Thơ Đồng Đức Bốn & Mai Văn Phấn, từ một hướng nhìn động (phê bình) - Inrasara
Thơ
Đồng Đức Bốn & Mai Văn Phấn, từ một hướng nhìn động
Inrasara
1.
Ngôn ngữ là của chung một dân tộc. Từ ngôi nhà chung đó, nhà thơ xây dựng ngôn
ngữ cho riêng mình, và/để cư trú trong đó. Một thứ ngôn ngữ đặc thù cá nhân, có
khi trên dưới trăm từ, lặp đi lặp lại như một thứ ám ảnh, làm thành cái riêng
nhất, không thể lẫn.
Đồng Đức Bốn chưa có ngôn ngữ riêng. Anh ẩn và lẩn trong ngôn ngữ
chung của tiếng Việt. Dẫu sao, cho rằng thơ anh quanh đi quẩn lại khoảng 600 từ
là nhầm. Dung lượng tiếng Việt trong thơ Đồng Đức Bốn không thiếu kém hơn các
nhà thơ cùng thời nào khác bất kì (1).
Thử lướt qua bảng thống kê tần số xuất hiện lượng từ trong số chữ
có mặt trong thơ. Nếu tỉ lệ từ trên chữ của Nguyễn Quang Thiều chỉ là 0,366%,
của Nguyễn Duy và Lê Vĩnh Tài: 0,444%, Inrasara là 0,518%, Mai Văn Phấn đến 0,658%, thì Đồng Đức Bốn ít ra cũng cư trú ở khoảng giữa
các nhà thơ trên: 0,470%. Nghĩa là không ít hơn Nguyễn Quang
Thiều và xấp xỉ Nguyễn Duy và Lê Vĩnh Tài (*).
Có lẽ lượng từ đơn trong thơ anh vượt trội (Nguyễn Quang Thiều tỉ
lệ từ ghép trên lượng từ là: 0,667%; Đồng Đức Bốn chỉ có 0,297%) đã tạo cảm giác nơi người
đọc rằng anh "không có nhiều chữ". Nhất là các từ kia đơn giản, dễ
hiểu và lại quá quen thuộc.
Danh từ: cỏ, đồng, rạ rơm, gió đông,
con diều, củ khoai nướng, chuồn chuồn, bùn, mẹ, chợ làng, gốc đa, con gà,
đê, trâu bò, bè tre, rơm với lửa, chùa, chuông chùa, đường làng, ăn mày…
Động từ: mua, bán, ra ngõ, kéo diều, chăn trâu, đốt lửa, đi đò, cấy lúa, hát ru,…
Cạnh đó là vô vàn các từ và cụm từ làm
sẵn được dùng với tần số cao trong ca dao dân ca: duyên mình, giếng đình,
trúc xinh, chiếc thuyền rồng, bạn đến thăm, con sáo sang sông, con sáo bay đi,
sang đò, bén
trầu cau, cầm lòng, tơ với tình, xe
chỉ luồn kim…
Đồng Đức Bốn chưa ý thức tạo ngôn
ngữ riêng cho thơ mình.
Vậy, đâu là thành tựu của Đồng Đức Bốn? Lâu nay, nhận định vô bằng
về thơ đã gây tai hại cho thơ không ít. Từ phía khen lẫn phía chê. Với Đồng Đức
Bốn, chê là thế. Ngay cả khen chúng ta cũng vẫn cứ tranh nhau khen… sai.
Thành tựu của Đồng Đức Bốn là có. Đã có không ít đánh giá của các
bạn văn và nhà phê bình, xin miễn nhắc lại. Chỉ xin hỏi: Có phải Đồng Đức Bốn
đã "sáng tạo ra những cái mới trong thơ lục bát", như có người khẳng
định không? (2)
2.
