"Người thợ giày khâu những vết thương há mõm..." (tùy bút) - Bão Vũ
"Người thợ giày khâu những
vết thương há mõm..."
maivanphan.vn: Vũ Anh Xuân là
nhà thơ “kín tiếng” ở Hải Phòng. Sau khi maivanphan.vn giới thiệu bài thơ “Số
nhỏ” của ông, một số bạn thơ và độc giả đã ngỏ ý muốn biết thêm về tác giả này.
Xin trân trọng giới thiệu cùng Quý Bạn đọc bài tùy bút của nhà văn Bão Vũ viết
về nhà thơ Vũ Anh Xuân. MVP
Bão Vũ
Những năm xa Hải Phòng, tôi thường nhớ tới
đoạn đường cuối dãy phố An Đà mà tôi đã đi lại suốt thời thiếu niên. Con đường
nhỏ ra ngoại thành luôn vắng vẻ. Hai bên đường, những khu vườn tĩnh lặng rợp
bóng cây. Những đoạn hàng rào bằng cây xương rồng, râm bụt, những rặng duối...
Mùa hè những búi tơ hồng vàng nõn vắt trên dãy hàng rào cây ấy như có ai phơi
tơ lụa. Phía trong hàng rào là những vườn hoa. Làng Đằng Giang có tên nôm là
làng Phọng, có nghề trồng hoa từ lâu đời, và làm thợ nề có tiếng. Dân làng còn có
nghề đan vó, lưới đánh cá. Vó Phọng bày bán ở chợ Sắt, lừng danh khắp vùng
duyên hải. Tiếng xa quay se sợi gai mỗi buổi sớm, xè xè êm như tiếng vẫy những
cặp cánh mỏng của loài côn trùng. Mùa hè, ve sầu kêu ran trong những vòm cây
thanh trà, loại cây đặc sản của làng Phọng, quả có vị chua ngọt giống một thứ
xoài nhỏ tinh tế. Những trưa nắng, sâu tít trong xóm vẳng tiếng gà khắc khoải,
mệt mỏi. Tất cả khung cảnh ấy gợi đến thơ Nguyễn Bính, và truyện ngắn Thạch Lam
một thời... đã khiến người có tâm hồn đa cảm trở thành nhà thơ.
Tôi đã qua thuở niên thiếu ở cái làng êm ả
đó. Thời ấy có anh thợ cắt tóc người nhỏ nhắn gày gò dựng cái quán nhỏ lợp
tranh bên con đường làng. Đó là Vũ Anh Xuân, bạn thời tiểu học của tôi.
Cái quán cắt tóc của Vũ Anh Xuân cũng giống
mọi nơi hành nghề của mấy bác thợ cạo làng quê xưa. Mái quán khi lợp cỏ, khi
rơm rạ, khá hơn là giấy dầu. Vách trét bùn đất, có khi được tấm liếp đan. Cái
ghế chuyên dụng bằng gỗ bóng màu thời gian, có thanh tựa đầu rút lên xuống hãm
cữ bằng mẩu chốt tre. Các đồ nghề gia truyền, những thứ hoen rỉ sứt mẻ, có tuổi
thọ đáng nể. Dụng cụ tối tân nhất để xác định tư cách của một quán cắt tóc là
cái tông-đơ.
Vũ Anh Xuân đọc khá nhiều sách văn học từ
thuở nhỏ. Anh đã bơi ngợp trong những tác phẩm của các thời đại có trong tủ
sách của nhà và bạn bè. Anh say mê các nhà thơ cổ điển Nga, Pháp. Sau này anh
cũng tìm đến thơ Anna Akhmatova, Joseph Brodsky và tìm đọc thơ hiện đại. Vũ Anh
Xuân làm thơ từ bao giờ, không ai biết. Làng Đằng Giang chỉ gồm vài xóm nhỏ,
dân cư thưa thớt nhưng có tới 5, 6 người viết văn làm thơ có tiếng sau này.
Trước khi thành danh, dù là họ hàng thân thích, bạn bè mà không ai biết ai có
hoài bão văn chương từ thời ấy. Phạm Xuân Trường ở xóm Trung, bỗng dưng tung ra
bài thơ Làm vua khiến nhiều danh thủ
trong làng thơ ngạc nhiên. Xóm Nam có Hào Vũ chơi bời thân tình với Vũ Anh
Xuân, đi bộ đội, làm báo Quân giải phóng miền Nam, víet tiểu thuyết. Hai người
vừa nói trên đã là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Không ai biết họ viết văn từ
bao giờ. Dường như những người này đã cố giấu đi cái khát vọng thường được coi
là viển vông hão huyền, để khỏi bị dân làng chê cười. Có lẽ cũng vì thế mà số
đông đã thành danh còn bền bỉ mãi về sau, bởi vì người thực sự sống chết với
văn chương không huênh hoang ầm ỹ. Tôi và Vũ Anh Xuân là bạn bè, biết nhau cùng
ôm mộng văn chương. Nhưng tôi đi học, đi làm ở tỉnh xa, thỉnh thoảng mới về
làng.
