no poet in the Western or Eastern
world that presents reality more directly. Because Mai Văn Phấn is so gifted in
what he does (writing poetry), we may forget that he is an artist describing
the world with words, and the words are not the world itself. In Cadence IX (page 381) he writes:
I want to write verses as natural
as the way you walk on the ground.
Without question, one of
the greatest 20th century poets in the Western canon is Wallace Stevens. In his miracle of a poem, “The Idea of Order
at Key West,” he gives us within this poem the very process of how reality is
created by human beings with language, the medium of expression of the human
mind. Language, especially poetic language, makes meaning possible. Without language, we have a blank reality
that cannot be shared or remembered – as this reality passes on without comprehension
into nothingness. In “The Idea of Order at Key West,” Wallace Stevens reveals a
human mind that creates language and defines our humanity in the poem as “she.”
Here is the music of the human mind as “she” renders the reality of “the sea”
in the only possible way it can be brought into the human realm:
And when she sang, the sea,
Whatever self it had, became the
self
That was her song, for she was
the maker. Then we,
As we beheld her striding there
alone,
Knew that there never was a world
for her
Except the one she sang and,
singing, made.
(from “Wallace
Stevens: Collected Poetry and Prose” – edited by Frank Kermode and Joan
Richardson - The Library of America, New York, N.Y., 1997, page 106).
* * *
The third section of “The
Selected Poems of Mai Văn Phấn” is titled “Out of the Dark,” and these
poems are from his book by the same name.
It should be no surprise that Mai Văn Phấn can write masterfully
about death and dream states. It should
also be apparent to any reader of his poetry that the range of his content
includes everything. This amazing
inclusiveness remains free of the tyranny of judgment. As the great Buddha
recognized, the judging mind causes separation and disunity.
In the second poem of this section, Variations of the Crow (pages 393 – 398), death is directly linked
to life and light, to an illumination of the human condition. The crow is often
considered a symbol of death, or a symbol of change and transformation: In
order for something to change, a part of it has to die. Mai Văn Phấn begins
this poem with death (page 393):
The smell of death draws the wick
to the zenith
The crow shines brightly.
In the same poem he then introduces what can best be described as
a nightmare vision of the absurd worthy to be compared with the writing of the
great Czech writer (who wrote in German), Franz Kafka (page 397):
The utmost sufferings looked back
on a life almost dead. The cloak gave a muffled shout when passing desk and
drawers. The telephone slept silently. The staple opened its mouth to hide its
claws. The broomstick gripped the laborer’s arm, and pulled her to the garbage
dump. The hat brim on the head cried out in panic, then bent down to devour the
entire face of the guard. Nobody opened the gate. Yet many people managed to
find an entrance.
The nightmare and absurdist vision of Mai Văn Phấn continues in Only a Dream (page 408):
They closed people’s mouths
robbed everything
and asked for my genitals…
I said:
you many take all
but let me keep something
personal
I volunteer to be your plaything,
your rag, your buffalo,
or your dog.
I stooped to accept the yoke on
my shoulders
I puffed up my hair and began
barking loudly
I shook my body and cried “pip,
pip”
I ground myself of the floor.
Who would think that such a serene poet as Mai Văn Phấn – capable
of rendering the most delicate and direct contact with the real world – could
also give us a jarring absurdist vision as arbitrary as a nightmare, as in Him (page 410):
He was a climax of perfection:
of the restored mirror/ of the
moulted insect/ of lost
virginity/ of the broken cable/
of unblocked sewage…
a waste dump of rags/ of broken
glass/ of tampons/
of outmoded shoes…
It is fascinating to speculate, given Mai Văn Phấn’s gift for dark
and even subversive absurdity very reminiscent of the writings of Franz Kafka,
if this poet is familiar with Kafka’s most famous work, “The Metamorphosis,” a novella first published in 1915. In Kafka’s
novella, the main character Gregor Samsa wakes up one morning and comes to the
realization that he has somehow been transformed into a giant cockroach. Here
is the English translation of the first paragraph of this great work:
As Gregor Samsa awoke one morning
from uneasy dreams he found himself transformed in his bed into a gigantic
insect. He was lying on his hard, as it were armor-plated, back and when he
lifted his head a little he could see his domelike brown belly divided into
stiff arched segments on top of which the bed quilt could hardly keep in
position and was about to slide off completely. His numerous legs, which were
pitifully thin compared to the rest of his bulk, waved helplessly before his
eyes. (from “Franz Kafka: The
Complete Stories” – edited by Nahum N. Glatzer, Schocken Books, New York,
1971, page 89. English translation by Willa and Edwin Muir)
In The Story is Not Over,
Mai Văn Phấn writes directly about a cockroach, linking it in an intimate way
with the human narrator in the poem (page 424):
The cockroach crawled around me
and said
it was just reincarnated for
three months
and in the previous life it had
been a decent person…
The cockroach raised one of its
hairy legs
yes, it might be taken for an arm
struggling from an iron vice,
or protruding from a luxury vest
of a person with a large mouth
and an upright back
walking with broad steps and
stiff knees
As previously mentioned, the poetry of Mai Văn Phấn is incredibly
rich in tone and variety. In the above poems, for example, we see the “deadpan”
wit of the poet as he describes a “talking cockroach” who speaks about being a
“decent person” in a “previous life.” The writings of Franz Kafka are also
filled with a “deadpan” (and some would say “deadly”) wit.
