Huyền thoại về LỬA trong thơ một số nhà thơ Việt Nam đương đại (tiểu luận) - Hoàng Thị Huế
Huyền thoại về LỬA
trong thơ một số nhà
thơ Việt đương đại
PGS.TS. Hoàng Thị Huế
PGS.TS. Hoàng Thị Huế
(Đại
học Sư Phạm Huế)
Tóm tắt:
Tiếp cận giải mã thơ ca đương đại thông qua
các huyền thoại, biểu tượng, là một hướng tiếp cận hiệu quả nhằm tái sinh những
vết tích văn hoá dân tộc, trong những khuôn diện mới, mang dấu ấn thời đại. Biên
độ thẩm mỹ của tác phẩm cũng được nới rộng, nhờ những giá trị tiềm ẩn lặn sâu
trong vô thức tập thể, như những ám ảnh dò tìm nguồn cơn của sáng tạo nghệ thuật,
nơi cư trú của tồn tại nhân loại. Lý giải những bí ẩn của các biểu tượng, tức
làm hiển lộ các huyền thoại, trầm tích văn hoá của dân tộc, nhân loại. Đồng thời,
các biểu tượng cũng tồn tại như một phương thức hữu hiệu kiến tạo cấu trúc văn
bản, một sự mã hóa nghệ thuật, như một sự giao tiếp nghệ thuật, một nguyên tắc
cắt nghĩa hiện thực.
Từ khoá: Lửa, huyền thoại Lửa, biểu tượng,
văn hoá, thơ Việt đương đại.
Keywords : Fire, myth of Fire, symbols,
cultural, Vietnamese contemporary Poetry.
Abstract
Approaches, decoding contemporary poetry in trellised being tugged by
the sediments of culture, legend, through symbols, as a possible approach to
the rebirth the national cultural vestige of new form marked the era. The
amplitude of the work aesthetic is also widened from the potential value in
deep diving collective unconscious - as the obsessive detect the source of
artistic creation, the residence of human existence. Explaining the mysteries
of the symbols, it means we will exploring and clarifying the myths, cultural
sediments of the nation, humanity. And, the symbols also exists as an effective
manner tectonic structure of the text, an art encryption - as an artistic
communication, a principle explained reality.
A. MỞ ĐẦU:
1. Thơ Việt giai đoạn từ sau 1986 đã thực sự
khởi sắc với những tìm tòi, cách tân độc đáo. Thơ ca nhìn nhận, khám phá con
người trong mối quan hệ đa chiều của đời sống, đào sâu vào những vấn đề riêng
tư trong tâm hồn con người, những trăn trở, lo âu, chiêm nghiệm, suy tư, những
nỗi đau, những bi kịch cá nhân… để cảm thông, chia sẻ và hướng tới những giá trị
chân-thiện-mỹ. Bên cạnh đó, với khát vọng tìm kiếm, giải mã bản chất đời sống
và nghệ thuật, các thi nhân xem sáng tạo là một thuộc tính của thơ ca. Con đường
thơ là con đường không ngừng đổi mới, tuy nhiên, sáng tạo không có nghĩa phủ nhận
sạch trơn quá khứ, thơ càng dung chứa nhiều trầm tích văn hoá, dung hoà giữa
truyền thống và hiện đại, càng có giá trị. Nên, như một tất yếu, mỗi khám phá
thơ của các nhà thơ, là một sáng tạo mới mẻ về khuôn diện văn hoá dân tộc ấy.
Chắt góp để tạo vẻ đẹp đa diện của nền văn học nước nhà, là việc làm thiết thực
đối với bất cứ nhà thơ nào. Thực tế sáng tác của Lê Đạt, Trần Dần, Dương Tường,
Thanh Thảo, Lưu Quang Vũ, Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Vi Thuỳ
Linh… đã chứng tỏ điều đó.
2. Tác phẩm văn học nghệ thuật luôn mang đặc
trưng là tính biểu tượng. Mỗi biểu tượng dung chứa các vết tích văn hoá của thời
đại, dân tộc nó sản sinh, và những kết nối với quá khứ xa xăm. Các huyền thoại,
trầm tích văn hoá khiến biểu tượng vừa có nét chung, phụ thuộc vào các quy ước
văn hoá thông qua các quy ước ngôn ngữ, vừa mang nét riêng, thay đổi theo thời
đại, phụ thuộc vào tầm đón đợi, cộng đồng diễn giải của bạn đọc.
