Mai Văn Phấn, từ thế giới đến thế giới (phê bình) - Nguyễn Chí Hoan
Mai Văn Phấn, từ thế giới đến thế giới
Nguyễn Chí Hoan
Tất cả những ai từng đọc từng nghe đều biết
thơ Mai Văn Phấn là một phong cách văn chương hết sức độc đáo.
Tôi đoán (để đưa một thí dụ ở đây), tác giả
sẽ mỉm cười với một nhận xét như thế; không phải vì nó đúng một cách tầm
thường, mà vì, tôi đoán, anh có lẽ sẽ nghiêm túc nghĩ xem liệu có cách nào diễn
đạt khác đi cái ý nhận xét ấy, cái nội hàm của lối thường ngôn “hết sức” với “độc
đáo”, cái cảm giác người phát ngôn gửi gắm vào mấy chữ ấy đồng thời là cái ấn
tượng và cảm xúc mà bốn chữ ấy, lối nói ấy có thể gợi lên ở đối tượng nghe, và,
sao lại không, ở chính chủ thể phát ngôn đó... Có thể Mai Văn Phấn sẽ mỉm cười
trong lúc hàng chuỗi câu hỏi, sự lựa chọn ngôn từ, những điều nghĩ ngợi mà các
câu hỏi và lựa chọn ấy khởi lên về chính bản thân chúng, về những liên hệ có
thể hay bó buộc hay hệ luỵ từ chúng... nảy nở.
Thơ của anh, đặc biệt là các sáng tác trong
hai giai đoạn 1995-2000 và 2000-đến nay (theo sự phân kỳ của chính tác giả)
khiến tôi cho rằng anh vẫn thường, hay đã quá quen, với cái thao tác ngẫm nghĩ
xoáy trôn ốc đến vô tận như vậy. Bởi có lẽ ai cũng nhận thấy Mai Văn Phấn
thường ít đưa ra những hình ảnh thơ xa lạ hay kỳ quái, ít khi vặn vẹo tu từ
nhằm tạo những chữ phái sinh hay điệp lặp khác người, mà điều thường gặp trong
thơ anh là sự chuyển đạt những cảm giác và ấn tượng lạ lùng thông qua các hình
ảnh quen thuộc của thơ ca Việt nhưng đã được tổ chức theo một hướng hoàn toàn
khác. Và điều quan trọng là Mai Văn Phấn làm việc ấy một cách nhất quán, bền bỉ
rõ rệt, khiến ta không thể không nhận thấy đó là một con đường – con đường của
Mai Văn Phấn trong thơ, riêng biệt và rành mạch, có thể gọi tên theo cái đặc
trưng nổi bật nhất của nó. Đặc trưng ấy nằm ở sự biểu đạt những cảm giác dịch
chuyển-thăng hoa, những ấn tượng về quá trình chuyển hoá, nhằm hoàn chỉnh sự
truyền đạt các cảm giác siêu nghiệm.
Hành trình thơ của anh, như anh vạch lại
trong tập tuyển chọn này, cho thấy Mai Văn Phấn đã đi từ chỗ biểu hiện cái thế
giới truyền thống của thơ ca tiếng Việt đến chỗ biểu đạt cái thế giới bên trong
còn ẩn giấu của nó mà anh khám phá, và, cho đến chặng đường hiện tại, đến chỗ
dường như đã tìm được một sự cân bằng mới, một cách thế hài hoà giữa hai thế
giới đó.
Tôi đã đọc khá nhiều những bài viết về thơ
Mai Văn Phấn trên các diễn đàn khác nhau, cũng như đọc về các nhà thơ mình quan
tâm, và tôi chắc là không xa lạ với các thảo luận từ những diễn đàn như vậy về
những chủ đề như “cách tân thơ”, tính hiện đại, các biểu hiện hậu-hiện đại của
thơ tiếng Việt; song tất cả đó vẫn dường như không trả lời đúng vào những câu
hỏi cốt yếu mà sáng tác của các nhà thơ, nói riêng là MaiVăn Phấn, đã gợi lên.
Chẳng hạn, thực chất của những biến chuyển trong thơ là gì?
