Thơ Nguyễn Ngọc Tư thắp ngọn lửa xanh
(Đọc tập thơ “chấm” của Nguyễn Ngọc Tư, Nxb Hội Nhà văn và Nhã Nam phát hành, 2013)
Nhà văn – Nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư
Mai Văn Phấn
… những con sóng chạy rượt nhau mê mải tới bạc mái đầu. Có con sóng nào trẻ không mà lượn nào cũng trắng.
Bạn yêu thơ, nhất
là các nhà thơ có thể đồng cảm với tôi đó là câu thơ hay, có độ mở liên tưởng
và cảm xúc mạnh. Câu thơ ấy không trích từ một bài thơ, mà được rút từ đoạn văn
trần thuật trong “Ngọn đèn không tắt”,
một trong những truyện ngắn đầu tay của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. “Ngọn đèn không tắt” cũng là tên cuốn
sách trình làng của nhà văn, từng đoạt giải nhất cuộc vận động sáng tác “Văn học tuổi 20” lần thứ II, do Nhà xuất
bản Trẻ, Báo Tuổi Trẻ và Hội Nhà văn Tp. Hồ Chí Minh tổ chức năm 2000.
Dõi theo những tác
phẩm văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư, tôi ghi được đến kín một cuốn sổ tay dày với
nhiều câu văn hay như thơ. Đặc biệt, những câu này lại được rút từ những truyện
ngắn, tản văn, ký, tùy bút… Và gần đây nhất là từ tiểu thuyết “Sông” (Nxb Trẻ, 2012) của chị. Những câu
văn-như-thơ ấy của Nguyễn Ngọc Tư khiến tôi ngạc nhiên và nể trọng. Phải thú
thật rằng, tôi khao khát và thèm muốn chúng là của tôi. Có lúc, tôi cũng thấy
tiếc. Bởi những câu thơ tuyệt đẹp như vậy lại được nhà văn xếp chen vào những đoạn văn mô tả
tâm trạng, hoặc lẫn trong lời thoại của những nhân vật. Đọc nhiều tác phẩm của
Nguyễn Ngọc Tư, quen với những thủ pháp chị thường vận dụng, rồi đến với những
câu thơ hay trong văn xuôi của chị, tôi tưởng tượng hình ảnh những câu thơ đó
như ngọn lửa xanh được nhà văn thắp lên từ rượu mạnh do chính tay chị
chưng cất. Thơm dịu, êm say và đầy quyến rũ.
Chớm thu năm 2013,
tôi nhận được tập thơ của Nguyễn Ngọc Tư có cái tên khá lạ và độc đáo, “chấm”.
Đây không phải cuốn sổ tay do tôi “tự xuất bản” nữa, mà trọn vẹn một thế giới
những “ngọn lửa xanh” của nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư.
“chấm”
xuất hiện đúng như tôi đã nghĩ. Tức đến lúc, tự thân tập thơ của Nguyễn Ngọc Tư
đã cần phải xuất hiện. Diễn tiến này hoàn toàn tự nhiên như lẽ thường tình, hợp
quy luật với một chủ thể sáng tạo mạnh mẽ như Nguyễn Ngọc Tư. “chấm”
tồn tại đơn giản, tự nhiên, thường để ngắt đoạn hoặc kết thúc một câu. Và, như
việc đánh dấu một chỗ ngồi, một khoảng không trong đời sống hiện tồn. Và, cũng
tựa một bóng dáng chuyển động gần đến chân trời, để lại một dấu chấm nhỏ trong
mắt những người quan sát. Với nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư, chị quan niệm về những
bước đi của “chấm” nhẹ nhàng hơn tôi tưởng nhiều. Trong lần trả lời phỏng
vấn Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh (ra ngày 18/8/2013), chị nói: “Vào những thời khắc đặc biệt với những tâm
trạng đặc biệt, những cảm giác không thể tách bạch, tôi thấy mấy cái khó đỡ này
thơ chơi được. Nên độc giả đã từng rất ưng văn xuôi của tôi cũng đừng lo lắng,
chơi đâu thì tôi cũng quay về”.