The dry and brilliant wit of Mai Văn Phấn is found intermittently throughout the third section of “The Selected Poems of Mai Văn Phấn”
(“Out of the Dark” – pages 391 – 490). For example in Syndrome From a Rumour he writes to the reader as if he were
advising an immature child (page 417):
Remember not to stick out your
head or arms
Remember to speculate and be
studious in reading
Remember not to kick or spit on
the walls
Remember to cover your mouth
while sneezing
Remember to flush after using the
toilet
Remember to pronounce full words
clearly and roundly
Remember to raise your glass and
drink slowly
Remember to pull the blanket
squarely in your sleep
Remember to brush your teeth and
use your comb…
In the very next poem, Learning
to Behave Oneself, the poet
could be describing misbehaving adults as he writes (page 418):
A dark mole was definitely
identified on the left eye of
the woman in charge of collecting
power bills
caught last night
when she embraced and kissed the
hamlet chief
in a dog-meat inn…
“The report is made into five
copies
all with the same legal validity.”
Then from the ridiculous to the truly sublime, Mai Văn Phấn
transports us with poetry as rich and profound as any I have ever read. In the
amazing poem, Youmeyoume, the poet
transcends the individual sexual identity of a man and woman through the shared
moments of their love, as they become One
in a miracle of poetic description. Noting the obvious irony in the title, the
identities of the loving pair are joined as one, which combines “You me you
me.” On page 448 of Youmeyoume the
poet writes:
My mouth still keeps the
fragrance of fruit and tea you
have taken. Cake is sweet with
cream and cinnamon. I
still remember. The chair so
large. When your shoulders
sprouted flowers, my lips light
up the sacred lamp in
the dark corner. The flower could
only speak of a tiny
part of the bosom of the large
earth. The entrails of this
earth tremble when the flower
stands still.
The poet ends this poem on page 449 with the following:
Love one another. Those are the
rites to celebrate heaven and earth. My element is Metal and yours is Fire.
Earth, Tree, and Water are all derived from Fire. Earth trembles. Water flows.
Thousands of budding sprouts blossom from the body.
In this magnificent poem, Mai Văn Phấn has transformed the
universe – plants and animals and human beings and even the inanimate
structures and forces of “Metal and Fire and Water – into one great harmonious
whole.
In the final poem from “Out of the Dark,” the poet reaches the
ecstatic heights of language in the 27-part poem, The Flowers in Autumn (pages 458 – 490). He writes:
You and me are condensed into
cool water
the rain of our kisses recreates
the world. (page 459)
He continues in the glorious language that is unique to Mai Văn
Phấn:
No need for thunder, lightning,
or gathering of clouds
we rain on one another the rain
of green grasses
and the sun spreads gold on the
earth surface (page 475)
In the acting moment of love with the Other, the world is mended
(page 483):
Close to you the rain is flying
Under our feet the grasses are
mending the world
your river refreshes the fields
your long legs incline the earth
your chest rises to the zenith
your breath blows away banks and
dikes
your lips grind me into powder
In the concluding parts of The
Flowers in Autumn (parts 24 – 27), Mai Văn Phấn gives birth through
language to a new world, reborn in every moment for eternity (page 487):
The earth is quiet the hills up
and down in immense space evoke your soft back in movement through foliage
overpassing the line of newly-planted trees with their wet trunks your soft
advancing with naked feet narrow waist I look with my mind for knowledge of
negligently turning one’s back the hair’s breath opening their eyes of
understanding don’t ask don’t hear flying high lightly to get entangled with
birds the salvo of dum-dum bullets sweetly falling who knows how to speak in a
frenzy the unconscious becomes little and plunges deep into the body without
waves ecstatic in effortless balance dropping into my body to form a mountain
peak to venerate the ground looking upwards to your face condensing transparent
space waking to be a hot piece of iron in the midst of nature the spring flows
the fruit has just fallen bursting on the rock regretful of not drinking up all
fragrance don’t overflow onto myriad things but be connected to the end of the
placenta to nourish me from endless times to answer when called to suffer from
violent movements to other beings and to be harmonious in light touch with the
sublime.