Ngay trong những bài thơ thuở ban đầu của
anh, lục bát mượt mà chuẩn tắc và sinh động, Mai Văn Phấn đã hé lộ những cảm
nhận khác lạ; chẳng hạn, anh viết:
“Lỡ vin vào
bóng mây qua
Lỡ nghe đắm
đuối tiếng ma gọi đò”
(Bài GOM
NHẶT CUỐI MÙA)
Trong bài thơ rất ngắn chỉ gồm bốn câu
lục-bát này, không có một căn cứ qui chiếu nào để giải thích cái mô tả tượng
hình về âm thanh “tiếng ma” – điều có nghĩa ta phải coi đó là một ấn tượng/cảm
giác về thực tại thật.
Tất nhiên, người ta có thể giải thích căn cứ
qui chiếu là toàn bộ ngữ cảnh của bài thơ mà câu thơ nảy sinh trong đó, dựa vào
đó. Ta thấy ở đây cái mô hình chung quen thuộc của những bài Cảm hoài truyền
thống:
“Nỗi
niềm đem thả trong cây
Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa.
Lỡ vin vào bóng mây qua
Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò.
Ðầu kim tựa có ai chờ
Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa.
Hoa ngâu vừa lịm cuối chùa
Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông.”
Trong mô hình này, mỗi câu (lục-bát)
đều có một thành tố cái thực làm ẩn dụ và một thành tố hư ảo biểu đạt ấn
tượng-cảm giác-ngẫm nghĩ; duy câu thứ hai, tôi trích ở trên, có vẻ hư ảo hoàn
toàn – điều đó không tương thích với kết cấu biền ngẫu tổng thể của bài, trong
khi nó không hề cho thấy một sự phá cách nào. Vậy ta có hai cách giải thích: hoặc
“vin bóng mây qua” là cái thực làm ẩn dụ, hoặc “nghe tiếng ma gọi đò” sẽ làm
vai trò đó để “vin bóng mây” ở vào chỗ hư ảo của ấn tượng-cảm giác; và lựa chọn
hợp lẽ là ẩn dụ sẽ nằm trong thành tố “vin bóng mây qua”, bởi cụm hình ảnh
“bóng mây”-“qua” vốn đã thuộc về tập hợp những hình ảnh ẩn dụ xưa nay rất
thường được ưa dùng, thậm chí đến mức như đã có các hàm ý mặc định, tức nó
tương đương với cái thực (tình trạng, sự vật, trạng thái) mà nó biểu trưng.
Như vậy, “nghe tiếng ma gọi đò” là
thành tố hư ảo biểu đạt một cảm giác-ấn tượng, nhưng chỉ là hư ảo một cách
tương đối trong tương quan với các thành tố của câu/bài thơ mà quy chiếu trực
tiếp đến cái thực của thực tại thông thường kể từ “Nỗi niềm” cho đến “Đầu kim”,
“khâu”, hay “Hoa ngâu”, “tiếng chuông”, v.v... Tuy nhiên, mỗi biểu đạt về cảm
giác-ấn tượng đều dẫn chiếu về cái thực của cảm giác, và về phương diện này, ta
đều biết cảm giác là một phần không thể thiếu được của thực tại nhân sinh, mà,
trong chừng mực cụ thể tuỳ theo, thực tại của cảm giác có một vai trò tối hậu.
Ở đây, trong bài thơ này của Mai Văn
Phấn, mối liên hệ thực-ảo về mặt ngữ văn
như vậy có định hướng là dạng liên hệ chuyển hoá: một “Nỗi niềm” nào đó sẽ “trổ
hoa”, một “Đầu kim” sẽ đưa “ta” kết nối vào “xửa xưa” của quá vãng nào đấy, một
nhìn ngắm thấy “Hoa ngâu vừa lịm” làm nảy sinh
một quan hệ khác lạ giữa hai cái nghe về “tiếng mõ” với “tiếng chuông”.
Đấy không phải là những quan hệ nhân quả. Liên hệ chuyển hoá đưa đối tượng được
chuyển hoá sang một trạng thái hay dạng thức khác và ở cấp độ cao nhất đó có
thể là thăng hoa hay thánh hoá trong đời sống tín ngưỡng.
