Thơ cách tân và thi pháp nghệ thuật mới (khảo cứu) - Nguyễn Vũ Tiềm
Thơ cách tân và thi pháp nghệ thuật mới
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm
maivanphan.vn:
Tôi vừa nhận được bài khảo cứu “Thơ cách tân và thi pháp nghệ thuật mới” của
nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm. Bài khảo cứu này đã được Tạp chí Nhà văn & Tác
phẩm, Hội Nhà Văn VN số 10, tháng 4/ 2015 trích in với tiêu đề “Thơ cách tân và
những vấn đề của nó”. Được sự đồng ý của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm, tôi xin gửi
tới Quý bạn đọc toàn bộ bản chính bài khảo cứu này. Xin trân trọng cảm ơn nhà
thơ Nguyễn Vũ Tiềm!
Nguyễn Vũ Tiềm
I. GIỮA HAI TỬ LỘ, TÌM MỘT SINH LỘ CHO THƠ
Sang thế kỷ XXI, trước sự phát triển chóng
mặt của khoa học công nghệ, không ít người đặt vấn đề: thơ có thực sự cần thiết
trong đời sống hay không? Tại sao không nói chẻ hoe ra mà cứ phải thông qua các
“gián cách thẩm mỹ”, các hình ảnh ẩn dụ cho rắc rối mất thì giờ? Sự ngoảnh mặt
và báng bổ đối với thơ không phải hiếm. Và đây đó mơ hồ người ta đã hình dung
cái mệnh hệ nào đó của thơ và bóng gió rằng đừng có giây vào.
Nhưng dẫu nghi ngờ về tác dụng của thơ đến
đâu chăng nữa cũng phải thừa nhận một điều là nhiều bài thơ đạt tới độ toàn
bích khiến Người-Khổng-Lồ-Thời-Gian phải cúi đầu nhường bước làm sao điểm hết:
từ Iliad và Odyssey, Đường thi rồi Lá Cỏ của Walt
Whitman Thơ Dâng của Tagore hay đến những nhà thơ nổi tiếng của nước ta:
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên...
Giả sử không có sự
đóng góp của họ, không có loại hình thơ ca, đời sống văn hóa tinh thần, đạo đức
của nhân loại nói chung, của nước Việt ta nói riêng nghèo nàn biết chừng nào và
hệ quả tai hại của nó ai mà lường hết được?
Mới đây tôi lại
bàng hoàng như thể nghe tin một người thân yêu của mình vừa trút hơi thở cuối
cùng. Ấy là tôi đọc trên báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn VN) số 31, 2-8-2014, bài “Thi
ca Mỹ sau thời độc sáng” của Trần Ngọc Cư (một nhà văn VN sống ở Mỹ): “Thập
niên 60 (TK20) dã chứng kiến sự ra đi của ba nhà thơ lớn là Robert Frost
(1874-1963), Carl Sandburg (1878-1967) và Langston (1921-1967); tiếng chuông
chiêu hồn những vị này dường như cũng là hồi chuông báo tử cho thi ca Mỹ.
Vào khoảng thập
niên 90, Nàng Thơ coi như đã trút xong hơi thở cuối cùng trên xứ Cờ Hoa. Độc
giả yêu thơ như phần lớn người Việt ta, chắc sẽ bàng hoàng và cho đây là một
phát biểu ngoa ngụy. Dẫu nói thế nào đi nữa, không ai có thể bắt người khác
phải tin vào một điều gì mà không cần thực chứng. Thực chứng đó là: trong các
loại hình văn học nghệ thuật hiện nay ở Mỹ, thi ca có lẽ là loại hình có số
người viết vượt quá xa số người chịu bỏ thì giờ ra để đọc”…
“Đối với tuyệt đại
đa số độc giả Mỹ, có lẽ thi ca đã làm xong vai trò lịch sử của nó và đang đi
vào màn đêm của dĩ vãng”.
Ừ nhỉ, tĩnh tâm
nghĩ xem có cái gì bất biến? Thơ ca ở Mỹ, Pháp sắp trở thành di sản thuộc về
quá khứ, thơ Việt thì sao? “Số người viết vượt quá xa số người chịu bỏ thì giờ
ra để đọc” đã và đang diễn ra ở xứ Cờ Hoa, hình như cũng bắt đầu có dấu hiệu ở
dải đất hình chữ S chăng? Thực chứng đây: các ấn phẩm thơ in ra ngày càng
nhiều, hỏi có mấy người mua?
Đã vậy sao tôi còn
sưu tầm và bình thơ cách tân? Thật là lẩn thẩn! Nhưng trộm nghĩ, quy luật vận
động, phàm cái gì không chịu đổi mới làm sao tồn tại được, thơ không là ngoại
lệ, cũng “chết”, nhưng “chết” từ từ; mà cách tân theo cách nào đó (như cách tân
cực đoan, không ai hiểu và cảm được gì cả; thơ phá vỡ kết cấu ngôn ngữ) thì sẽ
làm cho thơ đột quỵ, “héo sữa” sớm hơn.
Trước hai tử lộ
kia, tương lai thơ Việt sẽ ra sao? Chả lẽ không còn một sinh lộ nào
ư?
Có đấy! Đó là thơ cách
tân đúng hướng, được người đọc chấp nhận. Tôi tìm đến với loại thơ còn
tương đối hiếm và mong manh trên cái sinh lộ cũng mong manh này.
***
Từ thế kỷ trước, ngay khi phong trào thơ mới
vừa chiếm ngự thi đàn, nhiều nhà thơ đã quyết vượt thơ mới làm cuộc cách tân
thơ như nhóm Xuân Thu Nhã Tập, Dạ Đài… Sau CM Tháng Tám: Trần Dần, Nguyễn Đình
Thi, Văn Cao, Lê Đạt, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng… nối tiếp cách tân thơ.
Dễ nhận thấy một thành công đáng kể của Hữu
Loan trong bài “Đèo Cả”:
Chân đèo
máu giặc
mấy lần
nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu…
Chế Lan Viên chuyển đổi thi pháp rất sớm
trong chùm bài “Những cành phong lan
biển”, “Tàu đến tàu đi”. Nhưng rõ
nhất là tập “Những bài thơ phác thảo”, sau
đó in sách đổi là “Di cảo”.
Sau 1954, Miền Nam có nhóm Sáng Tạo, tiêu
biểu là Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa:
Tôi thèm sống như thèm
chết
Giữa hơi thở giao thoa
Ngực cháy lửa
Tôi gọi khẽ
Em
Hãy mở cửa trái tim
Tâm hồn anh vừa sống lại
thành trẻ thơ
Trong sạch như một lần
sự thật.
Thanh Tâm Tuyền
Vẫn hỏi
lòng mình là hương cốm
chả biết tay ai làm lá sen.
Nguyên Sa
Đặc biệt, tôi rất ấn tượng bài của Triệu Từ
Truyền, mỗi lần đọc lại, sống mũi như chạm phải khói lựu đạn cay:
NGHĨ TỚI EM
Anh gắn lên
môi điếu thuốc chưa đốt
Vì không hộp
quẹt
Có dòng khói
từ trong mũi bay ra
Dòng khói
của trái đạn cay
Và gọt máu
hồng
Trên đầu
điếu thuốc của anh
Anh nghĩ tới
em
Điếu thuốc
đã tàn
Dù không hộp
quẹt.
(11-1960)
Khát vọng sáng tạo không lúc nào ngưng nghỉ
nhưng do nhiều biến động thời cuộc, khát vọng ấy lúc sôi nổi, lúc lặng lẽ kín
đáo. Một số thành tựu của thế hệ trước dù ít ỏi, nhưng những bài đặc sắc vượt
thời gian thì thế hệ cách tân của đầu thế kỷ XXI không thể không ngả mũ.
Trên hành trình thời gian, ở mỗi cột mốc đặc
biệt thường có những cú hích mạnh, tạo chuyển động mang “dấu ấn lịch sử”. Những
năm đầu của thế kỷ XXI, nhiều cuộc hội thảo chuyên đề thơ của Hội Nhà Văn Việt
Nam và ở các Hội địa phương đã góp phần thúc đẩy cách tân thơ. Đặc biệt là hai
cuộc hội thảo về thơ của hai nhà thơ Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn do Hội Nhà
Văn Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật Hải Phòng tổ chức ngày 15-5-2011; cuộc
hội thảo “Thơ Việt Nam hiện đại & Nguyễn Quang Thiều” do Viện Văn Học Việt
Nam tổ chức ngày 28-6-2012 như những hồi chuông giục giã trước bình minh.
Những đánh giá ngược chiều nhau, những cuộc
tranh cãi trên báo giấy báo mạng bùng lên như sóng thần làm sôi sục biển thơ
vốn phẳng lặng như cái ao tù. Không thích những gì đều đều nhàm chán là tâm thế
chung nhất là thời đại hiện nay, ý thức rõ điều này là vô cùng thiết cốt đối
với người cầm bút.
Nhà thơ Bùi Kim Anh than thở về thơ trong bài
“Bản thảo mắc nợ”:
“Và những
người làm thơ cũng chẳng buồn đọc thơ nữa
giẫm vết
chân mình ta giẫm chân nhau”.
Thơ là gì mà lạ lùng thế? Nhà thơ Blaga
Dimitrova có lúc bật ra lời than thở: “Ôi, nếu tôi biết thơ là gì thì cả đời
tôi đã chẳng khổ sở đến thế”! Thì ra thơ chả bao giờ yên vị để người ta nghiệm
suy định giá mà luôn biến đổi một cách kỳ ảo; vừa tìm ra cái định nghĩa về nó
thế này rồi, chữ chưa khô mực nó đã hiện hình ra thế khác rồi; nền thơ nào, nhà
thơ nào tự yên vị dễ đồng nghĩa với thất bại!
Trong cuộc hội thảo tập thơ “Hoài nghi và tin cậy” của Nguyễn Vũ
Tiềm tại báo Văn Nghệ ngày 18 – 2 – 2004, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà
Văn VN phát biểu, ông sốt ruột kêu lên “Thơ của chúng ta cũ lắm, cũ không chịu
nổi”! Và ông kêu gọi các nhà thơ “Phải mau chóng đổi mới, đổi mới quyết liệt”!
Các nhà thơ nhà văn chân chính không bao giờ
bằng lòng với thành quả đã có bởi họ biết rõ thời gian luôn vượt lên tất cả.
“Chưa viết giấy đã cũ
Chưa viết sông đã đầy…
Chưa viết chợ đã đông
Chưa viết đồng đã bạc”.
Hữu Thỉnh
***
Trên con đường tìm tòi sáng tạo, mỗi nhà thơ
có cách đi riêng, có thất bại ngậm ngùi, có thành công trong mồ hôi nước mắt;
nhiều thể nghiệm dở dang và phần lớn là đoạn kết còn bỏ lửng.
Lớp nhà thơ có thành tựu từ thế kỷ trước như
Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Bằng Việt, Thanh Thảo, Thi Hoàng, Trần Mạnh Hảo,
Trần Nhuận Minh, Hoàng Hưng, Lê Khánh Mai, Inrasara, Trương Nam Hương, Từ Quốc
Hoài, Phạm Đình Ân… có những bứt phá ngoạn mục trong việc tự tắm giặt tẩy trần.
Ở một hướng khác, cũng xuất hiện không ít hiện tượng đổi mới bằng “mông má” tân
trang.
Trong quá trình đi tìm thơ cách tân, tất
nhiên phải nhìn tổng thể, nhưng không thể không chú ý hơn đến lớp @ của thế kỷ
mới, lứa 8X, 9X, thế hệ vàng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Họ lớn lên
trong bối cảnh lịch sử một đất nước đi sau nhưng cháy bỏng khát vọng vượt lên,
đón đầu. Đồng thời mặt trái của
cơ chế thị trường khiến những kè đá niềm tin bị xói lở từng mảng lớn, sự suy thoái đạo đức nhân phẩm của bộ phận không nhỏ nhưng “không biết nó ở đâu” trong cộng đồng khiến người nào cũng phải cài quanh mình nhiều camera
phòng hộ.
Thế hệ vàng ấy được thừa hưởng nền văn học
truyền thống giàu tính nhân văn mà không bị ràng buộc bởi phương pháp sáng tác
“thắt trói” hay “cởi trói” nào và chuyện húy kỵ cũng không còn nặng nề như
trước. Họ cũng không phải lo lắng nhiều như thế hệ cha anh phải đi trong hành
lang quá hẹp, phải “tự bạt chiều cao cho thấp đi khỏi chạm trần, tự ép khuôn
khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng, để đi lại được thoải mái trong cái hành
lang kia” (Nguyễn Minh Châu).
Những thập niên cuối thế
kỷ XX, đường lối “Đối ngoại rộng mở” đã tạo điều
kiện cho sự hội nhập toàn cầu của Việt Nam. Về lĩnh vực văn học nghệ thuật,
chúng ta tiếp cận với nhiều lý thuyết và các trào lưu mới mẻ phong phú của các
nước tiên tiến. Cùng với sự bùng nổ thông tin, chủ nghĩa “Hậu hiện đại” như luồng gió lạ thổi thốc vào văn đàn Việt Nam
khiến không ít nhà văn bị cảm cúm liên tục, mức độ nặng nhẹ khác nhau. Thế hệ
con cưng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã có thể chới với hay e lệ làm
quen với các khái niệm mới: “cảm quan hậu
hiện đại”, “siêu truyện”, “giải nhân cách hóa”, “Pastiche”(Nhại lại), “mã kép”,
“phi lựa chọn”, “bất tín nhận thức”, “ngoại biên”, “liên văn bản”, “mặt nạ tác
giả”… Thực ra những khái niệm này ở Âu, Mỹ người ta đã cất vào kho lạnh từ
thập niên 70, 80 của thế kỷ trước, gần đây E. A. Tzurganova và I. P. Ilin biên
soạn lại mang ra hâm nóng rồi “tiếp thị” vào nước ta. Những khái niệm mới mẻ đó
dù sao cũng là phương tiện hữu hiệu tiếp cận văn chương đương đại mà các nhà
văn (ở miền Bắc) trước đây chỉ có bột mì, bo bo thay thế.
Một vấn đề quan trọng
bậc nhất của người cầm bút mà thế kỷ XX ít đề cập đến và các nhà văn cũng cố tình quên bẵng đó là tính
độc lập của chủ thể sáng tạo và vấn đề thoát khỏi bóng rợp của cây cao bóng cả mà không ít trong số đó là bóng ảo.
Phần lớn các nhà thơ của thế kỷ trước đều
mang trên đầu mình cái bóng của các nhà thơ Trung Hoa, Pháp hoặc Nga. Các nhà
thơ lớp sau lại mang trên đầu mình bóng rợp của lớp trước. Nhiều lúc nhìn nhau
ngán ngẩm nhưng rồi các “sĩ phu” tặc lưỡi: “gặp thời thế thế thời phải thế”.
Lớp nhà thơ cách tân đầu thế kỷ XXI ý thức
rất rõ hiện trạng này, nếu không thoát khỏi bóng của người khác, không tạo ra
được dấu ấn gì của riêng mình thì dẫu có “đóng cửa phòng văn hì hục viết”, tác
phẩm in ra xếp cao ngập đầu thì vẫn không nhỉnh hơn con số không là mấy, có khi
là số dư âm!
Họ có ý thức tránh các lối mòn, tránh những
sai lầm, lỡ bước của thế hệ đi trước thơ phải “chân chân chân, thực thực thực”
làm cho thơ “khô như ngói” nhưng lại mong: “Mai mốt thơ sẽ được bán bằng tem
phiếu”! (Cùng hàng với các ô: thịt, đậu, cá, tương, mắm… có một ô in chữ “Thơ”)!
II. CHUYỂN ĐỔI THI PHÁP – SỰ KHÁC LẠ BẤT NGỜ
Để tránh rơi vào khen chê cảm tính, tôi xin
điểm một số trường hợp cụ thể về chuyển
đổi thi pháp kèm theo với chuyển đổi nội dung thơ ở thời điểm đặc biệt cuối
thế kỷ XX sang đầu thế kỷ XXI:
1. Cuối TK XX, Nguyễn Lương Ngọc có bài thơ thể hiện khát
vọng đổi mới của ông:
Hội họa lập thể
Khi mắt đã no nê
Những quy tắc lên men
Khi sự thật bị thay bằng
cái giống như sự thật
Có gì không ổn
Có gì như bệnh tật
Khi mồ hôi vẫn ê a thiên
chức nghệ sỹ
Anh không muốn nhìn
những gì mình đã vẽ
Chính nước mắt, hay máu
tứa ra từ cái nhìn bền bỉ
Đã cho anh chiếc lăng
kính này đây
Để anh đủ sức đập vụn
mình ra mà ghép lại
Nung chảy mình ra mà tìm
lõi
Xé toang mình ra mà kết
cấu
Em tặng anh cát
Đây nó là thủy tinh
Em tặng anh dòng sông
Đây nó là ánh sáng
Em tặng anh chính anh mà
em vừa tìm được
Đấy là em.
Nguyễn Lương Ngọc
Thật quyết liệt: đập vụn, nung chảy, xé toang mình ra để kết cấu lại. Hình tượng
người nghệ sĩ với khát vọng sáng tạo đẹp lộng lẫy. Tiếc là vừa mới khởi đầu anh
đã vội kết thúc bởi sự ra đi đột ngột vào năm đầu tiên thế kỷ XXI (2001) ở tuổi
43.
Cách Nguyễn Lương Ngọc mấy năm, đầu TK XXI,
Nguyễn Quang Thiều viết:
Những con mồi
Đêm qua
những con cá bơi quanh chiếc giường
Ngửi chúng
ta rồi bỏ đi
Và bực dọc nói:
Chúng ta
không bao giờ ăn những con mồi chết.
Chúng ta có
chết không?
Một người
thức giấc hỏi.
Nhưng chẳng
có câu trả lời nào.
Ngoài bóng
một bác sĩ tâm thần ghi bệnh án
In trên bức
tường phía đông.
Trên đầu
chúng ta, những con cá
Bơi lùi về
quá khứ
Chúng muốn
xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu
Nhưng chỉ
còn lại một nhà kho mục nát
Trong đó một
chiếc đồng hồ
Chạy từ lúc
chúng ta chưa biết đến thời gian.
Giữa bất tận
những con mồi
Bầy cá nhắm
mắt
Chỉ mở ra
khi nghe lệnh
Nhưng một
con không chịu nhắm mắt
Trong suốt
cuộc săn tìm
Rời bỏ bầy
quay lại
Và nói với
một con mồi:
Ngươi đã hết
thời gian chết!
Cái quyết liệt cách tân trong bài “Hội họa lập thể” của Nguyễn Lương Ngọc
thì thời Thanh Tâm Tuyền – Nguyên Sa có thể có. Nhưng lối tư duy quyết liệt đẩy
tới tận cùng trong bài “Những con mồi”
của Nguyễn Quang Thiều khiến người đọc liên tưởng đến một cái chết gì đó nguy hiểm hơn nhiều so với cái chết sinh học thông thường để cảnh báo một nguy cơ thì thời
Thanh Tâm Tuyền – Nguyên Sa và Nguyễn Lương Ngọc không có.
2. Các nhà thơ nữ nhẹ nhàng hơn nhưng không kém phần “đáo
để”. Thử so sánh cùng một hoàn cảnh “cài và mở nút áo” rất nữ tính:
Năm 1985, Dư Thị Hoàn viết:
Tan vỡ
Mở ngăn kéo
rồi, anh bỏ ngỏ
Bút viết
xong không đậy nắp bao giờ
Ôi anh yêu,
lơ đãng đến là
Con nai rừng
của em…
Tất cả rồi
dễ qua đi, qua đi
Chúng mình
sẽ thành vợ thành chồng
Nếu không có
một lần…
Một lần như
đêm nay
Sau phút
giây
Êm đềm trên
ghế đá
Anh không
cài lại khuy áo ngực cho em.
Năm 2005, Ly Hoàng Ly viết:
Mở nút áo
Chầm chậm, mở một chiếc
nút áo
Soi vào gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo
Chầm chậm, mở ba chiếc nút áo
Soi vào gương, chầm chậm, mở chiếc
nút thứ tư
Chầm chậm, mở năm chiếc nút áo
Soi vào gương chầm chậm, mở nút thứ sáu...
Tìm hoài không thấy nút thứ sáu
Soi vào gương, cố tìm nút thứ sáu,
nút thứ bảy, thứ tám, thứ chín...
