“Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”, sâu lắng sự hàm ơn (bình thơ) - Cao Năm
“Mười nén nhang ở ngã
ba Đồng Lộc”, sâu lắng sự hàm ơn
Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc
Tháng ngày gương lược
về đâu
Chân trời để xõa một màu cỏ non
Các cô nằm lại trên cồn
Những chùm bồ kết khô giòn trong cây
Khăn thêu những dấu tay gày
Thành mây Đồng Lộc bay bay trắng trời
Người ơi, tôi lại gặp người
Hơi bom còn thổi rụng rời cát khô
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.
Mai Văn Phấn
Lời bình của nhà văn Cao Năm:
Đây là một trong hai
bài thơ Mai Văn Phấn độc chiếm ngôi thủ khoa cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ
(Hội Nhà văn Việt Nam) năm 1995 (bài
kia là “Nhật ký đô thị hóa”).
Bài thơ được viết
theo thể lục bát truyền thống, hàm súc và cô đọng. Chỉ với năm khổ thơ, mỗi khổ
gói trọn hai câu sáu tám, đã lột tả tận cùng tâm trạng người viết khi đứng
trước những ngôi mộ mười cô gái thanh niên xung phong hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc
trong thời kỳ ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ. Đấy là một tâm trạng hàm ơn, da diết nhớ thương và thấu hiểu tận cùng sự hy
sinh của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc (cũng như bao người con yêu khác đã ngã
xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc) là để đem lại sự sống vĩnh hằng cho Tổ
quốc chúng ta: “Tháng ngày gương lược về đâu/Chân trời để xõa một màu cỏ non”.
Nhà thơ không hề giải thích sự hy sinh của mười cô gái, mà chỉ với ba từ “màu
cỏ non” đủ làm người đọc cảm nhận hết ý nghĩa lớn lao của sự sinh đó.
Bài thơ không nặng về
tả, hay kể, mà nghiêng về gợi trí tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. Thế
nên, viết về mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc, nhưng chỉ duy nhất một lần nhà thơ
dùng từ chỉ giới tính “các cô” trong câu: “Các cô nằm lại trên cồn”, còn không
hề có lần nào nữa, nhưng người đọc dẫu chưa một lần đến ngã ba Đồng Lộc, hay
cũng chưa một lần nghe kể về mười cô gái nằm lại ngã ba này, thì khi bắt gặp
những từ “gương lược”, “bồ kết”, “khăn thêu” ở ba khổ thơ đầu, cũng đều nhận ra
đích thị là đồ dùng chỉ những cô gái Việt Nam mới có. Sự kết hợp thi ca truyền
thống và hiện đại được vận dụng khá nhuyễn trong “Mười nén nhang ở ngã ba Đồng
Lộc” là điều người đọc dễ nhận ra và đấy cũng là một thành công của Mai Văn
Phấn trong cách tân thơ.
Đứng trước những ngôi
mộ mười nữ thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ da diết nhớ thương,
bồi hồi xúc động khi mường tượng tới những vật dụng gương lược, bồ kết, khăn
thêu của các cô như vẫn còn kia, in đậm “dấu tay gày”. Những vật dụng ấy không
còn là tĩnh mà trở nên thiêng liêng và sinh động vô cùng trong sự mường tượng
của nhà thơ, khi nhìn “gương lược” như thấy cả mái tóc xanh rờn “xõa” vào nền
trời thành “màu cỏ non”: “Tháng ngày gương lược về đâu/Chân trời để xõa một màu
cỏ non”; hay khi nhìn tấm khăn in dấu tay thêu của người con gái, nhà thơ như
thấy ở đó cả một trời mây bay: “Khăn thêu những dấu tay gày/Thành mây Đồng Lộc
bay bay trắng trời”. Mây bay trắng trời hay là vành khăn tang của nhân dân, của
trời đất tưởng nhớ khôn nguôi những người con đã ngã xuống vì nền độc lập, tự
do của dân tộc. Thơ kiệm lời mà giàu sự gợi mở, liên tưởng. Chỉ giây phút ngắn
ngủi mà nhà thơ như gặp lại chính người thân của mình đang nằm lại nơi đây, qua
tiếng gọi gần gũi, thân tình: “Người ơi, tôi lại gặp người”. Dường như
khi sắp phải rời ngã ba này, mười cô gái thì vĩnh viễn nằm lại nơi đây, còn nhà
thơ thì ra về trong tâm trạng bâng khuâng nhung nhớ đến không thể kìm nén khi
cắm những nén nhang lên từng phần mộ trong nghĩa trang: “Nhang này quặn nỗi đau
xưa/Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn”. Đúng quá, mỗi người chúng ta ai mà quên
ghi sâu trong tâm khảm lòng nhớ ơn những người đã ngã xuống vì cuộc sống ấm no,
hạnh phúc của toàn dân và sự nhớ ơn ấy chính là truyền thống quý báu “ăn quả
nhớ người trồng cây” của dân tộc ta, được nhà thơ nói một cách đầy hình ảnh
“cơn mưa về nguồn”, chính xác và gợi mở. Đấy cũng là một nét đặc trưng thơ Mai
Văn Phấn gắn chặt truyền thống với hiện đại, mà trong “Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc” ta rất dễ nhận ra.
C.N
(Báo Hải Dương,
7/2011)