“mình có ngôi nhà khép cửa”. Đó là câu thơ đầu tiên trong “chốn về”, bài thơ mở đầu tập thơ “chấm”.
“mình không bóng
ngủ sâu không ai gọi
say nắng không người lay…
máu chảy tự khô,
vết đau tự liếm láp,
cúc tự cài,
hát mình nghe” (chốn về).
Những câu thơ ấy
của Nguyễn Ngọc Tư đã thay lời tự bạch. Lặng sâu một nỗi buồn tuyệt đẹp. Cô đơn
và hoang hoải. Những câu thơ ấy gợi tôi nhớ đến hình ảnh cậu bé Điền thường
quẩn quanh với những con vịt đạp mái nhau
đầy yêu thương mà không thô bạo như người cha Út Vũ của cậu với một cô gái
điếm trong truyện vừa “Cánh đồng bất tận”
của chị.
Tập thơ “chấm”
là hội tụ những điểm đến, cũng chính là chốn
về của nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư. Xin xướng danh một số tựa đề bài thơ để dõi
theo bước chân của chị: “sổ tay đi
đường”, “núi Hiệu Oanh”, “ở trọ”, “ở biên giới”, “rượu bên đường Mười Bốn”,
“viết ở Côn Đảo”, “bản đồ”, “hỏi đường”, “ca tụng bạn đường”, “phong cảnh Đại
Lải”, “chuyến bay ban sáng”… Những bài thơ ấy cho tôi hình dung nhà thơ
Nguyễn Ngọc Tư với chiếc ba lô một mình đi phượt, tha thẩn khắp các nẻo đường
từ Nam chí Bắc. Trong những chuyến đi ấy, chị được trải nghiệm mọi góc cạnh của
đời sống xã hội, gom nhặt được nhiều nguồn tư liệu phong phú để sáng tác. Chị
được mệnh danh là nhà văn của những xóm ao bèo, của những thân phận người...
Nhà thơ từng nói về những cuộc du ngoạn ấy tựa như mạng nhện dính chặt chị vào chân
trời. Ở đó chị được mê mải, ngụp sâu trong cõi tạm, thảng hoặc và vô
thường:
“lục bình vừa
trôi vừa tàn
lá đa vừa rã vừa rơi
vừa đến họ vừa rời cõi tạm” (ở trọ).
Dù đi đâu về đâu,
Nguyễn Ngọc Tư luôn nhìn đời sống bằng con mắt của kẻ cô độc ngơ ngác đi tìm chốn về của mình:
“có con thác bị
chẻ làm đôi ngọn
sông lò cò một bờ
núi vói nhìn bóng mình vượt
đường biên” (ở biên giới);
“vì say, quên,
vì những công việc vội
hay trên con đường rong ruổi tôi cắn
môi hát khúc nhớ nhà” (sáng chủ
nhật).
Những cuộc rong
ruổi chơi được ấy luôn vẫy gọi, thôi
thúc nhà thơ trên hành trình nhọc nhằn và đơn độc. Hành động xoay ổ khóa không biết đi hay đến trong
bài thơ “một bài lạc” là đỉnh điểm
của sự chống chếnh và bất an trong những cuộc lữ hành:
“có lần lời lạc
trên môi,
ta kịp thả trôi câu tử tế,
chốn trọ này không có gì chơi
về đi em, mưa ướt hết rồi” (một bài lạc).
Bạn đọc có thể hỏi
vặn: “Vậy câu không tử tế là câu thế nào?”.