Mở mãi, muốn mở mãi
Mở bầu trời đêm trong lồng ngực
Nhưng áo chỉ năm nút
Nhưng đêm là vô tận
Mở mãi, muốn mở mãi
Mà bầu ngực vẫn trắng, không đêm
Mở mãi, muốn mở mãi
Bầu ngực này căng đêm
Soi vào gương
Bất lực và khóc
Trong vô vàn những giọt nước mắt
Một giọt đêm ứa ra từ bầu ngực trắng.
Một người muốn cài cúc vào cho đúng khuôn
phép “thày mẹ dạy”, thể hiện tinh thần biết tôn trọng người yêu; một người muốn
mở hết, mở đến tận cùng để khám phá bản thể, tự vấn lương tri đồng thời muốn
cởi tung những trói buộc với khát vọng tự do.
Phóng túng và nghiêm khắc của Dư Thị Hoàn thì
thời Hồ Xuân Hương đã có (mà còn đáo để hơn), nhưng khám phá bản thể và khát
vọng tự do cùng cách thể hiện tự nhiên giản dị của Ly Hoàng Ly thì thời Hồ Xuân
Hương, hay gần hơn, thời Anh Thơ, Dư Thị Hoàn không có.
3. Cuối
thế kỷ XX, cậu bé mười tuổi Trần Đăng Khoa viết:
Đám ma bác giun
Bác giun đào đất suốt
ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau
Cầm hương kiến đất bạc đầu
Khóc than kiến cánh khóac màu áo tang
Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai
Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến gió bay ra chia phần…
Đầu thế kỷ XXI, cậu bé lên mười tuổi Đặng Chân Nhân viết:
Cuộc sống 3
Cuộc sống là một món quà hay một lời nguyền?
Chúng ta có phải là thần
bị biến thành người
để có thể cảm thấy cái chết?
Chúng ta có phải là quỷ
được biến thành người
để có thể cảm thấy tình yêu?
Tại sao chúng ta lại ở đây?
Cuộc sống có phải một sự thử thách
để chúng ta sống sót
hay là để chúng ta chứng tỏ bản thân mình?
Chúa là một người bí ẩn,
nếu ông tồn tại.
Hầu hết các bài thơ Đặng
Chân Nhân được viết bằng tiếng Anh, sau đó em dịch về tiếng Việt, một cách để luyện tiếng Anh chăng? Bài thơ trên em dịch từ Life3.
Những hình ảnh cảm động
và hóm hỉnh trong“Đám ma bác giun”
cũng là hình ảnh của cuộc sống con người, ai cũng dễ nhận biết và đồng cảm.
Nhưng những điều tự vấn và triết luận trong “Cuộc
sống 3” của Đặng Chân Nhân thì không dễ gì ai cũng chia sẻ ngay được.
4. Một dạo hay đi nói chuyện thơ, tôi thường thuộc lòng
nhiều bài thơ vui của Nguyễn Duy, Bùi Chí Vinh để minh họa cho rôm rả.
đừng chê anh khoái bụi
đời
bụi dân sinh ấy bụi người đấy em
Xin nghe anh nói cực nghiêm
linh hồn cát bụi ở miền trong veo.
Nguyễn Duy
Cái gì không địch, không
ta
Xét ra thì nó chính là …
các em !
Bùi Chí Vinh
Đó là cuối TK XX.
Đầu TK XXI, Nguyễn Thế Hoàng Linh:
Tôi hỏi một không tám không
chị ơi nỗi nhớ thì lông
màu gì?
chị tổng đài giọng nhu mì:
à nhiều màu lắm vặt đi vẫn nhiều
hình như là bạn đang yêu?
không, em chỉ hỏi những điều hồn nhiên
hình như là bạn đang điên?
vâng, điên thì mới phí tiền hỏi han
xong xuôi hết bốn chín ngàn.
Lời răn của Chúa
khi sinh ra mỗi con người, Chúa bảo
mỗi bàn tay cần nắm một bàn tay
cả loài người lần lượt làm theo ngay.
kẻ lấy bàn tay phải nắm lấy bàn tay trái
kẻ lấy bàn tay trái nắm lấy bàn tay phải
Chúa thấy vậy lắc đầu ái ngại:
Biết thế mình đừng bảo cho xong.
Hai nhà thơ trên đùa cợt với đời sống cát
bụi, tình ái. Nguyễn Thế Hoàng Linh đùa cợt với triết lý nhân sinh. Lối đùa này
ở TK XX hiếm thấy. Thơ lục bát của hai nhà thơ trên cũng đã đổi mới nhiều, vậy
mà đến lượt Linh vẫn rất khác lạ.
5. Đồng Đức Bốn có nhiều bài thơ lục bát thành công được dư
luận đánh giá cao ở cuối TK XX. Bài “Chăn
trâu đốt lửa”:
Chăn trâu
đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì
ít gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi
một con diều
Củ khoai
nướng để cả chiều thành tro.
Đầu TK XXI, bài “Đồng chiều” của Đỗ Vinh:
Đôi sừng đã
chạm cổng làng
Chân còn bì
bõm chưa sang khỏi chiều
Cái đuôi sau
rốt vòng vèo
Còn vung vẩy
nốt chút heo may đồng.
Lê Huy Quang lạ hơn:
Về đi. Thôi
gió. Là đêm,
Hương hoa
sữa. Những êm đềm thời gian
Về đi, thôi
gió nồng nàn
Heo may gợn.
Thoáng đầy tràn trong nhau.”
Bài
của Đồng Đức Bốn từ đầu đến cuối là mạch kể đơn thuần, tập trung nội lực vào
câu cuối.
Bài
của Đỗ Vinh có sự hoán đổi lồng ghép thời gian, không gian, có bóng dáng một
bức tranh lập thể. Bài của Lê Huy Quang là nhiều mảnh của
nhiều bức tranh siêu thực, những mạch liên tưởng chặt khúc, vụn vỡ, tách rời và
tất cả được quy tụ lại ở phần cuối “thoáng đầy
tràn trong nhau”. Cả hai bài thấp thoáng yếu tố đồng hiện cấu trúc là thủ pháp khá phổ biến của thơ
hậu hiện đại đầu thế kỷ XXI mà ở thời Đồng Đức Bốn cuối thế kỷ XX hiếm thấy.
6. Trường hợp
khác cùng một tác giả, Nguyễn Thanh Mừng cuối TK XX có bài thơ nổi tiếng “Đám cưới Huyền Trân”:
Nghe đồn vua
xứ Chà Bàn
Dâng miền Ô
Lý rước nàng vu quy
Tôi đem rượu
đến biên thùy
Hắt lên mây
trắng biệt ly cả cười…
Thân không
tấc đất cắm dùi
Biển sông
thi phú mây trời phong sương
Cắn răng
nhường bậc đế vương
Gươm cùn
quẳng xuống vệ đường nhân duyên.
Thôi, nàng
hãy tạm nguôi quên
Tôi, chàng
trai Việt còn trên đời này
Quyết thu
trăm họ về tay
Binh nhung
ruổi chốn lưu đầy tìm nhau.
Đầu TK XXI, anh có bài “Bên sườn núi”:
Rằng từ sỏi
đá sim mua
Mẹ tôi đã
xếp nắng mưa thành làng
Củ gừng ngậm
một đa mang
Vùi vào
trăng khuyết trăng tàn mà cay.
Tôi cầm gió
cộ sương gầy
Hỏi bao muối
mặn vun đầy trăm năm
Giếng nguồn
thành cả rượu tăm
Mặt người
thương mến hóa rằm trong nhau.
Tôi nâng
giọng nói nặng sâu
Tiếng thô
tiếng mộc nên châu nên trầm
Ở nơi vắng
cách nhân sâm
Sắn khoai
đĩnh đạc tri âm với trời.
Bài “Đám cưới Huyền Trân”, thời gian, sự việc được xếp theo đơn tuyến,
với ngữ pháp thông thường. Bài dưới “Bên sườn núi”, thời gian sự việc diễn biến
đa tuyến, ngữ pháp biến ảo. Giữa hai câu đầu đã có sự gián cách, sau những chữ:
“từ sỏi đá sim mua” lẽ ra phải vắt xuống ý dưới, nhưng không, bỏ lửng. “Mẹ
tôi đã xếp nắng mưa thành làng”. Tương quan của câu sáu và câu tám ấy không
ăn nhập gì với nhau? Chữ “từ” hóa ra thừa? Cặp câu sáu tám này biến
thành đầu ngô mình sở? Chỗ này một thầy giáo khắt khe có thể bắt lỗi. Nhưng
tĩnh tâm đọc lại, khoảng gián cách mỹ học mà tác giả cố tình tạo ra làm cho câu
lục bát mênh mang lãng đãng. Khoảng cách đó giành để người đọc liên tưởng và
mỗi người liên tưởng theo cách riêng của mình đặng mà gắn kết hai tương quan có
sự tương đồng. Rồi tiếp theo vừa nói về mẹ, đã ngoặt sang “củ gừng ngậm một
đa mang”…
Đặc biệt bài thơ này có nhiều từ rất cũ: “đa mang, trăng khuyết
trăng tàn, gừng cay muối mặn, trăm năm, rượu tăm, người thương mến, nên châu
nên trầm, tri âm…”, đã vậy lại đặt trong thể lục bát truyền thống, nếu non
tay sẽ thành véo von ca vè hoặc sến, bài thơ hỏng là cái chắc nhưng ở bài này
chúng được Nguyễn Thanh Mừng đặt vào quy hoạch kiến trúc mới dưới tác động cộng
hưởng của các yếu tố cách tân nên những từ cũ ấy được “hóa phép” trở thành mới
mẻ. Bài thơ 12 câu, câu nào cũng từ khá đến hay.
Bài “Đám cưới Huyền Trân” cũng có nhiều từ cũ “rước nàng vu quy,
biên thùy, biệt ly cả cười, tấc đất cắm dùi, thi phú, phong sương, đế vương,
gươm cùn, nhân duyên, chàng trai, trăm họ, binh nhung, lưu đầy…” nhưng đặt
ở tương quan cũ thì vẫn cũ nguyên.
Những từ ngữ trong khổ thơ vốn có mối liên hệ đa chiều, chúng vận động,
chuyển hóa như những hạt nhân trong một trường liên tưởng. Ở đây, người đọc có
điều kiện đồng sáng tạo với nhà thơ.
Thủ pháp trên ở TK XX hiếm có.
Thơ lục bát nhịp vần chặt chẽ, tưởng khó có
cách tân gì đáng kể, vậy mà các nhà thơ cũng có nhiều sáng tạo làm mới thể thơ
truyền thống này.
7. Mai Văn Phấn, trong những năm
cuối TK XX, thơ anh dung dị, bài “Thay
lời chim làm tổ”:
Vừa tỉnh dậy
giữa vòm cây
Ta đem tiếng
hót xuyên ngày vào đêm
Dòng sông
giờ đã say mềm
Mới hay bờ
cỏ ru êm còn ghì.
Một thời phờ
phạc thiên di
Tìm trong
bóng nước thấy gì nữa đâu
Mảng đêm đập
cánh đi mau
Giọt sương
trong mát trên đầu hư không
Lơ ngơ mình
với hừng đông
Lặng nghe
ngày rạng giữa lòng bồng bênh
Mau về tha
cả rơm xanh
Mùa lên hơi
ấm vây quanh vội vàng.
Cùng đề tài, đầu TK XXI, bài “Con
chào mào”:
Con chào mào
đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây
cao chót vót
triu… uýt…
huýt… tu hìu…
Tôi vội vẽ
chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim bay
đi.
Vừa vẽ xong
nó cất cánh
Tôi ôm khung
nắng, khung gió
Nhành cây
xanh hối hả đuổi theo.
Trong vô tăm
tích, tôi nghĩ
Lát nữa chào
mào sẽ mổ những con sâu
Trái cây
chín đỏ
Từng giọt
nước
Thanh sạch
của tôi.
triu… uýt…
huýt… tu hìu…
Chẳng cần
chim lại bay về
Tiếng hót ấy
giờ tôi nghe rất rõ.
Hai bài cùng đề tài, hai thời điểm khác nhau, bài trên tác giả sử dụng
bút pháp truyền thống, tuy chữ dùng có gia công nghệ thuật khá công phu: “Ta
đem tiếng hót xuyên ngày vào đêm/ Dòng sông giờ đã say mềm…mảng đêm đập cánh…”
nhưng vẫn là mạch thơ đơn tuyến. Bài dưới lời thơ giản dị hơn, ít gia công nghệ
thuật nhưng tâm thức rất lạ: “tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ, tôi ôm
khung nắng khung gió…” vừa thực đấy thoắt đã ảo ngay. Rồi “nhành cây
xanh hối hả đuổi theo” vừa tĩnh đấy thoắt đã động ngay. Lại: “trong vô
tăm tích, tôi nghĩ”, tại sao không nghĩ trong thực tại mà nghĩ trong vô tăm
tích? Vừa hiện thực thoắt đã siêu thực ngay. Và:“mổ những con sâu, trái cây
chín đỏ, từng giọt nước thanh sạch của tôi…” tuy rất thực nhưng đều lãng
đãng trong cái vùng “vô tăm tích” rất mông lung kia. Và thật bất ngờ,
cuối bài thơ, chim không bay về nhưng tiếng hót nghe rất rõ! Âm thanh vang lên
từ tâm thức chăng? Nếu bài trên trải ra như hình học phẳng thì bài dưới thu vào
thành khối hình học không gian đa chiều; ở góc này hiện ra hình vuông, góc khác
nhìn ra hình lục lăng, hay nhiều hình đa diện khác như nhìn qua thấu kính vạn
hoa… Loại thơ này hiếm thấy ở thế kỷ trước.
8. Trường hợp Từ Quốc Hoài, cuối
TK XX, bài “Cỏ mùa xuân”:
Sững sờ tháp
cổ xanh rêu
lặng im Tháp
đứng bên chiều đợi tôi
nụ cười đá
tạc vỡ đôi
ngỡ còn
phảng phất làn môi ấm mềm
eo lưng thon
bước chân êm
mởn mơ bầu
vú… như thèm được yêu!...
ngàn năm dậy
dưới màu rêu
đâu thần
linh với vương triều phế hưng?
Lao xao ngọn
cỏ mùa xuân
dấu chân nào
mới ngập ngừng qua đây
diều ai rộn
rã trời mây
tháp xưa trẻ
lại giữa ngày cỏ non.
Đầu TK XXI, bài “Thiên đường”:
Những đôi
tình nhân chiếm đoạt nhau
họ tạo ra
bầu trời
nguyệt thực
cũng có thể
là nhật thực toàn phần
trong hơi
thở cường tráng mùa xuân
họ trải qua
mọi cảnh giới miền đất hứa
như Thiên
thần
mê man hạnh
phúc
trút bỏ mọi
thứ
để tỏa hương
da thịt
từ chối tất
cả
để được nhận
báu vật
tự do
con người sẽ
mãi mãi cư ngụ cõi trần gian
nhưng biết
cách
tạo ra Thiên Đường.
Hai bài đề tài gần nhau. Bài trước thi pháp
truyền thống, hướng ngoại. Bài sau thi pháp cách tân, hướng nội, nhà thơ không
dừng lại ở những hiện tượng bên ngoài của cái
sự yêu mà đi sâu vào bản chất vấn đề. Dùng ngôn ngữ giản dị mà thơ không
nhạt là rất khó, đây là thách thức vô cùng khắc nghiệt đối với các nhà thơ. Thi
pháp cách tân khoáng đạt dễ diễn đạt ý tưởng độc đáo, đẩy tới tận cùng. Với tầm
vóc này, bằng thi pháp cũ khó diễn đạt được hay nói đúng hơn là không thể được,
phải có một hình thức thật mới mẻ tương xứng. Thi pháp và những thủ pháp nghệ
thuật này ở Từ Quốc Hoài hồi cuối TK XX không có. Các nhà thơ khác cũng hiếm
thấy.
9. Bài dưới đây của Thi Hoàng được viết khoảng thập niên 90
cuối TK XX:
Mùa thu an ủi
Như có cánh diều bay
trong miệng
Cuối trời đất nặng hóa
thành mây
Màu xanh thắt lại chừng
đau điếng
Rồi sáng rồi trong nắng
gió đầy.
Gió nọ lần mò trong áo
quần
Gió kia vồn vã đã làm
thân
Cát bụi thì thầm nơi đáy
túi
Nước trong như cứa, đá
như dần.
Nỗi đau lên khói mơ màng
quá
Nhạt lại bừng lên, nắng
ú òa
Tiếng ai như mạch nha
quấn quyện
Cỏ đấy a và cây đấy a!
(Trích “Đom đóm và sao” 1997)
Bài dưới đây Thi Hoàng in báo Văn Nghệ ngày
12-6-2010, bài thơ dài in suốt hai phần ba trang báo. Xin trích một số đoạn:
X quang
Trong giấc
mơ thấy ý tứ trong ruột gan rất là giả tạo
và con chữ
nén trong tự điển mảnh như dao cạo
vừa gọt quả
vừa túm lấy một chữ cho thơ và đứt tay
có máu bảo
đảm cho thất bại
quăng mẻ
lưới rất to thu vài ba chữ gày
chiều nay
lại lòi ra một đứa háo danh như khát nước.
Cứ tưởng có
tiền thì đờm rãi cũng thành tinh dịch
coi thường
mồ hôi chỉ tôn sùng son phấn nước hoa thôi
sờ silicon
phải có cảm xúc thịt da chứ nếu không là dốt
cảm xúc ơi,
cảm xúc có sao không?
Cảm xúc
hết hơi rồi!
không lẽ lại
chế tạo một người mẹ khác
thay mẹ mình
nằm trong đất nâu
ngay cả đất
cũng toan làm đất giả
xin đổi trăm
niềm vui lấy một nỗi u sầu.
Tiếng gà gáy
thọc vào túi quần tìm tiền lẻ
tiền lẻ làm
sao mua được bình minh
tôi mặc cả
với chính tôi về phẩm cách
và tôi nhiều
lần bị tôi coi khinh…
trường sinh
học dạy làm người trong từng hơi thở
sau mỗi lần
sung sướng toát mồ hôi
chẳng lẽ bao
tinh túy thăng hoa vọt ra cạn kiệt
chỉ còn đây
cặn bã ở ta à
ta lại hàng
tuần không chịu tắm
lại đếm đi
đếm lại tiền nhiều lần khi lĩnh lương
lại ngắm sếp
mình vào những bảng danh giá trời ơi đất hỡi
lại xúi bẩy
lưỡi nói những lời khôn lỏi
lại nhầm lẫn
chính trị là triết học
thì còn biết
đằng nào mà bảo ban trái tim.
rất thích
cho chó liếm lên da
chốc nữa
phải rửa tay cũng được
vâng, rửa
tay dễ hơn rửa nhục
chó ngoan
ơi! xin cảm ơn mày.
Tôi cũng
từng được chia quỹ đen được phần sổ đỏ
góp bâng quơ
để dây máu ăn phần
cũng đem
nắng vàng phơi phóng chút vinh quang
đến tây đen
cũng phải đỏ mặt
xin mang nỗi
ngượng ngùng bón xuống đất
mong tinh
thần vô cơ làm vật chất hữu cơ…
Bài thơ trước, cuối TK XX, tuy đã le lói sự
chuyển đổi thi pháp “Màu xanh thắt lại
chừng đau điếng”, nhà thơ nhìn màu xanh cuộc đời không phẳng lặng đẹp tươi
mà quặn thắt nỗi niềm gì đó. Tức là cũng đã lật đi lật lại vấn đề, suy ngẫm,
trăn trở. Nhưng chỉ đến thế thôi, câu sau đã trở về với sự yên ả thường ngày: “Rồi sáng rồi trong nắng gió đầy”. Một số
câu khác trong bài cũng vẫn đầy đặn như thế. Hay trong nhiều bài khác, những
câu thơ rất tài hoa:
“Trong ngực
em có đôi chim bồ câu bị nhốt
Đi tìm trời
xanh mà thả chúng ra”.
Thì vẫn ở trong “kênh” đó mà thôi. Có lẽ ông
vẫn còn bận rộn với tâm trạng chung:
“Văn học làm
triết học
Trên đầu
ruồi tiểu liên”…
Nhưng đến bài “X quang” cuối thập niên đầu TK XXI thì khác hẳn. Riêng cái tít đã
rất quyết liệt, nhà thơ đứng trước máy phóng xạ để soi rọi toàn bộ con người
thật của mình. Và như thế là không giấu được gì cả, tất nhiên đây là lĩnh vực
tinh thần, tư duy, cảm xúc, có thế sự, có nhân sinh, có công việc làm thơ
thường nhật… Nhà thơ nhìn ra rất nhiều, rất nhiều cái không ổn, mổ xẻ phanh
phui, khi xót xa khi đau đớn tủi nhục.
