Nhà thơ Inrasara, người tái hiện giấc mơ Chăm (phê bình) - Mai Văn Phấn
Nhà thơ Inrasara, người tái hiện giấc mơ Chăm
Nhà thơ - Nhà Chăm học Inrasara
Mai Văn Phấn
Nhưng nhà văn phải nhìn thấy
mọi biến động của dân tộc mình
Inrasara
Lời dẫn
Inrasara trước khi là
nhà thơ đã là một nhà nghiên cứu và sưu tầm văn hóa Champa uy tín. Tên tuổi ông
không chỉ gắn với quá trình đổi mới, cách tân thơ Việt sau 1986, mà ông còn
được ghi danh là người có công lớn trong việc khôi phục và bảo tồn những giá
trị vật thể và phi vật thể của văn hóa Champa. Phải nói rằng dân tộc Chăm có
nền văn hóa rực rỡ và phong phú, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, từng ghi dấu
thời hoàng kim trong lịch sử và tồn tại như vỉa quặng quý hiếm ít được khai
thác, ngày càng bị chìm khuất. Nhà thơ Inrasara là người dấn thân quyết liệt để
phá hoang, khai khẩn chính miền đất ông đang sinh sống nhằm khôi phục những giá
trị quý báu của dân tộc Chăm. Ông là người đưa văn hóa Champa hòa nhập với đời
sống hiện đại, làm phong phú thêm nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong bài viết
này, tôi muốn tập trung vào mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng, cũng như sự tiếp
biến giữa các nguồn văn hóa và sự vận động của chủ thể sáng tạo thông qua những
tác phẩm thơ Inrasara. Sự kết hợp giữa thi pháp hiện đại với tinh hoa truyền thống
dân tộc sẽ tạo ra những giá trị mới, làm giàu có thêm kho tàng văn chương Việt
Nam.
Cội
nguồn văn hóa, nơi khởi phát sáng tạo
Nhà thơ
Inrasara, tên thật là Phú Trạm, sinh năm 1957 tại làng Chakleng (hay Mỹ
Nghiệp), thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận. Chakleng là một
trong những làng Chăm cổ nhất nước ta, làng duy nhất có tên trên bi kí cổ
Champa. Theo tác giả Nguyễn Khôi,
tên của nhà thơ Inrasara được ghép hai từ trong tiếng Chăm: Inra là sấm, Sara là muối. Cả hai từ đều gợi tưởng những không gian rộng lớn
cùng những chuyển dịch mạnh mẽ.
Inrasara
sinh trưởng trong gia đình theo truyền thống Mẫu hệ. Ở đó, người đàn ông lo sự
nghiệp, người phụ nữ lo việc gia đình và gia phả. Con trai sinh ra lấy họ cha
nhưng lúc chết lại được chôn trong nghĩa trang dòng họ mẹ. Từ nhỏ, cậu bé Sara
đã được ấp ủ, nuôi dưỡng trong không gian văn hóa Champa rất phong phú với
các sử thi, lễ hội, múa hát, ca nhạc, với những tòa tháp nguy nga chạm khắc rất
công phu của người Chăm. Có thể nói, văn hóa Champa đã ngấm vào máu
thịt, chi phối từng hơi thở của Sara để sau này
những hình ảnh và hồn cốt đặc trưng của dân tộc Chăm thường xuyên xuất hiện
trong các tác phẩm của nhà thơ Inrasara. Hãy lắng nghe nhà thơ tâm sự: “Có biết bao con sông Chăm nuôi nấng, vỗ về tâm
hồn tôi, có biết bao con sông, mương đầm khuất đi không còn lại dấu vết, nhưng
tên của chúng, sức sống của chúng vẫn vang vang ở bề đáy tâm thức tôi”.
Trước
khi nói về thơ Inrasara, tôi muốn điểm diện những công trình nghiên cứu văn hóa,
ngôn ngữ Champa để bạn đọc thấy rõ hơn diện mạo con người thơ của ông. Bởi
chính những công trình nghiên cứu có hệ thống và quy mô đó đã làm nên nền tảng
văn hóa, cội nguồn cảm xúc của nhà thơ. Ngoài lĩnh vực nghiên cứu văn hóa,
Inrasara còn viết nhiều tiểu luận, phê bình văn học, tiểu thuyết… mà tôi chưa
có điều kiện đi sâu khảo sát trong bài viết này.
Từ
khi Inrasara còn là học sinh trung học, ngoài giờ đến trường ông thường đi vào
các làng Chăm để tìm hiểu phong tục tập quán, ghi chép lại những câu dân ca cổ
mà người già Chăm truyền lại. Ông tự học tiếng Chăm cổ, nghe chuyện Chăm, tập
hợp và dịch sang tiếng phổ thông. Năm hai mươi lăm tuổi, Inrasara được mời tham
gia biên soạn sách chữ Chăm ở tỉnh Ninh Thuận. Năm 1975, ông khởi thảo cuốn “Từ điển Việt – Chăm”. Năm 1992, bộ sách
“Văn học Chăm” được ông hoàn thành.
Năm 1984, Inrasara biên soạn cuốn “Từ
vựng học tiếng Chăm”. Năm 1994, ông viết xong cuốn “Văn học Chăm I – Khái luận”. Năm 1995, cuốn “Văn học dân gian Chăm” của ông được xuất bản. Sau cuốn “Văn học Chăm II – Trường ca” (1995) của
mình, Inrasara công bố tập tiểu luận “Các
vấn đề Văn hóa xã hội Chăm” (1999). Năm 2003, ông cho in cuốn “Văn hóa xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại”…
Nhìn vào số lượng các đầu sách về Chăm, có thể nói, Inrasara là người đã dày công
khôi phục và đưa văn hóa Champa hội nhập vào đời sống hiện đại.
Trở
lại với thơ của Inrasara. Đến thời điểm tôi viết bài này, nhà thơ Inrasara đã
xuất bản các tập thơ: “Tháp nắng” (Nxb Thanh niên, 1996), “Sinh nhật cây xương rồng” (Nxb Văn hóa Dân tộc, 1997), “Hành hương em” (Nxb Trẻ, 1999), “Lễ tẩy trần tháng Tư” (Nxb Hội Nhà Văn, 2002), “Thơ Inrasara” (Nxb Kim Đồng, 2003), “Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ tân hình
thức” (Nxb Hội Nhà văn và Hội Nhà văn TP
HCM, 2006) và một số tập thơ công bố trên internet.
Nghiền
ngẫm các tác phẩm thơ của Inrasara, tôi nhận thấy bản chất thơ của ông là sự kết hợp giữa cội nguồn văn hóa
Champa và tâm thức hiện đại. “Thơ của
Inrasara biểu hiện cái nhìn đầy suy tư về con người Chăm, tâm
tính Chăm. Có một “vườn Chăm” trong thơ Inrasara)”. Ông đã khởi đầu con đường sáng tạo bằng việc kết hợp nhuần
nhuyễn và hài hòa giữa thơ tự do hiện
đại với những tinh hoa của văn học Chăm và Việt để làm nên một diện mạo thơ mới, mà điểm nhấn là cách tân
ngôn ngữ. Sự cách tân này thể hiện ngay từ tập thơ đầu tay “Tháp nắng”. Inrasara vận dụng khá đa
dạng những thủ pháp sáng tác của nhiều trào lưu, khuynh hướng thơ trên thế giới
từ đầu thế kỷ XX đến nay vào các tác phẩm của mình,. Nhưng ông không sa đà dừng
lại ở bất kỳ khuynh hướng nào. Ông nhập cuộc và sáng tạo trong ánh xạ văn hóa dân
tộc Chăm của ông. Một số ý kiến cho rằng, nhà thơ Inrasara là người đi giữa
đường biên của hai nền văn hóa Chăm và Việt. Về vấn đề này, theo quan điểm của
tôi, dấu ấn của ông để lại trong tác phẩm vẫn thiên về văn hóa Champa hơn.