Tiếp cận giải mã thơ ca đương đại thông qua
các huyền thoại, biểu tượng, là một hướng tiếp cận hiệu quả nhằm tái sinh những
vết tích văn hoá dân tộc, trong những khuôn diện mới, mang tầm thời đại. Biên độ
thẩm mỹ của tác phẩm cũng được nới rộng nhờ những giá trị tiềm ẩn lặn sâu trong
vô thức tập thể, như những ám ảnh dò tìm nguồn cơn của sáng tạo nghệ thuật, nơi
lưu giữ văn hoá nhân loại. Lý giải những bí ẩn của các huyền thoại thông qua
các biểu tượng, tức làm hiển lộ các trầm tích văn hoá của dân tộc, nhân loại. Đồng
thời, các biểu tượng cũng tồn tại như một phương thức hữu hiệu kiến tạo cấu
trúc văn bản, một sự mã hóa nghệ thuật, như một sự giao tiếp nghệ thuật, một
nguyên tắc cắt nghĩa hiện thực.
B. NỘI DUNG:
1. Biểu tượng tồn tại như một đơn vị cơ bản của
văn hoá. Nhờ khả năng dung chứa các tầng nghĩa, tạo nghĩa, biểu tượng vừa biểu
trưng cho văn hoá nhờ những mạch ngầm văn hoá nhân loại ẩn sâu trong nó, vừa tự
cấu thành các giá trị văn hoá. Trong văn chương, ngôn ngữ là dấu hiệu biểu hiện đầu tiên của tính cá
nhân, tinh thần của mỗi dân tộc cũng được phản ánh trong ngôn ngữ của nó (1a).
Theo Levy – Bruhl, Freud, Saussure, biểu tượng (symbols) là một dấu hiệu không
đầy đủ và hoàn toàn chính xác, và cũng theo Augustine, biểu tượng chỉ là một
cách khác để nói về những gì mà một dấu hiệu nói (1b). Dẫu có nhiều
quan niệm khác nhau, biểu tượng trong văn chương vẫn được biểu đạt qua mã ngôn
ngữ và chuyển hóa thành biểu tượng nghệ thuật, - vừa lưu giữ các giá trị văn
hóa, tồn tại như các biểu tượng thẩm mỹ, cổ mẫu - vừa chuyển tải, sáng tạo văn hóa.
Tùy
thuộc vào môi trường, thời điểm văn hóa cụ thể và những kiến giải mà mỗi biểu
tượng được khám phá ở những chiều kích khác nhau. Như là một đơn vị cơ bản của
văn hóa, biểu tượng trong sự đan kết các vỉa tầng ý nghĩa, lấy hình ảnh làm sức
mạnh, luôn lấp lánh nhiều giá trị vẫy gọi. Tìm hiểu các biểu tượng, tức giải mã những chất liệu nghệ thuật kiến tạo
tác phẩm từ những giá trị văn hoá dân tộc. Đồng thời, lý giải bản chất giá trị
nghệ thuật vừa từ chính bản thân văn bản, vừa từ bên ngoài văn bản, từ những
năng lượng đặc biệt nương mình trong vô thức người nghệ sĩ. Bút pháp ảo
hóa, linh thiêng hóa và những suy tưởng, những triết luận về đời sống khiến sức
dung chứa của những biểu tượng trở nên vô hạn, luôn chứa đựng những “huyền tích
văn hóa nhân loại”. Sự va đập, xâm thực, giao thoa văn hoá, sự chi phối của các
yếu tố thời đại khiến các biểu tượng có sự du hành, chệch khỏi các biểu tượng gốc,
ẩn chứa những biến thể, những biểu tượng phái sinh đan lồng vào nhau. Tuỳ vào
những đặc điểm riêng trong môi trường sản sinh biểu tượng, những đặc trưng văn
hoá, thời đại… để nhận diện biểu tượng. Tuy chỉ có tính chất tương đối, nhưng
đây cũng là một yếu tố đáng lưu ý để luận giải những trầm tích văn hoá của dân
tộc, thời đại.
2. Quá trình toàn cầu hóa dẫn đến sự biến đổi hệ hình tư duy, cùng với những
thay đổi tất yếu của lịch sử- xã hội và bản thân văn học đã làm nảy sinh nhiều
khuynh hướng cách tân trong thơ Việt
đương đại. Điều đó xuất phát từ tinh thần dân chủ và tư duy đối thoại, những nỗ lực
tự sáng tạo, những suy tư và trải nghiệm của cá nhân, trên cơ sở tiếp xúc với
các trào lưu thơ đương đại và hậu hiện đại của nhân loại. Nhưng đổi mới không hẳn
là đoạn tuyệt với truyền thống. Nhiều yếu tố của truyền thống vẫn tồn tại, như
kiểu tổ chức đồng dao, hình thức huyền thoại - tâm linh, hiện thực huyền ảo.....