Sự quyết liệt này ở cuối TK XX hiếm thấy.
***
Xin nhắc lại, tôi chỉ so sánh để thấy cái sự khác, chứ không hề đụng đến cái sự hay ít, hay nhiều. Qua chín trường hợp so sánh trên đây, về thi pháp,
bút pháp, sự khác nhau quá rõ. Sự khác mang yếu tố thời gian hợp với
quy luật vận động của thơ ca và đều theo hướng tích cực. Thời điểm khác, thơ
tất yếu khác, nhất là sang thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới. Nền thơ của chúng ta
có sự khác này là điều rất đáng mừng.
Chỉ sợ TK mới, mà bói không ra cái sự
khác nào cả mới là tai họa. (Nhưng cái
sự khác này không dễ được chấp nhận, xin xem phần sau bài viết này).
Cái sự
khác là yếu tố cốt lõi đánh dấu sự phát triển, tiến hóa. Quy luật tự nhiên,
xã hội đều thế cả.
Cái sự
khác ấy là những yếu tố mới để bạn đọc có thể bỏ cho thơ cách tân Lá-phiếu-hy-vọng, được chăng?
III. ĐI TÌM PHƯƠNG
PHÁP NGHỆ THUẬT MỚI & THI PHÁP CÁCH TÂN
Hệ mỹ học
Trung Hoa cổ đại chiếm ngự văn đàn Việt hàng nghìn năm. Dẫu
nước ta giành được độc lập từ thời Ngô Quyền năm 939 nhưng hệ mỹ học ấy còn kéo
dài sự trì trệ bảo thủ nghìn năm sau cho đến cuối thế kỷ XIX mới được thay thế bằng
hệ mỹ học Châu Âu mới mẻ tiến bộ hơn.
Năm 1945, nước ta giành độc lập, thoát khỏi
ách đô hộ của người Pháp nhưng thi pháp thơ mới từ thời ấy còn kéo dài mãi cho
đến hôm nay khi mà đất nước đã thống nhất, đổi mới và hội nhập toàn cầu. Tất
nhiên không đánh đồng thể chế và văn hóa, nghệ thuật, nhưng cái gì đã bị thời
đại bỏ xa rồi thì mình cũng nên biết và ứng xử thích hợp.
Đây là điều bức xúc của những người làm thơ
và yêu thơ. Thời đại mới phải có thi pháp mới chứ không thể xài mãi thi pháp
của ông tây bà đầm du nhập vào từ hàng trăm năm trước mà “bản quốc” người ta
cũng đã bỏ đi từ lâu! Thử mở các trang thơ hôm nay xem, rất nhiều bài thi pháp
bút pháp so với “Thi nhân Việt Nam” 1932-1941 vẫn gần như “chị em sinh đôi”.
Có người nói rằng thơ cách tân là lai căng,
thơ truyền thống hiện nay mới là dân tộc. Nhầm quá. Thơ truyền thống hiện nay
trừ lục bát và vài ba thể thơ thuần Việt, còn phổ biến từ những nguồn thơ cổ
đại Trung Hoa và thơ Pháp từ thế kỷ XVII, XVIII du nhập vào đã được Việt hóa.
Thơ cách tân cũng từ ngọn nguồn ấy nhưng đã bay vượt sang một chân trời mới rất
khác lạ.
Thơ cách tân khi tiếp cận tới hoàn mỹ thì hài
hòa cả hai yếu tố dân tộc và hiện đại. Hai yếu tố này luôn tương hỗ tôn vinh
nhau lên. Câu thơ cách tân thời cuối phong trào thơ mới của Nguyễn Xuân Sanh
nửa đầu thế kỷ XX:
“Đáy đĩa mùa
đi nhịp hải hà”
Và của Miên Di đầu thế kỷ XXI:
“Đẽo lương
tâm để vừa với chỗ ngồi”
Câu trên, đĩa quả thờ cúng Tổ Tiên cổ truyền
đẹp một cách mênh mang ảo diệu và câu dưới, cái sự “đẽo” rất dân dã, xưa “đẽo
cày”, “đẽo guốc”… giờ “đẽo lương tâm”, rất dân tộc và hiện đại. Câu thơ của
Miên Di thẳng tay tái nạm mấy ông bà tham nhũng đã bị lộ và chưa bị lộ!
***
Nhìn chung, xài quen cái cũ lâu quá rồi, đổi
sang cái mới thường rất khó. Trong lĩnh vực thơ lại càng khó.
Lại nhớ trường hợp ra đời của tập “Lá cỏ” (Leaves
of Grass) năm 1855, khi ấy Walt
Whitman 37 tuổi, tập thơ có 12 bài và một bài mở đầu, ông tự bỏ tiền túi ra in.
Khi tặng bạn bè, ông bị nhiều người chê bai la ó. Có trường hợp gửi tặng sách
qua bưu điện, còn bị bưu điện gửi trả: “không đáng gọi là thơ, tặng bạn thế là
khinh bạn”.
“Ai đó cho rằng sinh ra trên đời là niềm hạnh
phúc?
Tôi nói ngay với họ rằng chết cũng là hạnh
phúc.
Tôi chết cùng với người đang chết và sinh ra
cùng đứa trẻ sơ sinh…
Tôi ký thác tôi cho bùn đất để tái sinh từ
ngọn cỏ tôi yêu
Bạn
muốn gặp lại tôi, hãy tìm tôi dưới đế giày của bạn".
Tập thơ “Lá cỏ”
phá vỡ khuôn khổ vần luật của thơ truyền thống Mỹ, nhưng cũng phải 100 năm sau
sự phản đối Whitman mới hết. Cuộc cách mạng thơ ca ấy đã cho ra đời thể thơ tự do mới. Walt
Whitman luôn có thái độ dứt khoát:
“Bất cứ khi nào bạn thấy mình đứng về phía đám đông, đã đến lúc để dừng bước và
tự ngẫm lại mình” (Epoch Inspired - Vanvn.net 17-03-2015)
Ở Việt Nam, “thơ
khó” đã được Xuân Diệu luận giải trên báo “Ngày Nay” số 145, 14-1-1939 và
tiếp theo là “Tính cách An Nam trong văn chương” số 146, 28-1-1939,
“Mở rộng văn chương” số 148, 4-2-1939, “Thơ Huy Cận” số 151, 4-3-1939,
“Công của thi sĩ Tản Đà” số 166, 17-6-1939 (theo tư liệu của Phạm Xuân
Nguyên). Ông giới thiệu và bênh vực “thơ khó” chủ yếu của hai nhà thơ pháp
Arthur – Rimbaud (1854 – 1891) và Mallarme – Nadar (1842 – 1898): “chúng ta
không hiểu, nhưng khi hiểu được câu nào, thì câu ấy lồ lộ một vẻ đẹp nguy
nga”. “Thơ khó” quả là khó thật: khi “thơ
khó” xuất hiện ở Việt Nam, chính Xuân Diệu lại là người công kích, ngăn chặn.
Ấy là đối với “Thơ điên” của Hàn Mặc Tử, “Tinh huyết” của Bích Khê, “Điêu tàn”
của Chế Lan Viên, “Mê hồn ca” của Đinh Hùng, “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ,
“Buồn xưa”, “Hồn ngàn mùa”, “Bình tàn thu” của Nguyễn Xuân Sanh, “Giọt sương
hoa” của Phạm Văn Hạnh… Những tập thơ này ảnh hưởng chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng Châu Âu, khá lạ lùng với độc giả
đương thời. Và lúc này đây “Xuân Diệu quả đã đuối sức trong chuyến đập cánh về
chân trời của sự cách tân, làm mới thơ ca”. (Nguyễn Thanh Tâm – Văn nghệ trẻ
26-2-2012). Sau đó, năm 1949, trong cuộc thảo luận ở Việt Bắc về thơ không vần
của Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu cũng phê phán nặng nề, và như vậy ông đã góp
phần quan trọng trong việc ngăn chặn một cuộc cách mạng thơ ca lúc bấy giờ.
Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn
học Hoài Thanh cũng chỉ tiếp nhận sự đổi mới và cách tân thơ ở mức độ rất chừng
mực. Đối với những trường hợp thật mới mẻ và khó, ông cũng dị ứng (việc tuyển
tác giả tác phẩm vào “Thi nhân Việt Nam” thể hiện rõ điều này).
Ấy là hai ngôi sao sáng của bầu trời thơ mới
thế kỷ trước còn như vậy huống hồ ngày nay.
Do vậy, chúng ta hoan nghênh sự dũng cảm của
các nhà thơ cách tân, dẫu thành quả còn khiêm tốn (và nhiều khi còn bị ăn đòn).
***
Cuối TK XX, khi hệ thống lý luận văn học đang
thịnh hành và được tôn thờ như vật tổ tối linh bỗng chốc sụp đổ và rơi vào
khủng hoảng. Các nhà văn hoang mang ngơ ngác, chợt nhớ ra hình như các cụ nhà
mình có những đúc kết về nghề văn hay lắm, bèn phủi bụi lục tìm trong tủ sách
của nhà thì gặp lý tưởng Chân – Thiện –
Mỹ. Ôi, bao năm đi theo cái bóng
hồng ảo ảnh tận đâu đâu, giờ quay về, nhìn lên chỗ nhiễu điều phủ lấy giá gương thấy ngay điều căn cốt: Chân – Thiện – Mỹ. Lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ như bình rượu cổ chưng
cất từ tinh hoa văn hiến Việt, có sức sống vượt thời gian, là chất bổ dưỡng
tinh thần, chất men nghệ thuật chắp cánh thăng hoa cho các thế hệ văn nhân. Thế
rồi họ lại ngó sang các hệ thống lý luận phương Tây, thật lạ lùng, nội hàm Chân – Thiện – Mỹ với nội hàm các lý
luận phương Tây tiến bộ có khoảng cách không xa là mấy, lại như thấp thoáng
đồng ảnh đồng hiện trong nhau, nếu khéo kết hợp lại thì rất đẹp, cũng tựa như
thị trường Việt Nam vừa tham gia vào WTO ấy! Ôi thời đại đổi mới hội nhập mới
vui làm sao và họ nhận thấy:
Kết tinh chân thiện mỹ hài hòa tính dân tộc và hiện đại là phương pháp nghệ thuật mới của thế kỷ XXI.
Đây chính là nguồn sáng ấm áp là chỗ dựa tin
cậy, nhà văn yên tâm không còn phải chung chiêng như trước, không biết lựa chọn
phương pháp nghệ thuật nào cho phải nhẽ.
Riêng lĩnh vực thơ, sự chuyển động rầm rộ của
thi đàn Việt Nam ở đầu thế kỷ XXI, ta thấy có nhiều nét tương đồng với đầu thế
kỷ XX. Tương đồng ở sự chuyển từ cũ sang mới; từ quen sang lạ, nói gọn hơn: sự lột xác về thi pháp nghệ thuật…
Đầu thế kỷ XX: từ thi pháp thơ cũ, ảnh hưởng từ
Trung Hoa cái tôi phải giấu kín
sang thi pháp thơ mới, ảnh hưởng từ Châu Âu, cái tôi được mặc
sức phô bày.
Đầu thế kỷ XXI: từ thi
pháp thơ mới nghiêng về cảm xúc
và hào sảng sử thi sang thi pháp cách tân nghiêng về nghiệm suy lẽ sống, nhân sinh;
không chỉ phản ánh, mà còn phản biện; không chỉ động viên cổ vũ mà còn dự báo
tương lai; không chỉ nhận thức mà còn thức tỉnh lương tri con người.
IV. BỐN DÒNG CHẢY CỦA THƠ CÁCH TÂN
Như phần một đã nói: Thơ cách tân Việt Nam là
một mạch nguồn chuyển động không ngừng. Nhất là từ khi đất nước đổi mới cùng
với thời điểm đặc biệt: TK XX chuyển sang TK XXI, những đợt sóng thơ cách tân
lúc này mới thực sự có một không gian rộng mở để mặc sức tung mình lên phô bày
trăm vẻ lộng lẫy trong ánh sáng đổi mới và hội nhập. Nhìn vào thực tế đó, ta
thấy gì? Khuynh hướng ư? Ai bảo không có? Trào lưu ư? Đương nhiên rồi! Trường
phái ư? Thấp thoáng đâu đây!
Quan sát trên hai thập kỷ, trước sự sôi động
và sầm uất, không khó khăn lắm cũng nhận ra bốn dòng chảy trẻ trung và lực
lưỡng của thơ cách tân:
1. Hiện thực đa chiều
& huyền ảo.
Trong một cuộc hội thảo thơ, một nhà thơ trẻ
nói rằng hiện thực vốn đã tồn tại rồi, lại để nó tồn tại y như thế trong tác
phẩm nữa thì thật vô duyên. Có lẽ nhà thơ này tâm đắc với câu nói tương tự của
nhà thơ Pháp Stéphane Mallarmé. Nhiều nhà thơ trẻ thích tạo ra hiện thực với
nhiều khúc xạ đời sống vốn đa đoan và nhiều thứ “đa” khác trong tác phẩm của
mình. Giật mình nhớ lại, quả thật không ít bài thơ phản ánh hiện thực như chụp
ảnh, đơn giản và đơn điệu đến phát chán. Sang thế kỷ XXI phải thay đổi là điều
bức thiết lắm.
Về thi pháp, các nhà thơ bắt đầu có ý thức
tương đối rõ về việc huy động những khả năng tiềm ẩn của con người mà bấy lâu
nay bị lãng quên như khả năng trực giác,
linh giác, ảo giác… Và họ không chỉ phát huy tối đa tri thức mà cả tâm thức, tiềm
thức, siêu thức, vô thức – kho
báu giàu có mà bấy lâu nay ta để quên trong sự nghèo khó triền miên.
Có thể nói tập thơ“Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều đã làm cho không ít
người mất ngủ vì chất giọng, chất thơ quá lạ lùng. Tập thơ được giải thưởng Hội
Nhà Văn năm 1993 gây nhiều ì xèo, ầm ĩ. Nguyễn Quang Thiều liên tiếp cho ra đời
những tập thơ “sinh sự” với độc giả nhiều hơn; tranh cãi nảy lửa, càng tranh
cãi, càng thấy thơ anh có từ trường. Thử trích tình cờ trong một số bài của
Nguyễn Quang Thiều:
“Rượu câm
lặng chở những linh hồn rắn
Có một kẻ
say hát lên bằng nọc độc trong mình”;
“Ngước lên linh hồn những hồ nước bị giết đang
bay lượn tìm nơi hạ cánh”.
“Sông không
an ủi nổi tôi, đò dọc, đò ngang mái chèo đang bó bột”.
“Tổ tiên tôi
thức quá lâu, tôi lại ngủ quá lâu
Trong trầm
vọng kèn hơi những họng người đã rách”.
“Những ngọn
bí đen không lá bò kín vầng trán hói của cơn mê
Tôi khóc
những người đàn bà quảy hai chiếc sọt vừa đi vừa mơ nấm mộ của mình”…
Thơ Nguyễn Quang Thiều nhiều bài không dễ đọc
bởi anh đã sớm nhận ra và dứt khoát từ bỏ lối mòn quen thuộc đầy những diễn
ngâm du dương êm mượt đến nhàm chán để chọn cho mình lối đi riêng. Và, chính
tại đây, những trầm tích của tiếng Việt cựa mình bừng thức rồi cất lên một
trường giọng lạ lùng trong tiếng thơ ngỡ ngàng chưa từng có khiến thi đàn lâu
lâu lại rùng rùng ít nhiều độ rích-te.
Một số người cho thơ Nguyễn Quang Thiều du
nhập từ nơi nào xa lạ, nhưng đọc kỹ mới thấy thơ anh thấm đẫm chất đồng quê
Việt, những bài: “Nhịp điệu châu thổ”, “Lễ tạ”, “Trong quán rượu rắn”, “Linh
hồn những con bò”, “Tôi khóc những cánh đồng rau khúc”, “Những người đàn bà
gánh nước sông”… Nhà thơ như một anh trai cày, vạm vỡ một cách u buồn và mạnh
mẽ trong đau đớn:
“Máu tôi
chảy lâm râm trên đất
Trên mặt
người, trên mặt những câu thơ
Ôi dòng máu
cũng thác ghềnh vực xoáy
Có cánh buồm
trôi trên dòng máu đỏ ngầu
Bến bờ ở đâu
trên dòng sông mặn ấy
Em xa tôi
gội tóc xuống đau buồn”…
Một số tác giả khác:
“Chiều có
thể nghiêng, mưa có thể buông, đá có thể khóc...
... Nhổ khóm
hoa vàng để mà được vục vào với bụi, với phân, với đất
Gió ợ mùi
chua, tình đã dậy men, đất hình như mặn”
Lãng Thanh
“Tôi theo bày trẻ
ra đi
Những mái nhà tranh
nằm xõa tóc
Những con cá ngàn
năm hát ao chuôm
Gào lên con gà
trống chín đầu đỏ rực
Mặt trời giật mình
không biết mọc phương nao
Và cuộc sống thêm
một lần non nớt”
Nguyễn Quyến
“Khi mọi người
mang lửa đến
Chúng tôi mới nhận ra trong mình có mỡ bò, cừu, parafin
hay dầu lạc
Và chúng tôi có thể cháy sáng
với cùng một ngọn lửa”
Đỗ Doãn Phương
Thoát bóng
nữ thần
cởi xiêm áo cung đình chật
em chân trần làm tình nhân mặt đất
múa vũ điệu con người”;
“Thế kỷ nhiều giấc mơ sinh nở nhiều giấc mơ
khô héo
nhiều giấc mơ
bị chối từ”
Kiều Maily
Đọc Nguyễn Quang Thiều và những tác giả trong
dòng thơ này, không khỏi liên tưởng
(chứ không phải so sánh) đến dòng văn
học hiện thực huyền ảo từ Châu Mỹ Latinh đã tàng hình trở lại rồi ẵm luôn giải
Nobel danh giá. Đó là cuốn “Trăm năm cô
đơn” của
Garcia Marquez. Lại nhớ câu thơ máu lửa của nhà thơ vùng tân thế giới
này, Octavio
Paz: “Đồng tiền liếm khô máu thế
gian”, thơ cách tân VN không hiếm câu ngang ngửa.
Trên bức tranh hiện thực đa chiều này âm vang
một dòng ngôn ngữ khác - ngôn ngữ tiềm thức, tiên cảm - song song cộng hưởng
với ngôn ngữ thơ mặc dù nhiều khi bặm trợn, hầm hố; một hiện thực khác ánh
chiếu linh ảnh từ huyền thoại, huyền sử tương phản với cái thực dụng, phù phiếm
hàng ngày.
Ở dòng thơ hiện thực đa chiều và huyền ảo, thường hay xuất hiện nhiều hình ảnh
mộng mị, hoang dã đầy thôi miên, tạo ra những ám thị và ám ảnh; tĩnh tâm suy
ngẫm thì đó chính là hành trình đi tới sự huyền linh của các giá trị cuộc sống
được cảm nhận bằng giác quan thứ sáu (còn gì buồn tẻ bằng cuộc đời chỉ thuần
những thứ cảm nhận bằng năm giác quan thông thường mà thôi). Dù gọi là gì thì
đó cũng là vẻ đẹp kỳ ảo pha màu bí ẩn làm cho cuộc sống này phong phú đa diện
đa chiều hơn, có ý nghĩa và đáng sống hơn.
2. Phản
biện, dự báo & thức tỉnh.
Khái niệm này mới được nhen nhóm từ cuối thập
niên 80 thế kỷ trước khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới và rõ nét dần
trong quá trình dân chủ hóa xã hội. Thế hệ nhà văn của đầu thế kỷ XXI tiếp nhận
hồn nhiên hơn lớp cha anh, nhưng nói chung, tất cả đều nhìn trước nhìn sau và
trông nhau dè dặt.
Tính hoài nghi khoa học giúp họ có cái nhìn
sâu hơn và sắc sảo trong chức năng phản
biện (kể cả phản biện chính mình),
dự báo, và thức tỉnh lương tri.