Lục bát, lâu nay ta hay có thói quen xem nó thuần Việt. Nhưng không. Đây là thể
thơ gần như của chung các dân tộc Đông Nam Á. Bởi cơ cấu ngôn ngữ dị biệt nên
“lục bát” mỗi nơi phát triển mỗi khác. Ngay từ cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ
XVII được ghi nhận là thời điểm ra đời của sử thi Akayet Dewa Mưno, thể thơ ariya
[lục bát] Chăm đã rất chuẩn mực. Trước đó nữa, trong panwơc pađit ca dao Chăm, ariya
là thể thơ được độc quyền sử dụng. Chăm gọi nó là thể ariya(3).
Về lục bát Việt, không kể các tác phẩm cổ điển sáng tác theo thể
lục bát như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên…
lục bát hiện đại Việt Nam phát triển theo 4 dòng chính.
- Dòng lục bát dân gian,
mà lục bát Nguyễn Bính là rất tiêu biểu. Thơ nhịp chẵn, đều đặn, ngôn ngữ dung
dị dễ hiểu, hình ảnh thơ quen thuộc và gần gũi với đời sống thôn quê Việt Nam.
Rất gần với ca dao. Sau Nguyễn Bính, đã có nhiều nhà thơ đi theo và phát triển
xu hướng lục bát này.
- Dòng lục bát trí tuệ.
Có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận
thời Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Mới mẻ ở đề tài và ý tưởng, ngôn từ đẫm chất
trí tuệ và chắt lọc bên cạnh là độ nén của ý thơ tạo nên thứ thi pháp khá hiện
đại.
- Dòng
lục bát huyền ảo. Dòng này nảy nở và phát triển mạnh ở miền Nam thời sáng
tác [và ảnh hưởng] Phật giáo thịnh hành: Huy Tưởng, Tuệ Mai và nhất là Phạm Thiên
Thư với Động hoa vàng (1973) và Trại hoa đỉnh đồi (1975). Ngôn ngữ thơ
mơ mơ hồ hồ bên cạnh hình ảnh mông lung, ý tưởng thiếu rành mạch, trật tự thời
gian đảo lộn liên tục tạo một cảm giác miên man, mong manh, huyền ảo. Bài thơ
đôi lúc chuyển nhịp khá bất ngờ. Sáng tạo (hay cách tân) mạnh mẽ nhất ở Phạm
Thiên Thư chính là kĩ thuật vắt dòng và nhất là ngắt nhịp:
núi
nghiêng
suối vẳng tơ đàn
nhìn
ngoài thạch động
mưa vàng lưa thưa
nghiêng
bình
trà nhớ hương xưa
từ
vàng hoa nọ
bây giờ vàng hoa…
(Động
hoa vàng, NXB Tiếng thơ, Sài Gòn, 1971)
Sau này, Nguyễn Trọng Tạo đã "tiếp thu
và sáng tạo" rất thành công ở bài "Chia": Chia cho em một đời say
một cây si
với
một cây bồ
đề…
(Đồng dao cho người
lớn, NXB Văn học, 1994)
- Dòng lục bát hậu hiện đại.
Mở đầu bằng Bùi Giáng, ở giai đoạn sau của ông, nhất là các bài thơ mà tỉ lệ từ
Hán Việt lấn át. Có khi bài thơ chỉ là một chuỗi liên hệ âm, thanh, vần, phép
nói lái trong ngôn ngữ nối tiếp hoặc chồng chéo lên nhau, lồng vào nhau như thể
một ma trận chữ vô nghĩa; rồi cả chuỗi hình ảnh, ý nghĩ dẫm đạp lên nhau, xô
đẩy, nhảy cóc rối tù mù. Về mặt kĩ thuật, qua Bùi Giáng, lục bát Việt thực sự
có nhịp mới: nhịp lẻ, nhất là ở dòng bát. Chúng có mặt đậm đặc, đủ để tạo nên
cái phong cách riêng của Bùi Thi sĩ!