Đồng thời, những cách tân mạnh mẽ của thơ Việt trong nỗ lực kiến tạo diện mạo mới,
thi pháp mới, đã đem lại những thành tựu đáng kể. Thơ Việt đương đại vừa tiếp
biến văn hoá nhân loại, vừa là sự kế thừa, làm mới những biểu tượng trong truyền
thống, sáng tạo các biểu tượng mới. Chính các quy ước văn hoá chi phối cả quá
trình kiến tạo văn bản nghệ thuật thơ, lẫn nỗ lực diễn giải văn bản của người đọc.
Tất cả các khuynh hướng cách tân thơ Việt đương đại đều là điểm đi, mà đích đến
là các giá trị văn hoá, nếu thành tựu thơ không kết tinh ở các giá trị văn hoá,
sẽ khó tồn tại được với thời gian.
Nhà thơ chính là người kết nối quá khứ với hiện tại trong sự tương thông,
linh ứng với tương lai. Là đứa con của dân tộc Việt, sinh thành và lớn dậy
trong lòng văn hoá Việt, các thi nhân đương đại chuyển tải hồn vía dân tộc vào
thơ. Một sự tải chở tự nhiên như hơi thở. Khám phá huyền thoại văn hoá trong
thơ, cũng là để nhìn nhận giá trị, đóng góp, của các thi nhân vào tiếng nói
chung của văn học dân tộc.
Tác phẩm nghệ thuật là mảnh đất màu mỡ cho sự tham dự, song chiếu của huyền
thoại – lịch sử và sự nảy mầm các biểu tượng nương mình trong vô thức người nghệ
sĩ. Huyền thoại về lửa xuất hiện
trong thơ ca đương đại như một ám gợi về những huyền tích xa xưa thời hồng
hoang nguyên thuỷ, ngọn lửa thắp
sáng, giữ cho các bộ lạc tránh thú dữ, lửa
là phần không thể thiếu của nhiều nghi lễ. Lửa
huỷ diệt và tái sinh, soi sáng nội giới và ngoại giới, là năng lực của sự sống,
vì vậy lửa được ngưỡng vọng trong các
tôn giáo “Chúa Kitô và các thánh, tái sinh cơ thể bằng cách đi qua lửa lò của
xưởng rèn” (2a). “Những người theo Đạo giáo bước vào lửa để tự giải
phóng khỏi thân phận mà con người phải chịu đựng” (Kinh Dịch)(2b). Ở
Ấn Độ, các giáo phái đều xem lửa là
phương thức xoá đi những xấu xa, tái sinh sự thuần khiết. Trong kinh Upanishad lửa “biểu tượng Kundalini thiêu
cháy trong Yoga và lửa bên trong của giáo phái Mật tông – đặt lửa ứng với trái tim”
(2c). Người Ấn Độ cho rằng “hiểu được lửa là hiểu được cả vũ trụ” (3a).
Khó có thể dẫn hết những khao khát vô biên về lửa, song có thể nhận thấy lửa
và những tri nhận về nó có thể giúp con người khám phá những tương thông bí ẩn
giữa các tầng hiện thực. Không phải ngẫu
nhiên, thơ ca đương đại lại xuất hiện nhiều biểu tượng về lửa như vậy (khảo sát tuyển thơ “Châu Thổ”- Nguyễn Quang Thiều,
lửa xuất hiện 234 lần/144 bài). Truy nguyên
những phẩm tính sáng tạo của thi nhân, những viễn mộng, có thể thấy đây là một
loại kinh nghiệm đặc biệt nương mình trong vô thức người nghệ sĩ: “Tất cả
là sáo mòn, tất cả là vô sinh trừ ngọn lửa / Vừa thức dậy dịu dàng tắm rửa những
ban mai” (Hòa âm của những đa bào – Nguyễn Quang Thiều), như một dạng năng lượng
tập thể nuôi dưỡng xung lực sáng tạo của người nghệ sĩ. “Văn hóa ngày càng mở
ra trước chúng ta như một hệ thống phổ quát của các biểu tượng được điều khiển
bởi cùng những thao tác; trường biểu tượng này có sự thống nhất, và văn hóa xét
trong tất cả các phương diện là một ngôn
ngữ” (Roland Barthes) (3b). Đó là sự dung hợp giữa vô thức tập thể với
vô thức cá nhân, một cách thức hiển lộ các cấu trúc, ký tích văn hoá nhân loại
trong sự hoà quyện thẳm sâu với vô thức sáng tạo của người nghệ sĩ: “Những con
sóng triệu năm điên cuồng, mệt mỏi / Ta không sao cứu nổi / …../ Hỡi mặt trời,
cơn đau đớn của lửa /Những tấm lưới bùng ra như đám cháy” (Xô-nat hoàng hôn biển
– Nguyễn Quang Thiều). Ở đây, lửa là sự hiện diện của cái không thể xóa bỏ và
trong những tế bào nhỏ nhất nó vẫn lưu giữ ký ức về quá khứ của mình. Cái “biến
mất” trong nó thực ra chỉ đơn giản là khoác một hình thức khác. Lửa trong thơ đương đại có khi hiện hữu