Trong bài “Sự
phẫn nộ của nhà văn”, báo Văn Nghệ số 49 – 2006, Đào Ngọc Đệ viết:
“Sự thật thì, đã có một thời gian quá dài,
chúng ta chỉ quen nhìn một chiều, cảm một chiều, nghĩ một chiều. Không có phản
biện xã hội, phản biện tư tưởng. Cái “một chiều” đó chỉ toàn là cái tốt đẹp,
cái suôn sẻ - nhiều khi lại được khuếch đại, hoặc do tưởng tượng ra. Dường như
con người, sự vật, hiện tượng không có mâu thuẫn nội tại, gay gắt, cuộc sống
toàn màu hồng. Ai làm ngược lại thì bị đánh dấu hỏi, bị thành kiến. Đó là điều
cực kỳ nguy hại cho sáng tạo văn chương”.
Quả thật, suy nghĩ cho thấu đáo thì phản biện, dự báo & thức tỉnh mới là
thiên chức cao nhất của người nghệ sĩ và cũng là khó và nguy hiểm nhất. (Xem
lại văn học sử thế giới, không ít nhà thơ không giữ nổi cái thủ cấp của mình).
Nên nó đòi hỏi người nghệ sĩ, ngoài tài
năng ra, phải có tâm, có tầm và bản lĩnh. Thực hiện thiên chức này, các
nhà thơ thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật tự
trào. Tự trào có ưu thế đặc biệt dễ gây ấn tượng và ám ảnh mạnh. Tự chửi
mình như Tú Xương:
Cha mẹ thói
đời ăn ở bạc
Có chồng hờ
hững cũng như không.
Ngày nay kiếm đâu ra người có thực lòng với
vợ đến như thế?
Tự trào từng thịnh hành trong trào lưu Hiện
thực phê phán, nhưng đến Văn học Cách mạng 1945 thì vắng bóng, mãi đến thời kỳ
đổi mới cuối thập niên 80 thế kỷ XX mới bắt đầu trở lại nhưng còn rụt rè. Mới
chỉ thấy ở Chế Lan Viên trong “Di cảo” và quyết liệt hơn ở Nguyễn
Đình Thi trong bài thơ hiếm hoi “Gió bay”:
Người tôi
còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi
nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng
nhiều đồ bỏ
Nhiều dây
nhợ tự buộc mình.
Thôi, xin
tha cho mọi lỗ lầm
Quên cho
những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi
đã nhiều lần ác
Và ngu dại
còn nhiều lần hơn…
Đầu TK XXI, nhiều nhà thơ cách tân đã sử dụng
phương pháp tự trào cổ điển kết hợp
với giễu nhại hậu hiện đại, tiêu biểu
là nhà thơ Thi Hoàng. Những tập mới xuất bản sau năm 2000 của ông: “Bóng ai gió tạt”, “Cộng sinh với những
khoảng trống”, “Chìm vào mật nóng”. Ông thường lấy bản thân mình ra để tự trào và giễu nhại.
“Danh vọng
như chó con
Nó liếm mặt
khoái ghê. Rồi phải đi rửa mặt
Tôi từng gắp
cả những lắc đầu bĩu môi vào bát ăn
Từng mang
đạo đức giả ra chợ đời đổi thành nhân cách
Từng nhờ hoa
đi giết nỗi buồn”
(Cộng sinh với những
khoảng trống)
Thủ pháp giễu
nhại là đặc điểm nổi bật trong phương pháp nghệ thuật hậu hiện đại, nó gần
với tự trào cổ điển. Thi Hoàng đã
khéo nắm bắt cả hai yếu tố này gắn kết chúng lại với nhau trong thơ và hình
thành một hệ cấu trúc ngôn ngữ rất đặc trưng:
Kiến tha ra
khỏi tai rất nhiều rác thông tin
không phải kiến đâu
ấy là dây cháy chậm
nối vào đêm
định biến đêm đen thành một quả mìn.
Từ “rác thông tin” (A) đến “một quả mìn” (B)
hai thực thể này chả có liên quan gì với nhau. Nhưng nhà thơ đã kết nối tài
tình, hợp lý đến nỗi ta tưởng như (A) và (B) đã có mối liên kết nội tại từ lâu,
chúng là một, không thể tách rời và để gây ra một hệ quả ghê gớm: một vụ nổ!
Đọc nhiều bài thơ và trường ca của Thi Hoàng, ta luôn bị giật mình bởi những vụ
tiểu bicbang ngôn từ hình ảnh liên tiếp nổ ra kết thành những trận mưa sao băng
ý tưởng.
Có thể nói Thi Hoàng là một trường hợp tiêu
biểu hiếm hoi của lớp nhà thơ có thành tựu trước năm 1975 đã quyết liệt chuyển
đổi từ thi pháp truyền thống sang thi pháp cách tân. Với nội lực thi tài mạnh
mẽ, Thi Hoàng đã tạo ra một hiện tượng thơ cách tân khá đặc biệt, một thương
hiệu của vùng văn học đất cảng không lẫn với bất cứ ai, ở nơi nào. Và như thế
sự phản biện xã hội và thức tỉnh lương
tri được thể hiện rất sắc bén.
Tự trào cổ
điển và giễu
nhại hậu hiện đại còn được nhiều nhà thơ cách tân khác sử dụng có hiệu quả
như Trần Quang Quý, Nguyễn Bình Phương, Ly Hoàng Ly, Miên Di…
Một xã hội mà nền dân chủ cởi mở là điều kiện
tốt cho hai thủ pháp nghệ thuật này phát huy hiệu quả. Có lẽ đây là nơi gặp gỡ
của tân cổ điển và hậu hiện đại chăng?
Trong bài “Lời”, Trần Quang Quý có tuyên
ngôn: “Tôi không nói bằng chiếc lưỡi của
người khác” và như thế anh phải vượt qua nhiều trở ngại: “Cơn bão từ vựng; núi đồi thanh âm; thác
ghềnh cú pháp…”.
Một số tác giả khác:
“Thanh tẩy
mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm
bằng ngọn đèn…
Xối ánh sáng
vào từng góc khuất
góc khuất
như lò thúc mầm
như thép
nóng đem tôi vào nước”
Mai Văn Phấn
Đã có sai lầm ở đâu đó trong chuỗi thời gian
chúng ta sống
đã có điều gì đó không kịp thời
đã có cái gì đó chắn ngang đường.
Giá như chúng ta được lùi lại
giá
như chúng ta được bắt đầu…
Đinh
Thị Như Thúy
“Nhà thơ, kẻ cần cù gieo khổ đau trên cánh
đồng hạnh phúc, kẻ rèn gươm từ tủy não của mình, lửa đỏ máu qua trái tim quay
bễ, miệt mài làm những cuộc sát thương”
Ngô
Liêm Khoan
“Ngổn ngang nhu yếu phẩm tín ngưỡng
có thể chọn món đức tin quá đát, xài rồi…
thời hạnh phúc thặng dư hay nỗi buồn khủng
hoảng
từng con dế bị cầm tù trong hộp diêm thế sự
đấng quyền năng lạ hoắc sáng tạo trần gian
bằng những vuông đắt đỏ
từng vỏ người mang khuôn mặt iphon”
Miên
Di
“Lấy dao
tìm tre
chẻ và vót
cơn giận dữ…”
Lê Va
Nhà phê bình Roland Barthes nói “Văn chương
không bao giờ là những lời giáo điều”. Ở dòng thơ này các nhà thơ có nhiều
chuyển đổi thi pháp, rõ nhất là ngôn ngữ. Những ngôn ngữ xác tín trước đây được sử dụng như bùa hộ mệnh thì giờ được thay
thế bằng ngôn ngữ giả định, nghi vấn,
chất vấn.
“Hoài nghi
và sợ hãi
là hai cái
tát thâm độc nhất
Mình tự đánh
mình”
Trịnh Sơn
“Ngộ độc bắt
đầu bởi những mỹ từ
Ngày dần
khôn và rắn mặt
Lồi lõm
những đường tư duy
Gạch xóa
tơi bời
trong não”
Đoàn Mạnh Phương
“Mong bạn
hoài nghi tôi
Cho tôi tin
cậy bạn
Những lời
đang vỗ cánh
Chưa chắc là
đã bay”
Nguyễn Vũ Tiềm
“Một ngày
gió nâng tôi lên cao
gió trao tôi
đôi cánh
và bảo tôi
hãy cởi gió ra
và bay lên
trên ý nghĩ”
Nguyễn Phan Quế Mai
Tâm hồn bay bổng của nhà thơ được chuyển động
bởi hai động cơ: tư duy lôgic và tư duy hình tượng. Tuy khả năng suy nghĩ
rành rẽ và hợp lý thì không bằng nhà
khoa học nhưng họ có lợi thế là nhạy bén
và linh cảm. Bằng nhiều hệ quy chiếu khác nhau, họ khám phá và phát hiện
vấn đề và những hệ lụy của nó; sàng lọc và có kiến giải nghệ thuật sinh động và
khái quát, đánh thức những khát vọng, niềm trắc ẩn sâu kín của con người. Rimbaud
từng nhắc nhở: “Nhà thơ phải là một kẻ tiên tri, phải là người có con mắt nhìn
xuyên thấu qua mọi sự vật của thế gian này”.
Yếu tố
phản biện, dự báo, thức tỉnh, nguồn linh diệu của thi ca đều có tiềm ẩn
trong tâm hồn thi nhân cả đấy, nhưng khơi dậy và tỏa sáng thì chưa, sợ tổn
thương bóng tối chăng?
3. Chia sẻ
nỗi đời & nỗi đau.
Ở thế kỷ XX, thơ đã làm tốt chức năng cổ vũ
lòng yêu nước, tinh thần xả thân, hăng hái xây dựng cuộc sống mới; nhưng bà con
mong các thi nhân hãy bớt đi cái thì giờ ngồi ngắm bằng khen với chiêm ngưỡng
huân chương để nghĩ đến món nợ cuộc đời, ấy là những nỗi niềm thầm kín đớn đau, những ẩn ức số phận cần có tiếng
nói và được chia sẻ.
Trong tác phẩm “Lý luận văn học”, Lê Ngọc Trà nhận định: “Chúng ta vẫn bắt gặp con người nhưng phần lớn đó là con người tập thể,
con người - quần chúng, con người - nhân dân, chứ chưa phải là những cá nhân,
số phận”
Vẫn trong bài báo trên, Đào Ngọc Đệ sốt ruột:
“Trước những nỗi đau khổ của con người,
trước cái xấu cái ác, nhà văn cần phải phản ánh, đồng thời có quyền và phải
phẫn nộ về những gì chà đạp lên con người. Nói thế, để thấy rằng, có nhiều
người gọi là “nhà văn” nhưng do nhận thức hiện thực một cách phiến diện, do ấu
trĩ về tư tưởng triết học, do lấn cấn về tư tưởng khi viết cái xấu, cái ác
trong xã hội hiện nay; do né tránh để an phận; do quyền lợi mình đang hưởng, do
miếng cơm manh áo thời nay, đã không dám viết về nỗi đau của con người…”
Sự bức xúc trên là có cơ sở. Chiến tranh mới chỉ tạm
ngưng ở miền Bắc, Phạm Tiến Duật có
bài thơ “Vòng trắng”, một trong những
bài thơ hay nhất của ông, vậy mà tác giả còn bị lên bờ xuống ruộng. Người cho
in bài thơ đó cũng rất trần ai khoai củ! Nhưng sang thế kỷ XXI, các nhà thơ đã
có lộ giới rộng hơn để tìm đến đặt bàn tay lên vầng trán nóng hầm hập của những
ẩn ức số phận trong cơn sốt chuyển động thời cuộc.
Mai Văn Phấn có cách chia sẻ nỗi đời rất lạ trong bài
“Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ”:
Pha xong ấm trà
quay ra
ông khách đã không còn
đó
gọi điện thoại
người nhà bảo
ông mất đã bảy năm
nhầm lẫn.
…
trà vẫn nóng
đẩy chén
nước về phía ông khách đã ngồi.
Luồng tử khí
cao chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt.
Chốc lại cúi
gập.
Cõi thực, cõi ảo gần như lẫn lộn, người âm,
người trần tiếp xúc thật khó hiểu, nhưng suy ngẫm thấy họ chia sẻ nỗi đời theo
một cách riêng vừa hỗn mang vừa minh triết. Thơ Mai Văn Phấn mới xem qua tưởng
anh quá ảnh hưởng tư duy phương Tây, nhưng không phải, đa số thơ anh thể hiện
tư duy triết học Á Đông rất đậm. Tập “Ra vườn chùa xem cắt cỏ” được Page Addie
United Kingdom, Australia xuất bản song ngữ Việt Anh: “Grass Cutting in a
Temple Garden” thể hiện rõ điều đó. Bài đầu tiên “Ở những đỉnh cột” (On Pole
tops):
“Lưỡi tôi bị
thắt
treo trên
đỉnh cột
mỗi lần nói
chiếc lưỡi
phải co rút
kéo thân thể
béo ị lên cao
tôi giẫy
giụa tựa mảnh vải quẫy trong gió mạnh…”
Nhà thơ bị đóng đinh câu rút bằng lưỡi chăng?
Cảm thức về nỗi đau nhân thế luôn phập phồng trong từng câu thơ. Gấp sách lại,
tôi hình dung: tập thơ là chuỗi-hạt-thiền kết-bằng-nước-mắt đang chờ đặt vào
tay bạn đọc, những vị-chân-tu-cuộc-đời này.
Một số trường hợp khác:
“Em giặt giũ
nỗi buồn
Trắng tinh
phiền muộn
Phơi vào đêm
phần phật bão giông”
Huỳnh Thúy Kiều.
“Đừng ngốc
thế em ơi
Anh không
chỉ là giấc mơ ngọt ngào mà còn là sự thật đắng cay
Với những tháng
năm hận thù và máu lửa
Những tì vết
không thể nào gột rửa
Những lớp
váng vinh quang”
Khuất Quang Thụy
“Chiếc thuyền nan úp mặt vào ngơ ngác
như vỏ cau khô nhớ tiếc một thời trầu”
Nguyễn Ngọc Phú.
Những bộ xương vô danh muốn trở lại với thịt
da
nhầm lẫn chỉ con đường về
bóng tối mục rã thì ánh sáng cũng lụi tàn
các ngài chờ giao thoa trời đất
đừng quên mang theo trái tim ở bất cứ dạng
nào.
Vết thương than thở với nơi lành lặn:
ngươi còn được quan tâm”...
Nguyễn Đăng Khương
“Thơ anh có nỗi buồn nỗi vui của gió
Bay trên phận người…
Không mượn chiến tranh làm cú sút
Càng hòa bình thì thơ càng đau hơn…”
Đỗ
Quyên (ở Canada).
“Ôi con
đường của thời gian chỉ mình ta hiểu được
Trong đôi
mắt em buồn”
Nguyễn Chí Hoan.
“Khúc nam
ai, những cung phi góa bụa
Chèo thuyền
vớt xác mình trên sông…”
Phan Huyền
Thư.
Dòng thơ này có lợi thế là dễ tiếp cận với
những đề tài nóng bỏng của cuộc sống nhiều biến động và bức xúc. Trước tai nạn
rừng U Minh cháy, Tuyết Nga có những câu thơ rất ấn tượng:
“Tro của
tiếng chim
của lá của
hoa
rơi lả tả
trong chiều cùng xác nắng…”.
Huệ Triệu, thân gái dặm trường theo tàu Hải
quân ra tận Trường Sa:
“Đảo Sơn Ca
đón chúng
tôi
bằng những âm thanh
rung vang ngực biển
Hóa thân vào nỗi đời là thủ pháp quen thuộc
của các nhà thơ:
“anh sẽ đeo
vào cổ em
sợi dây
chuyền bí ẩn của bóng đêm
những chiếc
chuông mùa thu trong trẻo
rung lên khi
thành phố bay về trời…
anh đeo vào
ngực em
cơn bão”
Thanh Thảo.
Ở dòng thơ này, nhiều tác
phẩm thấm đẫm chất hiện sinh thể hiện sự cô đơn, thương tổn của số phận con
người :
Có lúc
muốn cạo cho nhẵn ghen tuông
mặt con chuột cháy nhà”
Phan Huyền Thư
“Chiếc váy
em khe khẽ hát bài ca thân thể
Sự chuyển
động mơ màng từ ngực đến chân
Tiếng thở
dài khỏa thân trong giấc ngủ
Ngọn lửa
thân hình em chảy xiết dưới ngực mình.
Rồi bóng đêm
nuốt hết”
Nguyễn Việt Chiến
Thực ra, chia
sẻ nỗi đời nỗi đau không phải mới, là thiên `qqchức muôn đời của văn học.
Ca dao, Truyện Kiều cùng nhiều áng văn chương cổ, trung đại, cận và hiện đại đã
hình thành một Bảo-tàng-Nỗi-đời-Nỗi-đau và được xây nên bằng nước mắt. Thơ cách
tân tham gia vào thiên chức này bằng những nỗi niềm chân thật và cách thể hiện
rất tự nhiên. Đặc biệt tác giả nữ, với những trải nghiệm đớn đau:
“Bỗng thấy
mình đang nói cười hạnh phúc
Trong một
nấm mồ sống
Dọc đường
đời, dăm ba người đàn ông chị gặp
Những nấm mồ
không cỏ xanh”.
Đặng Thị Quế Phượng
“Khi lắng
nghe tiếng nói phản biện đằng sau trái tim anh
giấy báo tử
cho mùa thiếu nữ”
Ngọc Tuyết
“Xin chị cứ vọng phu,
chỉ trái tim đừng mỏi mòn nhịp cũ
Trái tim hãy hát lên gọi
anh về”
Thúy Quỳnh.
“Ba của sắp
nhỏ ơi
Đừng ghen
với người đang chờ để galăng tôi
Người đó có
tên là đất
Để chết rồi,
tôi được dịu dàng ôm”.
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh
“Chị rút sợi chỉ dài
bằng cả quãng đời âm thầm thời con gái
Sợi chỉ so le đoạn ngắn đoạn dài...
Đêm chẳng lành hơn
Chỉ có miếng vá nỗi đau này
Chồng
lên miếng vá nỗi đau kia”
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh.
Ẩn ức số phận là năng lượng bị kìm nén; chia
sẻ nỗi đời nỗi đau vừa là lau khô dòng lệ tủi hờn, vừa là giải phóng năng lượng
tạo nên sức bật, sự bừng nở như pháo hoa làm rực rỡ bầu trời tâm tưởng.
4. Folklore
- humor & ngoại biên.
Chất giọng Folklore – humor trong thơ Việt trước đây khá đậm ở Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến Tú Xương, Tản Đà, Tú Mỡ…
Đặc điểm chính của dòng thơ này là thơ trữ tình có yếu tố Folklore – humor hay
giễu nhại. Tiếng cười là tài sản vô giá mà trong thế giới động vật chỉ duy nhất
con người được sở hữu. Tiếng cười cùng với sự hài hước hóm hỉnh vừa dưỡng sinh
trí tuệ vừa là thông điệp có tác dụng vô cùng sâu sắc, có sức sống lâu bền.
Quốc gia nào có nền văn học hay tác phẩm loại này dễ được cộng đồng thế giới tò
mò tìm đến và sau đó là giương cao biểu trưng lòng ngưỡng mộ tột đỉnh như
trường hợp Don Quixote, AQ…
Giải trí cũng là một trong những chức năng
quan trọng của thơ. Nhưng do những biến động thời cuộc, nửa sau thế kỷ XX loại
thơ này hình như bị tước hộ tịch, khiến nhà thơ Trần Dần “Chỉ thích đếm những gì không quá một”. Mãi gần đây loại thơ này
mới mắt trước mắt sau mon men đặt chân trở lại.
Thử điểm qua một số câu thơ.
“Chân lý đường cong
Cái nhíu mày
Đủ cho người ta đi thụt lùi ra cửa”
Hoàng Vũ
Thuật.
“Đám @ đánh võng phóng như bay
thời gian ngã,
máu tuôn, thời gian không thể dậy
tốc độ ư ?
thì cũng cũ
lắm rồi…
ta lớn lên
bằng kiếm tìm
kiếm tìm giờ
đã cũ...”
Nguyễn Bình Phương.
“Tôi ôm rổ
mắt ngồi chơi
Để xem tấp
nập người đời lại qua
Tôi đem rổ
mắt làm quà
Khóc cho hết
thảy gần xa phận người”.
Lợi Hồng Diệp (ở Ba
Lan).
“Hoa đào đã
rụng hết rồi
Vừa gặp em.