Cội
nguồn văn hóa Champa hiện lên đậm nét ngay từ tập thơ “Tháp nắng”. Đó là những giọt sữa mẹ đầu tiên chạm vào đôi môi mềm mại
của cậu bé Sara thuở nào. Là cánh đồng Chăm, điệu múa, những lễ hội Chăm… Là
con sông Lu, thường hiện lên trong thơ Inrasara sau này, có nhịp vỗ nặng nề và
đượm buồn chảy qua quê hương của cậu bé ấy. Con sông mang những giấc mơ, hoài
bão của Sara đi rất xa.
“Mẹ
nuôi tôi bằng bầu sữa ca dao buồn
cha nuôi tôi bằng cánh tay săn
Glơng Anak
ông nuôi tôi bằng vầng trăng sương
mù truyền thuyết
plây nuôi tôi bằng bóng diều, hồn
dế, tiếng mõ trâu” (Đứa con của đất).
Tập
thơ “Tháp nắng” mở ra một không gian
Chăm giữa tầng tầng lớp lớp thời gian. Qua đây, người đọc được chứng kiến bóng
dáng một vương quốc Champa cổ xưa thấp thoáng trong bài thơ “Tháp hoang”, một di chỉ văn hóa Champa còn
tồn tại:
“Tháp
hoang
như quen thân – như xa lạ
hồn người xưa vỗ dòng máu ứ”.
Một quê
hương hiện hữu khốc liệt trong trường ca “Quê
hương”:
“Quê
hương cằn khô, nóng bức, nghèo nàn.
Quê hương buồn. Quê hương yêu
thương”.
Và một
tương lai Chăm trong giấc mơ của nhà thơ được phục hiện từ quá khứ huy
hoàng:
“Lại
xanh trong tôi – dù rừng đã cháy
lại chảy trong tôi – dù sông đã
chết
chợt hanh lại cát – chợt buồn lại
ru
chợt duyên lại em – chợt hoang lại
tháp” (Đứa con của đất).
Không
gian Chăm của Inrasara cho tôi liên tưởng tới giả thuyết “Lỗ sâu” trong vũ trụ. Giả thuyết này đang được các nhà khoa học
nghiên cứu và hé lộ phần nào thành công. Theo Eric
Davis, một nhà vật lý tại Viện Nghiên cứu Cao cấp Austin, Hoa Kỳ: "Lỗ sâu là một đường hầm siêu không gian,
giống một cái cổ chai, kết nối giữa hai địa điểm trong vũ trụ của chúng ta,
hoặc giữa hai vũ trụ song song – nếu đa vũ trụ có thật, hoặc giữa hai mốc thời
gian, cũng có thể là giữa các chiều không gian khác nhau".
Đó
là lỗ sâu trong vũ trụ. Còn “lỗ sâu” trong thế giới thơ của Inrasara hoàn toàn
không phải giả thuyết. Lỗ sâu ấy hiện hữu trong tâm trí bạn đọc khi chứng kiến
trên mảnh đất người Chăm đang sinh sống, quá khứ Chăm hiện lên sống động trong
từng câu thơ của Inrasara. Đó là tượng các vị thần Shiva, Skanda, Apsara,
Makara, Garuda… Những thần linh Champa ấy luôn phủ bóng xuống tâm hồn người
Chăm, nơi lao xao bầy dơi đen trong
quá khứ, cùng con mương xanh, mái tranh
ngầu, cánh diều, bụi ớt khan trong hiện tại.
“Rồi
tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên
rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá
khứ
như kẻ bị thương mò tìm lối ra
khỏi đống tan hoang thành phố
tôi tìm lại tôi
tìm thấy nắng quê hương” (Đứa
con của đất).
Thơ Inrasara kết tụ tinh hoa và tinh thần dân tộc Chăm.
Tinh thần ấy được hun đúc trong con người thơ Inrasara, khơi nguồn cho ông bắt
tay khôi phục miền ánh sáng văn hóa dân tộc Champa mà ông rất đỗi tự hào:
“Một
câu tục ngữ – một dòng ca dao
nửa bài đồng dao – một trang thơ
cổ
tôi tìm và nhặt
như đứa trẻ tìm nhặt viên sỏi nhỏ”
(Ngụ ngôn của đất).
Hai tập
thơ tiếp theo, “Sinh nhật cây xương rồng” và “Hành
hương em”, nhìn từ góc độ thi pháp, có thể gọi đó là “chiếu nghỉ” để nhà
thơ Inrasara bước tới giai đoạn tăng tốc ngoạn mục trong những tập thơ sau này.
Tôi gọi những tập thơ này là “chiếu nghỉ”, vì tinh thần khai phóng, kiến tạo
hình ảnh và ngôn ngữ của nhà thơ có phần thong thả hơn sau tập thơ đầu tay “Tháp nắng”. Trong hai tập này, có đôi bài có lối viết dễ
dãi, nhịp điệu cũ, thấy rõ ảnh hưởng của “cái bóng” thơ hiện thực và lãng mạn.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ tương tác và mối liên hệ giữa văn hóa và người viết,
hai tập thơ “Sinh nhật cây xương rồng”
và “Hành hương em” vẫn nằm trong mạch
khởi phát từ cội nguồn văn hóa Champa của Inrasara. Đó chính là hành trình tìm một ban mai khác cho dân
tộc Chăm của nhà thơ.
Trong “Sinh nhật cây xương rồng” và “Hành hương em”, không gian Chăm tiếp tục
được mở ra, nhưng hình bóng quá khứ thưa vắng hơn và cũng ít gây ám ảnh như
trong “Tháp
nắng”. Thay vào đó là hiện thực đời sống Chăm, văn hóa Champa đương đại được
nhà thơ bầy đặt chân thực và ngổn ngang hơn:
“Palei ta nghèo
Gió trưa tràn bãi trắng
Cha trần thân quần quật cuốc nắng
Rồi một ngày em không còn nhớ
Một dòng ariya, một điệu mamơng
Mùi mưa Katê reo đỉnh tháp Chàm
Văn thổ cẩm hay màu mây cố quận
Em bập bềnh giữa ngữ ngôn hoang đãng
Cuốn dòng chảy thị thành
Em quên mình là Chăm
Như quên mình chưa có giấy khai sinh” (Nỗi buồn ứng trước).
Từ ba tập thơ kể trên,
càng thấy quê hương Chăm luôn là lực hút mạnh mẽ gắn kết Inrasara với cội nguồn
dân tộc, nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ:
“Ginang, Baranưng
giục về
từng chuyến mưa nồng nã Katê” (Đêm
Chàm).
Và có
lúc, vẻ đẹp Chăm hiện ra thật rực rỡ, độc đáo và bung mở như trong điệu
múa Apsara:
“Những vòm ngực căng
phồng ban mai
Những vòm ngực nung trầm suy tưởng
Hôm qua và ngàn sau
Nhảy múa giữa hoàng hôn
Đường cong bay bay chiều vụn nát
Bóng đêm tràn dài thung lũng khát
Nhảy múa gọi bình minh
Baranưng miệt mài ngàn năm vỗ” (Apsara – Vũ nữ Chàm).
Hiện thực rực rỡ
ấy của văn hóa Champa được nhà thơ hình tượng hóa thành một ngôi nhà biết rùng mình trước thiêng liêng Mặt Đất.
“Chỉ còn âm vang trầm
sâu hơi thở
Động rung tiếng gọi từ xa xăm gọi vào xa xăm” (Truyền
thuyết về ngôi nhà).
Theo
sát diễn biến từng bài thơ trong các tập thơ của Inrasara sẽ thấy, thái độ phản tỉnh của nhà thơ bắt đầu xuất
hiện từ tập thơ “Sinh nhật cây xương rồng”, và, được thể hiện mạnh mẽ, sắc lạnh hơn trong những tập
thơ xuất bản gần đây:
“Chúng ta còn bần
cùng hơn người hành khất
Đang làm kẻ lang thang trước ngưỡng cuộc đời.” (Kẻ
canh đêm).
