Giấc chiêm bao trong thơ Nguyễn Đình Di (phê bình) - Mai Văn Phấn
Giấc chiêm bao trong thơ Nguyễn Đình Di
Nhà thơ Nguyễn Đình Di
Mai Văn Phấn
Ở nơi ấy
Cái hạt mở ra hai bàn tay
Nguyễn Đình Di
Có tiếng rì rầm
dưới trăng
Lời của người được đất ru
Ai đấy
Hát chậm cho tôi học lời.
Đó là khổ thơ được
nhà thơ Nguyễn Đình Di viết riêng làm đề từ tập thơ đầu tay của ông, mang tên “Giấc
mơ cây” (Nxb Hải Phòng,
2001). Những câu thơ thật tự nhiên nhi nhiên, như miên mộng. Đến độ, nếu khi ấy
có ai đến bên ông đánh thức hoặc lay gọi, thì nhà thơ cũng khó mà thoát ra khỏi
giấc chiêm bao. Những giấc chiêm bao như vậy đã nâng đỡ, che chở ông trên hành
trình đến xứ thơ.
Sau “Giấc
mơ cây”, nhà thơ Nguyễn Đình Di xuất bản thêm bốn tập thơ: “Cỏ
khát” (Nxb Hải Phòng, 2006), “Trường
ca Lộ trình” (Nxb Hải Phòng, 2008), “Tín chấp” (Nxb Hải Phòng, 2011), “Vườn gió mặn” (Nxb Hải Phòng, 2015). Tôi không muốn gọi
những tập thơ này là cuộc hành trình của
nhà thơ. Bởi hành trình là một quá trình có điểm xuất phát, rồi có thể gặp
những khúc cua, lúc tăng tốc, và đích đến. Tôi đọc thơ Nguyễn Đình Di và cảm
nhận các tập thơ của ông, tuy viết trong các thời điểm khác nhau, nhưng có cùng
một đời sống, cùng một tâm trạng, một thân phận trong một cảnh giới, và chủ
yếu, cùng một thi pháp.
Thơ Nguyễn Đình Di
trước sau vẫn trung thành với hệ hình thi pháp truyền thống, nền tảng là hiện
thực và lãng mạn. Đây là một khuynh hướng sáng tác mà gần như cả thế hệ ông
chịu ảnh hưởng đến tận bây giờ. Sau mỗi tập thơ, cảnh giới thơ Nguyễn Đình Di
được mở rộng, thêm phong phú. Nhưng những sự kiện, sự vật, những ước mơ, khao
khát trong đó thường được lặp đi lặp lại trong những tình huống, tâm trạng khá
giống nhau ở nhiều thời điểm. Người đọc gần như quen thuộc từng bóng dáng thi
ảnh, nhịp điệu, ngôn ngữ thơ của ông. Từ vầng
trăng, con sóng, cái cây, con cá, con công cống, vạt cỏ, cái chợ, giọt mưa, con
thuyền, bình rượu…, đến bàn tay, đôi
mắt, lời ru, tiếng khóc, sợi tóc, trái tim, hồn mình... Những hành động của
con người, như đi câu, hát, vung rìu, rũ bụi, buột mồm, nhập đồng… Những tâm trạng, như
nhớ, sự đa mang, thương đồng đội, lẩn thẩn, lỡ thì… Hầu như những hiện hữu,
chuyển động trong đời sống thường nhật kia, tựa những con lắc đơn, cứ trở đi
trở lại trong thơ ông như ngày tiếp ngày, mùa nối mùa. Ấy vậy mà đọc thơ Nguyễn
Đình Di vẫn thấy hấp dẫn và bị mê dụ. Bí quyết sự hấp dẫn ấy nằm ở những giấc chiêm
bao trong thơ của ông.
Phải nói thêm về
chiêm bao để rõ hơn trạng thái này trong thơ Nguyễn Đình Di. Từng có nhiều nhà khoa học, triết gia đã
lý giải những hiện tượng chiêm bao bí ẩn và diễn ra ngẫu nhiên này. Trang Tử có
giấc mộng hồ điệp, khi tỉnh dậy không biết mình nằm mộng hóa bướm hay bướm nằm
mộng hóa thành mình. Còn theo thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud,
những tưởng tượng, ẩn ức, khát vọng chính là những nguyên nhân dẫn đến
những xung đột vô thức để nảy sinh những giấc mơ. Với thơ của Nguyễn Đình Di,
tôi gọi một số bài thơ của ông là những giấc chiêm bao có thật. Người đọc có
thể nhìn thấy giấc chiêm bao ấy của nhà thơ, rồi nhanh chóng bị chúng lôi cuốn,
mê dụ. Và trong tâm thế đồng sáng tạo, những câu thơ của Nguyễn Đình Di vẫy
gọi, dẫn dụ người đọc tới cảnh giới mà nhà thơ đã thăng hoa khi viết.