Mới một trời đầy hoa
Cho anh làm
lại hôm qua
Thì anh vẫn
sẽ như là hôm nay”
Nguyễn Đức Tùng (ở
Canada)
Thơ phi lý cũng được Trương Đăng Dung mạnh tay thử nghiệm với bài “Những kỷ niệm tưởng tượng”. Hàng loạt
hình ảnh, chi tiết đời sống hết sức phi lý về thời gian, không gian nhưng lại
là những sự thực ta vẫn gặp ở đâu đó hay trong những bản tin hoặc trong tiềm
thức. Qua đó ám ảnh ta về nhiều lẽ khôn nguôi:
“Cùng nhau
thấy những bà mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con
nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây
vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi”.
Đây là một nét mới nữa mà cuối TK XX không
có.
Nhà thơ trẻ Nguyễn Thế Hoàng Linh vừa tưng
tửng vừa rất ngầu:
“Mùa đông
năm nay không lạnh
em yêu hắn đến đâu rồi?
đã đến lượt
tôi chưa nhỉ
em đừng để
hắn đơn côi”
Anh viết một số bài thơ có chất giọng “thiên
tài” như bài Lời răn của Chúa thoắt đã chuyển sang bông phèng cà
trớn. (Nhưng có ai cấm thiên tài bông phèng cà trớn đâu nhỉ)!
Một số nhà thơ trẻ khác:
Những con rận bò kín ý
nghĩ
Những vết chân tăng-gô rê quanh nòng súng hết
đạn
Bỗng anh phát giác
Mình bị lủng một lỗ trên đầu”
Nguyễn Hữu Hồng Minh
“Nhìn xuyên
qua kẽ ngón tay
Lại nghe thác đổ mới hay tấm lòng
Thì ra bốn chục năm ròng
Nhà em mái lợp giữa vòng tay anh”.
Phan Ni Tấn
(Ở Canada).
“Thử làm một chuyến xe đông
đi không để đến và không để về”
Miên
Di
***
Dòng thơ này một khi giảm thiểu yếu tố trữ tình vượt
ngưỡng thì dễ trở thành thơ ngoại biên,
trong số này có thơ Bút Tre. Ở đâu có
thơ Bút Tre là ở đó tiếng cười rộ lên thật vui vẻ sảng khoái.
Đừng khen mà
cũng đừng chê
Khi xem tiết
mục văn nghê quần chùng (văn nghệ quần chúng).
… Mời cô sơi
một quả chuồi (chuối)
Ra về nhớ
mãi cái buổi
hôm nay.
Thi pháp của lối thơ này là khai thác đặc
điểm hai loại thanh bằng và thanh trắc của tiếng Việt và vận dụng
chủ yếu vào thể thơ lục bát; từ thuộc thanh
bằng thì đặt vào vị trí của thanh
trắc và ngược lại, gây nên sự tréo ngoe tức cười. Thơ Bút Tre là một sáng
tạo độc đáo, chỉ duy nhất tiếng Việt mới vận dụng được, nhưng bị đứng mấp mé ở
ngoại biên cùng với thơ trào phúng.
Cũng có lối thơ “sắp đặt” không sử dụng ngôn ngữ
mà sử dụng vật thể và hình thể (con người); sắp đặt để nêu lên một ám dụ gì đó
từng được thể hiện ở nhiều hội thơ Nguyên Tiêu. Người xem thấy ngồ ngộ vui vui
trong thoáng chốc và “mủi lòng vì sự nghèo nàn” (Phan Nhiên Hạo).
Lãng mạn và cợt đùa; đắm say và tỉnh táo; mạo
hiểm và e dè… đang còn như một dạng thử nghiệm, nhưng cũng đã phần nào xả
stress cho đời sống bớt đi những căng thẳng, trầm uất. Mặt khác, trong khi sự
vô cảm và tiêu cực đang có nguy cơ ăn mòn đạo đức xã hội thì Folklore – humor
giúp cho thơ trở thành tiếng cười trong
trẻo thanh tẩy những vẩn đục tâm hồn và vẩn đục xã hội…
***
Bốn dòng chảy của thơ cách tân tuy hiện diện
chưa lâu (có dòng đã có mạch nguồn từ trước như dòng thứ ba) nhưng đã tham dự
vào những vấn đề trung tâm của thời đại và an sinh xã hội một cách nhiệt thành
nhất và có hiệu quả. Và nổi lên ba vấn đề rất đáng quan tâm:
Một là: thơ nghiêng về cảm
xúc, hướng chính là khách quan, ngoại cảnh ít phù hợp với yêu cầu của thời
đại mới mà phải đặc biệt chú trọng nghiệm
suy lẽ sống, nhân sinh, chủ thể sáng tạo in dấu ấn đậm nét về nội tâm, bám
sát những vấn đề nóng bỏng của đời sống (thơ cảm xúc vẫn cần thiết, chẳng hạn trong những hoàn cảnh bùi ngùi cần
thấm khô dòng lệ…).
Hai là: Phản biện, dự báo,
thức tỉnh còn khoảng cách quá xa so với yêu cầu cuộc sống, mong sao các nhà
thơ coi trọng hơn nữa trong những chức năng chính của thơ. Tuy nhiên thực thi
chức năng này (tất nhiên bằng thơ) đòi hỏi ở chủ thể sáng tạo một phông văn hóa
rộng bao gồm triết học và các khoa học khác cùng với sự trải nghiệm thật hồn
cốt về xã hội, con người...
Ba là: thơ cách tân khó hơn, yêu cầu đối với nhà thơ rất cao.
Sự trồi sụt là chuyện thường nếu nhà thơ sống hời hợt, mờ nhạt, coi làm thơ như
một cuộc chơi chứ không là nghiệp. Và như thế làm sao có được tác
phẩm có chiều sâu minh triết và tầm cao khái quát các giá trị nhân sinh?
V. MƯỜI ĐẶC ĐIỂM THƠ CÁCH TÂN
Không giống như sản phẩm công nghiệp có thể
cho ra hàng loạt, sản phẩm thơ không thể có hai câu thơ giống nhau; hai nhà thơ
giống nhau là tai họa cho nền thơ. Do vậy khu biệt thơ cách tân vào một số đặc
điểm là chuyện không tưởng. Nhưng không ai tránh được việc này khi vận dụng
phương pháp luận để phân tích, tổng hợp, nên vẫn phải làm. Do vậy chọn ra mười
đặc điểm thơ cách tân không thể tránh khỏi sai sót bởi lý do trên (khách quan)
và lý do chủ quan của người viết. Mười đặc điểm này chúng tôi chú trọng vào thi
pháp nghệ thuật nhiều hơn.
1. Thơ cách tân tháo
dỡ tất cả các khung hình cũ để chỉ còn khoảng trời mênh mông trên trang giấy.
Từ nhiều thế kỷ trước, chúng ta quá quen với
những bài thơ mà hình thức được “đúc khuôn” trong mấy thể thơ có sẵn: bốn chữ,
năm chữ sáu, bảy, tám chữ… Cái khuôn hình chữ nhật vuông thành sắc cạnh, mở đầu
thế nào thì cứ vậy kéo suốt cho đến hết, đôi khi xê xích một ít không đáng kể.
Bài “Lượm”, thơ bốn câu của Tố Hữu; “Đi Chùa Hương” thơ năm chữ của Nguyễn
Nhược Pháp; bài “Núi Đôi”, thơ bảy chữ của Vũ Cao; các bài thơ tám chữ trong
“Bức tranh quê” của Anh Thơ… Đó là khung chữ nhật đứng trong đó có nhiều khung
chữ nhật hoặc khung vuông nhỏ ấy là mỗi khổ có bốn câu. Nhiều bài thơ dài cứ
đều chằn chặn “trước sau như một” từ đầu đến cuối. Còn thơ tứ tuyệt là khung
chữ nhật ngang (câu bảy, tám chữ), hoặc ô vuông (câu bốn chữ) v.v… Thơ cách tân
tháo dỡ tất cả các khung hình đó. Cùng với khoảng trời tự do ùa vào trang thơ
là nhạc điệu cuộc sống, sự rung cảm của nhà thơ trước hiện thực xôn xao nhiều
cung bậc. Câu thơ một chữ như một chốt dừng chân, liền ngay với câu dài dằng
dặc như con đường vô định, đọc muốn đứt hơi! Trước kia đầu câu đều viết hoa
trang trọng, giờ thì đa số viết thường, nom tự nhiên bình dị hơn.
2. Thơ cách tân thể
hiện bản chất cuộc đời như nó vốn có theo cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
Bút pháp trước đây nghiêng về cảm xúc, tả chân giờ nghiêng về ý tưởng, suy tưởng.
Thơ trước đây phần lớn mượt mà uyển chuyển
theo hướng thi vị hóa cuộc đời để ngợi ca, cổ vũ; giờ đây cuộc sống đổi thay
nhiều, yêu cầu đối với thơ phải khác. Đây là thử thách lớn đối với thơ nói
chung và thơ cách tân nói riêng.
“Ngày dài
Như nỗi buồn của chữ
Không thể hiện nổi mình.
Đọc thơ anh vào một
chiều nắng gắt
Những con chữ đổ mồ hôi...
Em uống phải thơ là uống phải thứ rượu tình
Suốt đời không tỉnh nổi!
Ngô Thị Hạnh.
“Tôi muốn giấu thời gian vào
túi
Ngày em xa tôi
Em-dòng-sông-chảy-mãi-về-trời
Đôi-bờ-tôi-ở-lại”.
Đặng Huy Giang
“Ngày độc mộc
Chở tiếng khóc tôi ở đó
Nhánh cỏ ban sơ
Lót ổ tôi nằm...
Bây giờ tôi làm thơ bằng
tiếng khóc
Bởi tôi được tắm bằng
mưa tái sinh”
Nguyễn Thánh Ngã.
Ở đặc điểm này, “Hiệu ứng lạ hóa” khá rõ,
khiến thơ hấp dẫn hơn ở ý tưởng, suy tưởng nhưng khó đọc hơn ở cấu trúc, nhịp
điệu. Câu thơ khoáng đạt, vạm vỡ sức vóc; vừa tiềm ẩn nhiều ý tứ sâu sắc lại
vừa mông lung sương khói, nhiều trường hợp khó hiểu.
3. Thơ cách tân, trừ
lục bát, còn phần lớn thơ tự do đã bỏ hết
vần, chỉ còn nhịp điệu tiết tấu.
Trước kia thơ có vần, đọc lên nghe uyển
chuyển du dương dễ thuộc, dễ ngâm ngợi nhưng cũng dễ đánh lừa cả tác giả và
người thưởng ngoạn. Nhiều khi nội dung, ý tưởng không có gì đáng kể, câu chữ
sáo mòn trống rỗng nói những điều hiển nhiên “biết rồi khổ lắm nói mãi”, nhưng
được đọc diễn cảm, hoặc diễn ngâm, lại thêm đàn sáo phụ họa nữa, nghe rất mùi
mẫn. Loại “dựa dẫm vào vần” như thế chỉ giống
như thơ chứ nghiêm túc thì không thể
gọi là thơ được.
Yêu cầu của thơ là rung cảm tâm hồn, lay động tâm can. Không có ý tưởng gì đặc biệt,
mới lạ, sâu sắc thì rung với lay được cái nỗi gì?
Thơ cách tân bây giờ nhiều khi nhịp điệu tiết
tấu cũng rất trúc trắc gập ghềnh, gắng thoát khỏi “trường giọng êm ngọt thường
thấy trong thơ chống Mỹ” (Nguyễn Đăng Điệp). Có lẽ các nhà thơ cách tân muốn
thơ gần đời sống mà đời sống vốn nhiều trắc trở gập ghềnh chăng? Chỗ này khiến
bạn đọc nhiều khi khó chịu rất bất lợi cho thơ (xin lưu ý).
“Trăng cày bừa những đường vòng cung trên nền xanh”.
Trần Hoàng Thiên Kim
“Tôi
đã trát lên mặt đủ loại kem chống dị ứng nhưng không kịp
Chỉ cái chết mới cứu vãn được con người tôi
khỏi nghiệp chướng dối trá
Chỉ cái chết mới khỏi
phải chứng kiến cái đẹp, cái cao cả bị thực tại bôi trơn »
Trần Thu Hà
Ngoài
vần ra, thơ cách tân còn tháo tung cởi bỏ nhiều thứ chằng buộc, những phụ tùng
không cần thiết chỉ tổ vướng chân và làm chậm sải cánh thơ. Những phụ tùng ấy
chỉ phù hợp với thơ ngâm vịnh, thù tạc, chúc tụng, tung hô. Nhà thơ chỉ hạnh
phúc khi cương thổ của cảm xúc luôn bị phá vỡ.
Quả thật, nhìn lại một bài thơ đeo
đẳng nhiều vần thấy nặng nề và xưa cũ; tháo cởi vần ra câu thơ thoáng đãng nhẹ
nhàng, ý tưởng bay bổng, thơ được mặc sức phô bày vẻ đẹp chân nguyên huyền mỹ.
4. Thơ cách tân
dường như không đáp ứng yêu cầu dễ
đọc, dễ thuộc và rất khó ngâm ngợi, chỉ dành cho nghĩ ngợi. Nhiều va đập và
“sinh sự” phá vỡ vỏ bọc khô cằn bảo thủ!
Chính ở chỗ này, búa rìu dội lên đầu các nhà
thơ cách tân nhiều nhất (có người chịu không nổi phải bỏ cuộc). Nhưng cũng ở
đặc điểm này nảy sinh nhiều câu thơ sắc bén.
“Biết làm thế nào đây
con đường đã từ chối bước chân người quay về. Lá úa đỏ trên tàn cây kiệt sức
Trong túi áo người những
chiếc vé của mùa thu không còn hiệu lực, tiếng còi tàu vừa rúc một chia xa”
Phùng Tấn Đông
Thơ không tĩnh tại yên vị như trước mà mạch
thơ vận động, không ngại va chạm dẫu nhiều khi việt vị (việt vị là lỗi đáng yêu
nhất trong bóng đá do hăng hái chứ không cố tình).
Trần Quang Quý, Lê Khánh Mai, Miên Di… có nhiều thành
công ở đặc điểm này.
5. Chất văn xuôi cùng với nhiều chi tiết đời
sống tràn vào, ngôn ngừ đời thường tham gia vào thơ nhiều hơn.
Thơ tối giản những thủ pháp tu từ nhường chỗ cho những
cấu trúc đa nghĩa tạo được nhiều thi ảnh và biểu tượng lạ lùng mới mẻ:
“Những người đàn bà
không vá lành được lỗ thủng ôzôn
Lời ru dịu dàng chưa
khiến điều ác hóa thành điều thiện
Người vẫn quỳ gối với
lời nguyện cầu phía sau khuôn cửa hẹp
Ngỡ rời khuôn cửa này,
thế giới sẽ bất an hơn”
Phi Tuyết Ba
“Lẽ nào vẻ đẹp lộng lẫy
nhất chỉ tỏa lên trong những cuộc tiễn đưa dằng dặc. Lẽ nào nơi những nghĩa
trang hoang vắng, người đời mới được chìm vào sự an lành hằng cửu. Lẽ nào cha
mẹ, những người thân và cả tôi chỉ một lần duy nhất đón nhận sự bình yên trong
sự câm nín mênh mông của dất...”
Dương
Kiều Minh.
Đặc biệt, Nguyễn Việt Chiến tạo ra loại thơ
mới: truyện-ngắn-thơ. Bài “Nguyễn Du trên
sông đêm”, “Mùi tiên”, trong
truyện có thơ, trong thơ có truyện, có nhân vật, diễn biến; có hấp dẫn của
truyện, có cảm xúc dâng trào của thơ là phát kiến khá táo bạo.
6. Thơ cách tân tạo
nhiều khoảng trống, nhiều vụn vỡ tự nhiên; nhiều tình huống bất ngờ, xác lập tương quan mới trong kết cấu ngôn từ
và kiến trúc hình ảnh, hình tượng, biểu
tượng.
Ở đặc điểm này, thơ dễ tạo những câu thơ ngòi
nổ; ngôn từ được cọ xát, phát sáng và chuyển động sang một chiều kích khác và
nó được sống một đời sống khác, nhiều khi rất xa bản thể “gốc quê”. Lê Đạt, Thi
Hoàng, Đoàn Mạnh Phương, Nguyễn Linh Khiếu, khá điêu luyện thủ pháp này.
Chập chờn trong sương
tiếng sột soạt ngô dậy thì thẹn thùng thay xiêm áo
nây nẩy những bắp non
tươi ẩn hiện
mùa nước sinh đang hổn
hển trở về
Nguyễn Linh Khiếu
“Tôi chạy xa rồi cái bến đợi chuyến đò định
mệnh
Nhưng Sông Thao lẽo đẽo chảy theo người
Trung du thở những cánh cung căng cứng”
Nguyễn Vĩnh Tiến
Kết cấu mới đi kèm chất liệu mới. Thơ cách
tân thiên về chất liệu chắc bền là danh
từ, động từ như sắt thép, bê tông; rất ít sử dụng loại “vật liệu nhẹ” như
những từ nối, từ phụ, kết từ…
“Cài
then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh”
Vi Thùy Linh.
“Cái nhìn
Liếc dao cắt
Tiện ý nghĩ thành khúc
Đứt đoạn ngổn ngang một
ngày
Người cần gì lội nước,
người đi đâu đò đầy?
Này chân trời nghễnh
ngãng lời mẹ còn nguyên đây”
Tuyết Nga
7. Ẩn dụ đơn, ẩn dụ kép sử dụng với mật độ
cao hơn.
Ẩn dụ là thủ pháp nghệ thuật đặc biệt hữu
hiệu trong thơ, các nhà thơ tài năng đều sử dụng thủ pháp này và ghi điểm bằng
những câu thơ bất tử:
Vầng trăng
ai xẻ làm đôi
Nửa in gối
chiếc, nửa soi dặm trường”
Nguyễn Du
Nhưng ở chỗ này đang có vấn đề, có bạn cho
rằng thơ cách tân không cần ẩn dụ, cứ nói trực tiếp “cho tiện”, hợp với cuộc
sống tốc độ.
“Bao giờ trở
lại
những câu
thơ được viết ra
không cần
tra tấn
ví dụ khi
ngôn ngữ thốt ra tiếng bầu trời
ta thấy mây
bay với nhiều u uẩn
cái xoải
cánh hơi chệch choạc ấy
không du du
không ẩn
dụ…”
Lê Vĩnh Tài
“Không du
du/ không ẩn dụ” chỉ là một cách nói, thực ra cả bài thơ “Tả đám mây” của LVT chính là một ẩn dụ
để chuyển tải một thông điệp nghệ thuật.
“Tôi xỏ mãi không vừa chân vào một chiếc lá
rơi”
Lê
Thị Mỹ Ý
“Không gì vô danh hơn
con đường đất có bóng cây
Có những bầy trẻ cứ nối
nhau ngàn đời nhảy múa
Và khoảng không bao la
kia có tình yêu người cha
trú ngụ
Rải xuống nơi này những
cánh hoa nghèo khó, tự do”
Hàn Thủy Giang
Ẩn dụ tạo nhiều tầng lớp ý nghĩa làm cho thơ
biến hóa như… “đông trùng hạ thảo” vậy!
8. Phản đề, nghịch lý được sử dụng trong thơ cách tân nhiều hơn.
Đây là hai thủ pháp nghệ thuật đặc biệt sắc
bén và hữu hiệu thường được sử dụng trong triết học, thơ ca. “Em van anh đấy, anh đừng yêu em” hiệu
quả cao hơn nhiều so với câu “Em yêu anh
lắm, anh về với em”. Nhưng trong thời chống Pháp, chống Mỹ, thủ pháp này
hầu như cấm kỵ bởi thơ cần dễ hiểu và “không được biểu tượng hai mặt”. Mãi cho
đến cuối thập niên 80 thế kỷ trước nó mới hơi mon men tí chút và sang thế kỷ
XXI thì nói xuôi nói ngược tương đối thoải mái miễn là thiện chí, thiện tâm.
Trong thơ cách tân, hai thủ pháp nghệ thuật này được sử dụng nhiều hơn. Khi
được “cởi trói”, nhà thơ Lê Đạt sử dụng độc chiêu này viết được câu thơ hay
nhất trong đời thơ của ông:
“Người đẹp
cung cấp phụ bạc
Để nhà thơ
sản xuất chung tình”.
Hoặc câu thơ có dạng châm ngôn:
“Một nhà thơ
thức thời
Thường cam
phận lỗi thời”.