Vậy trong câu lục-bát nhiều chất “ảo”
nhất của bài thơ này, cái điều được diễn đạt như sự việc “Lỡ vin vào bóng mây
qua” là ẩn dụ của tâm thức nhìn ngắm chiêm nghiệm cái khoảnh khắc, cái nổi trôi
biến chuyển không ngừng qua từng khoảnh khắc của ngoại giới, và sự nhìn ngắm đó
mang đến một cảm thức khác thường, khác đến độ nó biểu đạt ra bằng một mô tả
nghịch dị - như chợt “nghe tiếng ma gọi đò”.
Như đã trình bày ở trên, mối liên hệ
giữa hai thành tố nhìn ngắm - thức nhận đó là một liên hệ chuyển hoá, và khác
với liên hệ chuyển hoá trong ba câu lục-bát kia của bài, đây là một liên hệ
chuyển hoá đến cái siêu nghiệm: nó không nội tại nội tâm và ý thức, nó không
thuộc về lĩnh vực của kinh nghiệm tri giác thông thường, nên chỉ có thể gọi nó
bằng một hình ảnh siêu nghiệm, là “tiếng ma gọi đò”.
Tôi tin Mai Văn Phấn không phải là
người đầu tiên, không phải là nguời cuối cùng, và không phải người duy nhất
từng trải qua những cuộc gặp gỡ với cái siêu nghiệm; nhưng cho đến nay có thể
anh là nhà thơ duy nhất trong thơ ca đương thời đã đưa vào thơ một cách có hệ
thống và dày đặc đến thế những liên hệ siêu nghiệm, những hình ảnh siêu nghiệm.
Và có lẽ cũng cần nói luôn, cảm thức
siêu nghiệm, với những hình ảnh, với các liên hệ gần gũi hay đặc trưng của nó
như thăng hoa, chuyển dịch ảo hoá, - những liên hệ và hình ảnh thuộc loại đó
trong thơ Mai Văn Phấn không mấy mang tính chất hay ý niệm tôn giáo. Có thể xem
đó là một đóng góp đặc sắc của anh: những hình ảnh siêu nghiệm trong thơ anh
phần lớn là hình ảnh cây cỏ đất trời bốn mùa đồng ruộng, cho đến lao động và
vật dụng, sinh hoạt và nhân tình thế sự, thân thể và tình yêu – Tất cả, chuyển
qua thế giới của Mai Văn Phấn đều trở nên lạ lùng khác thường; lạ lùng, nhưng
đều toát ra vẻ đẹp của sự suy-nghĩ-lại, chiêm ngắm, và không mê muội.
Đã có một sự phát triển phong cách học
cái cảm thức về liên hệ siêu nghiệm và những hình ảnh siêu nghiệm trong thơ Mai
Văn Phấn từ ban đầu với những câu lục-bát kết cấu chặt chẽ như đã dẫn ở trên,
sự phát triển tạo nên vẻ lạ lùng khác thường của mỗi bài thơ, tạo nên ấn tượng
đây là chất thơ thuần tuý, không pha tạp bất kỳ biểu thị dung tục hay thời
thượng, trong sáng tự thân.
Những bước đi của sự phát triển đó có
thể thấy qua từng bài thơ, nhất là vào
giai đoạn trước 1995 và 1995-2000: nét chung lớn bao trùm và nhất quán
là việc khai triển trong mỗi bài mỗi sơ đồ cảm giác mới mẻ hơn, dường như từng
chút một tiệm cận một hình ảnh-ấn tượng trung thực nhất của cái-gọi-là-cảm-giác
mà ta còn chưa vươn thật đến, chưa gọi tên thật đúng – những sơ đồ biểu hiện,
mô tả một thực tại hoàn toàn của thức nhận thông qua các ấn tượng cảm xúc. Đó
là điều khiến ta ít thấy trong thơ Mai Văn Phấn hình thù rõ nét của những
chuyện thế sự, những chuyện riêng tư, những tâm tình tự ngẫu: anh luôn luôn
hướng vào cấp độ khái quát từ các chất liệu cụ thể, bằng một lối đi đặc thù là
đào sâu hay đẩy xa cái bên trong hay cái vỏ bên ngoài của chất liệu thông qua
những liên hệ liên tưởng từ chúng – và đều dựa trên/xuất phát từ một vài ấn
tượng cảm giác khởi điểm; đẩy xa giới hạn ngoại diên của chất liệu thơ cũng như
giới định về nội hàm của chất liệu đó, khiến một cảm giác siêu nghiệm trở nên
có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, cho dù không phải lúc nào cũng phát lộ.