Và sự
phản tỉnh của ông có lúc được thể hiện trong trạng thái lặng buồn, xa
xót:
“Còn
lại với ta
Những xanh nõn giấc mơ chợt rụng
Những tiếng nói ngàn năm câm lặng
Những bài ca không hát bao giờ
Có lẽ sẽ còn lại với ta” (Có những nẻo đường bỏ quên).
Tuy
vậy, ý chí của ông vẫn vươn lên, thôi thúc và gửi niềm tin vào thế hệ tiếp
nối:
“Hãy sống như một bùng vỡ
Một bùng vỡ không cần đến tiếng động ồn ào” (Đoản thi thứ nhất dành cho con),
hay như khi nhắc tới
xương rồng, một loài cây gai góc nhưng có sức sống mãnh liệt trên quê hương ông,
ông đã ví nó như biểu trưng cho ý chí mạnh mẽ cùng khả năng tự vệ của con người
trước những gian nguy, cạm bẫy của đời sống:
“Khi hố thẳm tối đen
dưới chân toang hoác mở
Tôi gặp tôi đứng trần truồng trước định mệnh vô âm
Chợt thấy bóng xương rồng nở chật trái tim mù sương
Tôi vội vã quay về quỳ dưới chân đồi và khóc
Cây xương rồng nhìn tôi với đôi mắt lửa và vỗ về
tôi bằng bàn tay gai nhọn hoắt
Thì thầm bên tai tôi sinh nhật của mình” (Sinh
nhật cây xương rồng).
Có thể nói, ba tập thơ “Tháp nắng”, “Sinh nhật cây xương rồng” và “Hành
hương em” đã đánh dấu chặng đầu cuộc lữ hành của một tác giả quan
trọng thuộc thế hệ Đổi mới sau 1986 ở Việt Nam. Trong hình dung của tôi,
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều với giai đoạn
khởi phát trong tập thơ “Sự mất ngủ của
lửa” như người phục dựng ngôi đền thiêng ở châu thổ sông Hồng. Còn Inrasara
là người tìm về và trùng tu những thánh địa của dân tộc Chăm ở khu vực duyên
hải Nam Trung Bộ.
Trong giai đoạn khởi đầu
này, Inrasara hay nhắc tới cái khác: một
ban mai khác, một vòm trời khác...
Đó chính là cách ông dồn nén nội lực, mở tầm nhìn xa cho những chặng đường dài
hơi sau này. Khổ thơ sau đây rút từ bài thơ “Tụng ca của nước” trong tập “Hành hương em”, được Inrasara
dùng làm đề từ cho “Lễ tẩy trần tháng Tư”,
một trường ca xuất sắc của ông:
“Làm sao em song hành cùng tôi về đứng bờ sông đêm nay?
trong đau hoan lạc
hát vang bài tụng ca của nước
chảy đi
chảy đi
chảy trôi đi
chảy trôi tất cả đi…
giở một vòm trời khác”.
Tập thơ và trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” đã quy tụ những ý
tưởng lớn cùng cảm xúc mạnh mẽ, tạo ra nhiều ma lực cuốn hút người đọc. Đây
cũng là tập thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Inrasara. Trong “Lễ tẩy trần tháng Tư”, theo tôi, có phảng phất một số khuynh hướng hiện đại và hậu hiện
đại.
Nói thêm
một chút về Lễ tẩy trần hay còn gọi lễ Rija Nưgar của người Chăm. Lễ này thường được tổ chức vào đầu năm
lịch Chăm, trùng với tháng Tư dương lịch. Lễ Rija Nưgar mang ý nghĩa thanh tẩy cho cả làng và cho cả cộng đồng
Chăm. Lễ được tổ chức nhằm rửa sạch cái cũ, đón
những điều mới mẻ, tống tiễn cái xui, cái xấu ra khỏi ngôi làng Chăm. Trong
nghi lễ này, mọi người đều tràn đầy tinh thần hân hoan cầu xin Thần [Yang] ban phước lành và xóa bỏ mọi
tội lỗi.
Đọc tập thơ và trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư”, tôi thấy nhà
thơ Inrasara tái hiện cả mảnh đất Chăm của
ông trước mắt. Tất cả như hiện diện trên một sân khấu quay vòng. Trên đó, mỗi
bài thơ của ông là một khung cảnh, sự kiện, nhân vật… Chính giữa sân khấu của “Lễ tẩy trần tháng Tư” là ngọn tháp Chàm, được tác giả “chiếu sáng” từ nhiều
góc, tạo nên một phối cảnh đồng hiện, huyền hoặc.
“Bóng của tháp như dòng sông ma
trườn qua đêm tối những triều đại
đánh thức ký ức các dân tộc
duyên nợ (hay cả không nợ nần gì) với tháp” (Tháp Chàm muôn mặt).
Nhân vật em xuất hiện trong một
phân cảnh của sân khấu cùng những tiếng va đập của đời sống công nghiệp:
“Em giặt giũ trong căn gác lạ
em thợ phụ trong xưởng may lạ
em hoảng hốt trong con hẻm lạ
Mang linh hồn ruộng đồng
em rụng vào đêm lạ” (Tam tấu
trước ngưỡng thế kỷ XXI).
Ở hậu cảnh, hình ảnh cô
gái Chăm xuất hiện nhanh trong ánh sáng đặc tả,
“cô gái đội nước
xuống đồi, dừng lại, nấn ná hồi
lâu rồi chậm rãi bước về
làng
bây giờ làm
gì, ở đâu – ai biết?” (Những ngày rỗng – Ngày 5: Ngày đẹp nhất).
Rồi trí tưởng tượng của
tôi được rộng mở với những hoạt cảnh tiếp theo của sân khấu đó. Trong
khung cảnh tranh sáng tranh tối, những cái bóng đang chuyển động hoặc thoáng
hiện. Giọng độc thoại trầm khàn của nhà thơ từ đâu đó cất lên và đồng vọng trong ánh sáng mờ ảo:
“hãy tha thứ cho chúng tôi đứa con quái thai của mảnh vụn
văn minh tái chế” (Bất ngờ nhiều cái nghĩ tối nay).
“Không ai có thể hát thay chúng ta” là tiêu đề một bài thơ, cũng là
tuyên ngôn tinh thần thi ca của thi sĩ Inrasara
trong tập thơ này. Tinh thần ấy xuyên suốt quá trình sáng tạo của ông. Có những
câu thơ mạnh mẽ và dứt khoát:
“Không ai có thể hát thay chúng ta
nơi đây và lúc này
cả hôm sau, có lẽ”.
Và cũng tinh thần ấy
được tiếp nối trong bài thơ “Bất ngờ
nhiều cái nghĩ tối nay”:
“Buổi sáng – rất sảng
khoái, tôi ra sông Lu
gánh theo đầu kia 41 inư akhar Cham K C T, đầu này
nhúm chữ cái Latinh A B C
nhận đầu chúng xuống nước bắt tắm gội từng đứa một
và tôi vui vẻ tắm với chúng”.
Quả thực, nhà thơ Inrasara đã đánh thức những linh hồn Chăm
còn ngủ yên, hay vẫn phiêu dạt trong quá khứ hãy tìm về cội nguồn Chăm, không
gian Chăm để cùng ông phục dựng, làm hồi sinh một nền văn minh từng bị lãng
quên và lu mờ:
“Ôi! Linh hồn tháng Mười
mà giấc mơ được tạc từ bóng hoa dại
đã rụng lâu rồi ở đồi tuổi thơ
đêm nay chợt sáng lên run rẩy” (Những linh hồn
tháng mười)
“Trong kiêu hãnh đắng cay
khi ốc đảo biết gọi mời ốc đảo
ngón tay đan ngón tay khai sinh hơi ấm không hề gầy
rắn rỏi hơn đức tin vào Chúa
Con sông, cánh rừng ngày xưa chết yểu
tên chợt bật trên môi chúng ta
em tin chúng có thể nâng linh hồn từng tủi thân được/
mất
gượng dậy tìm về?