Xin
chào nhau giữa lúc này
Có
ngàn năm / đứng ngó / cây cối và
(dòng này còn có thể ngắt: Có / ngàn năm / đứng ngó / cây cối / và
)
Nửa
người xa lạ người yêu
Nửa
thân thể / náo động / liều lĩnh xương
(Mưa
nguồn, NXB Hội Nhà văn, 1993 - sách tái bản) (4)
Bên cạnh bốn dòng trên, người đọc
còn biết đến thể nghiệm mới của Du Tử Lê khi anh cố ý cắt nát lục bát bằng các
dấu chấm, phẩy, gạch chéo, gạch ngang… để tạo nhịp mới, nhịp chỏi cho thể thơ
vốn khá mềm mại này. Một cố ý thuần kĩ thuật nhưng không phải là không có giá
trị nhất định.
–
Nằm nghe - chăn gối rơi. Cùng
tháng
năm bằn bặt.- Phật còn ở không
Tôi
nhìn - tôi rất chon von
núi non âm bản. - rừng son vẽ.- Buồn
– Còn tôi, - cõi nát - cõi tàn
cõi hoang mang, - vội, - cõi bàng hoàng, - qua
– chiều lên chiều lên tù mù
vàng tâm cổ thụ lá khu trục cành
lon
bia lon bia chia buồn
nhớ,
quên, một lũ chết bầm tương tranh (5)
Như vậy, từ ngôn từ cho đến nhịp điệu, từ lối vắt dòng, ngắt nhịp
cho đến thi ảnh… ta chưa thấy Đồng Đức Bốn "sáng tạo ra cái mới cho lục
bát Việt". Lục bát Đồng Đức Bốn đi len giữa dòng lục bát dân gian và lục bát
huyền ảo. Vô ngại. Để không ít lần bật lên các bài thơ, đoạn thơ xuất thần.
Xuất thần và dễ hiểu, dễ tiếp nhận, cả với người đọc được cho là bình dân nhất.
3.
Mai Văn Phấn ngược lại: vô cùng khó hiểu.
Hiếm nhà thơ hôm nay dứt áo với quá khứ vừa đau đớn, nhọc nhằn vừa
khó khăn như Mai Văn Phấn. Bỏ làm thơ trong thời gian dài, mãi sắp bước sang
tuổi tứ thập anh mới xuất hiện trở lại. Các tập thơ thời kì đầu: từ Giọt nắng (1992) cho đến trường ca Người cùng thời (1999) gặt hái các giải
thưởng thơ liên tục từ năm 1991 đến năm 1995, đủ dọn cho anh một chỗ ngồi đường
hoàng trên chiếu văn. Những tưởng anh “yên bề”, nhưng không! Sự vận động vươn vượt không
ngưng nghỉ của nhà thơ này là rất đáng trân trọng. Tiếc, nhà phê bình chưa nhìn
ra các đóng góp của anh.
Không gì lạ cả!
Trở ngại chính là ở ngôn từ, và nhất là các ẩn dụ có mặt dày và
đậm trong thơ anh. Rất khó tiếp cận. Khó khăn cả với bộ phận độc giả chuyên
nghiệp.
Trong khi tỉ lệ từ ghép và cụm từ trên số lượng từ trong thơ Đồng
Đức Bốn chỉ có 0,297%; ở Inrasara: 0,469%; và Nguyễn Quang Thiều là vượt trội:
0,667%; thì ở Mai Văn Phấn tỉ lệ này tăng dần qua mỗi giai đoạn: Giai đoạn 1: lệ 0,301%, giai đoạn 2: 0,383%,
đến giai đoạn 3 là 0,501%.
Thao tác ghép từ và tạo lập cụm từ chủ yếu để diễn tả một khái
niệm khác, mới - phức tạp hơn, tầm bao quát rộng hơn. Cho nên, một văn bản văn
chương đựng chứa chúng khả năng mang tính tư duy cao hơn. Từ đó, nó có thể gây
ra sự khó hiểu nhất định. Nhưng sự thể này không nói lên được gì cả nếu thơ Mai
Văn Phấn không tồn tại dày đặc ẩn dụ.
