Mai Văn Phấn, kết thúc
cho một khởi đầu
Inrasara
Không thể hiểu hết nỗ lực của Mai
Văn Phấn, nếu không đặt anh và sáng tác của anh vào môi trường xã hội và môi
trường thơ hiện đại miền Bắc. Không phải trong thời gian dài sự sáng tạo và
thưởng thức thơ ấy bị bó hẹp bởi khuôn phép hệ mĩ học hiện thực xã hội mà đúng
hơn, bởi chính quan niệm mang tính phổ quát của người làm thơ và người đọc thơ.
Thơ là thơ ca, nó đòi hỏi sự trau chuốt kĩ lưỡng ở ngôn từ, chặt chẽ của tứ thơ, ý thơ
cần đẹp, thi ảnh chọn lọc, giọng điệu phải nên thơ. Phá cách tới đâu, người làm thơ cũng chỉ dừng lại ở Đặng
Đình Hưng, Lê Đạt hay Dương Tường. Có vậy thôi mà cũng đã chịu bao hệ lụy.
Nghĩa là thơ vẫn cứ phải nên thơ. Và
mọi người chấp nhận kêu nó là thơ. Sự thể không có gì sai cả.
Ở miền Nam thì khác. Mười năm sau
đất nước nhập một, cả khu vực rộng lớn này hầu như không nẩy nòi một thi sĩ
xứng danh nào. Mãi mở cửa cởi trói, các thi sĩ miền Nam mới rục rịch làm thơ
trở lại, tìm mọi cách ấn hành để đưa sản phẩm của mình đến với công chúng trở
lại. Ở đó, họ đã tiếp nhận nhiều truyền thống khác lạ. Thơ Tự do, đi trước họ
là mấy tên tuổi lẫy lừng: Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên,... Hậu hiện đại sơ kì,
họ có một Phạm Công Thiện với vô lượng từ xô đẩy nhau vỡ bờ vỡ đê, cuồn cuồn khó
hiểu nhưng đẹp và lôi cuốn lạ thường; một Bùi Giáng điên chữ, xáo trộn ngôn từ
cả Việt lẫn Hán Việt vào bát quái trận đồ chữ liên tu bất tận; đọc chẳng hiểu
ông nói mô tê gì cả nhưng vẫn cứ thích. Làm thơ bất kể ngôn từ thông tục, thông tục đến thô tục, họ có Nguyễn Đức
Sơn ở sau lưng. Thơ huyền ảo lãng đãng sương khói, Phạm Thiên Thư đã lừng lững.
Thơ Thiền, thơ siêu thực, thơ hiện sinh, thơ điên, nhạc sến, nhạc vàng, vọng
cổ... Nghĩa là không thiếu bất kì thứ gì thế giới ngoài kia có. Quan trọng không
kém: các bộ phân công chúng văn học khác nhau chấp nhận chúng là các sáng tạo
nghệ thuật.
Người làm thơ miền Bắc trong đó có
Mai Văn Phấn, có thể cũng đã ít nhiều biết đến nó, nhưng họ không may mắn [hay
rủi ro] cư ngụ trọng khí quyển văn chương, thừa hưởng tinh thần nền thơ kia.
Đổi mới, không thể viết như cũ, họ biết thế. Nhưng bắt đầu từ đâu? Mở cửa, họ
đối mặt với khoảng trắng mênh mông của sáng tạo, của ý thức và trách nhiệm của
một nghệ sĩ tự do. Họ cần làm mới, thức nhận rằng mình phải khác. Nhưng mới,
khác thế nào?
Đổi mới, rất nhiều nhà thơ chạy tìm
náo thân chốn báo chí, và đã không ít nhà thơ đào bới hay tìm lối thoát vô vọng
trong vũng lầy của các thành tựu trước đó, Mai Văn Phấn là một trong rất hiếm
hoi thi sĩ tự giải thoát được mình.
Đồng thời với Nguyễn Quang Thiều;
nếu Thiều tìm ra giọng điệu đặc thù từ đó trương nở, mở rộng tối đa giọng điệu
tìm thấy qua mỗi tập thơ, thì Mai Văn Phấn theo lối khác hẳn. Mỗi bước đi, mỗi
tập thơ của Phấn là một gẫy gập, đứt khúc. Nỗ lực cắt đứt và chối bỏ, lưỡng lự
rồi vượt qua - liên tục.