Khi niềm vui tan trong nỗi đau vỡ hoang ánh nắng
tôi mang hạt giống thu hoạch phương xa gieo cánh đồng
làng
em nhân giống dân ca vào giai điệu mới
bờ cỏ vang vang ngôn ngữ được mùa” (Hạt mùa mới).
Đến lúc này, tôi thấy
cậu bé hôm nào giờ lớn khôn và trở thành người con của ánh sáng. Người con ấy
được kết tinh từ những mảnh vụn văn minh
tái chế. Hình ảnh này bao hàm tư tưởng hậu hiện đại được nhà thơ nhắc lại
trong trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư”.
Trong bài thơ “Ẩn ngữ Pauh
Catwai”, người con ấy lớn dậy
mang một tinh thần mới, vui tươi và lạc quan hơn:
“Hãy nâng cốc mừng
chúng ta, đứa con của ánh sáng và bóng tối đồng loã
đứa con lớn dậy từ mảnh vụn văn minh tái chế
đứa con của hoàng hôn và của ban mai”.
“Lễ
tẩy trần tháng Tư” gồm 18 bài thơ và một trường ca cùng tên tập thơ. Tập
thơ được Inrasara bố cục hợp lý
và chặt chẽ từ lời đề từ đến thứ tự từng bài
thơ. Sự sắp xếp ấy cho tôi liên tưởng tới bố cục một vở kịch hiện đại hoàn hảo.
Những bài thơ lẻ tựa mười tám phân cảnh ngắn trong vở diễn để tạo cao trào
trong trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” mà tôi sẽ đi
sâu hơn dưới đây.
Trường ca, những đỉnh cao của thơ Inrasara
Nhà thơ Inrasara viết
nhiều trường ca với những phong cách và ngôn ngữ khác nhau, nhưng tinh thần chủ
đạo trong đó vẫn là tìm về cội nguồn và trùng tu những thánh địa của dân tộc
Chăm. Tôi thấy Inrasara có ba trường ca quan trọng làm cột trụ cho ba giai đoạn sáng tác: trường ca “Quê hương” (1996), trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” (2002), trường ca
“Sầu ca trên đồi cát Nam Kương” (viết
xong 6/2009, sửa chữa 2016). Ngoài ra, có một số liên khúc, bài thơ dài có hình
thức và bố cục gần với trường ca, tôi gọi là “tiểu
trường ca”, như “Những ngày rỗng” (2002); “Chuyện
người đời thường” và “Chuyện 40 năm mới kể” (2006)… Các trường ca được nhà thơ xếp chung tập với
những bài thơ lẻ theo một ý đồ riêng: chúng thường được dùng làm cao trào, “nút
thắt” cho toàn bộ cuốn sách.
Những nút thắt, cao trào
dưới hình thức trường ca của Inrasara cũng chính là chỗ thể hiện tài năng, nội
lực của nhà thơ nhiều nhất, chúng quy tụ kiến thức về văn hóa, lịch sử cùng
những thủ pháp nghệ thuật hiện đại được Inrasara sử dụng để tạo không gian, tình
huống, phối cảnh... Với trường ca, ông làm sống dậy trước mắt người đọc một
không gian Chăm với mọi chiều kích của tưởng tượng và cảm xúc.
“Quê hương”
(1996) là trường ca đầu tiên của Inrasara,
được xếp trong tập thơ “Tháp nắng”. Đây là trường ca viết theo lối
truyền thống, các sự kiện và nhân vật theo tuyến tính lần lượt xuất hiện theo
dòng chảy thời gian. Trong trường ca này, em là nhân vật chính xuất hiện
trong suốt chiều dài “Quê hương” trong
hành trình quen thuộc: sinh trưởng – ra đi – nhận biết – trưởng thành – trở về –
phục dựng quê hương. Hình ảnh một quê hương nghèo đói, tối tăm hiện lên ngay từ
những khổ thơ đầu:
“Quê hương để lại cho
em con đường bóng tối
Gia tài còn hai bàn chân, trái tim nóng hổi.”
Tiếp đến là những ngày
tháng ly hương:
“Đêm xa quê hương đầu
tiên đêm lạnh trắng phận người
Hơn cả đêm xa xưa em rời lòng mẹ
Đêm xám hoang tương lai, đục mờ quá khứ.”
Và cuộc trở về của em đánh thức làng Chăm đang ngủ vùi
trong tăm tối, đói nghèo, giải phóng những tâm hồn và tinh thần Chăm vẫn đang
bị giam giữ trong những lồng ngực, khối óc tự ti, yếm thế.
“Về Mỹ Sơn
Thánh địa của thời liệt oanh
Thần kiêu sa thần và tháp oai phong tháp
Người vắt kiệt đất cho đất cô thành tháp
Cho đất sinh bức tượng, phù điêu
…
Trong điệu vũ khơi vơi
Apsara phô phang đường cong diễm ảo
Những đường cong chạm vào vĩnh cửu
Vĩnh cửu xoay trong lốc vô thường...”
Những địa điểm văn hóa Chăm
lần lượt được nhà thơ xướng tên trong trường ca “Quê hương” như Đồ Bàn, kinh đô Nha trang, Phan Rang, tháp Cánh
Tiên, tháp Chùa… Trường ca này là khởi đầu cho “Hành trình đi tìm quê hương” tiếp theo của Inrasara.
Trong các trường
ca của Inrasara, theo tôi, “Lễ tẩy trần
tháng Tư” là đỉnh cao thành công cả về nội dung và thủ pháp nghệ thuật. “Lễ tẩy trần tháng Tư” được xếp trong tập
thơ cùng tên, vang lên bi hùng trong thế giới thơ độc đáo của ông. Ngôn ngữ thơ
của trường ca này tựa ánh sáng đặc tả sân khấu, như tôi đã nói ở phần trên.
Ngôn ngữ ấy đưa những hình bóng của nền văn minh Champa trong quá khứ đồng hiện
với sự ngổn ngang, đứt nối của những mảnh
vụn văn minh tái chế thời hiện tại. Quá khứ ấy sâu hút như chiếc bình tối
khổng lồ đang vọng ra những sầu ca và hoan ca. Cả tiếng độc thoại trong
nỗi buồn cố quận. Tôi bắt gặp những hình ảnh trong trường ca mang vẻ đẹp đặc
trưng văn hóa Chăm, như Pauh Catwai,
Glơng Anak – những thi phẩm cổ điển dân tộc Chăm, hay vũ sư Ka-ing, trống baranưng, khăn mưtham,
cửa kajang, Ông đỏ, nhịp Cei Dalim, Cei Tathun, điệu vũ Cei Dalim và Cei Tathun, v.v...
Tất cả vẻ đẹp ấy hiện hữu như những sinh thể vật thể dịch chuyển dọc theo đường biên bóng tối trong “Lễ tẩy trần tháng Tư” của nhà thơ
Inrasara.
“Họ đi – không tiếng
động
dừng lại hành lễ không tiếng động, đọc kinh không
tiếng động
nến cháy cũng gắng không gây tiếng động
Khi tất cả đã tắt, họ đi
từ làng xa xôi đi về làng xa xôi
họ thấy nhà được dựng lên giống nhà họ – không là
của họ
tiếng hát giống họ – không phải của họ
ký ức lịch sử đã hết hạn lưu trữ – họ đi
rất chậm về bờ bên kia, cố ngoảnh lại vài dấu vết
kẻ phải chịu mang sử mệnh không cần thiết
như là kẻ cuối cùng” (Lễ tẩy trần tháng
Tư – 1. Hành Hương Về Bên Kia Đêm Tối).
Nhà thơ xuất hiện trong hình
ảnh của nhân vật anh giữa nghi lễ
linh thiêng này.
“Anh
Vịn vào lặng câm
Đứng”.