Mới thấy, đây thực là một mệnh đề nghi vấn mang tính diễu nhại đầy chua xót về
cõi nhân tình. Những kiểu người, nẻo đời trong thơ, nhất là trong văn xuôi
Nguyễn Ngọc Tư thường tối tăm, quanh co, nhiều ngã rẽ. Có lúc như dẫn người đọc
như đi cả vào nơi tù mù, ngõ cụt. Tuy vậy, chính Nguyễn Ngọc Tư lại ý thức rõ ràng
và tỉnh táo về nỗi cô đơn và những hoài nghi ấy. Trong tác phẩm của chị, những
nẻo đường mà chị tái hiện luôn biết cất giữ từng dấu chân, niềm khát vọng, tình
yêu thương mà chị dành cho mọi người:
“tôi là con kiến
vàng
bơi trong tơ lam tìm đường ra biển
vịn theo tơ đỏ lên dãy Hoàng Liên” (bản đồ).
Khắc họa một cách
chân thực và sinh động hiện thực đời sống chính là đặc điểm nổi bật trong các
tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư. Những thân phận, số phận trong bức tranh hiện thực
ấy luôn hiện lên lam lũ, nhọ nhem nhưng đáng yêu và gần gũi lạ thường:
“chuyến xe đi
như mũi kim cùn
vá víu những đường may gió bụi
mùi thuốc lá, mồ hôi, mùi phân trâu
giữa những kẽ chân đen trũi
bỗng mê sâu bởi giọt cốt trầu
khách ngoái tìm
quê nhà ở mãi đâu?” (sổ tay đi đường).
“Quê nhà
ở mãi đâu?” câu hỏi của một người khách không quen biết khi ngoái tìm đã sưởi ấm cả chiếc xe đò chở
đầy ắp mồ hôi và nước mắt những con người lo toan kiếm sống thường nhật. Hẳn
là, bạn đọc đã gặp cách viết này rất nhiều trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc
Tư. Một lối tường thuật, kể, độc thoại bình tĩnh, hồn hậu nhưng thấu đáo lạ
thường. Bút pháp ấy thể hiện đúng tính cách của con người Nam Bộ bộc trực,
thẳng thắn và chân thành của chị. Tôi chợt nhớ đến câu “Đã mang lấy nghiệp vào thân” của đại thi hào Nguyễn Du.
Và từ ấy, tôi có cảm giác số phận Nguyễn Ngọc Tư là mang lấy nghiệp văn chương.
“mua chữ Yên ướt
sũng ở quán ông đồ
ướt như vừa vớt ở đáy sông
giắt lên vách nào cũng thấy chữ long
đong”. (một ba mươi Tết nào).
Thơ Nguyễn Ngọc Tư
tựa ánh sáng luôn soi rọi tới những nơi khuất lấp u uẩn, góc tăm tối cuối cùng
của chốn nhân gian:
“lượn quanh đây
giọng họ thầm thì
– Mi đang sống sao phả mùi ẩm
mốc?” (mưa tháng Bảy).
Một bài thơ trong “chấm”
có tựa đề đặc biệt ấn tượng: “bóng người
thì tối”. Theo cá nhân tôi, chỉ riêng tựa đề này đã hoàn chỉnh một bài thơ
cực ngắn rất độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư. Bài thơ “bóng người thì tối” có hai câu kết ở dạng nghi vấn, sáng rỡ rất dữ
dội, truy vấn sự chân thực và tình yêu con người:
“gáy người thì
lạnh
ngực người ấm không?”
Nhân đây xin nói
thêm, trong tập thơ “chấm” có rất ít bài về tình yêu
đôi lứa. Tôi chỉ gặp khổ thơ sau đây có nhân vật anh được “cài” trong bài thơ “linh
cảm”:
“em thấy anh
châm thuốc bên đường
lửa và anh rất lạnh
lửa và anh rồi tạnh”.
Thêm một lần nữa,
tôi thấy Nguyễn Ngọc Tư xưng em:
“mai dậy sớm
không còn em nằm cạnh
váng vất gối tóc cùng với tóc
thằn lằn để lại đuôi có khóc
như mình?” (hát tặng chia lìa).