Một số nhà thơ khác:
“Người ạ, ấp
má vào vai nghe máu thở
Không ngồi
thì đứng vững cùng mưa
Vung tay vẽ,
người ạ, nét bập bùng của lửa
kẻo cái chức
nhì nhằng vẽ bậy xuống đời ta...”.
Nguyễn Bình Phương
“Cầm cặp vé cửa ga
số phận
Cầu cho em
ngày nhỡ chuyến
tàu”
Nguyễn Công Bình
9. Thơ cách tân
thường thiết kế đa tuyến, phức điệu, đa cực hơn.
Thơ ở thế kỷ XX, hình ảnh, hình tượng, biểu
tượng thường thiết kế đơn tuyến, giờ sang thế kỷ XXI, thơ cách tân thường thiết
kế đa tuyến, phức điệu, đa cực, nhiều khi hàng chuỗi hình tượng biểu tượng được
lồng ghép trong một cấu trúc đa tầng ẩn hiện, không dễ nắm bắt:
“Những vòm
cây tự xé rách lưỡi mình
Trong cơn
ngứa ăn nhầm ánh sáng
Những dòng
sông tự cào tướp họng
Cơn buồn nôn
những bến giả không thuyền
Những hồ
nước thủ dâm đục sóng
Trước loài
sen đổi giới tính thay mùa
Những trái
cây tự rơi vào thuốc độc
Cự tuyệt hàm
răng nham nhở lý do”…
Nguyễn Quang Thiều
“Tôi bơi trong
chiếc bình đến bờ phía bên kia may ra em sẽ nhặt được
Nếu muốn thì em có
thể đập vỡ ra và đọc chính tôi”
Phan Nhiên Hạo (ở Mỹ)
Nhiều trường hợp, sự đan
xen thực ảo tạo hiệu ứng phức điệu trong tiếp nhận, dễ gây cảm giác khó đọc.
“Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ
thể, nước quả óng vàng loang chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát
thơm”
Mai Văn Phấn
“Bao va đập cho một lần
chớp sáng
Những con sóng đổ dài chát mặn suy tư
Đi mặt trời mọc
Về mặt trời đi
Phía nào cũng bão”
Lê Mạnh Tuấn
10. Thơ cách tân
không khuôn vào một hướng mà mở ra nhiều hướng liên tưởng. Không chỉ có một mà
nhiều cách cảm và hiểu.
Điều này tương đồng với tiến trình văn hóa
mới, văn hóa công nghiệp hóa, hội nhập hóa: nhiều rào cản được rỡ bỏ, nhiều
khuôn khổ bị phá vỡ. Nền kinh tế của chúng ta hiện nay đa thành phần, xã hội
ngày càng cởi mở và dân chủ hơn. Đặc biệt là nhiều triết thuyết, học thuyết lỗi
thời được thay thế bằng triết thuyết học thuyết tiến bộ hơn.
Những điều kiện thuận lợi ấy tạo cho thơ cách
tân có kết cấu nhiều vỉa tầng, giàu năng lượng tiềm ẩn mà không lộ thiên. Đã
thấp thoáng những câu thơ giàu chất suy tư, minh triết.
“Trên tấm phản gỗ màu
nâu, ông lão hát vang:
Ta là người trẻ nhất của
kiếp sau
Mà vẫn là người trẻ nhất
của kiếp trước”
Nguyễn Vĩnh Tiến
“Chốn không đục lẫn em
vào cõi đục
Bày trước mắt sự bất lực
và nỗi khổ triền miên
Nằm giễu cợt trong vạn
điều cầu ước”
Trương Quế Chi (ở Pháp)
“Chảy tuôn
Và hát
Giọng cao của gió
Giọng trầm của sông
Khi du ca khi trầm mặc
Đừng đổi chác điều gì
Kẻo điều thiêng đi mất”
Giáng Vân
bóng tôi hôm nay
với bóng tôi hôm qua
sẻ chia kinh nghiệm
của một kiếp làm cái bóng.
Trần Vũ Long
***
Lộ trình cách tân đã “thênh thang rộng mở”,
thơ nghịch lý, phi lý và nhiều thử nghiệm khác đang lấp ló đâu đây. Các anh hào
cách tân mặc sức tung hứng các thế võ đẹp và các độc chiêu huyền nhiệm mà chỉ
trong thế giới thi ca tự do tối linh mới có. Thế kỷ XXI vồn vã giơ tay đón chào
họ!
Nhiều hướng liên tưởng, nhiều cách cảm và
hiểu là một trong những đặc điểm nổi bật của thơ cách tân. Về vấn đề này, tôi
thấy Ngô Tự Lập có lý: “nếu như thơ cổ điển là một thứ sản phẩm đã hoàn thiện
để người đọc chiêm ngưỡng, thì thơ hiện đại là những gợi ý để người đọc triển
khai. Thơ hiện đại, vì thế, là thứ thơ dân chủ” (“thơ hiện đại” của NTL nên
hiểu là “thơ cách tân”).
Tóm lại, thơ không cài then mà mở toang mọi
hướng cho người thưởng ngoạn và người bình thơ khai thác mọi nhẽ đồng thời dễ
gây tranh cãi bực mình và lý thú.
***
Cố gắng theo hướng tiếp cận liên ngành để đến với thơ cách tân, thấy thơ cách tân khác
nhiều so với thơ truyền thống, chưa khảo sát nên giữa khen ngợi và búa rìu
không rõ bên nào nhiều hơn.
Nói đúng ra, mỗi người thơ, mỗi bài thơ một
dáng vẻ riêng, nhưng tôi cứ muốn quy vào làm mười đặc điểm phổ quát trên để lẩy câu Kiều chúc dung nhan phẩm
hạnh Nàng-Thơ-Cách-Tân ngày càng hoàn thiện, hoàn mỹ:
Thơ cốt cách, Việt tinh
thần
Cách tân thi pháp mười
phân vẹn mười.
Bốn dòng chảy và mười đặc điểm
của thơ cách tân trên đây đã thể hiện khá rõ sự đóng góp của nó đối với tiến
trình phát triển thơ Việt ở đầu TK XXI.
VI. CHUYỂN ĐỘNG VÀ NHỮNG TRỞ LỰC
1. Nhớ lại cách đây mười lăm năm, thời điểm rất đáng ghi
nhớ: Mở đầu thế kỷ mới, cũng là mở đầu thiên niên kỷ mới, may mắn được chứng
kiến thời điểm nghìn năm có một này
thật là hạnh phúc. Cả nhân loại tràn ngập niềm vui, nhưng chưa kịp vui đã hồi
hộp trước sự cố Y2K.
Thời đại công nghệ tự động hóa, các máy tính
sẽ nhận dạng ngày 1-1-2000 giống y như ngày 1-1-1900! Ôi, vui quá, chúng ta sẽ
được gặp lại cụ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, thi sĩ Tản Đà chăng?
Không đâu, vô cùng nguy hiểm! Hệ thống quản
lý tài khoản ngân hàng, hệ thống điều khiển không lưu, điều khiển việc kiểm
soát các kho vũ khí hạt nhân, hàng tỉ tỉ các dữ liệu khác… tất cả sẽ bị đảo lộn
nếu không kịp thời khắc phục lỗi này.
Cả thế giới phải chi hàng nghìn tỉ đô la: lập
trình lại các hệ thống, thay thế các phần cứng cũ; bỏ phần mềm lỗi thời, cài
đặt những phần mềm tinh xảo siêu việt hơn; sử dụng cơ chế đọc số năm theo dạng
đầy đủ 4 chữ số thay cho 2 chữ số của thế kỷ trước suýt làm cho sự cố Y2K trút
thảm họa lên đầu nhân loại.
Sự kiện này là lời nhắc thiên niên kỷ!
Các nhà thơ, những người có ăngten nhanh nhạy
nhất không thể không giật mình với lời nhắc này và tự hỏi: thế thơ có chuyển
động không, hay cứ theo mãi nếp quen dù nếp quen có nhiều ưu điểm? (Một danh
nhân từng nói, đại ý: Ưu điểm kéo dài quá sẽ thành khuyết điểm).
***
Tất nhiên thơ của thế kỷ mới thì thuộc về lớp
người của thế kỷ mới, nhưng đó là cơ chế thông thường, thơ ca còn có quy luật
khó hiểu, có khi người già mà thơ rất trẻ và ngược lại. Chẳng hạn như bài “Mũi dao” của Thanh Tùng:
Em đã để lại
trong tim tôi một mũi dao
Thỉnh thoảng
lại nhấn sâu thêm một chút
Tôi mang nó
suốt đời, còn em thì không biết
Mỗi mùa thu
ướt máu vẫn đi về.
Thanh Tùng viết bài thơ tình yêu này khi đã
vào tuổi “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” vậy mà mỗi lần nhâm nhi thấy câu thơ
nào cũng đang còn nóng giòn. Ở gần Thanh Tùng, tôi biết, anh yêu thật sự chứ
không phải chỉ võ mồm! Cái đắm say và đau đớn trong tình yêu đến cỡ này, thử
hỏi bạn trẻ dám so găng “thi pháp” và
“yêu pháp” chăng? Điều này có cơ sở
khoa học. Theo bài: “Não người già có thể tốt hơn người trẻ”, nghiên cứu của
các nhà khoa học Mỹ cho thấy “người cao tuổi có kiến thức tổng thể hơn. Trong
khi đó người trẻ suy nghĩ nhanh hơn và có trí nhớ ngắn hạn”, VNEXPRESS
13-3-2015).
Một số ví dụ khác, bài “Cây chuối rừng” của Nguyễn Khoa Điềm, bài “Ông già nghễnh ngãng” của Thạch Quỳ, bài “Anh chiếm chỗ bóng đêm” của
Trương Đăng Dung, bài “Vọng trắng”
của Võ Tấn Cường… nói chung đều có những tìm tòi mới mẻ trong ý tưởng và bút
pháp. Tuy nhiên những tác giả có thơ cách tân gom lại cho ra tấm ra món thì vẫn
“tuấn kiệt như sao buổi sớm”.
Ở những bài
thành công, ta thấy tác giả tìm ra thi pháp mới cùng với làm mới tư duy, cảm
xúc của mình, nhưng điều này mới là quan trọng, đó là làm mới vấn đề mà thơ đề cập đến; đổi mới hình thức đi trước, kéo
theo đổi mới nội dung, từ lượng biến thành chất, một biểu hiện sinh động về sự
vận động nội tại trong thơ.
Ào ạt sục sôi như Cát Du, Thủy Anna, Trần Kim
Hoa, Đỗ Doãn Phương, Khaly Chàm, lại trầm lắng cẩn trọng như Phạm Khải, Nguyễn
Ngọc Tư, Phan Trung Thành, Bình Nguyên Trang, Nguyễn Vĩnh Nguyên; trực diện
chất vấn và từ bỏ thói quen như Phan
Hoàng, Nguyễn Đăng Khương; gắn bó với tuổi trẻ và cuộc sống như Vũ Thị Huyền,
Nguyễn Bảo Chân, Lưu Mêlan, Vũ Thiên
Kiều, hay “Tập làm người sốt ruột ngày
mai” như Lê Thiếu Nhơn… đều đã từng khiến người đọc nhiều phen bối rối ngỡ
ngàng.
Một xã hội phát triển, đòi hỏi mọi lĩnh vực
đều phải gắng sức đạt những đỉnh cao nhất, có những sản phẩm chất lượng cao
nhất đặng sánh vai và hòa nhập toàn cầu. Nông dân Việt Nam đã xuất khẩu gạo
chất lượng cao ra thế giới, mình là “cường quốc thơ”, ai không mong có thơ chất
lượng cao để xuất khẩu nhỉ? Thơ Hồ Xuân Hương đã từng:
Thơ chị bán
ở Hoa Kỳ
Dân Âu Mỹ
đọc vừa đi vừa cười.
(Văn đàn bi tráng – N.V.T)
2. Tĩnh tâm lắng nghe cuộc chuyển động đổi mới của thi đàn
Việt Nam đầu thế kỷ XXI, thấy có nhiều thú vị. “Cuộc chiến bút giấy, mạng” có
hồi còn quyết liệt hơn cả thời thơ mới - thơ cũ ở thế kỷ XX. Thậm chí còn xuất
hiện hiện tượng lạ lùng: có nhà thơ sốt sắng “dịch thơ Việt ra thơ Việt”.
Xin trích sau đây bài của nhà thơ Lê Quang
Đạo in trên tạp chí Sinh viên Việt Nam xuân Mậu Tý (2008).
“Tôi đã đọc
hết những bài thơ của Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tùng,
Trịnh Thanh Sơn… do Đỗ Hoàng dịch. Phải công nhận anh dịch lục bát rất khá.
Không có một câu thơ nào lỗi vần. Ý tứ lại chuẩn…
Không giống
như dịch thơ chữ Hán ra thơ Việt, Đỗ Hoàng dịch rất sát nghĩa, song dịch thơ
Việt ra thơ Việt, có những chỗ anh “phải thêm lời, ý tứ vào bài thơ mới rõ
nghĩa, vì bản chính tắc tị”. Vì vậy anh bảo nhiều khi phải “nghĩ nát óc” để đọc
thơ, luận nghĩa. Đọc để hiểu được thơ của các nhà thơ “đổi mới” đã khó, dịch nó
lại càng khó hơn. Khó bởi phải dịch làm sao thật sát, thật hay để người có bài
thơ được dịch phải chịu, người đọc, người nghe phải khen. Thành công cũng có,
song thất bại cũng không ít. Nguyên nhân thất bại là do không hiểu nổi bài thơ
của tác giả đó nói gì, hoặc phải thêm ý của mình vào quá liều lượng…
Tôi không muốn bình luận gì về chuyện dịch thơ này, vì
người dịch là bạn tôi và người được/ bị dịch cũng là bạn/ đồng nghiệp của tôi…
chỉ xin phép được chép ra một bài thơ mà Đỗ Hoàng đã dịch để bạn đọc cùng xem
xét, suy ngẫm.
Kinh nghiệm xanh
Tôi nằm dưới bóng râm thời trang
Kinh nghiệm xanh rì rào thành phố
Đất nước tôi
Những vòng môi mặn đỏ phù sa
Ngọn tầm vông chuyển giao đất trời
Tư duy tâm Đổi mới
Giấc chiêm bao lịch sử nóng ran
Công trường
Và chiếc nôi đầy đặn ngữ pháp khóc cười
Văn hiến
Đi tìm chồng cho mẹ Âu Cơ
Mà mất biết bao chùm điện tử
Không hoá giải
Hình quê hương trong khói hát mồ hôi…
Văn
Cầm Hải
Bản
dịch:
Kinh
nghiệm xanh
Tôi nằm dưới bóng thời trang
Ôi, kinh nghiệm xanh râm ran phố phường
Đất nước tôi mấy đoạn trường
Phù sa mặn đỏ thêm hường vòng môi!
Ngọn tầm vông chuyển đất trời
Tư duy đổi mới hồn người tâm can!
Chiêm bao lịch sử nóng ran
Công trường sôi động mở mang xứ nghèo
Nôi đầy cười khóc, lời yêu
Nền văn hiến để dệt thêu bóng cờ
Tìm chồng cho mẹ Âu Cơ
Bao chùm điện tử bất ngờ mất đi!
Muốn hoá giải, phỏng được gì
Mồ hôi khói hát cũng vì hình quê!
Đỗ
Hoàng…”
Thực chất công việc “dịch” trên đây là chuyển
từ thi pháp nghệ thuật mới trở về thi pháp nghệ thuật cũ! Ai cũng biết,
mỗi tác phẩm nghệ thuật, mỗi bài thơ là một sinh thể, nội dung hình thức như
tâm hồn, máu thịt không thể tách rời. Hình thức nghệ thuật cũng chính là nội
dung, hồn vía tuyết nhị hòa lẫn trong đó. Đặc biệt, ngôn ngữ thơ là thứ ngôn
ngữ “lệch chuẩn”, nó tước bỏ những nhàm chán đơn điệu của lối nói thông thường,
các quy tắc ngữ pháp và logic quen thuộc
để tạo nên thứ ngôn ngữ giàu cảm xúc và liên tưởng. Tách rời nội dung và hình
thức là phá vỡ chỉnh thể, giết chết một sinh mệnh thơ.
Có lẽ Đỗ Hoàng cho là độc giả không tiếp nhận
được nên phải mất công làm cái việc “dịch” lạ lùng này. Anh công bố trên mạng
bài nguyên tác và “bài dịch” của mình như là bài sửa mẫu của thầy giáo cho học
sinh, rằng như thế này mới được gọi là thơ, nhiều khi kèm theo “lời bình” rất
thiên lôi đao búa. Đỗ Hoàng còn được không ít nhà thơ viết bài, viết thư cổ vũ
tôn là “anh hùng trong việc làm trong sáng tiếng Việt” và làm “lành mạnh hóa
thơ ca”. Anh còn được Tạp chí Nhà Văn (nơi anh phụ trách biên tập thơ), Báo Văn
Nghệ và nhiều báo, website cổ xúy. Được thể, Thi-tướng-Đỗ-Hoàng khi trường kiếm
khi đoản đao tả xung hữu đột, đánh nam dẹp bắc, số bài thơ đầu văng khỏi cổ tức
là “được/ bị dịch” có lẽ lên đến con số trăm của hàng chục tác giả, khiến không
ít nhà thơ cách tân hoang mang, có người thất kinh không dám công bố tác phẩm,
có người bị “nhồi-máu-van-thơ” quay về thi pháp cũ. Ngang tàng như Ngô Vĩnh Tài
xa tít tận Tây Nguyên từng coi giời bằng vung mà cũng sợ run phải tự dịch thơ
cách tân của mình trở về thơ lục bát, tức là “dịch thơ mình ra thơ mình”!
Cuộc đổi thay nào cũng đều có những xung khắc cam go,
nhưng hồi đầu thế kỷ XX, dẫu cụ Huỳnh Thúc Kháng ghét thơ mới đến độ buột miệng
bảo: “Nọc Lưu Trọng Lư ra quất cho mấy roi”, nhưng có cụ nào “dịch” thơ Thế Lữ,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên… trở về thơ thất ngôn bát cú hay lục bát đâu. Chuyện bi
hài cổ kim đông tây chưa từng có này lại có ở cái thời chúng ta.
Nhưng chưa hết, một vụ “hận thơ” do công kích thơ cách
tân đã xảy ra ở Quảng Bình, gây nên tổn thất đáng tiếc: “Bữa nay không
chỉ có phê bình, xỉ vả, mạt sát nhau trên báo, trên blog
về thơ, mà còn có cả hận thơ nữa. Vâng, tôi đang
nói chuyện nghiêm túc. Nửa tháng 10-2012 vừa qua, ở tỉnh Quảng Bình đã diễn ra
một sự cố hy hữu và đáng buồn, đáng giận. Đó là chuyện một số người làm thơ,
không hiểu vì lý do gì kích động, đã rủ nhau đi mấy trăm cây số, mang
theo cả chồng bài viết về bài thơ “Con chồn người”, phô tô tới hàng trăm bản,
rồi băng đĩa, về khắp xó xỉnh địa phương tổ chức các cuộc “đấu tố” nói xấu, mạt
sát, chửi tục đối với thơ đương đại của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật. Ở đó chỉ có
người phê phán mà không có người nói lại. Rõ ràng đây không phải phê bình vì sự
tiến lên của nền thơ, mà do thù hận gì đó nghiêm trọng lắm, mới dàn trận đánh
quyết liệt như thế. (Trích: Ngô Minh, 30-10-2012 by nguyentrongtao).
Mới đây, tháng 3 – 2015 tại Hà Nội, cựu Thủ
tướng Anh Tony Balair trao đổi với các quan chức và các nhà doanh nghiệp Việt
Nam, ông nói đại ý: cuộc cải cách nào cũng thường vấp phải phản đối, có như thế
mới là đổi mới thực chất. Không có sự phản đối nào, cuộc đổi mới ấy thất bại. Ý
kiến ấy cũng có thể vận dụng cho đổi mới thơ được chăng?
3. Mươi năm trước tôi được đọc một tài liệu nói rằng độc
giả Âu Mỹ họ chán ngán những tác phẩm (thơ và văn) viết dễ hiểu, ý tứ cùng câu
chữ cứ phơi chình ình trên giấy chả cần phải động não thì nằm khểnh còn hơn.
Khi trình độ dân trí được nâng cao thì yêu cầu thưởng thức văn chương nghệ
thuật cũng đòi phải có những đôi cánh phản lực. Độc giả Việt Nam đầu thế kỷ XXI
cũng vậy, đi lại bằng Boeing, Airbus chứ kém cạnh gì ai! (Chưa kể đã từng “Chân
dép lốp mà lên tàu vũ trụ”)!