Nhân vật anh đã đi qua những nứt vỡ, xung đột
trong qúa khứ để đến với thực tại và tương lai qua nghi lễ cứu rỗi:
“Đã lở và đang vá lại
Đã tàn rữa và đang được vun quén
Đã đào bới và đang nhào nặn
Đang giấc mơ nhỏ giọt
…
Lửa vỡ vào thành đêm
Vạc 300 tuổi thọ thình lình kêu xé không gian
Khóc vừa hạ sinh một giọng nói.
Niềm vui bất ngờ vang lên trong lễ hội
Cái cuối cùng có thể cứu vớt chúng ta:
TIẾNG
HÁT”. (Lễ
tẩy trần tháng Tư – Trong
khoảng tối gió mùa).
Cuộc đối thoại giữa nhà
thơ và những ngọn tháp hoang cất lên mối sầu thiên cổ:
“Như ngươi
xa lạ với phố chợ mọc tràn
ta xa lạ lối mòn lang thang chiều rỗng
ngươi xa lạ tiếng dùi đục vào thân thể, khoét tủy
xương, lớp vữa bôi trát lên da
ta xa lạ tiếng nói ta qua máy phát thanh, chữ
viết ta trên trang sách
…
Ngươi đứng trên đồi trọc kia cô độc ngàn đời
như ngươi
giữa sa mạc người trần gian ta khát
buồn ta chiều nay lớn dậy và vỡ òa tiếng hát
sầu ca vọng vào nẻo đường bỏ quên.” (Lễ tẩy trần tháng
Tư – Sầu ca trên đỉnh Tháp).
Linh hồn Chăm tựa dòng
máu nuôi dưỡng thi sĩ, như con sông Lu đêm ngày mang
nguồn phù sa nuôi dưỡng cây cối, tưới mát đất đai những cánh đồng Chăm đang bạc
màu, khô hạn.
“con là Chăm ngay ban
đầu vỡ ra tiếng khóc
(còn hơn thế: chín tháng mười ngày trước khi vỡ
tiếng khóc)
khi con cắm rễ nơi đây
hay khi con lang bạt tận cùng trời
con cứ là Chăm cả lúc cháy lên cùng ngọn lửa cuối
đời.” (Lễ
tẩy trần tháng Tư – Ẩn ngữ Pauh
Catwai).
“Lễ tẩy trần
tháng Tư” gợi tôi nhớ tới "Trường ca Đam San" – Bộ sử thi
dài 2077 câu của dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên, và trường ca “Xa Nhà Ca” (sử
thi P’huỳ Ca Na Ca) của dân tộc Hà Nhì ở tỉnh Lai Châu. Những trường ca ấy làm
nên hồn cốt, bản sắc từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trường
ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” của Inrasara là ngọn lửa dân
tộc Chăm được hun đúc để bảo tồn, khôi phục những tinh hoa của văn minh Chăm
đang bị thất lạc, lu mờ.
“Sớm hơn. Nắng đã khởi
động
nắng cưỡi lên chiếc roi mây vũ sư Ka-ing
đánh thức trống baranưng còn nằm phủ bụi trên sà
nhà
lay dậy tiếng gáy cặp gà trống đêm cuối cùng chờ
hiến tế
…
Lửa đã đỏ
đỏ hoa lựu mua ngoài chợ hôm qua đỏ hoa phượng vừa
hái đỏ nắng hạ
đỏ màu áo Ông đỏ
lửa đã đỏ vào ngõ ngách mọi tâm hồn chờ đợi
nến được đốt lên nhiều ngọn nến cháy lên giữa trưa
ngày
trước cửa kajang kia – lửa đã đỏ.” (Lễ tẩy trần tháng
Tư).
Trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” kết thúc trong âm
hưởng vang vọng, hân hoan đầy linh thiêng, giống như giọng đọc thần chú của
thầy tế vang lên giữa bầu trời tĩnh mịch u tối. Tâm hồn mỗi con người
trong nghi lễ được tẩy rửa, thanh thoát. Họ cầu nguyện cho đời sống hạnh phúc,
ấm no, để mọi đau khổ, ưu phiền được cuốn đi bởi dòng nước thánh tẩy
linh thiêng.
“Sau Lễ Tẩy trần tháng
Tư năm nay
cả con sẻ nhỏ yếu, cái kiến mọn hèn nhất
cũng có đất để sống, để chơi”. (Lễ tẩy trần tháng
Tư – Ẩn ngữ Pauh Catwai).
Có thể nói, trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư” của Inrasara cũng
là một nghi lễ thanh tẩy tâm hồn như chính bản
thân nghi lễ này vậy.
Trường
ca “Sầu ca trên đồi cát Nam Kương”
được Inrasara hoàn thành năm 2016, là cuộc chuyển dịch tiếp tục của “Lễ Tẩy trần tháng Tư”. Trường ca này có
âm điệu trầm hùng, khoẻ khoắn. Trong đó, tác giả lựa chọn đồi cát Nam Kương
hoang sơ và tuyệt đẹp, một địa danh trên quê hương ông làm “đất diễn”. Đồi cát
Nam Kương cách thành phố Phan Rang khoảng tám cây số về phía Đông Nam,
thuộc làng Tuấn Tú xã An Hải, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận. Một trong những
điều lý thú của đồi cát Nam Kương là, những đường cong của triền cát vàng
thường uyển chuyển thay đổi sau từng đợt gió táp mạnh. Sự kỳ diệu của thiên
nhiên nơi đây góp phần quan trọng vào trường ca này của nhà thơ Inrasara.
Qua
trường ca “Sầu ca trên đồi cát
Nam Kương”, tôi nhận thấy bút lực của nhà thơ Inrasara vẫn
đang căng tràn và dồi dào dù ông đã đi được hành trình khá dài và lẫm liệt. Cấu
trúc trường ca gồm mười đoạn thơ, được chia làm ba phần chính gọi là ba khúc “Sầu
ca”. Nếu “Lễ Tẩy trần tháng Tư” là một vở kịch với nhiều lớp diễn và
cách tạo ra những đỉnh điểm để dồn nén thành cao trào, thì “Sầu ca trên đồi
cát Nam Kương” lại là một bản giao hưởng hiện đại, có sự xáo
trộn các sự kiện và dòng chảy thời gian. Mọi sinh vật, sinh linh trong đó khi hiện
diện và chuyển động đều vang lên âm thanh của bản hợp tấu, cho người đọc hình
dung bức tranh toàn cảnh không gian Chăm hiện đại. Ở đây, tôi nghe thấy những
vọng âm từ bản hợp tấu của lửa và nước, bóng tối và ánh sáng, quá khứ và tương
lai... vang lên bất tận từ đồi cát Nam Kương của Inrasara.
“Đêm
của đêm Ánh sáng của ánh sáng Động từ và danh từ Cấp số cộng tất cả tính từ của
ngôn ngữ nhân loại Cấp số nhân tất cả thán từ trên thế giới Đã chết hay đang
sinh nở Thi ca của thi ca Cũ và mới Biệt li và sum họp Hi vọng và tuyệt vọng
Chiến tranh và hòa bình Gió của gió Tự do của tự do Hữu hạn trong vô hạn”. (Tiếng
trống Ginơng).
Lối
viết “biền ngẫu” này trước
đây ít xuất hiện
trong thơ Inrasara, giờ được nhà thơ sử dụng trong trường ca này để diễn tả cuộc
vật lộn, chuyển dời của gió và cát, hai hình ảnh chủ đạo trên đồi cát
Nam Kương.