Và, chỉ duy nhất
một bài thơ, có tựa đề “nhân tình”, mang
tâm trạng trống rỗng, bã bời và xa lạ:
“khép cửa phòng
gặm nhấm móng tay
không đốt nến sợ mùi người tan mất
ngoài thềm mưa xóa dấu chân”.
Điều này cho thấy,
nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư chủ ý cấu trúc tập thơ mang tâm trạng nhất quán trên
hành trình cô lẻ nhẹ tênh nỗi buồn
tìm chốn về.
40 bài thơ trong
tập thơ “chấm” là bốn mươi dáng vẻ của ngôi nhà khép cửa. Nói ngôi nhà ấy khép cửa bởi dù ở đâu, lúc nào, Nguyễn Ngọc Tư luôn giữ trọn vẹn
nỗi buồn, niềm khát vọng, lòng nhân ái, những thứ đã trở thành căn cốt trong
tác phẩm của chị. Cũng chính sự khép cửa
ấy đã tạo nên vẻ đẹp mộc mạc, thuần khiết của tâm hồn chị. Và cũng từ ấy làm
nên một thế giới thơ trong suốt và mong manh, giống như những cái lá mướt xanh kiêu hãnh. Ta có thể hình dung thế giới ấy
trong câu thơ:
“những cái lá
nuột nà trên những triền đồi xa xôi
cũng làm tổn thương tôi” (say trà).
Thơ Nguyễn Ngọc Tư
luôn phục sẵn những câu hỏi truy vấn, những nỗi hoài nghi về sự chân thực, nhân
hậu của con người:
“ới ơi người
thương đâu?
nhanh chân theo kẻo bụi lấm đục ngầu” (nuối tóc).
Nhà thơ hay dùng
những khái niệm, cụm từ sắc lạnh để phanh phui cái xấu xa, phụ bạc, tàn độc của
đời sống thế nhân như: “ráo hoảnh bạn bè xóm cũ; lời ngọt nhạt lạ xa;
nọc độc làm rơi rã tủy xương; đắng chát mụ mị mềm đầu lưỡi; kịch tính nằm trong
mỗi tờ lịch; non thế kỷ đạn bom tấp tểnh nổi trôi; tay nào mọc gai, cái nhìn
móng vuốt; được mất như chơi”.
Nhưng ngay tại
những bài thơ đó, những hàm nghĩa ám chỉ tiêu cực, ác độc kia luôn được nhà thơ
hóa giải, hoán chuyển thành những điều cao cả, tốt lành.
“Những ngày rong
ruổi trên đất lạ, tôi một lần đứng lại hỏi con đường, lối nào sẽ dẫn đến người.
Đường im lặng đi lên đồi mải miết, nông nổi ơi chỉ cần dừng chân lại, sẽ thấy
người” (hỏi đường).
Tập thơ "chấm"
có hai bài nhật ký mang thai mang đến
cho tôi sự ngạc nhiên và xúc động mạnh. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ hiện
lên thật vĩ đại và phi thường, là biểu tượng cho những phụ nữ chu
toàn thiên chức làm mẹ. Một thiên chức cao cả, xuất phát từ tình mẫu
tử thiêng liêng và thánh ý nhiệm màu:
“Yêu và xa,
thương và đợi,
hy vọng và thất vọng
học mỉm cười, mẹ có cười một mình đâu,
như khi khóc
trò trốn tìm nước mắt, mẹ chẳng muốn
con chơi” (nhật ký mang thai – tháng
thứ ba);
“hãy cựa quẫy
hãy trở mình
nhắc nhớ mẹ thở cho hai người
mẹ nuôi men ủ nụ cười
và đứng thẳng” (nhật ký mang thai – tháng thứ năm).