The Flowers in Autumn
concludes with a sweet and gentle reality that is ever-changing (page 490):
… Exhaling a pure perfume, you
said:
we have just been born again under a cloud in
flight.
* * *
The fourth section of “The
Selected Poems of Mai Văn Phấn” is titled “Seeds of Night and Day.” As I mentioned
in the introduction, the poems in this section are from his book of the same
name. The section opens with reverence in the poem, The Flower of Mount Yên Tử (page 495):
Seven hundred years ago
The Buddha King Trần Nhân Tông
Lowered his head when passing by
This
reverence continues, a reverence sometimes suggesting that the renewal of nature
comes through sacrifice. In The Soul Flew Away… (page 499) the poet writes:
Blood resurrected within the ground
Turns into young sap welling up at each falling
leaf
But this sensitive poet, with his being open to all that nature
has to offer, can be overwhelmed, as in From
Raindrops (paged 513):
It bubbles. It crackles. It’s
smashed
Heat rises up to the sky in a
rage
Anxiety no longer has any meaning
Change has surpassed capacity
No time to reflect, no time to
fathom
I am sunk by the rain, washed
away with it
Suddenly I see myself in others’
cries
Their mouths the shape of
fetuses, seeds, and stamens…
Perhaps the two stanzas above suggest a clue to why Mai Văn Phấn
engages in his poetic art to share with the world. As is often the case with
artists, they are exquisitely sensitive, and need to express what is in their
minds in order to free themselves of the burden of this receptivity. As a poet
myself, and a reader of poetry, I can say without reservation that I have never
encountered a poet so open to all aspects of human existence as Mai Văn Phấn.
In The Voice (page
514), the poet speaks directly about his poetic gift, and the mystery of its
origins:
When waking up
I believe I hear a voice
I don’t yet know from where it
comes
Or goes
This “confession” by the poet regarding the mystery of the origins
of his art is not surprising. It reveals that he has direct contact with what
psychologists refer to as the “unconscious mind,” which always remains hidden
from the “conscious mind.” Artists, uniquely, have direct access to this vast
mystery of the unconscious.
In Photos, Fruit and Dreams
(page 517) Mai Văn Phấn describes how he transforms nature and reality into the
wonderful magic of his poetry:
Everywhere
new streams are beginning to pour into
memories,
taking the photos, the fruit, the dreams, to
turn
everything into a voice last night.
Sometimes, however, the poet describes a broken world that is not
so easy to access or reveal. Even so, Mai Văn Phấn is the master at expressing
“this failure” to make contact with what is real, as time itself seems to be
seized by “infantile epilepsy” (Meditation
No. 18, page 524):
A shadow wrapping back onto its
body experiences all
the enfolding moment of soft-eyed
reminiscence
spreading out from the market
corner which suddenly
shows the sky from the
perspective of a clock hand which
goes into infantile epilepsy
regardless to clamor or to
shut up which is no way to touch
the sap of young fruit.
The last poem in the fourth section (“Seeds of Night and Day”) is Waking Up in the Rain, divided into 27
parts. In part 9 it is abundantly clear that the poet has regained direct
contact with the magical world of nature, as he writes the following (page
542):
My touch lets me know the pebble
is very soft, the blade
of dried straw bends under its
weight, and the thread of
hair breathes lightly.
I hold them for a very long time.
Toss them to the ground. Fling
them up to the sky and
catch a raindrop
* * *
In the fifth and final section of “The Selected Poems of Mai Văn Phấn” – “Grass Cutting in a Temple
Garden” – as before, all of the poems in this section come from the poet’s
volume of poetry by the same name.
As is the case with the other sections, there continues to be a
fascinating mixture of existential bliss and existential horror. The vast,
accepting mind of Mai Văn Phấn – Buddha-like
– makes no judgments about good and evil, and presents through his poetry the
dark and the light, the ugly and the beautiful, the harsh and the gentle, the
pure and the unclean, the simple and the complex, the profound and the
superficial, the funny (witty) and the sad, the comic and the tragic, the
absurd and the reasonable. The Buddha has advised that one path to wisdom is to
remain unattached to ideas or conceptual frameworks. The singular power and
beauty of the poetry of Mai Văn Phấn is that it remains true to the poet’s
direct experience of human reality and the world, without theory or
intellectual abstraction. Even with the inevitable distancing effect that
verbal language imposes on direct non-verbal experience, the language of this
great poet is sometimes more direct and illuminating than even the work of
non-verbal artists, e.g., painters and composers.