Trường
ca “Sầu ca trên đồi cát Nam Kương”
không có nhân vật chính. Mỗi hình ảnh trong đó khi xuất hiện, dù thoáng qua hay
độc diễn, đều là hiện thân của tất cả những hình ảnh ẩn chìm trong không gian
Chăm ảo huyền. Khác với một số trường ca được nhà thơ viết trước đây, “Sầu ca trên đồi cát Nam Kương” xuất
hiện một số thủ pháp của lối viết hậu hiện đại. Inrasara đã sử dụng
thủ pháp dung hợp trong một số đoạn thơ: các vị thần được xếp lẫn với các vĩ
nhân, nhà văn, triết gia, tạo nên một khung cảnh bị xáo trộn đầy nghi hoặc và
thú vị: Shiva Uma Krishna Brahma Vivekananda Vishnou Krishnamurti Po
Klaung Giray Dostoievski Po Rome Po Tang Ahauk Ramakrishna Heidegger Ong Phauk
Nai Tangya Bia Atapah Faulkner... Có đoạn, nhà thơ cho quân Khmer áo đỏ, toán lính
Đại Hàn ẩn hiện trong khung cảnh thánh địa Mỹ Sơn, tháp Yang Pakran Yang
Praung phực cháy, tháp Dương Long
Tháp Cánh Tiên... tạo nên sự phi lý của chuyển động hữu lý trong tâm thức người
đọc.
Một
số cuộc đối thoại giữa nhân vật tôi
trong khung cảnh thànhphốsậmmàu (tác
giả chủ ý viết liền các chữ) với các nhân vật và sự kiện như ngài Thủ tướng, thầy Kalơng, Vũ nữ Apsara,
Nietzsche, Heidegger, cụ Dos, Amor Fati, thầy Kalơng Ong Phok, thùng
Heineken, sông Lu, mặt trời, gánh hoa bà bán hoa, mùa Kate...
Những cuộc đối thoại này mang lại cho tôi cảm giác như nhìn vào một chiếc cột
gỗ vừa thoát khỏi cơn hỏa hoạn. Chiếc cột ấy đã cháy hết lớp vỏ bên ngoài, và,
đang trơ ra cái lõi không thể cháy thêm được nữa. Hình ảnh thànhphốsậmmàu, được tái hiện hai lần trong trường ca, lần thứ
nhất Tôi rơi lạc vào thànhphốsậmmàu, và lần thứ hai
“Tôi
là dấu hỏi đen bị ném vào góc tối đồi Nam Kương bị đời lãng quên từ những thế
kỉ cũ
Tôi
bị quẳng rơi ra ngoài thànhphốsậmmàu” (Tiếng
trống Ginơng).
Ở
đây, nhân vật tôi xuất hiện ngay từ
khổ thơ đầu của trường ca với diện mạo và tâm trạng đầy thách thức:
“Không
còn cơ hội nào cho mi khóc nữa
không còn con
đường
trước mặt sau lưng
trên
đầu
dưới chân
Làm loài dê
rừng dính lưới
mặc cho máu Alahán trong mi réo gọi
từ trùng trùng thời gian thẳm sâu
trên bề mặt lộ thiên văn minh Champa
trước nữa dưới vỉa Sa
Huỳnh Đông Sơn trầm tích”. (Sầu ca thứ nhất).
Tuy vậy, nhân vật tôi chỉ xuất hiện thoáng chốc rồi nhanh
chóng chìm vào bóng tối, nhường chỗ cho đoàn người rời bỏ thành phố đi về phía
đồi cát, về phía quê hương Chăm của ông:
“bước chân họ chậm thật
chậm
họ thay nhau
kêu Q U Ê H Ư Ơ N G
dường có tiếng đáp vọng lại
xa
rất
xa
Q U Ê H Ư Ơ N G
họ kêu lên lượt nữa
và họ tiếp tục đi
…
Và họ tiếp tục bước đi
về hướng ngược chiều nhau
qua những đụn cát đã sẫm đám bụi cây đã sẫm
bóng tối tràn lên người
họ
phủ xuống bóng họ
– anh yêu đâu rồi?
– em yêu đang ở đâu?
họ chợt biết đã lâu rồi không còn ai ở đó”. (Sầu ca thứ nhất).
Hình
ảnh đồi cát Nam Kương hiện lên trong trường ca uy nghi và lộng lẫy như
ngọn núi thiêng. Hình ảnh này tượng trưng cho ý chí, tinh thần dân tộc Chăm
luôn được hun đúc, lưu giữ từ đời này sang đời khác. Bước chân của đoàn
người hướng về ngọn đồi thiêng đó chính là biểu tượng của tinh thần Chăm trong
đời sống hiện đại, là cuộc trở về của những linh hồn Chăm. Họ quyết tâm tìm lại
những giá trị quý báu vẫn còn lưu lạc trong quá khứ:
“đánh
thức mặt đất và bầu trời
thiên đường và
địa ngục
thức dậy thiên
thần con
người quỷ dữ” (Tiếng
trống Ginơng).
Cuối
bản trường ca xuất hiện người đàn ông,
một nhân vật không tên và ngẫu nhiên như mọi nhân vật xuất hiện trước đó. Nhưng
người đàn ông đó trở thành nhân vật chủ đạo trong đoạn kết này:
“sau
giấc mộng mị dài, người đàn ông đứng dậy và bước đi
thế giới không
tiếng động. tiếng quê hương mơ hồ xa, rất xa. người đàn ông bước đi tìm dấu
chân mình lần tìm dấu chân người yêu
đi. mải miết
tối mênh mông
…
người
đàn ông đứng bên mé đồi. cát động đậy dưới chân. cát mở. thành phố mở ra
chậm rãi. người đàn ông loa tay cất tiếng hỏi tràn
– có ai thấy
người yêu tôi không? ai nhìn thấy dấu chân người yêu tôi không?
cát động đậy và
cựa quậy. như muốn đổ. người đàn ông nhảy lùi hai bước. tiếng khàn khàn sau
lưng
– ta là nấm mồ
bị thương. nhà ngươi đang đạp lên vành tai đau của ta. nấm mồ đựng chứa và hiểu
tất cả nhưng không nói. hãy đi đi”. (Tiếng trống Ginơng)
Tại
đây, tác giả đã cho đôi mắt người đàn ông mở lớn để chứng kiến những chuyển đổi
và nhìn rõ con đường mình đi tới.
“người
đàn ông nhìn thấy dấu chân người yêu xuống đồi
dấu chân đi về
hướng phố
người đàn ông
nhìn thấy bàn tay vẫy
nhìn thấy môi
cười màu mắt nhìn thấy
sợi tóc nhưng
không”. (Sầu ca thứ hai).
Đoạn
kết trường ca có một chi tiết lạ và thú vị. Trên đỉnh đồi cát Nam Kương, nhân
vật cô gái đã đối thoại với người đàn ông đứng lặng câm với đóa hồng,
và được biết ông I N R A S A R A (tác giả viết
chữ in hoa) đã mất năm 1357 sau công nguyên, và được hỏa thiêu tại nhà tang lễ
thành phố Nam Kương. Những câu thơ này cho người đọc liên tưởng tới tiền kiếp
của nhà thơ, và cuộc bể dâu trên đồi cát Nam Kương nơi đã từng tồn tại một thành phố có cả nhà tang lễ…
Và,
dưới đây là đoạn thơ ấn tượng và đầy ám ảnh của trường ca này. Nhà thơ cho
người đọc nhìn thấy những linh hồn Chăm đang phục sinh, làm chủ đất đai, tái
hiện không gian văn hóa từng bị lu mờ, che khuất:
“Trên
đỉnh đồi cao hơn đỉnh đồi cao nhất của trùng trùng
đồi cát
người đàn ông
đứng bất động với
đóa hồng
bóng ông đổ
xuống to hơn bóng ngọn đồi to nhất
đóa hồng trên
tay ông sáng hơn ánh sáng mặt trời sắp
đỉnh ngọ
ông nhìn thấy
bóng người yêu đang đi về phía
đỉnh đồi
chậm
chậm lại
rõ và gần
gần hơn”.
Tôi đồ rằng đó cũng chính là hiện thân của nhà thơ Inrasara trong cộng đồng người Chăm
đương thời.
Qua
ba trường ca chủ đạo và những tác phẩm khác, nhà
thơ Inrasara hiển thị đầy đủ và sinh động chân dung người khôi phục ánh
sáng Chăm trong đời sống hiện đại. Ánh sáng ấy ngày càng rõ nét từng diện mạo
tinh thần vùng đất Chăm, một quốc gia cổ từng tồn tại độc lập từ năm 192 đến
năm 1832.