Những lưỡi cày, sá cày, mùi
ruộng ải, tiếng cuốc, chiếc sừng trâu, phận hoa bìm, dấu chân liềm hái, mắt rạ
rơm, lưỡi cỏ, thớ đất, con quạ… Rồi phong
kín, mê sảng, tái sinh, phục sinh, vong linh, kí ức, trí nhớ, huyệt mộ, u mê,
hốc mắt, hốc lặng, ướp đông, oan khiên, sám hối, mặt trời mù, thác loạn, quánh
đặc, nỗi kiếp côn trùng,…
Các ẩn dụ đầy dụng ý được đẩy lên tầm khái quát mang tính tượng
trưng rất cao.
Khác với Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn sở hữu và rất ý thức tạo lập
dụng ngữ đặc thù của mình. Anh bày cụm từ mới hay dùng lại từ cũ theo ý nghĩa
khác. Nhận ra các từ khóa và tìm được chìa khóa của bộ phận từ này (thuật ngữ
hay được dùng hời hợt đầy dễ dãi hiện nay là: giải mã), thì việc tiếp cận được thơ Mai Văn Phấn, không là chuyện
khó. Tất cả đều nằm ở giai đoạn hai của hành trình thơ Mai Văn Phấn.
Khác với giai đoạn đầu, thơ - dù không thiếu suy tư - chỉ là những
hoài cảm, tức cảnh sinh tình, cùng lắm là ưu tư về vài khúc rẽ lịch sử.
Những "Tản mạn về
cỏ", "Khúc cảm mùa thu", "Nỗi nhớ mùa thu", "Thoáng thu", "Mưa
cuối hạ", "Qua hoàng hôn", "Rượu xuân", "Em
và biển", "Cuối xuân đầu hè", "Nét quê", "Mười
nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc", "Đà Lạt thì thầm", "Những
con sẻ chùa Vĩnh Nghiêm", "Chiều Trà Cổ", "Nhớ Hà
Nội", "Đêm ở Thụy Khuê"...
người đọc có thể bắt gặp nhan nhản khắp trang thơ ở mọi miền đất
nước.
Khác cả giai đoạn thứ ba, khi Mai Văn Phấn đã chín đầy, thơ mở
rộng tầm nhìn cùng phạm vi đề tài, thơ hướng về cuộc sống và ngôn ngữ đời
thường hơn, cách xử lí nghệ thuật ít nhiều mang chiều hướng hậu hiện đại. Các
cách đặt tên cho bài thơ nói rõ điều đó: "Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra
ngõ", "Nghe tin bạn bị mất trộm", "Ghi ở Vạn lý Trường
Thành", "Còn cậu hãy đứng đằng kia", "Hội chứng từ một tin
đồn…", "Chuyện còn dài", "Giả thiết cho buổi sáng hôm
sau", "Bưng chậu nước lên cao", "Tin nhắn lúc giao
thừa"…
Giai đoạn hai của hành trình thơ
Mai Văn Phấn là bước chuyển dũng mãnh mang tính quyết định. Ẩn dụ có mặt đậm
đặc: "Tôi với mọi người", "Nỗi đau phát sáng", "Trái
tim giải thoát", "Phía trước bàn chân", "Mũi tên bóng tối", "Phía
sau ánh sáng", "Từ một đường bay", "Đổ
về phía khuất vầng trăng", "Dấu vết bình minh", "Biến tấu
đêm mưa", "Biến tấu con quạ", "Giọng nói", "Nhịp thu
về", "Hồi sinh", "Quyền lực mùa thu", "Tiếng
kẹt cửa", "Mùa hạ rất gần", "Đất mở", "Nhịp
điệu vẽ lối đi", "Im trôi", "Được quyền nghĩ những điều đã
ước", "Đợi mùa", "Đối thoại với thời gian", "Ước
phục sinh", "Dừng lại để suy nghĩ", "Di chứng",
"Không quán tính", "Đến trong ý nghĩ"...