Xã hội Việt Nam
đang trên đà vươn tới đỉnh cao của sự phát triển, hiện tượng đa cực, đa đỉnh
hình thành ngày càng rõ. Vì thế nền văn hóa nói chung hay thơ ca nói riêng
không thể có một khuynh hướng hay một tác giả nào đại diện chung cho tất cả. Không
đồng thuận nhưng vẫn chấp nhận là ứng xử đúng đắn nhất trong xã hội dân chủ
và phát triển. Dị ứng với những “cái khác lạ”, thậm chí phủ nhận, báng bổ, “dẹp
bỏ gạt ra ngoài” là không phù hợp với tinh thần mới, thời đại mới.
Nhiều khi tác phẩm
của các tác giả lớn không phải đông đảo mọi người có thể cảm nhận ngay được
nhưng tư tưởng, tình cảm của tác phẩm ấy nhất định sẽ đến với đông đảo thậm chí
tất cả mọi người bằng nhiều con đường khác nhau tự nhiên như ánh sáng vậy và
những người được thụ hưởng nó có thể không nhận ra.
Thơ cách tân
vừa mới lạ, vừa không dễ hiểu, kèm thêm yếu tố nghịch
lý, phi lý.
“Em là con
toán bất động sản
Anh giải tìm
trong lãng quên”
Lê Huy Quang
Đây chính là chất men trong bàn tiệc văn chương
ta không nên bỏ qua và không nên quay mặt với mùi men lạ. Vào bàn tiệc, một
chai nước lọc và chai rượu, thì chai rượu chắc chắn hấp dẫn hơn. Chất men mới lạ kích thích khoái cảm
trong sự tìm tòi khám phá và ta được say sưa bay bổng trong bầu trời mỹ cảm thi
ca, phát hiện ra những điều kỳ thú của thế giới và con người. Chai nước lọc chỉ
đơn thuần để giải khát chứ không thể kích thích như rượu được.
Cảm thụ thơ cách tân, nhiều trường hợp đòi
hỏi một sự trải nghiệm hay thiện chí nào đó, bởi thơ không còn là biểu tượng
một mặt như trước mà biểu tượng nhiều mặt, bạn đọc có thể cảm hay hiểu thế nào
cũng được.
Với loại thơ này, ta phải có cách cảm thụ
khác. Tìm ra cách cảm thụ khác cũng chính là làm giàu thêm kho báu tinh thần
của mình. Cách cảm thụ khác này không giống cách cảm thụ quen thuộc (tìm xem
bài thơ nói lên điều gì, chủ đề gì, nhằm giáo dục gì). Tất nhiên vẫn rất cần
những loại thơ có chủ đề rõ ràng, thậm chí rất cần, nhưng vẫn nên chấp nhận
những loại thơ không chủ đề hay chủ đề ẩn, chủ đề tản mạn trong đó có cả sự
nhòe mờ hay biến hình, tiềm ảnh, vốn là độc chiêu nghệ thuật chỉ những tay cao
thủ mới vận công được.
Nhiều bài thơ chỉ để cảm thôi, nếu cứ cố đè ra để hiểu
lấy được là rất khó khăn (có thể ví như tranh trừu tượng, nhạc không lời, một
số vũ điệu đặc trưng vùng miền hay màu sắc tôn giáo). Nhiều khi chính tác giả
cũng nói là: mình cũng chả hiểu gì cả, mà chỉ cảm nhận rồi viết ra “như thế”, vậy
thôi. Vả lại thưởng thức nghệ thuật nói chung hay thơ nói riêng, để có được
hứng khởi và cảm xúc, không nhất thiết cứ phải hiểu “thấu triệt” mọi chi tiết
hay ngữ nghĩa.
Một nhà thơ lớn cỡ thế giới từng nói: “thơ mà
giải thích được thì không còn là thơ nữa”! Đó là bí ẩn của sáng tạo nghệ thuật.
Hóa ra nhiều trường hợp chính người viết ra nó cũng rất mô tê răng rứa.
Một bản giao hưởng tấu lên giai điệu dồn dập
mạnh mẽ, một thính giả có thể liên tưởng đến cơn bão biển khủng khiếp nào đó
trong kỷ niệm của mình; thính giả khác có thể liên tưởng đến trận B52 mà mình
đã may mắn thoát chết; thính giả khác nữa liên tưởng đến những số phận nàng
Kiều ba chìm bảy nổi, số phận chị Huyền bị chặt làm sáu, bảy khúc cho vào bao
tải vứt xuống Sông Hồng… Họ xót xa (có thể rơi lệ) với những nỗi niềm khác
nhau. Như thế tác phẩm được sống với nhiều tâm trạng, cảnh ngộ; sức sống, sức
lan tỏa của nó trong tâm hồn độc giả là vô cùng tận, khó có thể hình dung.
Nhiều trường hợp bài thơ không hiển hiện rõ
ra điều gì thật cụ thể nhưng ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp ngôn ngữ, hình ảnh,
hình tượng và ta rung động thổn thức, từ đó gây ấn tượng và tạo nên sự ám ảnh.
Đặc biệt, loại thơ có yếu tố tiềm thức, tâm
linh… thì sự lãng đãng mơ hồ không rành mạch là nét đẹp lung linh huyền ảo
không có gì thay thế. Đằng sau vẻ đẹp kỳ ảo mong manh này là một hiện thực
thuần khiết chân nguyên, nó chiêu tuyết tâm hồn, cứu rỗi tâm linh – vùng mỹ ái
sáng trong mà kiếp chúng sinh nào cũng tiềm ẩn.
VII. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA THƠ CÁCH TÂN
1. Tĩnh tâm lắng nghe
Trong cuộc hội
thảo về văn học cuối tháng 12 năm 2014 tại Hội Nhà Văn VN, tôi ở xa không được
dự, mở Internet thấy nhiều website đăng bài tham luận quan trọng này:
“Tôi
nghĩ: Đã có một cuộc “bàn giao” giữa hai thế hệ thơ trước và sau năm 1975, thực
chất là sau năm 1986, mà theo tôi có lẽ là không thành công. Sở dĩ tôi nói vậy
là tôi đặt nó bên cạnh cuộc “bàn giao” lần thứ nhất, các thế hệ nhà thơ trước
và sau năm 1954, mà ta thường gọi là thế hệ các nhà thơ chống Pháp và thế hệ
các nhà thơ chống Mĩ. Cuộc “bàn giao” này, theo tôi là thành công. Về đội ngũ
các nhà thơ và về cảm hứng chủ đạo của nghệ thuật, nó nối liền nhau, thành một
hơi thống nhất, một sợi chỉ đỏ xuyên tâm, kết dính mọi tài năng, mọi tấm lòng,
mọi tác phẩm, trong một chủ đề lớn của nghệ thuật là chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ nền độc lập của dân tộc. Sự thống nhất của nó đến mức như Chế Lan Viên viết:
“Những năm toàn đất nước có chung tâm hồn,
có chung gương mặt
Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau”.
Vậy nên Tế Hanh mới viết:
“Đọc câu thơ đồng chí tưởng thơ mình”.
Còn cuộc “bàn giao” lần thứ hai này, khác
hẳn. Bởi vì nhiệm vụ chiến lược của hai thời kì, thời kì đánh giặc ngoại xâm và
thời kì xây dựng một đất nước kiểu mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử, hội nhập
với thế giới sau hơn 30 năm chiến tranh, tương ứng với sự ra đời, hình thành và
phát triển của hai thế hệ thơ khác nhau, là khác hẳn nhau. Khác về nội dung, tư
tưởng và các phương pháp nghệ thuật. Và theo tôi, đó cũng là điều thật đáng
mừng. Bởi nó sẽ là động lực lớn để có sự phát triển vượt trội, còn thực tế có
vượt trội được hay không lại là một việc khác. Dù rằng, ít hay nhiều, ở thời
điểm hiện nay, cả hai thế hệ này, đều không vươn tới cái mình muốn, để lại một
khoảng trống rất lớn ở giữa…
Đọc thơ Việt bây giờ là
trực tiếp tiếp xúc với cái khoảng trống ấy. Có lúc nó rõ rệt đến mức,
khiến một nhà thơ bạn tôi ở nước ngoài, đã hỏi tôi rằng: Anh đứng về phía nào,
khi bên này các ông bà, tức là các nhà thơ chống Mĩ “trống đánh xuôi”, còn phía
bên kia là các anh chị, tức các nhà thơ trẻ hậu chiến, hình thành và phát triển
sau đổi mới 1986, với các trào lưu hậu hiện đại là “ kèn thổi ngược” (trích).
Riêng tôi thấy
khác. Không có chuyện “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” và không có “khoảng
trống” nào cả, chỉ có hiện tượng một số nhà thơ kể cả lớn tuổi và trẻ tuổi viết
khác trước mà thôi.
Mới đây, Báo Văn
Nghệ số đặc biệt về thơ, 7-3-2015, bài “Phác thảo tiến trình thơ Việt”,
một nhà thơ viết: “Sau ngày thống nhất đất nước (1975), chủ yếu từ đổi mới
(1990) xuất hiện những cây bút trẻ có hoài bão thay đổi giọng điệu thơ đương
đại. Họ mạnh dạn thể nghiệm thành tựu (và cả thất bại) của thơ ca thế giới vào
ngôn ngữ Việt để chuyển tải tâm hồn Việt. Họ đã gây được chú ý nhưng chưa gây
được tán thưởng của đông đảo bạn đọc. Họ có khí thế của phong trào nhưng chưa
rõ lắm khuôn mặt, tâm hồn từng tác giả. Dù thế, họ đang là tiềm lực”.
Lại thêm một nhận
định khắt khe. Tôi thấy khác, trong số này không ít tác giả đã rõ lắm “khuôn
mặt, tâm hồn” rồi chứ! Và sao họ lại chỉ là “tiềm lực” mà không là thực lực, động
lực được nhỉ?
Cái khác này là
điều vui mừng. Chúng ta hãy đón nhận nó
như đón nhận một sinh thể mới, mà sự thực nó đã có hình thể, diện mạo, có đời
sống và số phận, có khai sinh hộ khẩu rõ ràng (được xuất bản và khá nhiều giải
thưởng). Hãy tìm đến những thành công của họ (có lẽ còn hơi ít vì mới quá) chứ
đừng lôi những cái chưa thành công của họ ra (có lẽ hơi nhiều vì sốt ruột, vội
vàng) mà kêu la. Trong cái làng thơ mà khuôn viên chả có là bao, chỉ cần các bà
mẹ chồng thiện chí một chút thôi, tình hình sẽ khác.
2. Những hạn chế
Nàng-Thơ-Cách-Tân về làm dâu Thế Kỷ XXI chưa
ấm giường chiếu, hãy để Nàng trình làng những thể nghiệm, những khuynh hướng
mới lạ và hãy để bát đĩa xô vỡ (nếu có) kể cả đớn đau, rồi sẽ đến lúc thuận vợ
thuận chồng và cái Bể-Đông-Cuộc-Đời kia cũng không còn là quá sức đối với Nàng.
Nền thơ của chúng ta sẽ trưởng thành lên. Khó mà hình dung được một nền thơ
trưởng thành mà chỉ có một dòng chảy, một kiểu dáng thời trang “vừa mắt các
cụ”.
Nhưng nghệ thuật đích thực không bao giờ chấp
nhận sơ lược giản đơn. Những đánh giá khắt khe vừa nêu trên, suy cho cùng cũng
ít nhiều có cơ sở bởi những hạn chế của thơ cách tân, xin nêu một số điểm:
*Những hình thức làm cho thơ lạ mắt: xếp hình
cái hoa, cái lá, con chó con mèo ngộ nghĩnh; hình linga, yoni thể hiện tình
yêu; lục bát vắt câu xuống dòng rối rít tít mù… những thể nghiệm ấy chỉ để giải
trí trong chốc lát mà thôi chứ khó làm nên cơm cháo gì.
*Ngôn ngữ báo chí khỏe khoắn, xông xáo; ngôn
ngữ đời thường hiếu động, bất kham; cả tiếng lóng của đám quan chức xôi thịt
được đưa vào thơ làm cho thơ linh hoạt, sinh động, sức vóc và sắc nhọn; nhưng
nhiều trường hợp dùng quá mức cần thiết chen vào những từ “phang ngang bổ củi”
khiến thơ bị xâm hại.
*Việc xáo trộn ngôn từ, nhào nặn thành dị
hình dị dạng, phá vỡ cấu trúc làm cho câu tối nghĩa; cho chen vào những từ trần
trụi tục tĩu, trước là “hành vi bạo lực ngôn từ” (chữ của Vernon Shetley); sau
là hành quyết thơ ca.
*Nhiều nhà thơ trẻ quan tâm nhiều đến ý tưởng
toàn bài nhưng lại ít chú ý đến cấu tứ hoặc có ý tưởng nhưng còn lửng lơ chưa
đến độ, thiếu dồn nén cảm xúc, thừa dàn trải tình tang. Thơ tung lên Inter,
facebook đặt nặng số lượng hơn chất lượng. Đã thấy có sự giống nhau ở nhiều tác
giả, giống nhau ở chỗ cùng viết những điều chả đâu vào đâu.
*Diễn đạt trong thơ có bốn cấp độ từ thấp đến
cao: Khái niệm. Hình ảnh. Hình tượng.
Biểu tượng. (Đây chỉ là một cách phân định mà tôi thấy thuận tiện, tất
nhiên còn nhiều cách phân định khác, nhiều khung giá trị khác tân kỳ hơn). Thơ
cách tân của không ít bạn trẻ thường nói trực tiếp, diễn đạt ở cấp độ một và hai một cách dễ dãi, ít
xây dựng hình tượng, biểu tượng nên có thể có ý tưởng độc đáo nhưng khó sinh hạ
được câu thơ tài hoa.
*Nhiều bạn chưa cân nhắc kỹ trong việc để văn
xuôi đổ bộ vào thơ với những binh chủng hỗn hợp tạp nham. Có chất văn xuôi thì
đồng thời phải tăng chất suy tưởng và nghệ thuật. Suy tưởng phải sâu sắc, nghệ
thuật phải mới lạ, cao cường với những độc chiêu thế hiểm của riêng mỗi
người, đọc qua là tâm phục khẩu phục luôn. Đưa văn xuôi vào mà chả có chất nghệ
thuật hay suy tưởng đi kèm mà chỉ thấy một “ma trận chữ dễ dãi”, khiến tác phẩm
có vẻ đa năng ở nhiều phương diện,
nhưng hơi bị thiểu năng ở phương diện
thơ.
*Không ít tác giả pha chế chất men mới lạ quá liều lượng, đến độ vô lý và không hiểu gì cả,
đánh đố người đọc. Hình như khuynh hướng “thơ phải khó” của T.S Eliot (Nobel VH
1948) đã tác động vào, khiến một số bạn cố tạo ra trong thơ mình một kênh quá
dị biệt. (Thơ T.S Eliot khó ở yếu tố sâu sắc không dễ nắm bắt nhưng không mù
mịt tối nghĩa: “Chuông nguyện hồn ai,
chuông nguyện hồn ta đấy”).
*Nhiều bạn làm thơ trẻ, tuy tác phẩm ra đời
sòn sòn nhưng vẫn trong diện hiếm muộn. Rất dễ nhận thấy là họ ít chịu đổ mồ
hôi trên cánh đồng chữ nghĩa nên bồ bịch chật nhà mà chứa toàn chữ lép hoặc
loại date quá ngắn, những bài thơ kẹo ngọt me chua trong một chuyến pinic.
Những bạn có bát ăn bát để đếm trên đầu ngón tay.
*Vẫn gặp đây đó không ít thơ tình cảm giả vờ,
làm dáng. Tôi rất tán thành sự thẳng thắn của nhà thơ trẻ Trần Hoàng Thiên Kim:
“Không ít cây bút đương đại vẫn loanh quanh với những cảm xúc vụn vặt, những
trò chơi thuần túy hình thức mà không dám sống sâu, sâu với mình và sâu với
đời”...
*Nhà lý luận phê bình Đỗ Quyên (ở Canada)
viết: “Có những nhà thơ có thi pháp mới, rất mới và rất riêng; nhưng có thể mãi
mãi là cách thể nghiệm, một qui trình “chế tạo thơ”. Như các thi pháp của Khải
Minh, Nguyễn Tôn Hiệt, Đặng Thân: chỉ tạo ra các bài thơ chưa thành thơ như một
hình thái” (Vanvn.net, 19-06-2012).
Vâng, những “Bài thơ chưa thành thơ như một hình thái”, chúng ta gặp đây đó khá
nhiều. Ở hải ngoại không biết thế nào chứ trong nước thì quá trời rùm beng
chiêng trống. Không ít tập thơ dễ dãi sơ lược được in vội vàng lại được tâng
bốc lăng xê bởi các nhà “phê bình cánh hẩu”. Những lời hoa mỹ tung lên mạng,
lên giấy bằng những bài báo xôm xốp chưa bao giờ nhiều như bây giờ. “Khi bản
tụng ca chưa ráo mực thì “tuyệt tác” cũng mất tăm” (Nguyễn Hòa).
Nhà thơ Trương Nam Hương vịnh cảnh này:
“Xem người
đánh bóng tuổi tên
Ta về kiếm
hộp si đen đánh giầy”.
***
Nhưng mới chỉ hơn một con giáp, nhiều thể
nghiệm chỉ mới bắt đầu hoặc đang còn dang dở.
Hứng khởi với mỹ cảm nghệ thuật mới, có người
chỉ muốn làm chuyến phượt qua thơ
cách tân cho biết; cũng có người muốn tử
vì đạo, tự nguyện làm viên đá lát đường cho thế hệ sau bước lên. Trên con
đường tìm tòi khám phá, những nấm mộ “vị cách
quyên sinh” (cách tân) hai bên đường,
phải được tôn vinh không kém gì mấy so với những vòng nguyệt quế dành cho người
đến đích, đó là bi kịch lạc quan của
văn chương thời nào cũng có.
Thử so sánh hai trường hợp này:
1/ Bài thơ dễ hiểu nói những điều bình thường
ai cũng biết với bút pháp quen thuộc.
2/ Bài thơ khó hiểu đang ở giai đoạn tìm tòi
thể nghiệm.
Chưa biết đằng nào giá trị hơn, hãy để vị
Trọng-Tài-Thời-Gian phán xét.
Nhà thơ Văn Cao từng viết: “Người đời yêu
những con người cố mở đường mà thất bại; càng yêu những con người biết thất bại
mà dám mở đường. Bởi vì những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ của nghệ thuật!”
Thơ không vần là một bước tiến, một sự trưởng
thành.
Nhưng không ít người băn khoăn về cái chuyện vần của thơ. Để cho dễ thuộc dễ nhớ là
một ưu thế đặc biệt chứ, nỡ nào lại bỏ vần
đi? Nhưng may thay, tổ tiên ta đã để lại một di sản vô giá là thơ lục bát, giờ
đây thể thơ thuần Việt này đảm đương sứ mệnh lớn lao là gìn giữ yếu tố vần cho thơ Việt được trường tồn. Vậy là
yên tâm rồi.
3. Những nguy cơ có
thật.
Với nhà thơ, căn bệnh đáng sợ nhất ấy là bệnh
cằn cỗi hồn thơ, cho nên việc đi tìm
cái mới luôn là khát khao cháy bỏng. Có một hướng tìm tòi của các bạn trẻ là
học thuyết mới. Hiện nay với lợi thế Internet, chỉ vài cú nhấp chuột là các bạn
đã bước vào siêu thị học thuật, hoa mắt với quá nhiều mặt hàng, trong đó nhiều
cái quá date, đến nỗi Ash Grant đã
từng sốt ruột và hài hước viết “10 triết
thuyết lạ đời nhất”. Ông phê phán từ “thuyết duy tâm”, “thuyết nguyên tử
logic”, “thuyết giải cấu”, “thuyết hiện tượng” đến “thuyết vị kỷ đạo đức”,
“thuyết tuyệt đối luân lý”, “thuyết nhất nguyên trung lập”, “thuyết duy ngã”…
có nhiều điều vô lý đến tức cười, ấy vậy mà đã từng mê hoặc không ít học giả và
bạn trẻ nhiều quốc gia nhất là phương tây (tất nhiên có những lý do lịch sử, xã
hội). Nhiều nhà văn viết tác phẩm này minh họa cho học thuyết này; tác phẩm
khác minh họa cho học thuyết khác: tiểu thuyết “Buồn nôn” của J.P. Sartre minh
họa cho học thuyết hiện sinh; “Dịch
hạch” của A. Camus minh họa cho học thuyết phi
lý, v.v… Đây là hai nhà văn tài năng, hai tác phẩm rất có
giá trị nhưng giá hai ông làm ngược lại thì hay hơn, tức là hai ông viết tác
phẩm lừng danh gì đó để các nhà lý luận phải chạy xô đến nghiên cứu và bật ra
học thuyết mới!