Here is one stanza of a poem that is clearly not serious, is
intentionally insincere, and very entertaining (And You! Stand Out There! – page 569):
Tonight
Snakes, centipedes and scorpions
overflow into cities
But don’t you worry!
Every house is built
blockhouse-style
No one goes out on the streets in
the dark.
In the last two lines of Looking
Closely, Mai Văn Phấn observes how inaccurate and even absurd are the
statements of government bureaucrats, resulting in hilarious nonsense (page
571):
One printed line on the trash
can:
“There is no pollution here.
Please rest assured!”
In the very next poem – Utter
Lucidity – the poet continues in his absurdist vein, describing to great
comic effect a situation that is the opposite of “utter lucidity” (page 572):
I use my thoughts to direct a rat
to emerge from a narrow sewer
stroll into a trash can
lie down and die
If trash trucks carry dead rats
to their burial places
this city will get rid of rats
permanently.
Following directly, Mai Văn Phấn changes the lightly comic and
absurdist tone to one of madness and lack of any meaning in a world of broken
and dysfunctional things. It only
adds to the comic horror that many of these things are stuck together. Time itself has gone mad in this world, as seconds
pass more slowly than hours. In Turning
with the Roof he writes (page 574):
The turning objects cannot stop
themselves. The turning trash can gets stuck to a photograph frame, a ceiling
fan, the telephone cords. A pair of underpants gets stuck between crockery
cabinet and exercise machine. An exhausted broom, mosquito repellent canister,
and several CDs end up inside the refrigerator. A fish stopped breathing near
the end of its journey to the window. Little mice drown swimming across a
frying pan. Washer detergent powder turns and sprinkles itself on vegetables,
knives, cutting board, and the altar. A dipping cup turns together with one
piece of tofu. A jar of hot chilli sauce flings itself upside down. And the second
hand turns much slower than the hour hand.
The last poem of the fifth section and the last poem in “The Selected Poems of Mai Văn Phấn” is titled Silence.
One might guess that the poet is suggesting after the reading of this long poem
divided into 45 sections that there will be “silence” because his book of
poetry has ended. More likely is the poet’s acute awareness of the profundity
of silence, and the wisdom of listening and paying attention to the world and
its living creatures in silence. In section 18 of this poem, the poet writes
(page 615):
The more awareness is filled with
sounds
And color perceptions
The more one is still
And free in all things
In section 29 of Silence,
Mai Văn Phấn presents in the last stanza a startling and brilliant image of
human nature (page 626):
My body inside
Is the core
The bitter seed
Of a half ripe fruit.
In section 35 of Silence,
the poet suggests simply and unforgettably the indestructability of nature
itself (page 632):
Looking at the door frame and window bars
I know I cannot break
The leaf’s veins
In section 42 of Silence,
Mai Văn Phấn makes reference to a mysterious spiritual figure, touching him
from above and below (page 638):
I sit under the cloak of Light
At the very bottom
When He walks
His cloak touches me
Sometimes from above
Sometimes from below
This is a male figure who cannot and should not be named with
certainty, but the “He” is suggestive of a great spiritual presence as found in
The Buddha or The Christ.
* * *
Conclusion:
In “The Selected Poems of Mai Văn Phấn” the poet presents a whole and living
language of poetry so originally alive to the full reality of human existence
within the larger context of nature and cosmos, that it defies evaluation and
criticism as we take in its wonder.
Nevertheless, I have attempted in this essay such an evaluation with my
“judgmental mind,” even as I realize that the living radiance of great art
defies analysis, and its full understanding lies beyond the scope of
explanation provided by our conscious mind.
Raymond Keen
Sahuarita,
Arizona
United
States
February 26, 2016
Tranh của Francis Gabacho, Áo gốc Nhật
Biography:
Raymond Keen was educated at Case Western Reserve University and
the University of Oklahoma. He spent three years as a Navy clinical
psychologist with a year in Vietnam (July 1967 – July 1968). Raymond was
stationed in Vietnam with the 1st Medical Battalion, attached to the 1st Marine
Division, just outside Đà Nẵng. Since that time he has worked as a school
psychologist and licensed mental health counselor in the USA and overseas,
until his retirement in 2006. He is a credentialed school psychologist in the
states of California and Washington, and a licensed mental health counselor in
the state of Washington. Raymond lives with his wife Kemme in Sahuarita,
Arizona. They have two grown children, Anne-Elise and Michael.
Raymond is the author of “Love Poems for Cannibals,” which was published in February 2013. He
is also the author of a drama, “The Private and Public Life of King Able,”
which was published in January 2016. Raymond’s poetry has been published in 32
literary journals.