Hiếm nhà thơ hôm nay dứt áo với quá
khứ vừa đau đớn, nhọc nhằn vừa khó khăn như Mai Văn Phấn. Bỏ làm thơ trong thời
gian dài, mãi sắp bước sang tuổi tứ thập anh mới xuất hiện trở lại. Hai mươi
năm qua:
Trong hốc lặng
tôi
im trôi với bao người.
(“Im
trôi”, Vách nước, NXB Hải Phòng,
2003)
Bao nhiêu năm im trôi. Bao thế hệ
thơ im trôi. Im trôi với tư duy thơ vốn có. Đồng lõa mà im trôi. Mai Văn Phấn
tư thức giữa bao trì trệ và biến chuyển chậm chạp khắp xung quanh. Không phải
đợi đến: “tiếng kẹt cửa réo vang/ mở con
đường”, Mai Văn Phấn mới dám tìm/ đối mặt thách thức: “được quyền nghĩ những điều đã ước”, vạch “nhịp điệu vẽ lối đi”, “đợi
mùa”, anh “ước phục sinh” ngay ở
tự thân sáng tác thơ ca.
Hàng trăm bài thơ “truyền thống”,
hàng chục tập thơ “tiếp thu và sáng tạo” từ truyền thống với bao giải thưởng,
liên tục từ năm 1991 đến 1995, nguy cơ đẩy anh té ngồi vào chiếu văn đầy trang
trọng. Nhưng không! Nhìn lùi lại, Mai Văn Phấn vỡ ra rằng có thiếu khuyết, hụt
hẫng nào đó. Chúng vẫn còn lang thang ngoài hàng rào thơ ca. Truyền thống với
hiện thực xã hội chủ nghĩa, hậu lãng mạn với hậu siêu thực. Anh quyết rời bỏ
chúng, lên đường tìm giọng điệu khác. Đây là thái độ dũng cảm của một nghệ sĩ
đích thực.
Dù Mai Văn Phấn luôn ý thức các
triền phược rơi rớt từ vô thức cộng đồng; ý thức và quyết liệt “chống lại quán
tính”, nhưng thơ anh cứ vướng vào quán tính. Quán tính của thế hệ, của vùng
miền, của thời đại. Chúng qui định cách làm thơ của anh.
Người ta nói, dòng sông kia đã được tiệt trùng. Tôi thận trọng thanh tẩy
bằng những hương liệu quý. Lội xuống, nước đến đâu cơ thể tôi bầm đen đến đó,
rồi mọc ra những sợi lông vũ. Thế là nửa người trong nước hóa thành chim. Nhưng
tiếng hót phải thoát qua vòm họng và lưỡi. Từ đấy, miệng tôi luôn chống lại
quán tính của phần bầm đen trong nước đã ngập chìm.
(“Di chứng”)
Dù rất nỗ lực giải thoát thơ khỏi ẩn
dụ, nhưng thế nào Mai Văn Phấn cũng rơi vào hệ lụy của vô vàn ẩn dụ. Từ ẩn dụ “Nhà thơ trú trong bóng râm/ Những con chữ bị
khoét mất mắt” qua “Đàn quạ lũ lượt
chui khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt”
đến ẩn dụ về “những con kiến chữ khổng lồ”
hay “Cầm cuốn sách bơi ra phía biển. Cắm
con dao xuống đất rồi tưới nước. Trùm chăn đi vào đám cưới. Một mình trèo lên
đồi cao giơ tay phát biểu ý kiến. Thổi điệu kèn đưa ma con nhện”.
Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn
trong những năm hậu đổi mới chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng
và trịnh trọng. Ngôn ngữ thơ của Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẩn, ngày càng
hướng đến sự tự phát và ngẫu hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng
thùng.
Đạo mạo múa
tay trong bị
...