trực tiếp “lửa”, “ngọn lửa”, “mặt trời”, “ bếp lửa”, “đám cháy”, “tro ấm”, “lóe
sáng”. Có lúc lửa mộng mơ trong “ngọn khói”, trong “đất ấm”, “lóe sáng lưỡi
cày”, “lóe lên ánh sáng thủy thần”.... có lúc lửa lấp lánh những trải nghiệm cá nhân, xuất hiện ở hình ảnh của ngọn
đèn dầu “Hãy cho tôi chút lửa / Trong ngôi nhà mùa đông / Để tôi sưởi ấm / … /
Lửa hãy cho em gương mặt sáng” (Mấy đoạn thơ về lửa – Lưu Quang Vũ), “Tôi hát bài hát về cố hương tôi /
Trong ánh sáng đèn dầu / Ngọn đèn đó ông bà
tôi để lại / Đẹp và buồn hơn tất cả những ngọn đèn / Thuở tôi vừa sinh ra / mẹ
đã đặt ngọn đèn trước mặt tôi / Để tôi nhìn mặt đèn mà biết buồn, biết yêu và
biết khóc” (Bài hát về cố hương – Nguyễn Quang Thiều). Ngọn đèn dầu thắp
sáng, nuôi dưỡng tâm hồn bao người, biểu trưng cho hạnh phúc, ánh sáng, hơi ấm
trong những ngôi nhà Việt xưa: “Nghe
nao nao lửa bếp mùi rơm rạ/ ngọn lửa chiều mẹ ủ đã mười năm…. chiều nay về mẹ đốt
lửa con hơ” (Giấc ngủ trưa của người lính an dưỡng – Thanh Thảo). Ánh đèn, bếp
lửa leo lét tụ kết những mộng mị, cô đơn, cả những ảo ảnh ám gợi tuổi thơ bao
thế hệ. Lửa đèn, bếp lửa trở thành một biểu tượng đẹp, gắn bó chặt chẽ với đời
sống như một mảng ký ức dân tộc, được lưu giữ, di truyền qua nhiều thời đại. Với
Thanh Thảo, nếu cỏ là sức sống mãnh
liệt, dai dẳng thì lửa chính là sức mạnh,
cỏ mang đến cho con người ý chí quật
cường thì lửa cũng tôi đúc cho họ bản
lĩnh bùng cháy hết mình vì quê hương, Tổ quốc “thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa
chính mình/ soi sáng đường đi tới” (Một người lính nói về thế hệ mình- Thanh Thảo). Ngọn lửa hóa thân vào nỗi nhớ tình yêu,
hạnh phúc và lý tưởng: “ở đó bọn anh phải gỡ giàn ba lô/ khơi ngọn lửa những
tháng năm đời lính” (Lẽ ra – Thanh Thảo). Trong tìm hiểu biểu tượng, tư duy con
người thường tìm cách phát hiện, bóc trần cái mù mờ, ẩn giấu nằm trong cái rõ
ràng. Sở dĩ như vậy là do quan niệm cho rằng con người không hiểu được chính
mình, bị che đậy bởi chính mình.
Và cũng khó nói hết những thông điệp nhắn nhủ từ những huyền thoại nhân loại,
được tái sinh trong những hình hài lửa
khác nhau của thơ ca đương đại, như Prometheus trong thần thoại Hy Lạp, chấp nhận
sự trừng phạt của Zeus, đem lửa Trời cho con người, xua đi mông muội, u tối. Đó một phần là năng lực của sự sống, năng lực
của sáng tạo trong vai trò tái sinh, được hợp nhất trong “cơn đau đớn của lửa”
(Nguyễn Quang Thiều), khi “Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua” ( Nhóm lửa
– Mai Văn Phấn). Triết học phương Đông xem sự tương hợp giữa con người với bản
thể thế giới như một minh triết của nguồn gốc tâm linh. Lửa thể hiện những đam mê, khát khao sáng tạo nghệ thuật của nhà
thơ. Chính vì vậy, trong những ham muốn, mộng mơ sáng tạo nghệ thuật, lửa chênh vênh, hỗn loạn, nguồn cơn của
những thiêu đốt vô thức, tồn tại như một kiến trúc chiêm bao dẫn đưa người nghệ
sĩ: “Thơ âm âm, thơ thon thót giật mình kinh hãi chảy điên cuồng như lửa liếm”
(Nguyễn Quang Thiều). Lửa cũng khơi dậy
những miền ký ức sâu thẳm đầy mới lạ, ám ảnh, dày vò, là những cơn đau đứt nghiến
da thịt trong vô thức sáng tạo của thi nhân: “đừng đuổi theo tôi/ lửa trắng/ cục
nước đá tan trong chiếc ly/ cơn gió nhân tạo mùi sắt gỉ/ đừng…” (Lửa trắng –
Thanh Thảo), “Vội vã những ngôi sao tìm chỗ được nhìn thấy, vội vã câu thơ tìm
ngọn lửa” (Vội vã - Thanh Thảo). Nếu không có lửa sáng tạo, lửa đam mê,
câu thơ chỉ là sự sao chép hiện thực vụng về, nhạt nhẽo. Ngọn lửa của sự sáng tạo
khơi gợi những đam mê bùng cháy của nội lực, không phải muốn là có, đốt là
cháy, nhiều lúc vượt ngoài tầm tay với, trốn chạy trước sự bất lực của người
nghệ sĩ. Chính vì vậy, lửa sáng tạo, lửa yêu đương, luôn là thứ huyễn hoặc nhất.