Hẳn ai cũng có thể nói thơ nào mà
không biểu thị ấn tượng cảm xúc. Tuy nhiên vẫn luôn có những sắc thái và cấp độ
khác nhau, phân biệt việc kể lể, hoạt kê hay biểu hiện và suy nghĩ trên những
ấn tượng cảm xúc đó; chưa tính đến thực tế khác nhau về năng lực cũng như độ
nhạy bén, cuờng độ và độ bền của cảm xúc – những phẩm chất liên đới chặt chẽ
với tưởng tượng và sức mạnh liên tưởng. Chính chất lượng của xúc cảm đi liền
với suy tư mới có thể khai mở các liên hệ siêu nghiệm đặc thù của thơ.
Mai Văn Phấn cho thấy ở đây cái năng
lực rất đặc biệt của anh trong việc mô tả gần như khách quan các cảm giác thực
thể của chính bản thân mình, mô tả thông qua cái lăng kính của ấn tượng xúc cảm
đi liền với suy nghĩ hay chiêm nghiệm, mô tả bằng các liên tưởng hầu như luôn
luôn tươi mới, đa dạng và chân thực, mà không hề làm cho những nét biểu hiện ấy
bị mờ nhoè, chung chung, trùng lặp hay sáo mòn bởi các từ ngữ tán thán quen
thuộc hay bởi cú pháp thô giản của câu thơ, đoạn thơ (- có thể tôi lạm dụng
khái niệm về tính khách quan ở đây, song dường như một trong những nguồn sức
mạnh của văn chương nói chung nằm trong cái có thể gọi là tính khách quan ấy
vậy).
Cái năng lực như thế thể hiện qua việc
đem lại một hình dung tượng hình cho các mối liên hệ cảm giác, qua sức căng của
liên tưởng đẩy xa ranh giới của phạm vi hình dung nhưng không rơi vào cái bẫy
của việc kể lể các ấn tượng. Một trong những thí dụ nổi bật có thể thấy ở việc
Mai Văn Phấn xử lý các ấn tượng về buổi giao thời hiện đại hoá trong trường ca
NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI :
“Chương VII: Mail cho em
Gửi
vào mã số nbn2761965...
HAI GIỌT
SỐNG GẶP NHAU VÔ ĐỊNH EM KHỎA ANH LÊN TỪNG ĐỢT SÓNG CHÌM DẦN VÀO DA MỊN TÓC TƠ
TRUYỀN BẰNG MÃ RIÊNG ĐƯỜNG CONG THƠM THOẢNG BÍ ẨN TẦN SỐ RUNG MỞ VÒM THANH ĐỚI
ÂM TRỢ DƯƠNG PHÙ HÀM RĂNG ĐỦ SỐ MẶC CHO KIỀN KHÔN BIẾN ĐỔI ANH THƠM THÀNH HẠT
SEN GIÃ BIỆT BÙN NÂU MÔI EM NGẬM NGÔI SAO HƯ VÔ CHIẾU MỆNH MÀ ANH CHẲNG BIẾT
CHẠY QUANH TUỔI THƠ CHÂN ĐẤT LẤM LÁP ÁNH SÁNG CHÓI CHANG MÊ MẢI TÌM NGÔI SAO
NẰM TRONG ĐÁY NƯỚC BÌNH ĐÊM KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU BỖNG GIỌT NÀY THẤY GIỌT KIA
LÀ MẸ TRÊN VẦNG TRÁN LONG LANH HIỆN RA VÔ SỐ NHÃN CẦU HỘI TỤ MỘT QUANG NĂNG MÁU
ỨA ƯỚC TÍNH NHỮNG ĐƯỜNG CHÂN TRỜI ĐỂ TRÔI QUA THẾ KỶ CHÚNG KHÚC XẠ TRONG TA
NHIỀU KHOẢNG CÁCH KHÁC THƯỜNG CHẠY VỘI VÃ TỪ NHỤY HOA ĐẾN CHÂN ONG VỪA RÚT GỌN
KHÔNG GIAN RỜI TỔ XIN NGỌN KHÓI NHU NHƯỢC CẢ TIN ĐỪNG RỜI NGỌN LỬA MÀ THỜ PHỤNG
NHỮNG ĐÁM MÂY PHÙ PHIẾM LẠC LOÀI ĐÃ CHẬM HƠN NHỮNG LƯNG ĐỒI QUÈ CỤT TAY CÀNH
CHÂN RỄ XÓI LỞ NGÃ GỤC DƯỚI CHÂN CƠN LŨ NGÔNG CUỒNG NHỮNG ĐÁM RƯỚC RÃ MỀM CƠN