đến không biết đường nào mà lần.
Dù không ít lần, thơ cố giải minh bằng thứ ngôn ngữ "khoa học" như là
cụ thể hóa các ẩn dụ kia: "Cấu trúc tạm thời", "Mười
bài tập mùa xuân", "Vòng cung thời gian", "Những ý nghĩ
không sắp đặt", "Dàn ý", "Giải
pháp"...
Nhưng càng "khoa học"
và càng tìm "giải pháp", thơ càng tự đẩy mình về phía khó hiểu. Lạ!
Vậy làm thế nào để "giải
mã" thơ Mai Văn Phấn? Không gì khác hơn là tìm ý nghĩa tượng trưng ở phía
các bề tối qua điệp điệp ẩn dụ trong thơ anh.
Đó là QUÁ KHỨ bị khu trục, mắc cạn, giả mạo và tha hóa trong chân
trời bó hẹp cùng chân nhang, khói hương,
bức tường, đóng, hầm tối, hốc lặng, im trôi, quanh quẩn, đời sống đã chết, ướp đông, hơi lạnh nhân
tạo, căn bệnh mãn tính, tiếng nói vụng trộm…
- … có hàng phi lao hát mãi lời ca mang quá khứ hay tương lai không giới
tính.
Sau
giấc ngủ dài mới hay cả quá khứ bị đánh cắp.
- Bức tường và cánh cửa vẫn đóng
Trong hốc lặng
tôi
im trôi với bao người.
Thế nhưng quá khứ với Mai Văn Phấn không chỉ là thứ quá khứ
"cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa" (Chế Lan Viên), mà là một quá khứ
sẵn sàng tự thức trong tư duy của thi sĩ. "Quá khứ bắt đầu gầm rít",
đòi hỏi chuyển động. Về phía cánh cửa….
Là CÁNH CỬA -
Cánh cửa hẹp.
- Bức tường và cánh cửa vẫn đóng.
- … mở thông những cánh cửa sang nhau.
- Mở nắp bút như bật cánh cửa, cậy
nắp hầm tối...
- Nín thở biết gần kho báu
Lần tìm, cố xoay từng cánh cửa nước.
- Đã hé mở cánh cửa nền văn minh tâm học
- Hối thúc chạy về cánh cửa.
- Cánh cửa bật mở.
Bao nhiêu là "cánh cửa".
Không phải vô cớ, MỞ xuất hiện rậm rạp trong Vách nước: cánh cửa bật mở, mở
cổng, mở vòm ngực rộng, ngực ai mở lớn, mở toang ngực, mở con đường, đất mở, đất
hoang vừa mở, dấu giày mở, mở cơn lốc, cờ phướn mở, gói bọc được mở ra, tay mở
những bờ mùa, trẻ con mở viện bảo tàng, lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng,… Cả
các hạn từ hàm nghĩa tương đương: nở
bung, bật tung, bung rã, cửa phá bung, vỡ, bùng vỡ… (6)
Và cuối cùng là CON ĐƯỜNG.
tiếng kẹt cửa réo vang
mở con đường.
Con đường réo gọi "bàn chân", "chuyển động",
"mở", và "bước đi". Quá khứ lâu ngày chày tháng im ỉm đóng
hình thành nên mênh mông thứ rỉ sét nguy cơ mài mòn, giết chết bao mới lạ cùng
ý hướng khai phá vùng đất hoang của tinh thần sáng tạo. Muốn mở, thi sĩ cần tạo
nên tiếng kẹt cửa, không thể khác -
về phía con đường. Con đường muôn hình dạng, đa trạng thái, đa phương cách. Mở
và đi. Đường và con đường xuất hiện trùng trùng điệp điệp trong thơ Mai Văn Phấn,
là thế.