Nó mời gọi con người đến với sự bừng nở của tài năng, mở ra biên độ vô hạn của
sáng tạo nghệ thuật và những linh cảm thơ ca. Câu thơ không có lửa, đồng nghĩa với sự khai tử khi chưa
kịp khai sinh. Thi nhân nhận ra sự không trùng khít giữa con người với bản thể thế
giới, vì vậy khát khao tìm kiếm sự tương thông với đất trời là khao khát vô
biên. Trong khoảng không đứt đoạn giữa mình và thế giới, từ những khát vọng thường
xuyên muốn vượt qua nó, thi nhân đã tạo ra một thế giới riêng của mình: thế giới
của văn hóa, thế giới của tất cả những cái nảy sinh theo ý muốn con người, là
thế giới của tự do: “Để bàn chân ta sáng lên ngọn lửa/ Thắp lên phần cháy dở
đêm qua.” (Nhóm lửa - Mai Văn Phấn).
Chính vì vậy, lửa đã mở rộng biên
độ sống, biên độ sáng tạo cho thi nhân. Tình yêu, trong sự tận hiến tột cùng, linh
thiêng, huyền nhiệm của nó đã hàm chứa những bản chất của lửa. “Thay thế cho thế giới của khách thể, sự mơ mộng về lửa là đồng
đẳng với mơ mộng về tình yêu”(4). Trong Siêu lý của tình yêu, (Vladimir Soloviev, NXB Văn hóa Thông tin
& TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005), Schopenhauer cũng cho rằng tình yêu còn
tồn tại như một xác tín cho hành động phản kháng thực tại nhàm chán, tìm kiếm,
khám phá bản thể trong hành vi yêu thương, hiến dâng, cho, nhận. Lửa hiện hữu như một phần của hiện thực
tâm linh, hiện thực của cõi mơ, của vô thức. Và đó cũng là thế giới của thơ, của
tình yêu, vì “Thơ cũng huyền diệu như trời” (Charles Henriford). Với Mai Văn Phấn,
Vi Thuỳ Linh, lửa là sự tôn vinh những
hoà quyện thể xác tột cùng trong tình yêu, lửa
thanh tẩy con người khỏi thế giới hỗn mang và kiến tạo một thế giới khác: “Cuộn chảy/
trong tiếng gào những dải phù du/ đáy sông quặn thắt chưa hết sáng/ Hoàng hôn
ngậm chặt ánh ngày/ lửa co giật/ sục sôi mầm nụ/ đỉnh cây ngùn ngụt bốc cao”
(Đất mở - Mai Văn Phấn). Đó là ngọn lửa bỏng rát khát khao,
cuồng dại của tình yêu trong bản tính được hoà hợp, được nhất thể hoá. Hành
trình nhất thể hoá đó đã tái sinh một ngọn lửa khác, lung linh hơn, rực cháy bản
năng sống vĩnh cửu.
Sự thánh thiện của một bản năng sống mãnh liệt trong “Mùa thụ mầm – Vi Thuỳ
Linh”, đã tái sinh những mầm sống mới, con người tìm thấy ở đó những khao khát
tự nhiên thuở nguyên sơ. Ước nguyện vạn vật sinh sôi nảy nở, phồn vinh, đã được
chuyển tải trong lễ hội Nõn Nường của dân gian xưa, giờ mang màu sắc, hơi thở mới
của thời đại: “Bừng từng đêm lưỡi như ngọn lửa/ liếm vào thân sóng nóng” (Mùa
thụ mầm- Vi Thùy Linh). Lửa trong thơ
ca đương đại là lửa tình, men say của hạnh phúc trần thế “Trong vũ điệu nắng/
Trong tiết tấu mưa/ từ nơi khởi nguyên/ lửa mọc mầm theo đường cong thân thể/ Dọc
hai ngàn dặm/ Vũ trụ nhập men theo sự cuồng nhiệt của hai con người được sinh
ra cho nhau” (Lửa trắng – Vi Thuỳ Linh) “Anh… hãy đến…cho đêm ngày cháy bùng
bão lửa” (Gọi nguồn – Vi Thuỳ Linh).