“chấm”
là tập thơ dung dị, gần với ngôn ngữ đời sống sinh hoạt hàng ngày, có thể đến
được với mọi đối tượng bạn đọc. Một số câu thơ được tác giả áp dụng thủ pháp
hiện đại khá nhuần nhuyễn và độc đáo:
xe đi vào ngọn bóng
tối khêu cao (nhật ký mang thai - tháng thứ ba);
“nước mắt con
mình xước chín tấc hồn (hình
dung dưới cỏ);
một người câu một
bóng người sũng nước” (phong cảnh
Đại Lải).
Những câu thơ viết kiểu này không khó với một
“phù thủy chữ” như Nguyễn Ngọc Tư. Tôi ước đoán, nhà thơ như cố ý làm vương vài
ba hạt kim cương trong vườn hoa cải ngồng để bạn đọc luyến tiếc mà đi tìm.
Trong tập thơ “chấm”,
Nguyễn Ngọc Tư đã tiết chế tối đa những từ lạ, những thổ ngữ và phương ngữ Nam
Bộ. Chúng ít được sử dụng hơn như chị thường dùng trong các tác phẩm văn xuôi.
Hầu hết các bài trong tập thơ “chấm” đều là thơ tự do có chung
nhịp điệu tự nhiên, tưng tửng, chảy trôi… Câu mở đầu bài thơ thường được tác
giả chọn cách nói phản đề, hoặc áp đặt ngẫu nhiên:
“tưởng mặt trời
ấm hơn” (hát tặng chia lìa);
“không chớp nhói
lên nghĩa là đã ngủ rồi” (chờ
điện thoại).
Cách viết này của
nhà thơ đem đến cho người đọc cảm giác hoài nghi ngay từ câu thơ mở đầu, với
giọng điệu vừa khiêu khích vừa ỡm ờ.
Thơ Nguyễn Ngọc Tư gợi
tôi liên tưởng tới các nhạc sĩ, ca sĩ du ca. Họ thường du ngoạn sáng tác và
biểu diễn khắp nơi từ thành thị tới miền thôn dã. Tiếng hát của họ kết nối trái
tim với mọi trái tim, ánh sáng với ánh sáng, đem đến nhân gian ngọn lửa ấm áp, chân thành.
Nhìn chung văn
chương Nam Bộ thể hiện tính cách bộc trực và nhân hậu của con người vùng đất
này, song ở Nguyễn Ngọc Tư còn nhiều hơn thế, cả thơ và truyện của chị hoang
hoải những nỗi buồn, những nỗi đau nhân thế. Những vần thơ của Nguyễn Ngọc Tư
chất chứa những suy tư đằm sâu mà vẫn ấm lên ngọn lửa xanh của thương yêu, hy
vọng.
Đọc tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, nhất là khi đã quen với
những hiện thực đời sống được chị tạo dựng, tôi bỗng liên tưởng đến việc chưng
cất rượu ở những miền quê xứ Bắc. Để có được loại rượu thơm ngon vị đậm, bí
quyết của người dân những vùng đất này là cách chọn gạo nếp cái hoa vàng, chọn
men rượu, nguồn nước… Đặc biệt, biết hãm ngọn lửa vừa đủ khi chưng cất. Rượu
ngon là loại rượu có bọt tăm to. Rượu càng ngon đậm thì ngọn lửa đốt lên càng
xanh. Nhà văn, nhà thơ Nguyễn Ngọc Tư đang tiếp tục “chưng cất” và thắp thêm
những “ngọn lửa xanh” trong hành trình sáng tạo. Đi dọc cánh đồng văn chương
của Nguyễn Ngọc Tư, tôi đã thấy rất nhiều ngọn lửa lạ kỳ và ấm áp ấy.
2/2016
_____________________
Cánh đồng bất tận là
một truyện vừa trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư xuất bản năm 2005;
truyện này đã được đạo diễn điện ảnh
Nguyễn Phan Quang Bình dựng thành phim. Bộ phim đoạt năm giải thưởng Cánh diều
vàng năm 2010.
Bìa tập thơ “chấm”