Tìm
đường, vạch đường, nhận ra con đường, mở những con đường, nhìn rõ con đường,
khao khát làm con đường, phía khuất con đường, những ngả đường trước mặt, tô
đậm con đường…
Rồi khi thơ đã xác lập con đường mới mẻ trinh nguyên của ngày mới,
thơ "kinh hoàng và ngoái lại thương
xót con đường chỉ biết rạch tia chớp vu vơ không khả năng chập cháy",
những "đường ống tối đen"
hay "con đường cổ lỗ chôn nông khuôn
mặt hạn hán". Con đường bây giờ đã thành "đường bay",
"đường chân trời". "Con
đường là chân tay anh", "Bàn
tay săn bắn và hái lượm giờ tìm đường lên vì sao và xuống các đại dương".
Con đường "vừa được vẽ run run"
để tiếp tục "mở con đường chênh vênh
trẻ thơ ướt tóc", "khi gót
chân trẻ thơ chập chững đặt lên mặt đất".
Để thơ nói lại tiếng nói ban đầu: tinh khôi, giản đơn và sáng rỡ.
Nhật tân, nhật nhật tân.
Như/để:
dòng sông vừa chảy
vừa sinh nở.
Sài Gòn,
29/4/2011
Inrasara
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành
công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/
2011, NXB Hội Nhà văn, 2011).
________________________
Chú
thích:
(1)
Nguyễn Huy Thiệp, "Lục bát của Đồng Đức Bốn có một cái gì khác người, hiếm
và lạ" ; "Vốn từ của anh loanh quanh khoảng 600 từ", Giăng lưới bắt chim, NXB Hội Nhà văn,
H., 2006, tr. 130-134.
(2)
Từ Nguyên Linh, "Đồng Đức Bốn - Người làm thơ lục bát hiện đại":
"Đồng Đức Bốn là một nhà thơ sáng tạo ra những cái mới trong thơ lục
bát" (tạp chí Nhà văn).
(3) Xem thêm: Inrasara, “Lục bát và
các dòng thơ lục bát”, tạp chí Thơ,
10-2008.
(4)
Inrasara, “Để thơ đến với bạn đọc – Nhịp
điệu”, tạp chí Văn nghệ Vũng Tàu,
số 64, 2003.
(5)
Bùi Bảo Trúc, Lục bát và những đóng góp
của Du Tử Lê, trong tập: Du Tử Lê, Chấm
dứt luân hồi em bước ra, Tủ sách Văn học nhân chứng, USA, 1993, tr. 153.
(6)
Inrasara, “Mai Văn Phấn, Ra đi sau tiếng kẹt cửa”, Tienve.org, 25-4-2004.
(*) Bảng thống kê từ và chữ các nhà
thơ sử dụng, tư liệu riêng:
Đồng Đức
Bốn, các bài thơ "Chợ buồn", "Đời tôi",
"Đường đi", "Trở về với mẹ ta thôi"
316 từ/ 672 chữ - chiếm tỉ lệ 0,470%
94 từ ghép/ 316 từ - chiếm tỉ lệ 0,297%
17 lần - 01 từ: mẹ
13 lần - 01 từ: còn
11 lần - 01 từ: tôi
9 lần - 02 từ: đã, không
8 lần - 02 từ: trời, để
7 lần - 03 từ: bán, cho, vẫn
6 lần - 02 từ: cho, những
5 lần - 06 từ: bao nhiêu, cái, giữa,
là, mà, bây giờ
4 lần - 15 từ: vàng, vào, tóc,
như, một, được, gì, gió, lại, có, đời tôi, đi, chẳng, buồn, cả
3 lần - 15 từ (1 từ ghép/ 15): chờ,
vừa, thôi, sao, ra, qua, nhớ thương, người, mua, nắng, đường, gầy, chân, chợ, bạc
2 lần - 42 từ (3 từ ghép/ 42 từ):
ai, bảo, bên, chiều, chưa, chửa, cũng, đất, đau, đem, đến, đôi, giông, hết, hôm
ấy, khi, lên, lo, lòng, mấy, mồ, mưa nắng, nhau, nhớ, nữa, ở, quên, rằng, rơi,
say, sợ, ta, tả tơi, theo, thì, thơ, tí, tìm, trở về, trước, vui, yêu
Mai Văn Phấn
1.