Những biểu tượng tiềm ẩn một sự sống mãnh liệt và hàm chứa những lưỡng giá,
trùng phức khiến lửa trắng là những
ám ảnh kỳ lạ, những suy nghiệm của vô thức về sáng tạo nghệ thuật trong thơ
Thanh Thảo. Lửa trong thơ Vi Thuỳ
Linh mang tính hướng thượng về cõi anh,
phương anh: mầm lửa, đêm truyền lửa, núi lửa, bầy chim lửa.... Tình yêu
thăng hoa từ những khát khao bản thể của con người, lửa mở rộng biên độ sống của tâm hồn và dường như thoã mãn những
câu hỏi về bản thể và hư vô. Lửa đã
khơi dậy những gì tốt đẹp nhất của sự sống, làm lành lại những nỗi đau, ân sủng
tình yêu con người.
Nhưng trong tính liên hệ mật thiết và lưỡng giá của nó, biểu tượng lửa cũng mang hàm nghĩa của sự tàn phá,
huỷ diệt: “Em lầm lũi lại đến trước nhà anh nhặt xác nỗi buồn, đốt lên thành lửa/
Rồi đi/ Sau lưng em ngày nắng tắt” (Từ phía ngày nắng tắt – Vi Thuỳ Linh). Các
thuộc tính của lửa và tình yêu cũng không ngừng lan toả với những bỏng rát và
thiêu đốt, những khoảng trống, những mơ hồ, nghi hoặc. Lửa cũng phóng đãng
buông mình theo những cơn cuồng say của hờn ghen, lửa bản năng, dục vọng đủ sức
cắt chiều thành những vụn mảnh, vương
vãi. Lửa trong quan niệm của Nho giáo
ứng với màu đỏ, ẩn ở trái tim, là nơi của “tình yêu và sự giận dữ”. “Nó đốt
cháy, tàn phá, tiêu huỷ, lửa của dục vọng, trừng phạt, chiến tranh”(5).
Trong thơ Vi Thuỳ Linh, lửa còn là bản
thể con người trong tình yêu, sự hờn ghen, lòng tổn thương: “Người đàn bà của
đêm lao khỏi vòng tịch lặng/ Đi tìm một mặt trời mọc lửa/ Trong đêm” (Điều anh
không biết – Vi Thuỳ Linh). Lửa vừa thổi bùng những khát khao, nhưng cũng huỷ
diệt tất cả khi con người chạm phải những điều giả dối, những giá trị ảo. Lửa ở đây không còn hàm nghĩa tái sinh
mà là lửa thanh lọc, tẩy uế, đốt đi
những giả dối phù phiếm để khẳng định giá trị thực trong đời sống.
Lửa còn là ánh xạ của cái tôi cá nhân đầy ưu tư, đa mang, đầy ắp những khát vọng
mãnh liệt trong tình yêu, trong sáng tạo, và cả trong vấn đề tồn tại có ý nghĩa
của chính bản thân mình. Lửa như là một
năng lượng sống, là những xung lực trong tình cảm, khát khao mãnh liệt, mà nếu
thiếu lửa, đời sống con người trở nên
nhàm chán, nhạt nhẽo vô vị. Quấn luyến, buộc ràng với biểu tượng lửa là những vấn đề về cuộc đời, con người,
lẽ sinh tồn, sự ra đi, trở về, những dò tìm bản nguyên của hạnh phúc, khổ đau,
tình yêu, sự sống và cái chết…“Tiếng bẻ củi vang lên / Ngọn lửa gần gũi và linh
thiêng cựa mình thức dậy / Có bước chân vô hình đang đi quanh đống lửa / Làm những
làn tro ấm khẽ bay lên” (Thời gian – Nguyễn Quang Thiều). Lửa ở
đây là một ký hiệu được mã hoá ý nghĩa, vừa gợi những ấn tượng trực tiếp về thực
tại hiện hữu, vừa khải thị tâm linh về những tầng hiện thực khác, trùng điệp giữa
quá khứ hồng hoang các bộ lạc, các cuộc viễn du hành hương qua sa mạc lạnh buốt
đêm thâu nhưng bỏng rát khi mặt trời soi chiếu. Lửa là chiếc cầu nối giữa con người và thần linh, trong tàn tro
thiêu đốt lễ vật dâng lên trời, con người hướng về cõi trời để cầu xin ơn phước
từ lửa thiêng. Lửa bạo tàn thiêu đốt dân đen trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, lửa thắp rực mùa hè trong
thơ Nguyễn Du: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” (Truyện Kiều), đến Nguyễn
Quang Thiều: “Ngọn lửa thiêng triệu triệu năm / Sẽ tự mình thức dậy / Nấu một nồi
cơm nếp hoa vàng / Đơm lặng lẽ vào mo cau cổ
tích / Và mang ra bến sông / Và thả vào bến sông / Đó là lúc con bống đen / Nổi
lên giữa dòng sông Đáy / Đôi mắt sáng như hai vầng Nhật, Nguyệt / Để cho ban
mai một giải trứng hồng”. (Con bống đen đẻ trứng – Nguyễn Quang Thiều). Lửa ở đây là hình ảnh phóng chiếu của
các vỉa tầng ký ức văn hoá dân tộc và nhân loại. Ngọn lửa thiêng từ tay thần
Prometheus, từ huyền thoại Thánh Gióng lớn lên từ bếp lửa thổi cơm của cộng đồng
dân tộc, ngọn lửa nấu nồi cơm Thạch Sanh ăn mãi không vơi, ngọn lửa trong cô Tấm
hoá thân từ con bống, quả thị, thổi cơm cho bà lão tốt bụng cưu mang mình… vv.