“Nhập cuộc về hướng mở”
Các tác phẩm của Inrasara đã làm sống dậy vẻ đẹp Chăm,
cũng như hé lộ những giá trị quý báu của văn hóa Chăm trong đời sống hiện đại.
Ba tập thơ “Tháp nắng”, “Sinh nhật cây
xương rồng” và “Hành hương em”
chính là giai đoạn khởi động cho những chuyến lữ hành sau này. Chuyến lữ hành
đầu tiên của Inrasara, theo tôi, được bắt
đầu từ “Lễ tẩy trần tháng Tư”, tiếp
đến là những tác phẩm xuất bản sau đó. Con đường sáng tạo của Inrasara là quá trình “Nhập
cuộc về hướng mở”,
như tên một cuốn sách tiểu
luận – phê bình của ông.
Trong hướng mở
của Inrasara, tôi
muốn nhắc tới hai tập thơ có cách viết khá lạ lẫm: “Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ tân
hình thức” (2006) và “Ở nơi ấy [thơ
thời cuộc]” (2012). Tuy vận dụng thủ pháp
của thơ tân hình thức và
hậu hiện đại, nhưng thơ Inrasara vẫn luôn tràn đầy tinh thần dân tộc Chăm.
Tập
thơ “Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ
tân hình thức” gồm 47 bài thơ tân hình thức của Inrasara. Tập thơ được chia
làm ba phần với các đề mục: “Chuyện người
đời thường”, “Chuyện 40 năm mới kể”,
“Tặng phẩm của dòng sông”.
Nhà
thơ Inrasara đã kể cho người đọc nhiều câu chuyện sinh động về con người, xứ sở
quê hương ông. Những tên bài thơ trong tập, khi đọc lên đều gây ấn tượng tức
thời về những câu chuyện đời thường, riêng tư trong đó: Anh Đạm – Hàm Bộ, giấc mơ
triển hạn – Trà Ma Hani, Một ngày
trong đời Trần Wũ Khang, Diệp Mi Lan
hay Đoản thi lãng mạn mới, Chuyện tôi,
Chuyện Ông Klơng Man, Chuyện anh T’Maung…
Rồi, những chuyện 40 năm sau mới kể, như Chạy
dịch, Ăn chữ, Chờ tàu, Trâu khóc, Ông Phok, Mộng độc, Sách hoang, Cây kuao,
Glơng Anak…
Inrasara
vận dụng khá linh hoạt và thông minh lối viết của thơ Tân hình thức để truyền
tải ý tưởng của mình. Ông viết về những câu chuyện dung dị mà cách nói không
buông tuồng, tầm thường. Lối viết lặp lại cũng được ông hay dùng với mục đích
miêu tả từng bước chân của con người các thế hệ Chăm chồng lên nhau trên mặt
cát:
“như
thể cơn gió lạ sắp quét qua đồi trọc
như thể điếu
văn thương tiếc nhưng không” (Cuộc sống nhưng không).
Thú
vị ở chỗ, cách vắt dòng của Inrasara không bị rối, hay lộ rõ sự cố tình như một
số các tác giả khác. Inrasara quan niệm về thơ
Tân hình thức như sau: “như một thời Lãng
mạn mới, một trật tự mới hay một nền ca dao mới trong một xã hội bình đẳng và
dân chủ, lôi cuốn người đọc, làm phong phú đời sống và ngôn ngữ tự nhiên”.
Tôi
không thích thể thơ Tân hình thức. Bởi, khi đang được tung tẩy trong thơ văn
xuôi và thơ tự do, người sáng tạo không muốn mình lại phải chui vào một “cái
rọ” nửa cũ nửa mới này. Đấy là câu chuyện bếp núc của người sáng tác. Nhưng khi
tiếp cận văn bản thơ, tôi luôn giữ tâm thế khách quan và công bằng, chấp nhận
tất cả các trào lưu, khuynh hướng và thể loại thơ, miễn là bài thơ hay, chạm
vào tâm thức cũng như khiến trái tim rung động. Bởi vậy, phải thừa nhận rằng,
tôi thích một số bài thơ tân hình thức của Inrasara. Trong đó bài “Sông Lu” tạo ấn tượng mạnh mẽ và ám ảnh
nhất. “Sông Lu” là biểu tượng cho sức
sống của dân tộc Chăm, tâm hồn Chăm qua các thế hệ hiện lên trong thơ Inrasara:
“Sông
Lu sinh ra cùng tôi năm đinh
dậu. Hai mươi
tháng hạn sông Lu nằm
phơi thân trầm
dòng vào lòng đất. Sông
Lu chảy quyết
liệt lúc tôi vỡ tiếng
nói đầu đời,
sông Lu ẩn mình trong
tôi khi tôi bỏ
làng đi lang bạt,
lần nữa sông Lu
lại ra đời với
tôi ngày trở
về. Đừng ai hỏi sông
…
tự vỡ bờ chở
phù sa bồi ruộng
đất quê hương.
Cả khi sông Lu bị
con người biến
thành thứ mương tháo vô
dụng, sông Lu
vẫn cần cù mang phù
sa đổ vào biển.
Sống như là mang
phù sa đổ vào
biển” (Chuyện 4. Sông Lu)
Phần
3 của tập thơ “Chuyện 40 năm mới kể và 18
bài thơ tân hình thức” có tên “Tặng
phẩm của dòng sông” là khúc tráng ca vang trên mảnh đất Chăm. Phần thơ này
dung chứa những ước mơ, khát vọng của nhà thơ cũng như của cả dân tộc Chăm hiện
nay. “Tặng phẩm của dòng sông” mà nhà
thơ muốn nói tới đồng nghĩa với lời của con sông Lu, của trống baranưng, vũ
điệu Apsara, với lời hát của chủ tế trong Lễ Rija Nưgar… Ngôn ngữ thơ trong phần này
tựa những con sóng lớn bất ngờ ùa đến, phóng khoáng và vạm vỡ:
“Từ
đỉnh đồi cao dòng sông chắt về miền đất quê phù sa để qua từng luống cày khơi
dậy mùa hi vọng trên vầng trán anh nông dân mộc mạc
Rồi băng suốt bước
bạo động lịch sử dòng sông vẫn dõi theo từng thế hệ gái trai sinh ra lớn lên
chết đi cùng tiếng đập tim của dòng sông
Là tiếng đập
tim của quê hương chuyển dịch dòng máu đứa con đi hoang trở về soi bóng dòng
sông và tìm nơi dòng sông chốn trú ẩn chơi vơi của cuộc tình người phiêu lãng”.
Tập
thơ “Ở nơi ấy [thơ thời cuộc]” của
Inrasara là thơ thế sự đúng như tên gọi của nó. Dưới mỗi bài thơ, tác giả đều
ghi chú nguồn tư liệu, ý tưởng, cảm xúc. Ví dụ, cảm tác khác từ Bắc Phi, cảm
tác khác từ Miến Điện… Tương tự như vậy, hàng loạt cảm tác được tác giả ghi
chú trong tập thơ này, từ cảm tác khác từ
Việt Nam, từ Hà Nội, Phanrang, Sài Gòn, từ Tây Tạng, Afghanistan,
Australia… cho đến bốn cảm tác viết dưới hầm. Lượng thông tin về thời cuộc được
Inrasara sử dụng trong tập thơ này khá phong phú và đa dạng, nhắc bạn đọc về
những vấn nạn của nhân loại đang diễn ra tại những điểm nóng trên hành tinh
chúng ta. Như nạn phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, sắc tộc, tranh giành
đất đai, tài nguyên, thôn tính biển đảo, khoảng không, v.v... Những trăn trở,
băn khoăn ấy được thể hiện trong thơ Inrasara trở nên gần gũi và không còn là
vấn đề xa lạ, mà chính là mối quan tâm lo lắng, ẩn ức nội tại của dân tộc ông, của
đất nước Việt Nam thời hội nhập. Trong bài thơ “Người đàn bà và gia sản” [Trích
đoạn phim câm], tác giả ghi chú (cảm
tác từ Bắc Phi), nhưng hình ảnh trong bài thơ này lại gợi cho người đọc
hình dung về người phụ nữ Chăm, bóng dáng dân tộc Chăm trong đời sống hiện
đại:
“từ
góc sa mạc người đàn bà ngược lên triền sông
chợt chìm mất
trong bản tin tennis”,
hoặc
trong bài thơ “Phác thảo ở bề mặt cuộc
sống”, nhà thơ biểu hiện thái độ quyết liệt và dữ dội để bảo vệ văn hóa Champa:
“Cứ
ngỡ văn hóa Champa như thứ xác trâu cho họ bu tới rỉa rúc
nhưng văn hóa Champa
đâu phải xác trâu
còn ai muốn làm
loài diều hâu thì mặc xác họ”.