KHÁT QUẰN QUẠI VÀ BẮT ĐẦU MÊ SẢNG TRONG XOAY VẦN MỘNG MỊ MÌNH LẠI NGỌT LÀNH VÀ
ĐƯỢC TẮM MÁT LÙA TỪNG HẠT LI TI VÀO CAO HOANG PHỦ TẠNG RỒI BỐC HƠI TRONG TẤM
CHĂN MỀM ẤM ÁP BAN MAI ĐỌNG TRÊN MẶT BÊ TÔNG CHẤT DẺO ANH CỐ VỌNG VÀO HỔN HỂN
THIÊN NHIÊN NGÔI NHÀ KHỔNG LỒ VÔ CẢM CHẶN ĐƯỜNG BAY NHỮNG CÁNH CHUỒN CHUỒN BÊN
CÁNH DIỀU ĐỘT TỬ TRÊN MẠNG DÂY CAO THẾ NHỮNG CHÂN TRỜI CUỒNG CHÂN BỊ THƯƠNG LÊ
ĐẾN KÊU CẦU GẶP CÁNH CHIM HOANG GIÓ VỘI VÃ NỐI VÀO LÁ PHỔI ĐÃ XẸP GIỜ LẠI PHỒNG
LÊN...”
Điều dễ nhận
thấy trước tiên ở đây là một mối liên hệ có tính phổ biến – trong ẩn dụ mối
liên hệ EM và ANH – kết nối lại với nhau mọi thứ sự kiện, tình trạng, sự vật
rất khác biệt, kết nối như trong một biến cố đoản mạch toàn hệ thống khiến
chúng buột ra hay vượt ra khỏi tính chất sự vật cụ thể, riêng có, những tính
chất như khi chúng được nói đến trong diễn ngôn của thơ với tư cách là-cái-ấy.
Sự biến đổi đó chỉ tồn tại trong các mối liên hệ đó, mà thoạt đọc lên người ta
có thể nghĩ là võ đoán hay ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề đối với một tập hợp như vậy
không ở chỗ các thành tố bên trong tập hợp là ngẫu nhiên hay không, mà ở chỗ
chúng có lập nên với nhau những liên hệ
gây biến đổi tới mức thành các bước chuyển hay không – các bước chuyển siêu
nghiệm hoá chính các mối quan hệ ấy, chính những sự vật ấy.
Và ở đây có lẽ là
một trong những lúc phù hợp để có thể nói đôi chút đến ý nghĩa của thơ ca.
Đoạn thơ tôi vừa
trích trên đây, một phần của một bài “thơ-văn xuôi” – như người ta vẫn gọi –
đem lại cảm thức về một không gian, một hành động tự do vô bờ bến. Điều ấy phải
chăng là không mới và không thể bảo là khó hiểu? Tuy nhiên, cảm thức tự do ấy
là về cái gì, từ đâu mà có?
Tôi đề cập điều này
trong khuôn khổ tập thơ này của Mai Văn Phấn đã gợi lên, từ cái đặc trưng của
thơ ấy hướng đến những xúc cảm siêu nghiệm hoá: ta sẽ không nhầm lẫn nó với xúc
cảm về cái siêu việt-thần bí; xúc cảm về trạng thái siêu nghiệm dĩ nhiên hướng
tới những liên hệ và trạng thái siêu nghiệm – những gì, hoặc có thể là những
phạm vi nối dài của cái thực tại thông thường này đây, mà kinh nghiệm không thể
đạt tới, không thể minh giải, thậm chí tựa hồ nằm bên ngoài ý thức (mà không
phải là cái vô thức đã biết!)
Dường như nó rất
gần với một hình dung về cái gọi là hư vô, và là một xúc cảm năng động về hư
vô, dẫu hư vô là cái mà ta không bao giờ chắc chắn được.
Xúc cảm về hư vô là
một cảm xúc căn bản của nhân sinh bởi hư vô là cửa ra duy nhất đã đánh dấu
trong chương trình con người ta vào thăm viếng cõi đời (qua cánh cửa ấy còn gì
nữa thì vẫn là những cuộc thảo luận bất tận.)