Phương Tây họ thay học thuyết như thay sơ mi.
Nhưng theo dõi các nhà văn lớn, chúng tôi thấy họ đều phớt lờ các học thuyết.
Mỗi học thuyết thường sinh ra dưới bóng của một tư tưởng triết học nhất định
với nhiều hệ lụy khó lường; bóng kia bị xâm thực thì học thuyết cũng bốc hơi.
Khách quan nhìn nhận, chủ nghĩa hậu hiện đại
ra đời là đáp ứng đúng su thế thời đại khi mà các chủ thuyết hiện đại đã già
cỗi. “Mục đích tối hậu của nó một mặt thúc đẩy tri thức nhân loại tiến thêm,
dùng khoa học, kĩ thuật làm nền tảng cho hành động, một mặt khách quan hóa cái
nhìn về cuộc đời, giải phóng con người ra khỏi những định chế đã trở nên lỗi
thời, kìm hãm bước tiến của nhân loại” (PGS TS Lê Huy Bắc). Và theo François Lyotard (1924–1998), người khởi xướng ra nó thì
chủ nghĩa hậu hiện đại có nguồn gốc từ trong lòng chủ nghĩa hiện đại từ thế kỷ
XX chứ chả phải xa lạ gì lắm đâu.
Tìm hiểu và quan sát mạch chuyển động của các
học thuyết nhưng không để nó trở thành ma ám, và đừng biến mình là cái bóng của
học thuyết, không a dua minh họa cho nó (điều đáng tiếc này vừa qua đã xảy ra ở
xứ ta, tốn phí nhiều giấy mực và tổn thương không ít), càng không thể làm nô lệ
cho nó dẫu là học thuyết siêu việt.
Thực tiễn các loại hình sáng tạo hiện nay vận
động, biến hóa, kết hợp vô cùng linh hoạt và mau lẹ; các lý thuyết nghệ thuật
phải chạy theo đến hụt hơi để điều chỉnh nếu không muốn bị tụt hậu. Vậy mà vẫn
có những nghệ sĩ làm ngược lại, tức là chạy theo lý thuyết để minh họa cho nó,
kết quả chưa đâu vào đâu mà vẫn tự cho là mình “đi trước thời đại”!
Thế giới luôn có những biến động khó lường,
nhất là hiện nay đang có nhiều xáo trộn; đúng – sai nhiều khi khó phân; cái mới
hình thành còn yếu – cái thoái hóa đang còn mạnh, chúng tác động vào mọi mặt
đời sống xã hội kể cả các học thuyết, tư tưởng; ta không nên vội vàng dựa vào
một cái “chuẩn” nào đó của ai đó mà thẩm định các giá trị. Chuyện này chúng ta
đã có nhiều bài học nhưng vẫn tiếp tục dẫm vào lối mòn.
Với các học thuyết, nhà thơ cũng nên để mắt
tới nhưng chỉ nên nhìn bằng con mắt thường
mạn bởi hoc thuyết nhiều khi cũng rất đồng bóng, lại được lời ca đàn phách
của các ông cung văn đưa đẩy… Biết theo bao nhiêu giá đồng mới gặp được chân
lý?
***
Có một số ý kiến cho rằng hậu hiện đại là
trào lưu văn hóa chưa định hình, có thể có khả năng không định hình. Bởi thế,
mỗi người hiểu “hậu hiện đại” theo cách riêng của mình, cái hay lẫn với cái dở,
trong đó không ít cái dở giết chết thơ. Bởi “chưa định hình” nên cũng dễ “trá
hình”, mà lúc này hiện tượng “trá hình” hơi bị nhiều. Đã dấn bước vào con đường
thơ ca đầy nhọc nhằn (có thể hiểm nguy nữa) thì mỗi người đều phải trang bị cho
mình bản lĩnh riêng, độc lập trong lao động sáng tạo, chả làm gì phải choáng
ngợp trước cái “chưa định hình ấy”.
Ở phần 1 của bài viết này, tôi nhắc đến cái
chết của thơ ca Mỹ, điều này có nguyên cớ. Trong cuốn “Văn chương lâm nguy” của Tzvetan Todorov, giải thưởng Hoàng Gia
Asturies năm 2008 (Trần Huyền Sâm và Đan Thanh dịch, NXB Văn Học
& TT Nghiên cứu Quốc Học ấn hành 2013), thì văn học có sứ mệnh lớn lao,
quan niệm này đã ngự trị ở Châu Âu cho đến cuối TK XIX. Nhưng sau đấy nó bị cho
ra rìa, thay vào đó là một ý niệm cực kỳ hẹp hòi và phi lý được dẫn dắt bởi thuyết cấu trúc, thuyết hư vô, thuyết duy
ngã rất phổ biến từ Âu sang Mỹ. Người ta cho rằng văn học chỉ nói đến bản
thân nó, hoặc chỉ dạy mỗi một môn cho con người là thất vọng. Thơ chỉ là thơ
thôi, thế cũng quá đủ.
Thơ ca Mỹ và nhiều nước Châu Âu lâm vào tình
trạng thở hắt ra. Thơ ca Nga từng có những tên tuổi vĩ đại mà giờ đây như lời
Tiến sĩ Alexei Varlamov, hiệu trưởng trường Đại học Viết văn M. Gorky: “Thơ có thể tồn tại trong không gian thính
phòng” (VN số 45 – 2014). Vâng, “Có
thể” thôi, thực tế thì chưa chắc, tức là cũng gần đến lúc “bắt chuồn chuồn”
rồi!
Trước cơn thoi thóp của thơ ca Mỹ, một độc
giả yêu thơ, bà Eli Lilly 87 tuổi, năm 2003 đã có một nghĩa cử lớn lao mà các
đấng mày râu phải giật mình ngả mũ: bà tặng 100 triệu đôla cho tạp chí thơ
Poetry Magazine. Tạp chí này từng có uy tín cao ngất trời nhưng giờ phải bò sát
đất nhặt từng đôla để trả nợ vì tạp chí chỉ đắt hàng khi bán ve chai. Nhưng đa
số dân Mỹ vẫn không tin là với số tiền từ thiện kếch sù của bà Eli Lilly, thơ
ca Mỹ sẽ đạp ván thiên hồi sinh nếu không tẩy chay được ba cái thuyết hêrôin
kia.
Trông người mà nghĩ đến ta, giờ đây bước sang
thế kỷ mới, vận hội đi kèm với nguy cơ, chưa lúc nào như lúc này, Nàng Thơ yêu dấu của chúng ta phải đối
mặt với quá nhiều thách thức, nàng phải hết sức tỉnh táo chớ nghe lời đường mật
mà bị dắt qua ngoại biên, bán rẻ cuộc đời hiền thục đoan trang trong cái nhà-chứa-hậu-hiện-đại-trá-hình.
VIII. LẮNG NGHE TỪNG ĐỢT SẤM BÁO MÙA
1. Một tác giả được/ bị rơi vào quỹ đạo hot cũng hấp dẫn lắm chứ, nhưng những
sáng tạo độc đáo đi trước thời gian thường được đón nhận không phải best-seller
mà là búa rìu dư luận. Vậy nên không
ít nhà văn bản lĩnh, tài năng thường không hy vọng sách của mình bán chạy, cho
đấy là nuông chiều số đông, câu khách nhất thời, ít giá trị. Thơ cách tân đang
trong trường hợp này chăng? Sự vận hành của huyền-cơ-nghệ-thuật
thường có khoảng-cách-kỹ-thuật giữa
sáng tạo và tiếp nhận, rồi sẽ có sự chỉnh sửa mầu nhiệm của bàn tay thời gian.
Sông có khúc thơ có lúc, điều này hiển nhiên rồi nhưng cũng không quá bi quan.
Nhà văn Ma Văn Kháng viết ở Văn nghệ QĐ: “Văn chương còn mãi, nó xá gì dăm ba
thứ thông tin nghệ thuật nghe - nhìn đang tràn lấn và gây cảm giác thống trị”.
Vâng, thơ không thuộc lĩnh vực “trọng yếu, trung tâm” như một số lĩnh vực khác
trong thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa, nhưng có những điều mà chỉ thơ mới
nói được mà thôi, đây là điều bất khả giải tạo nên sự ám ảnh và lưu truyền,
không ngành nghệ thuật nào sánh được với nó. Và biểu tượng ngôi đền thiêng mà người đời đã tặng cho thơ từ lâu, đó chính là
quyền uy bất khả khuất phục trong vị thế mong manh sương khói như có như không.
2. Đầu thế kỷ XX,
khi thơ mới khẳng định tính ưu việt thì thơ cổ điển Đường luật lùi vào tọa lạc
sau án thư để ngâm vịnh thù tạc. Các nhà thơ mới hồi đó hăng hái tuyên bố:
“Đoạn tuyệt với thơ Đường luật”. Mà đoạn tuyệt là đúng thôi, nếu không có thơ
mới, thơ Đường luật của các cụ tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp chống
Mỹ làm sao nhỉ? Cũng có thể nhưng rất hạn chế. Ôi niêm luật quá cồng kềnh mà
chuyên chở thì quá ít hoặc phải chưng cất gọt tỉa quá công phu. Chẳng hạn nội
dung thi đua lao động này:
“Hì hà
hì hục/ Lục cục lào cào/ Anh cuốc em cuốc/ Đá lở đất nhào!/ Nào anh bên trai/
Nào em bên nữ/ Ta thi nhau thử/ Ai nào hơn ai/ Anh tài thì em cũng tài/ Đường
dài ta xẻ sức dai ngại gì/ Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi/ Hố ngang hố dọc chữ i
chữ tờ”. (Tố Hữu). Nếu đưa vào thơ Đường luật sẽ rất khó, giống như bảo ông
đồ áo the khăn xếp tay ô tay tráp xuống đào giao thông hào vậy.
Nhưng ở đầu thế kỷ XXI thì khác, thơ truyền
thống có vần vẫn rất cần thiết trong đời sống, một bộ phận người đọc lớn tuổi
vẫn ưa thích.
Phương Tây thường có khuynh hướng cực đoan,
sang hệ hình hiện đại rồi thì phăng
teo tiền hiện đại; và sang hệ hình hậu hiện đại thì goodbye hiện đại luôn, dẫn tới hệ quả là “văn
chương lâm nguy”.
Việt Nam ta, phương pháp cổ điển, truyền thống, hiện đại, cách tân là một mạch nguồn tiếp
nối, cái trước làm nền cho cái sau, cái sau tôn vinh cái trước.
Truyền thống và cách tân
vẫn song song tồn tại, cùng cụng ly trong bàn tiệc thơ ca thế kỷ XXI, thỉnh
thoảng cũng liếc lườm nhau một chút, va quệt nhau một chút để rồi to tiếng cãi
vã dăm câu cho thi đàn đỡ buồn tẻ. Theo sự quan sát của chúng tôi thì tương
quan lúc này là bên tám lạng, bên nửa cân.
Tôi tin rằng rồi đây những gì thuộc về tinh
hoa của cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái
hài sẽ được chọn lọc lưu giữ để vẫn có mặt trong thơ cùng với sự cách tân
khoáng đạt và tung phá. Nàng Thơ của chúng ta vừa thông tuệ vừa nhu mì, vừa bản
sắc vừa nhan sắc hơn, và chắc chắn không thể thiếu trong các cuộc thi
hoa-hậu-thơ-hoàn-vũ!
Nhiều nhà thơ tuy vẫn theo thi pháp truyền
thống nhưng không thể “kéo mãi sợi dây
đời đã giãn” (Du Tử Lê) mà đã thay “dây đời” săn chắc, đa năng hơn, cởi bỏ
nhiều khuôn phép lề luật cũ, giọng điệu linh hoạt tươi tắn hơn. Đây là khoảng
giao thoa cần thiết giữa thi pháp truyền thống và thi pháp cách tân chứ không
phải “chạy trốn khỏi thời gian”. Ở chỗ này thơ truyền thống và thơ cách tân hòa
vào nhau khó phân biệt ranh giới. Bài “Đừng
ngốc thế em” của Khuất Quang Thụy, “Luân
hồi” của Lê Thành Nghị, “Gặp lại ngày
xưa” của Hoàng Trần Cương v.v…
Bên tám lạng bên nửa cân rồi sẽ cùng thăng
hoa trong thi pháp“Tân cổ điển – Hậu hiện
đại” đồng hành với nhiều tìm tòi thể nghiệm khác. Đây là một kết hợp đẹp, một phương án tối ưu, cũng là quy luật tự
nhiên rất đặc trưng Việt Nam. Bước đi này đang diễn ra, sẽ hoàn hảo trong
khoảng một thập niên nữa.
Cách đi khác nhau, các ngả đường thi pháp
khác nhau nhưng đều gặp nhau ở một đích, con đường thơ phong phú hơn, đẹp hơn
và nhờ vậy thơ được trường-sinh.
Linh-dược-trường-sinh-thơ giúp con người tự thanh tẩy tiến tới hoàn hảo - điều mà Thượng Đế còn khiếm khuyết khi tạo ra
con người.
3. Đầu năm 2013, tôi đọc trên website Nhà văn TPHCM: “Đi qua thương nhớ - tập thơ đầu tay của nhà
thơ trẻ Nguyễn Phong Việt đã tạo thanh một hiện tượng xuất bản thú vị, khi bán
hết veo 10.000 cuốn trong 50 ngày. Đó là một kỷ lục lạ thường trong khi ngành
xuất bản đang gặp khó khăn”
Tôi đã cất công đi xác minh, trực tiếp hỏi bà
Nguyễn Thanh Hà, phó giám đốc Công ty sách Phương Đông, đơn vị phát hành và nắm
giữ bản quyền tập thơ, nguồn tin trên là đúng và thêm nữa, một thời gian không
lâu, số lượng phát hành chạm tới con số 13.000 cuốn. Nhân đây cũng cần kể đến
công lao của facebook đã làm rất tốt 4P marketig.
Trích ít dòng bài thơ đầu tiên trong tập:
ĐÁM CƯỚI (1)
Không có tiếng pháo nào
thay thế được nhịp tim
dẫu là rộn ràng hay ngừng lại trong khoảnh khắc
Một câu nói mang lại niềm vui cho người này
nhưng lại khiến một con người khác chết lặng
- Đồng ý hay không trao số mệnh cho một ngón tay?
…
Người nắm chặt bàn tay
và không hề muốn đánh rơi
thứ cảm giác đã một lần khiến người tuyệt vọng
Đối diện với con người mình phải yêu thương mà sao ứa nước mắt
khi nghĩ về một bàn tay ở đâu đó lẻ loi...
Nguyễn Phong Việt sinh năm 1980 tại Tuy Hòa,
Phú Yên, hiện là phóng viên báo Mực tím, suốt ngày cặm cụi “anh pha mực cho vừa
màu áo tím”!
Mấy năm gần đây nhiều tác giả như Hữu Thỉnh,
Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh… còn được mời đi dự
festival thơ thế giới và tác phẩm được giới thiệu khá đình đám ở nhiều nước.
Thơ Việt Nam có nguồn cội từ lời ru bên bọc
trứng Âu Cơ. Thơ là nguồn sữa tinh thần nuôi lớn tâm hồn Việt; thơ góp mặt
trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước. Thơ cách tân đầu thế kỷ XXI
là tổng hòa các chủ nghĩa văn học hàn lâm như lãng mạn, hiện thực, tượng trưng,
siêu thực… Nó có vị thế vững vàng.
Với lý tưởng vì Độc lập dân tôc và số phận
con người, bốn dòng thơ cách tân: Hiện
thực đa chiều & huyền ảo, Phản biện, dự báo & thức tỉnh, Chia sẻ nỗi
đời & nỗi đau, Folklore – humor & ngoại biên, tuy hình thành chưa
lâu nhưng đã tham dự vào những vấn đề trung tâm của thời đại và an sinh xã hội
một cách nhiệt thành nhất và có hiệu quả.
Và
đến đây có thể định hình gương mặt thế hệ thơ cách tân VN đầu TK XXI:
Một: Thế hệ từng xuất hiện trước năm 1975, sau
đó chuyển đổi từ thi pháp truyền thống sang cách tân đại diện có: Thi
Hoàng, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Dương Kiều Minh, Hoàng Vũ Thuật, Từ Quốc
Hoài…
Hai:
Thế hệ nhà thơ cầu nối thế kỷ XX và XXI, đại diện có Nguyễn Quang Thiều,
Trần Quang Quý, Mai Văn Phấn, Tuyết Nga, Nguyễn Bình Phương, Trần Quang Đạo…
Ba: Thế
hệ nhà thơ của đầu thế kỷ XXI, đại diện có Ly Hoàng Ly, Trần Vũ Long, Đặng
Chân Nhân, Nguyễn Phong Việt...
Trên lộ trình văn hóa, bên cạnh những cột mốc nghệ thuật của thế hệ trước,
trách nhiệm của họ là tạo nên những cột
mốc nghệ thuật mới sao cho đáng đồng tiền bát gạo mà họ đã nhận của nhân dân.
Vị trí của nhà sử học là đứng ở hiện tại nhìn
về quá khứ. Vị trí của nhà văn buộc anh phải đứng ở nhiều vị trí khác nhau,
trong đó có vị trí quan trọng là đứng ở tương lai nhìn về hiện tại. Ở vị trí
này, nhà văn quan sát suy ngẫm sẽ thấy nhiều điều thú vị, trong đó không ít cái
hiện tại nhưng đã thuộc về quá khứ. Chỉ có như vậy nhà văn mới làm tốt được
chức năng mới của mình đặc biệt là phản
biện, dự báo, thức tỉnh.
Khát vọng đổi mới của các nhà thơ cách tân
Việt Nam đã hòa vào huyết quản của thế kỷ mới. Ta hãy kiên nhẫn chờ xem họ thể
hiện khát vọng “nung chảy câu chữ để làm
nên một tạo hóa thơ ca” như thế nào và chiêm ngưỡng “cuộc hò hẹn giữa nhà thơ với cuộc đời được tròn vẹn và mầu nhiệm”(*)
như thế nào để thơ ca của chúng ta hòa được vào dòng chảy lớn của nhân loại.
Ở thế kỷ XX, các nhà thơ chống Pháp, chống Mỹ
đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử một cách xuất sắc, họ đã dựng nên tòa lâu đài thơ
Kháng chiến giữ nước, giành độc lập và thống nhất Tổ Quốc. “Vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến lũy”, văn học sử Việt Nam chưa từng có hình tượng thi nhân đẹp
lộng lẫy như thế bao giờ.
Đầu thế kỷ XXI, các nhà thơ gồm nhiều lứa
tuổi cũng đã và đang bắt tay tạo dựng tòa lâu đài thơ cách tân của thời đại đổi
mới và hội nhập toàn cầu. Tòa lâu đài này với kiến trúc đặc biệt chưa từng có,
mới thi công xong phần cơ bản còn bề bộn ngổn ngang. Tiếp cận nó đòi hỏi một
chút kiên nhẫn, một chút thiện chí và có thể gặp không ít bực mình dễ sinh cáu
giận (xin đừng giận cá chém thớt).
Nếu như ở thế kỷ trước “Một người đi chật cả con đường” (Nguyễn Duy) thì bước sang thế kỷ
này hệ thống đường xá hữu hình và vô hình, thực và ảo, sóng mặt đất và sóng vệ
tinh… phát triển đến độ biến thế giới tròn thành thế giới phẳng. Những xung
chấn tâm tư của một người vang động đến cả cộng đồng với tốc độ gần như tức
thời lẽ nào không phải là xung chấn kỳ diệu của thi ca? Chắc chắn trong phút
giây thần khởi, ăng ten đặc biệt của nhà thơ đã bắt được những làn sóng tâm tư
ấy. Và tôi cảm nhận được điều này từ những chân trời thơ cách tân vọng về trong
râm ran từng đợt sấm báo mùa.
TP. Hồ Chí Minh tháng
3-2015
N.V.T
______
(*) Lời nhà thơ Hữu
Thỉnh.