Ngôi quán của Vũ Anh Xuân rộng gần bằng chiếc
chiếu đôi, kê được cái ghế chuyên dụng cho khách cắt tóc có thanh tựa đầu rút
lên rút xuống, một ghế dài áp vách để khách chờ và các bạn văn chương ngồi đàm
luận. Thợ cắt tóc thường vui tính, hay chuyện. Nhưng Vũ Anh Xuân không mấy khi
tán gẫu. Anh im lặng vừa cạo mặt cho khách vừa nghĩ thơ. Chẳng biết có lần nào
vì thi hứng mà làm đứt má sứt tai người ta không. Nhiều văn nghệ sĩ Hải Phòng
thường định kỳ đến cạo mặt sửa gáy miễn phí ở cái quán lợp cỏ ấy. Ngồi phịch
vào cái ghế chuyên dụng, phấn chấn: “Sửa hộ cái mái, tớ cho nghe bài thơ mới
làm đêm qua...” Thời ấy chủ quán như được trả công gấp đôi, vừa được giúp bạn
sửa sang râu tóc, vừa được bạn đãi “thơ nóng”. Đào Cảng đã mất từ 1993, từng là
khách quen của quán cắt tóc ấy. Vân Long, Trần Quốc Minh, Thi Hoàng, Nguyễn
Hồng Văn, Thanh Tùng, Trịnh Hoài Giang,... và Tùng Linh, Phạm Ngà, Nguyễn Hồng
Quang, Ngô Cẩn, Nguyễn Phước Giang,... và cả Bế Kiến Quốc từ xa cũng đã đến cái
lều cỏ ấy. Cái thời trai trẻ đói khổ
thiếu thốn đủ thứ nhưng luôn tràn đầy tình yêu thi ca, họ đã ngồi trên cái ghế
dài lung lay, tựa lưng vào bức vách mỏng manh ấy để thao thao bất tuyệt về văn
chương thơ phú, về những dự định cho “tác phẩm kinh thiên động địa”... Vừa cắt
tóc vừa nghĩ thơ. Vừa ngồi đan vó vừa làm thơ... Vũ Anh Xuân mê đắm thơ, chân
thực với bạn bè. “Thời ấy yêu quý nhau lắm. Không mấy người đố kị, ganh ghét
nhau vì văn thơ. Làm được bài thơ mới là tìm đọc cho nhau nghe. Được in một bài
trên báo là khao nhau. Nước chè, kẹo lạc, rượu quê...” Vũ Anh Xuân nói, như
luyến tiếc những người bạn với những tác phẩm của một thời. Bây giờ, có người
đã khuất, người đổi khác không còn đằm thắm. Anh vẫn giữ gìn cẩn thận những cuốn
tạp chí Cửa biển có thơ của mình và
bạn bè. Những bài thơ in trên giấy rơm vàng sỉn như những cuốn sách cổ, quý
hiếm. Một bài thơ Vũ Anh Xuân viết từ thời ấy, sau một đêm nằm bên người bạn từ
chiến trường về, nghe chuyện chiến tranh, có những câu:
Nằm
bên Minh thấy vị ngọt nước dừa
Thấy
lá rừng khua xao động
Thấy
vách núi trùng trùng cao dựng
Thấy biển xa vỗ sóng ầm vang...
(Đêm
nằm với bạn)
Tôi nhớ đến bài thơ cổ điển về một thủy thủ
can trường đã đem về cho người yêu những cơn giông bão và những trận chiến khốc
liệt trên biển giấu trong chiếc áo choàng rách.
Vũ Anh Xuân có một tập thơ đã in. Khoảnh khắc trong mưa, gồm nhiều bài thơ
khá tinh tế, sâu sắc, giàu cảm xúc mang phong vị của một ngôi làng cổ ngoại ô
với những vườn trồng hoa, có nghề gai vó và những cây thanh trà. Anh cũng viết
truyện ngắn, không nhiều, nhưng là những câu chuyện đầy ắp nhân tình.