Khẳng định theo phong
cách triết học độc đáo nhất và nhiều ảnh hưởng phong phú nhất với thế kỷ vừa
qua thì kinh nghiệm về hư vô như vậy là một điều kiện thiết yếu cho sự sáng
tạo, bởi nó là một kinh nghiệm vô tiền khoáng hậu về tự do: nó là một kinh
nghiệm về sự thoát ra, vượt ra ngoài vương quốc của kinh nghiệm; một kinh
nghiệm về tình thế mà trong đó mọi kinh nghiệm có trước đều bất cập, mọi kinh
nghiệm có thể có đều bất cập, và không kinh nghiệm thông thường nào dung chứa
được nó nếu không trước hết tự giải thể tư cách kinh nghiệm của mình.
Một cách hình ảnh
và dễ tiếp cận hơn, tôi nghĩ, Mai Văn Phấn biểu đạt điều ấy trong bài thơ ƯỚC
PHỤC SINH:
“Biển nội giới rực lên
hát trong trơ trụi, thất lạc, bung rã
cây đông nhựa
thân xác không kháng thể
yên lặng chết
Tất cả không sợ chết
Phấn hoa rối tung trộn xác bướm ong
Tròng mắt nổ bên ngoài mắt kính
Lưỡi thiếu nữ ngủ trong hàm răng giả
Nụ hôn quay về truy nã khoảng không
Miệng khô đắng tiếng cười sặc nước
Khởi đầu xúc động
Khởi đầu quên”
...
Không cần phải nói đây là một tập hợp các cảm
giác. Điều đáng kể là những mối liên hệ giữa các hình ảnh thơ-tượng trưng: khởi
đầu với “Biển nội giới...”, chuỗi hình ảnh tiếp đó không ngừng vươn ra ngoại
giới, vươn tới nhau trên những khoảng cách không thể san lấp được... Và kết thúc
bài thơ bằng một cảm giác về một sự “cố tình đoạn tuyệt” nào đó, khiến ta có
thể thấy, xét cho cùng, cái “phục sinh” được ước ao đó hẳn phải tìm kiếm từ
“nội giới” của một tình trạng trống không.
Như vậy, cảm thức tự do trong thơ ca, do thơ
ca mang lại, không chỉ đơn thuần nhẹ nhõm thưởng thức cái thú rong ruổi tạo
tác, cho dù, cũng như văn chương và sách vở trên đời, thơ cũng có những phương
diện như thế, có thoả mãn giải trí thậm chí phóng dật theo kiểu thơ; nhưng vẫn
luôn tồn tại một dòng chảy hẹp của thơ ca hướng vào sự kiến tạo ý nghĩa thông
qua trải nghiệm thơ, trải nghiệm cái tự do siêu nghiệm thức tỉnh và thức nhận
sáng tạo. Và thơ Mai Văn Phấn hầu như nằm trọn trong nhánh này.
Thơ Mai Văn Phấn thuộc giai đoạn từ năm 2000
đến nay tiếp tục phát lộ năng lực cảm xúc mạnh mẽ và nhạy bén không suy giảm,
đường bay những bài thơ của anh không hạ độ cao, cho thấy chắc hẳn nó còn phải
vượt nhiều khoảng cách xa rộng nữa.
Một mặt, mạch khai
phá những xúc cảm siêu nghiệm như trong các bài thơ ngắn VẪN TRẤN TĨNH TIỄN
KHÁCH RA NGÕ, ANH TÔI, ĐÚNG VẬY, KHÔNG THỂ TIN, QUAY THEO MÁI NHÀ, Ở NHỮNG ĐỈNH
CỘT... chú mục vào phạm vi hành xử của con người cá nhân một cách rõ hơn hẳn và
vang lên giọng điệu buồn bã, khác với nhịp và giọng của những bài thơ tương tự
trước đây, chẳng hạn, một bài khá tương đồng: BIẾN TẤU CON QUẠ - bài thơ lạ lùng tươi mới và rất mạnh mẽ trong
những hình ảnh tượng trưng toát vẻ cay đắng của nó.