3.
Tính chất trùng phức của ngôn ngữ biểu tượng khiến lửa trong thơ ca đương đại liên tục gợi ra những phức thể, những ấn
tượng, ám gợi. Nó làm hiển lộ tư duy
thơ đa phức và cũng là tư duy điển hình của thơ Việt Nam đương đại. Câu thơ
cũng dài, ngắn, phong phú hơn, nội hàm phản ánh cũng rộng hơn, các hình tượng lạ,
nhiều khi mờ mịt, ngôn ngữ biểu hiện cũng đa tầng hơn. Không phải ngẫu nhiên,
thơ Việt đương đại ẩn chứa nhiều huyền thoại về Lửa đến vậy. Câu hỏi đặt ra là: giữa sự bủa vây của các phương tiện
thông tin truyền thông, quảng cáo, trong xã hội hậu hiện đại, do xã hội toàn cầu
hoá, đâu là giá trị thực của đời sống và bản thể? Giữa những bất tín và xác tín
nhận thức, sợ hãi và âu lo, hoang mang về bản nguyên hiện thực và bản thể, thơ
ca đương đại và những giá trị văn hoá trong các biểu tượng sẽ vén mở những hy vọng
gì? Muôn ngả đường đều hướng về một đích: đời sống riêng tư và tâm thức cộng đồng
là hai mặt không tách rời của hiện hữu. Con người càng cô độc, hoang mang ngơ ngác,
càng có nhu cầu tìm về cõi hư huyền của tâm linh dân tộc, như một căn cước, một
xác tín, một truy nguyên phẩm tính người của mình. Thơ ca đương đại, lần lượt phục hồi và biện
giải từng phần huyền tích dân tộc, như là cơ sở hiện hữu của con người. Đó là
phương thức để hoá giải thực tại đầy rẫy những phi lý, mong manh những giá trị
và những bất ổn tồn tại, của xã hội đương đại. Huyền thoại, trầm tích văn hoá với
những điệp trùng ý nghĩa được sử dụng như những nguyên liệu, phương tiện kết cấu
thi phẩm, tháo dỡ cú pháp truyền thống để kiến tạo cú pháp mới, tan chảy trong
sự nhập nhằng nước đôi của ngôn ngữ vô thức. Chính biểu tượng và những ám gợi
hư huyền của nó khiến ngôn ngữ dân tộc được “làm giàu thêm từ vựng và giải
phóng cú pháp” (G. Bachelard), là minh chứng cụ thể và thuyết phục cho sức sống
của huyền thoại, cổ mẫu và quá trình giao thoa tiếp biến văn hoá của dân tộc
trong thơ Việt đương đại.(6) Bởi bất kỳ sự giao thoa, tiếp biến văn
hoá nào cũng sẽ trở thành vô nghĩa nếu không tạo ra giá trị, không bám rễ vào
truyền thống và ký ức văn hoá của dân tộc, nhân loại.
C. KẾT LUẬN:
Biểu tượng lửa như một ẩn dụ trùng phức, mở lối dò
tìm những hiện hữu ở tầng sâu mạch ngầm của văn bản, tiết lộ bản chất, tư tưởng,
triết lý chiều sâu của thơ ca đương đại. Đồng thời gợi dẫn người đọc khám phá
các vỉa tầng văn hóa tồn tại trong tác phẩm như một thực thể tự trị nằm ngoài sự
kiểm soát của người nghệ sĩ. Lửa vừa
là minh chứng mặc nhiên cho những huyền thoại, trầm tích văn hóa tồn tại ở tầng
sâu vô thức, kết hợp với trải nghiệm xung đột hiện hữu của nhà văn, tạo nên biểu
tượng phổ quát như một cách phóng chiếu nội cảm lên ngoại giới, làm nên sự sinh
động và sức sống lâu bền của thi phẩm. Các thi nhân đương đại chịu ảnh hưởng
sâu xa của tư tưởng văn hoá phương Đông, con người, địa danh, những sự kiện lịch
sử, hoá thân/ tồn tại, theo phương thức huyền thoại trong lòng cộng đồng dân tộc.