Tại
hội thảo bàn tròn do tạp chí Văn hóa Nghệ An tổ chức, trả lời câu hỏi về ý
tưởng và đề xuất các giải pháp cụ thể nào không cho việc bảo tồn văn hóa các
dân tộc thiểu số, nhà thơ Inrasara đã chia sẻ: “Người Chăm rất ý thức về cộng đồng mình, về bảo tồn và phát triển văn hóa
dân tộc. Ý thức và hành động. Tôi gọi đó là tinh thần nhập cuộc về hướng mở”.
Các tác phẩm của Inrasara cho thấy dấu ấn các trào lưu,
khuynh hướng chủ lưu trên thế giới từ đầu thế kỷ XX đến nay. Trong những khuynh
hướng ấy, theo tôi, hậu hiện đại và tân hình thức có ảnh hưởng mạnh nhất tới
bút pháp của nhà thơ Inrasara. Những câu thơ sau được Inrasara dùng làm đề từ của tập
thơ “Chuyện 40 năm mới kể và 18 bài thơ
tân hình thức” thể hiện đầy đủ tinh thần hậu
hiện đại của ông trong giai đoạn sáng tác gần đây:
“Không
bên lề
không trung tâm
tôi trú trên
đường biên
Không ngoài
luồng
không chánh lưu
sống như thể
không đường biên
Cũng chẳng có
gì trầm trọng cả!
mỗi các ông cứ
dựng chòi
mỗi các ông cứ
có mặt như một biên giới”
Khuynh hướng hậu hiện đại từ khi xuất hiện luôn khẳng
định vai trò của ngôn ngữ và tấn công trực diện vào những xung đột trong xã
hội, cộng đồng. Nó xuất hiện trong thơ Inrasara khá sớm, theo tôi, chớm nở từ
bài thơ “Những ngày rỗng – Ngày 8: Sinh
chỉ 1 lần” trong tập thơ “Lễ tẩy trần
tháng Tư”:
“Vinh
quang lớn/ bé 8 – 9 lần
hổ mặt không
muốn nhớ mươi lần
giúp người vài
lần, chịu ơn đời ngàn lần
nói ngu ngốc, phét lác, làm thơ, viết
lách trịnh trọng bộn lần
chịu đói, nhịn
khát, tiệc tùng khoái khẩu nhóc lần
Sống chỉ 1 lần.
dứt áo rồi quay
lại Phan Rang cả trăm lần
Sinh ra và chết ôi Phan Rang chỉ 1 lần.”
Và đến
tập thơ “Ở nơi ấy [thơ thời cuộc]”,
nhà thơ Inrasara thể hiện rất rõ thái độ tán đồng, cổ xúy cho khuynh hướng hậu hiện
đại:
“Khi còn thiết lập cơ
man bàn thờ, từ đó phản bác hay manh tâm đàn áp, triệt tiêu kẻ không bàn thờ,
không nhận bàn thờ đó hoặc kẻ có bàn thờ khác, là ta tự dựng tường thành cách
ngăn hậu hiện đại. Cho dù bàn thờ đó có choàng tấm áo bào truyền thống và bản
sắc, học thuyết hay chủ nghĩa, tôn giáo với tổ quốc, tự do công bằng bác ái
cùng vô số thần tượng các loại, tất tần tật. Là ta đánh mất hết con đường nhập
lưu hậu hiện đại”. (Hậu hiện đại là hậu hiện đại là…)
Lời kết
Nhà thơ Inrasara là người tìm lại nơi khởi nguồn
bản sắc dân tộc Chăm trong sáng tạo và nghiên cứu văn hóa. Bản sắc ấy có thể hiển hiện, hoặc còn ẩn tàng trong đống “tàn tro” của
lịch sử. Inrasara chính là người khơi gợi, gom nhặt những giá trị văn hóa độc
đáo và riêng biệt của dân tộc Chăm, cùng những giá trị văn hóa phong phú và đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, ông đã chọn lọc và kế thừa
những tinh hoa của văn hóa nhân loại để làm mới, làm giàu có thêm tài sản tinh
thần dân tộc mình. Sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh
trong văn hóa cũng chính là một hướng đi của thi pháp thơ Inrasara. Nhà thơ đã vận
dụng những tinh hoa, tính ưu việt của các trào lưu, khuynh hướng thơ trên thế
giới trong thế kỷ XX để tiến hành cuộc cách tân thơ trong suốt hai thập kỷ qua.
Công cuộc tái hiện giấc
mơ Chăm trong hành trình cách tân thơ của Inrasara,
theo tôi, đã thực sự thành công với những dấu ấn không thể chối cãi. Trong hành
trình đầy gian nan và vinh quang ấy, chính nền văn hóa Champa trở thành người chỉ đường, dẫn dắt ông đi tiếp lộ
trình nghiên cứu và sáng tạo. Inrasara được vinh danh với nhiều
giải thưởng trong lĩnh vực sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu văn hóa Champa. Đặc
biệt trong văn chương, ông từng nhận được nhiều giải thưởng. Riêng tập thơ
và trường ca “Lễ tẩy trần tháng Tư”
của Inrasara từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ hai năm 2003 và giải thưởng Văn học ASEAN
2005.
Thơ của
Inrasara khiến tôi liên tưởng tới thơ của nhà thơ Rasul Gamzatov (1923-2003) người
Daghestan, một nước cộng hòa nằm ở vùng Bắc Kavkaz thuộc Liên bang Nga,. Trong
suốt sự nghiệp sáng tác, Rasul Gamzatov chỉ viết bằng tiếng Avar – tiếng mẹ đẻ
của ông. Qua tác phẩm của Rasul Gamzatov, bạn đọc khắp thế giới được chiêm
ngưỡng vẻ đẹp tâm hồn con người, cũng như không gian văn hóa Daghestan độc đáo.
Trong số nhiều bài thơ của Rasul Gamzatov đã được dịch sang tiếng Việt, tôi ấn
tượng với bài thơ “Ngọn lửa của bản làng”.
Bài thơ có khổ kết như sau:
“Ngọn
lửa cháy suốt đêm ngày
Không có bản làng như vậy
Nhưng trong đôi mắt tôi đây
Ngọn lửa làng tôi vẫn cháy.”
Ngọn lửa luôn rực cháy trong
đôi mắt nhà thơ Rasul Gamzatov chính là tình yêu quê hương của mỗi nghệ sĩ sáng
tạo dù ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Với nhà thơ Inrasara,
tình yêu ấy là “Con đường lửa thiêng”,
tên một bài thơ của ông, được mở ra từ “Tháp
nắng” và cháy sáng đến tận hôm nay. Đoạn kết bài thơ như một lời tiên tri con
đường mà Inrasara đang đi và cả phía trước:
“tiếng gọi
gọi trở về cho những con người còn biết im lặng lắng nghe hân hoan đưa bàn chân
đạp lên con đường trong tiếng gọi.
con người cuối cùng không còn biết chối từ mê cung lịch
sử vẫn mở tâm đón nhận tiếng gọi của con đường trên bước chân đi về miền quê
hương cháy lửa.
Và con đường mãi trầm vọng gọi”.
4/2016
Đai lưng dệt của người Chăm tỉnh Ninh Thuận