Đạo mạo giết
một con muỗi
Đạo mạo phát
biểu chung chung
Đạo mạo
nghiêng mình trống rỗng
Đạo mạo lấy
trộm áo mưa
Đạo mạo thở
mùi hôi vào miệng người khác
Đạo mạo bọc
nhầm một chiếc răng sâu
Đạo mạo tiểu
tiện nơi công cộng
Đạo mạo xụt
xịt trong khăn mùi xoa
Đạo mạo
chỉnh lại con c... trong túi quần nơi hội họp
Đạo mạo xỉ
mũi vào cửa kính
Đạo mạo moi
tiền của gã ăn mày
Đạo mạo nghe
trộm điện thoại
Đạo mạo nhìn
ngực chị em trong đám tang
Đạo mạo ký
tên vào công trình khoa học
Đạo mạo làm
thơ tình khi đã liệt dương...
(“Bài học”)
Quán tính đó, ẩn dụ đó, nhưng bằng thứ ngôn ngữ gần và
sát thực hơn, Mai Văn Phấn đã thoải mái phô bày con người thời đại với trạng
thái bi quan cùng cực trong một tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa một thực tế
cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Ở đó, con người hết còn mơ mộng ngây ngô đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ,
hết còn niềm tin vào tương lai
tươi sáng. Mỗi người là một thế giới, âm u hơn, vô
vọng hơn. “Đây với đó chỉ dựng chòi cô
độc” (Nguyễn Đức Sơn).
Đêm nay
Rắn rết, bọ cạp tràn vào
thành phố
Nhưng đừng sợ!
Nhà nào bây giờ cũng
thiết kế kiểu lô cốt
Trời tối không ai ra
đường.
(“Còn cậu hãy đứng đằng kia“)
Trong thế giới hỗn độn và phi lí ấy, con người quay cùng
với đồ vật quay. Cô độc, bất trắc và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến thành
đồ vật.
Những đồ vật
quay không thể dừng lại. Thùng rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, dây điện
thoại. Chiếc quần lót mắc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi cùn,
bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh. Con cá tắt thở trên đường gần đến cửa
sổ. Lũ chuột nhắt chết đuối bơi qua chảo mỡ. Bột giặt vừa quay vừa rắc lên hoa
quả, dao thớt, bàn thờ. Bát nước chấm quay cùng bìa đậu phụ. Lọ tương ớt lao đi
trong tư thế lộn ngược. Và kim giây quay chậm hơn hẳn kim giờ...
(“Quay
theo mái nhà”)
Cảm thức như thế, nỗ lực thay đổi liên tục liên tục lối
thể hiện như thế - từ Giọt
nắng (1992), Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai, Nghi
lễ nhận tên, trường ca Người cùng thời cho đến tập
thơ mới nhất: Vách
nước (2003), mỗi tập thơ là một tìm
tòi phong cách độc đáo hơn, mới và khác hơn -, có thể nói Mai Văn Phấn là nhà
thơ hiện đại Việt rất tiêu biểu, nếu không muốn nói là tiêu biểu nhất. Nghĩa là
anh vẫn ở lại bên này bờ hiện đại.
Nhưng, tại sao phải chống lại quán tính? Tại sao cứ mãi ra sức
đưa thơ thoát khỏi truyền thống thơ Việt? Sao cứ phải nghiêm trọng? Truyền
thống đã thế, cứ để là như nó vốn là; nếu cần, vui vẻ xài lại những vật lưu kho
này mà không áy náy. Quán tính làm thơ đã xảy ra như vậy, không thể khác. Hiểu
rõ đường đi nước của quán tính, quán tính sẽ tiêu tán đường ngay tức khắc.
Chẳng việc gì phải căng thẳng bật máu cả. Nếu nó có ương bướng ló đầu trở lại, cứ đùa nghịch với nó. Thế giới hỗn mang
và bất khả tri ư? Hãy để nỗi hỗn mang và bất khả tri kia trương nở đến tột
cùng. Cần thiết, cùng chơi với nó, khoái hoạt. Đây không là một phát biểu vô
trách nhiệm, càng không phải cỗ xúy cho sự trì trệ của sáng tạo, mà là một ý
thức phanh phơi để làm cuộc chuyển hướng cái nhìn. Chuẩn bị cho một bước nhảy
tối hậu:
Nhảy thẳng vào hậu hiện đại, nhập cuộc vào trò chơi - trò
chơi thế giới Jeu du Monde
(Heidegger).
I.R.S.R
Sài Gòn, 14-1-2009.
(Tạp chí Cửa Biển số 102, 44/2009)
(http://tienve.org)