Vì vậy, khám phá huyền thoại lửa, trầm tích văn hoá trong thơ đương đại, cũng
là để nhìn nhận vị trí, giá trị, đóng góp, của thi nhân, vào tiếng nói chung của
văn học dân tộc.
Khon Kean,
10/2016
H.T.H
Chú thích:
(1a) (1b) – Tzvetan Todorov - Theories of the Symbol (Translated by Catherine
Porter), Cornell University Press, Ithaca, New York, 1984.(p 286) (p 291).
(Language is the first of all expression of
the individual....The spirit of the nation is reflected in its language.
For Levy – Bruhl, Freud, and Saussure,
neoclassics all (in very different ways), the symbol is a deviant sign, or an
inadequate one. For Augustine too, the symbol is only a different way to say
what a sign says).
(Xem thêm : Nguyễn Thái Hòa, (2005), Từ điển
tu từ – Phong cách thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội: "biểu tượng văn học
là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những hình ảnh, tín hiệu ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ biến đến mức có khả năng gợi
ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất, một số đặc trưng khác với đối tượng
biểu hiện". Như vậy, biểu tượng được hình thành với phương thức sử dụng một
loại môi vật để môi giới tri giác cái bất khả tri giác. Với cách thức "một
hình ảnh cụ thể mà nói lên một sự gì trừu xuất hay vắng mặt", biểu tượng
có nhiều dạng thức khác nhau: biểu trưng, biểu hiện, dấu hiệu...).
(2a) (2b)
(2c) -
Jean Chevalier (2002), Từ điển biểu tượng
văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 545, 546.
(3a) - Doãn Chính (chủ biên)
(2006), Veda – Upanisad, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, tr 28
(3b) - Ngân Xuyên – lyluanvanhoc.com.
Nguồn: dịch theo nguyên bản tiếng Nga tạp chí Znanie -Sila (11-12/1998). Bản dịch
tiếng Việt: http://www.nhanvan.com
(4) - Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.265.
(5) - Jean Chevalier (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.548
(6) - Paul N. Lakey (2003), Abilene Christian
University, Acculturation: a Review of the Literature, Intercultural Communication Studies XII-2 2003,
http://web.uri.edu/iaics/files/10-Paul-N.-Lakey.pdf: “So what does
acculturation mean? When individuals or groups of people transition from living
a lifestyle of their own culture to moving into a lifestyle of another culture,
they must acculturate, or come to adapt the new culture's behaviors, values,
customs, and language. The word 'acculturation' is the act of that transition.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Chevalier Jean (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
2. Doãn Chính (chủ biên) (2006), Veda – Upanisad,
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
3. Frye Northrop, Northrop
Frye's Theory of Archetypes
http://edweb.tusd.k12.az.us/dherring/ap/consider/frye/indexfryeov.htm
http://www.eacfaculty.org/pchidester/eng%20102f/archetypal%20criticism.pdf (accessed 10/8/2014).
4. Frye Northrop, The Archetypes of Literature, Archetypal critisim.pdf,
http://www.eacfaculty.org/pchidester/eng%20102f/archetypal%20criticism.pdf
(accessed 10/8/2014).
5. Nguyễn
Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ – Phong cách thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội
6. Paul N. Lakey (2003), Abilene Christian
University, Acculturation: a Review of the
Literature, Intercultural
Communication Studies XII-2 2003
7. Tzvetan Todorov (1984), Theories of the Symbol (Translated by
Catherine Porter), Cornell University Press, Ithaca, New York.
8. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
9. Ngân Xuyên, lyluanvanhoc.com. Nguồn: dịch theo
nguyên bản tiếng Nga tạp chí Znanie -Sila (11-12/1998). Bản dịch tiếng Việt: http://www.nhanvan.com (truy cập ngày 10/12/2013).
10. Susan F.
Astillero (M.A. Ed) and Magdalena M. Ocbian (Ed. D), Sorsogon State College, Cultural
Characteristics and Values in Sorsogueños’ Poems, Asia Pacific Journal of Multidisciplinary Research Vol. 3, No. 4,
12-18, (p.15). www.apjmr.com (accessed 1/4/2015).
(Nguồn: Tạp chí Khoa Học ĐH Sài Gòn, số tháng
10/2016)
"Cây" - Tranh sơn dầu của Họa sỹ Louise Mead (Anh quốc)