Một truyện ngắn của Vũ Anh Xuân: Có một người
sống như mộng du trong cuộc sống thực, đi viếng đám tang một người quen, nhưng
lại đến nhầm đám tang khác của một người nghèo rất thưa thớt khách viếng. Anh
ta biết mình nhầm nhưng vẫn đặt lên bàn thờ chút lễ đạm, thành tâm rưng rưng
chia sẻ nỗi đau thương với thân nhân của người quá cố không quen biết... - Một phần nhân loại là ta. Một con
người chết đi là nhân loại đã chết đi một phần. Cái triết lý nhân văn của
Ernest Hemingway....
Vũ Anh Xuân lận đận trong đời sống, luôn chật
vật vì cơm áo. Đan vó. Cắt tóc. Rồi sang nghề đóng sửa giày dép. Có lúc Xuân
thở dài bảo tôi: “Mình bỏ cuộc thôi. Đành gác bút vậy. Phải lo cho các cháu.”
Tôi ái ngại. Tình yêu văn chương bền bỉ suốt từ thuở thiếu niên đến giờ. Hơn
nửa thế kỷ, phần tốt đẹp nhất của một đời người. Vậy mà đành bỏ sao? Bỏ, để rồi
phải “buồn như ta với hồn ta giã từ”?
Có một nhà văn trẻ đến với tôi say mê nói về
văn chương, đưa tôi xem mấy truyện ngắn nhỏ của mình in trên một tờ báo ngành ở
địa phương. Rồi ít lâu sau anh ta bỏ viết, làm thương nghiệp, và nghe nói đời
sống có vẻ khá hơn. Còn Vũ Anh Xuân, anh đắm đuối trong cõi thơ mà quên mất đời
sống thực, quên lời răn ghê gớm như một lời nguyền độc địa nói về chuyện cơm áo
đối với nhà thơ. Dù vậy với Vũ Anh Xuân, tôi biết, cũng như số đông những khách
thơ của túp lều cỏ ngày xưa, tình yêu thơ văn không dễ bỏ. Chán chường đến đâu,
nói phũ nói phẫn đến thế nào, rồi đêm đêm vẫn lại chong đèn viết. Lúc nào cũng
ngơ ngơ ngẩn ngẩn như đang ủ một thứ tâm bệnh. Khi đến chỗ đông người, Xuân
ngồi một nơi khuất không lọt vào mắt ai. Nhưng khi nói chuyện văn thơ với người
tri âm, Xuân hào hứng, mắt vẫn bừng ánh nhiệt thành hồn nhiên như thời đứng cắt
tóc trong cái quán lợp cỏ. Vũ Anh Xuân đã viết những dòng tự bạch trong tập kỷ
yếu nhà văn Hải Phòng:
... Mối
duyên nợ với Thơ như là Định mệnh. Thơ cùng tôi chịu đựng cuộc sống nghèo khổ
vật chất, nhưng Thơ cho tôi giàu sang về trí tuệ và ngôn từ như những bậc hiền
nhân.
Vũ Anh Xuân thường nhắc đến một danh ngôn đã
khiến anh kiêu hãnh vì thi ca và không thể từ bỏ thi ca, rằng: Nấm mồ của nhà thơ phủ kín hoa tươi và nước
mắt tiếc thương. Quan tài của bạo chúa ngập trong máu và những lời nguyền rủa.
Vũ Anh Xuân thuộc lớp những nhà thơ thời
chiến tranh chống Mỹ, nhưng anh không hề lạ lẫm với trào lưu thơ hiện đại. Anh
nói với tôi về thơ Mai Văn Phấn: “Thơ Phấn trong sáng thánh thiện đến ngạc
nhiên. Thơ như thế không mấy người viết được. Mai Văn Phấn là một số nhỏ nhưng
một mình một đường bay và sẽ vượt xa số đông.”Anh cũng tiên đoán, thơ Mai Văn
Phấn sẽ được nước ngoài biết đến. Năm 2010, sau khi đọc bài tham luận của Mai
Văn Phấn trình bày tại Festival Thi ca và Văn học Hàn Quốc - Asean “Korea - Asean Poets Literature
Festival", Vũ Anh Xuân đã hào hứng viết
tặng Phấn bài thơ “Số nhỏ”, gửi cho tôi xem trước. Anh sửa chữa rất cẩn thận
nhiều lần để rồi 4 năm sau mới công bố.
Làng Đằng Giang đến giờ vẫn còn nhiều người
sống vất vả. Hàng ngày Vũ Anh Xuân ngồi vá giày cho dân quanh làng. Những đôi
giày há mõm của đám trai gái làng bây giờ - lũ trẻ lít nhít ngày xưa khi Xuân
còn là anh thợ cạo trẻ tuổi mơ mộng văn chương trong túp lều cỏ. Thỉnh thoảng
anh ngửng mái tóc hoa râm rối bù nhìn ra con đường trước mặt. Con đường quê bây
giờ là đường phố của phường quận, bụi, ồn, không còn tĩnh mịch với tiếng gà
trưa trong truyện ngắn Thạch Lam nữa. Những mặt người, những cảnh đời diễu
qua... Thỉnh thoảng có bàn tay gầy guộc chìa vào cửa hàng, run rẩy trên những
đôi giày rách mõm há hoác lăn lóc nền nhà. Bàn tay đen đủi khô héo của người ăn
xin chới với như một cánh chim ốm.