Các bài thơ: "Tiếng gọi từ cánh đồng", "Nhật kí đô thị
hóa", "Giấc mơ đi qua"
461 từ/ 700 chữ - chiếm
tỉ lệ 0,658%
139 từ ghép/ 461 từ - chiếm
tỉ lệ 0,301%
21 lần - 1 từ: những
11 lần - 1 từ: mẹ
7- 8 lần - 2 từ: đất 7, mình 8
5-6 lần - 9 từ: gió, một 5, của,
đêm, lên, người, ta, trong, từ 6
4 lần - 5 từ: làm, ra, tìm, tôi,
trên
3 lần - 23 từ (2 từ ghép/ 23):
còn, đã, đang, hạt, hay, lại, lưới, mặt, ngày, nỗi, ơi, qua, quê, thành, thấy,
theo, trước, và, vào, về, với, bóng tối, ngôi nhà
2 lần - 44 từ (11 từ ghép/ 44):
ai, áo, ấm, cái, chưa, con, cuối, đầu, để, được, em, góc, hồn, kéo, khóc,
không, lật, lúa, mà, mưa, nếp, nhau, như, nửa, nước, sâu, sớm, thóc, thời, tiếng,
thương, xanh, xuống, bạc màu, ban mai, bây giờ, câu ca, e dè, khung cửa, kiếp
người, lùm cây, nghìn năm, ngơ ngác, ngôi nhà
2.
Trường ca Người cùng thời, trích từ đầu
436 từ/ 718 chữ - chiếm tỉ lệ 0,607%
167 từ ghép/ 436 từ chiếm tỉ lệ: 0,383%
Trên 10 từ (3 từ): những 17, lên
13, trong 10
7-8 lần - 3 từ: ta 8, cùng, tiếng 7
5-6 lần - 6 từ: đêm, một, vào 6, đi, lại, quả
chuông 5
4 lần - 5 từ: chim, dưới, hình,
và, vừa
3 lần - 19 từ (2 từ ghép/ 19): ai,
bao, cạn, chân, có, để, gọi, mang, nằm, nào, người, qua, sương, thành, trên, với,
xuống, ban mai, con đò
2 lần - 45 từ (14 từ ghép/ 45):
bên, biến, cầm, cháy, chiếc, chiều, cho, chờ, cũng, đã, đã, dở, hết, là, lửa,
lưng, mặt, mình, mỗi, ngày, nở, phủ, ra, rừng, sớm, thời, tôi, vang, về, xưa,
yên, bình minh, bọc trứng, câu thơ, con tim, cuốc cày, hoàng hôn, liềm hái, miếng
vá, ngân nga, ngọn lửa, người xưa, người cùng thời, nhận biết, vô danh.
3.