Có phải những nỗi
niềm nhân thế nhân tâm cũng có những chiều kích riêng siêu nghiệm, hay là nhà
thơ chuyển dịch câu chuyện về các nỗi niềm ấy sang dạng thức ảo hoá, nghịch dị?
Dù thế nào thì đó cũng là một đặc điểm ở văn chương hiện đại: mỉa mai, cợt
nhạo, nhại, lố bịch hoá, kỳ ảo hoá, khắc hoạ cay độc nghiệt ngã... để như một
phản ứng với đủ vẻ suy đồi trong xã hội.
Mặt khác, ta thấy
Mai Văn Phấn dường như đang hướng nhiều hơn sang tìm kiếm các liên hệ siêu
nghiệm hoá trong tình yêu và quan hệ với giới tự nhiên, cũng khác với giai đoạn
trước ở mức độ tinh tế , suy tư và đằm thắm hơn.
Tôi thấy một thí dụ
thú vị nói lên việc anh vẫn không nguôi nhiệt tình tìm kiếm và thử thách các
hình thức diễn đạt mới trong thơ. Đó là một đoạn trong bài thơ dài HÌNH ĐÁM CỎ
:
*
“mặt đất lồng lộng đỉnh đầu tâm xoáy
lưỡi gió miết thân lả tả càng bám
chặt càng lay giật mạnh khản đặc hú
gào hối thúc nghiêng ngả ngậm chặt lá
khô giãy giụa càng lảm nhảm bóng đè
thập thõm con đường mải hôn càng căng
mơn mởn dìu anh miệng vực lẩm bẩm
không thể rời nhau sợ sâu toát vã
mồ hôi lộn ngược dính chặt
đơm hoa kết nụ lá rủ vỗ về
che chở cành khô đung đưa trêu ngươi
sấm sét mắt nhìn đổ trận mưa rào
dìu em êm đềm thở dốc xuống bất
chợt rung vang nhau từng thanh chuông gió”
Đoạn thơ này viết theo lối thơ Tân Hình thức.
Và riêng tôi chưa từng đọc được bài thơ theo thể Tân Hình thức nào sinh động,
hợp lẽ, duyên dáng và tinh tế như đoạn thơ trên đây.
Có vẻ như chúng ta có một Mai Văn Phấn trữ
tình và trầm tĩnh hơn, hoặc có thể nói là hướng về phía minh triết nhiều hơn,
đặc biệt qua ba bài thơ dài NHỮNG BÔNG HOA MÙA THU, CỬA MẪU, HÌNH ĐÁM CỎ. Ba
bài thơ dường như đã chiếm phần lớn thời gian của anh mấy năm gần đây; và cũng
dường như biểu thị cái có vẻ là mối quan tâm mới của anh: bao trùm bằng thơ
những khoảng không-thời gian rất dài rộng, với rất nhiều tình tiết của cảm giác
về thực tại, cảm giác như là tổng hoà của tri giác trong ngẫm nghĩ, trong sự
toả rộng miên man những liên hệ tinh thần và thể xác với thiên nhiên.
Sự bao trùm ấy cũng mượn mối quan hệ căn bản
và phổ biến của cõi người: “anh” và “em”; sự bao trùm có thể tóm lược trong một
câu thơ của tác giả:
“Đã yêu. Hiến dâng. Đã sống”
(Nhịp VIII, HÌNH ĐÁM CỎ)
Điều có thể làm cho người ta sẽ không ngớt ngạc nhiên là thơ Mai
Văn Phấn lạ lùng kỳ dị đồng thời luôn toát lên niềm chân thành, cảm nhận được
những rung động chân thực, trong khi, như đã nói ở trên, anh hầu như không sử
dụng các từ ngữ tán thán, những tính từ hoa mỹ hay các diễn đạt bí ẩn mơ hồ.
Sức sinh động của những bài thơ này toát ra từ tính chất cụ thể của ngôn ngữ
tượng hình rất phong phú về liên tưởng; và từ những xúc cảm siêu nghiệm của anh
– yếu tố lạ lùng đặc trưng mà anh biểu hiện trong sự kết hợp rất tinh tế với
các hình ảnh, ấn tượng và cảm giác thông thường, phổ biến, truyền thống: một mỹ
học riêng của thơ Mai Văn Phấn vậy.
N.C.H
(Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành
công - Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/ 5/
2011, NXB Hội Nhà văn, 2011).