Gió
hát điều gì buồn vui trên mặt sóng
Nỗi
đau nào xé cánh buồm tơi tả
Vui
chỉ một lần sau những tai họa
Tiếng
cười nửa chừng giữa đôi mái chèo buông.
Tỉnh
mê những bước chập choạng bên đường
Một
ngày mới nữa quăng trong bụi lốc
Khát
thèm một lặng lẽ êm suốt trong như lọc
Câu
hỏi còn cho ngày sắp tới sắp qua.
(Đêm màu nhiệm – Thơ Vũ Anh Xuân)
Cuộc sống phô bày những nhàu nhĩ, nhăn nhúm
bụi bặm trước mắt anh thợ giày hàng ngày. Những hối hả, mưu tính. Những cãi cọ
rủa sả độc địa về đồng tiền lẻ, mớ rau con cá. Những kẻ cướp bị đuổi đánh thậm
tệ trên con đường ngày xưa từng êm ả. Anh tự hỏi như một người lẩn thẩn: Trong
đám người khốn khổ ấy có ai sẽ thành tội phạm, và rồi trong số những kẻ tội
phạm ấy có kẻ nào bị tử hình?
Mảnh
vải đen ngang mắt, đen như ký ức xót xa
Nghe
rõ tiếng người rì rầm trong tiếng gió
Cỏ
xanh chân đồi xanh cho kẻ bên kia.
Hắn
đứng dang tay chịu đạn, tội đồ
Hành
trang đem xuống mồ là cánh chim đã gãy
Bỏ
lại một trời gió mạnh
Bay
theo mùi hương đồng nội cỏ hoa.
Sớm
đầu thai kiếp khác hay vẫn kiếp người khổ nạn
Chiều
giông gió không còn giông gió...
(Cơn
giông trước giờ hành quyết – Thơ Vũ Anh Xuân)
Vũ Anh Xuân đã tự tìm ra cách thoát bỏ những
vần thơ ồn ào sảng khoái một thời để đến với những sâu xa thâm trầm, những nỗi
đau nhân thế. Có thể anh chưa theo kịp được những kỹ thuật tân kỳ của thơ hiện
đại, hậu hiện đại, biểu hiện hay tân hình thức gì đó, nhưng cái chính là Vũ Anh
Xuân đã không từ bỏ Thơ. Có những người bạn văn ngày xưa vẫn đến với anh, sửa
cái tóc, nhờ vài mũi khâu cho chiếc giày bong đế. Và vẫn để nói về thơ.
Cánh chim cố níu lại bầu
trời mùa thu sắc thanh tao, khi mùa đông không ngừng ngự trị bốn bề. Rét chia
đều thế gian bớt tê cóng tím ruột gan, chia hy vọng một ngày xuân ấm. Không
gian trong suốt âm vang như bài ca huyễn hoặc tìm đến tự chân trời xưa cũ
Hãy nhớ ngọn lửa trên đồng
giữa mưa lạnh khi chim rã cánh không theo được cùng gió. Có thể mây trắng
thương chở màu tang đi xa mãi. Chim vẫn là sứ giả của trời mang tiếng hát trong
tiếng gió. Có nơi nào sông nước bãi bờ thơm mật dừng chân vội vã đôi chân thấm
phù sa khoảng trời dành cho kiếp chim...
(Những cánh chim phiêu bạt – thơ Vũ Anh
Xuân)
Ngày ngày Vũ Anh Xuân ngồi chắp nối những câu
thơ. Ngày ngày Vũ Anh Xuân ngồi chữa lành những chiếc giày rách. Đôi vai xương
xẩu nhô cao, mái tóc thi sĩ rậm xoăn ngày xưa đã trụi phần đỉnh đầu, mớ hoa râm
còn lại bơ phờ khô xác. Những ngón tay gầy của anh cầm miếng dạ mỏng xoa nhẹ
lên mặt da cũ sờn như sợ làm đau thêm chiếc giày thương tật. Chỉ một nhà thơ
nhân ái mới có lối đánh si giày như thế. Tôi nhớ tới một câu thơ ở đâu đó:
Người thợ giày khâu những
vết thương há mõm...
B.V