Giai đoạn 3. Các bài thơ:
"Bài học", "Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ", "Chỉ là giấc mơ", "Hội chứng từ
một tin đồn…"
347 từ/ 712 chữ - 0,487%
174 từ ghép/ 347 từ - 0,501%
Nguyễn
Duy, Nhìn từ xa… Tổ quốc,
NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh, 1989
311 từ/ 700 chữ - chiếm tỉ lệ 0,444%
22 lần: 01 từ - ai
11 lần: 01 từ - không
8-9 lần: 7 từ - ta , bầm đen 9, sao, vết, thật lắm, vua, xứ sở 8
5-6 lần: 03 từ - điếm, với 6, mắt 5
4 lần: 05 từ - bóng, buôn, lắm, như, và
3 lần: 08 từ - cả, đi, hùng vĩ, lên, ma, trắng, một thời, người
2 lần: 17 từ (2 từ ghép/17) - cái,
có, cuộc, đã, đêm, lòng, mà, mình, nhắm, nhìn, nỗi, sau, thứ, vâng, về, giả vờ,
tuổi thơ
Nguyễn Quang Thiều, "Đoản ca về buổi
tối" trong Bài ca những con chim đêm,
NXB Hội Nhà văn, 1999
283 từ/
772 chữ - chiếm tỉ lệ 0,366%
189 từ ghép/ 283 từ - chiếm tỉ lệ 0,667%
Trên 20 lần: 03 từ - những 36, một 26, và 25
Trên 10 lần: 03 từ - trong 15, của 13, chúng 12
Dưới 10 lần: 02 từ - ai đó 10, mượn 8, lên 6
5 lần: 04 từ - họ, người chết, thành phố, trở về
4 lần: 08 từ - đến, gương mặt, lời, như, rồi, sống, tội lỗi, vẫn
3 lần: 16 từ (8 từ ghép/ 16) - bay, cánh cửa, con chó, đang, đầy,
để, đêm, đi, đời sống, đứa trẻ, giọng nói, mở, linh hồn, nức nở, sủa, thiên
thần
2 lần: 38 từ (13 từ ghép/ 38) - bầu trời, bên, bởi thế, bóng ma,
cả, các, chợt, chứa, cửa, cuốn sách, đám mây, đi ra, được, khi, lại, mãi, mơ,
người, người say, người sống, nói, ra, rít, rung, sau, tâm hồn, tất cả, thảng
thốt, thù hận, tiếp tục, tìm, trên, từ, về, với, vừa, xích, xuống
Inrasara,
"Bất ngờ nhiều cái nghĩ tối này" trong Lễ Tẩy trần tháng Tư, NXB Hội Nhà văn, H., 2002.
345 từ/ 666 chữ
- chiếm tỉ lệ 0,518%
162 từ ghép/ 345 từ - chiếm tỉ lệ 0,469%
27 lần: 01 từ - tôi 27
7-10 lần: 02 từ - từ 10, chúng tôi 7
5-6 lần: 06 từ - với, vào, lớn lên 6, cho, cũng, em 5
4 lần: 03 từ - chúng, không, quan trọng
3 lần: 16 từ (trong đó 15 là từ đơn) - Cham, có, dạy, đầu, gì,
giữa, hãy, kia, làm, mình, một, mưa, ngồi, ôi là, quán, tội
2 lần: 33 từ (9 từ ghép/ 33) - bán, bằng, cả, cha, con, của, đi,
dòm, được, hiểu, lưng, mắt, muốn, nào, nhiều, nói, nước, ơi, quên, sau, sông,
tên, thơ, vẫn, hôm qua, làm gì, làm sao, bia ôm, cô gái, có gì, liên quan, con
ma, đứa con
Lê Vĩnh
Tài, Đêm & những khúc rời
của Vũ, NXB Hội Nhà văn, 2008
311 từ/ 700 chữ - chiếm tỉ lệ 0,444%
13 lần: 01 từ - Vũ
7-9 lần: 03 từ - nước 9, không 8, trong 7
5-6 lần: 05 từ - chúng ta 6, ngày, yêu, khi, đã 5
4 lần: 14 từ - ai, cái chết, càng, được, hai, không còn, lắp bắp,
lắp bắn, môi, ngồi, nhiều, nhìn, nói, ơi
3 lần: 24 từ - biết, cả, chết, chiết, cựa quậy, đang, đêm, hơn,
là, lên, đứa trẻ, ly, màu, mình, một, người, nhau, pha, sinh ra, sự sống, ta,
thành, trên, em
2 lần: 39 từ (15 từ ghép/ 39) - áo quan, ảo tưởng, bài ca, bằng,
cách, chảy, chỉ, cùng, cuộc đời, đầy, để, đời, giả dối, giấc mộng, hát, hay,
hôm qua, hy vọng, im lặng, lầm lẫn, lần, lớn lên, mặt, màu xanh, mấy, năm
tháng, nào, quên, rằng, rượu, sống, thì thầm, thói quen, trắng, từ, và, vẫn,
vàng, vào.