Sống, trải nghiệm
và sáng tác trong những giấc mơ là lẽ đương nhiên, và khá dễ dàng với nhà thơ
Nguyễn Đình Di. Dễ dàng, bởi lúc ấy ông viết như vui chơi, như say, như hít
thở… Tôi linh cảm rằng, dường như nhà thơ có được con mắt thứ ba để nhìn thấy
cái vong cái vía của vạn vật mà trò chuyện, tỏ bầy:
“Ở miền không còn đêm
Thấy ban ngày ngồi khóc
Triền sông hoang gió mọc
Cỏ se vàng chân mây”. (Nỗi chiêm bao);
“Em trốn ở đâu mà thơm quá
Chiếc lá bùa mê ơi
Những câu thơ ngẩn ngơ tôi chôn dưới
móng nhà
Như chiếc neo đang đòi được nhổ
Để ngôi nhà trôi”. (Lãng du).
Cái vong cái vía ấy
có lúc ông thấy nó “mờ mờ nhân ảnh” và nhiều khi cũng chỉ thấy được một phần.
Do vậy, nếu tác giả không dồn đẩy được cảm xúc tới ngưỡng cần thiết, thì những
hình ảnh đặt lên mặt giấy kia chỉ là những cái xác không hồn. Nhà thơ đã neo
giữ những hình ảnh chân chất, quen thuộc vào thi giới chiêm bao mộng mị của
mình.
“Đêm đêm khi em đã
ngủ
Bàn tay giấu em ủ những câu thơ
Thay lời hát ru
Vỗ về giấc ngủ của em thật sâu
Và sau đấy giấc ngủ của anh cũng sâu”.
(Nói hộ bàn tay chai).
Sự chân thành của
câu thơ Và sau đấy giấc ngủ
của anh cũng sâu đã bỏ qua mọi thủ pháp, thi pháp. Chữ cũng sâu được tác giả lặp lại chữ thật sâu nằm ở ngay cuối câu thơ trên.
Thường thì, trong thơ, đây là những từ đồng âm đồng nghĩa mà nhà thơ tránh dùng
lại, bởi nó gây cảm giác tác giả bí từ. Nhưng trong trường hợp này, Nguyễn Đình
Di đã cố ý dùng lại một chữ mà ông vừa dùng. Sự lặp lại này phù hợp với chuyển
động chậm dần đều của giấc ngủ. Nó giống như một viên sỏi rơi vào miệng giếng,
rồi lặng chìm xuống đáy sâu. Nếu không có câu thơ này, cả bài thơ “Nói hộ bàn tay chai” sẽ khiến người đọc
rơi vào cảm giác nhàm chán, cũ mòn (cliché).
Câu thơ độc đáo trên có thể ví như cái huyệt trên “thân thể thơ” đang ủ rũ,
ngái ngủ…, bất ngờ được tác giả điểm vào thật đúng lúc, khiến “toàn thân” bài
thơ trở nên ấm nóng và chuyển động một cách khỏe khoắn.
Sự nồng mặn, thổn
thức của tình yêu luôn là mạch sữa nguồn nuôi dưỡng cảm xúc sáng tạo của nhà
thơ Nguyễn Đình Di. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt và trọn vẹn mới đủ lực kéo ông khỏi
sự trần trụi, thô nhám của thực tại về với thi giới chiêm bao lung linh, u mặc
của riêng mình.
“Tôi lạy hoa trặc trìu đừng thơm day dứt nữa
Anh sẽ nói được lời chưa kịp nói em
nghe
Trong hương trặc trìu tóc bạc đã như
mê” (Hoa trặc trìu).
Thế giới huyền hoặc
và tuyệt đẹp ấy không xa vời, khó tìm kiếm, mà chính là những điều bình dị và
rất gần gũi với mỗi con người:
“Chỉ có mỗi điều
giản dị
Cỏ xanh… mình cũng xanh đi” (Cỏ ở phố).
Vẻ đẹp thơ Nguyễn
Đình Di trong cõi chiêm bao khá đa dạng. Lúc tinh tế, mỏng manh như cánh ong
bay:
“Sau gương
Có tiếng cánh vỗ
Có tiếng gọi nhỏ” (Gương thu).
Khi sâu lắng, quấn
quyện, rồi vụt sáng ở cuối bài thơ như ngọn nến:
“Câu thơ váng vất nguồn cơn
Đắng vào rễ cỏ cuối đường gọi hoa” (Bâng quơ chiều).
Lại có bài, ông
chọn cách nói hồn nhiên như trẻ thơ:
“Hào hển vít gió
khoe
Nghe hạt hát đây này” (Tiếng cây).
Tôi đọc liền mạch
năm tập thơ của Nguyễn Đình Di một cách mê mải, để thấy mình bị mê dụ vào những
giấc chiêm bao. Trong năm tập thơ ấy, tôi ấn tượng nhất với bài thơ “Khấn gọi cây”. Bài thơ này in trong tập
thơ “Giấc mơ cây”.
Khấn
gọi cây
Cây quéo cửa nhà tôi
Của ông nội tôi trồng
Tôi đã đeo khăn tang cho nó ngày bố
tôi mất
Bây giờ tôi nói gì khi phải chặt nó
đây
Cây ơi!
Mày bằng tuổi em tao
Mày đã cho tao tiếng chim trong phố
Cho tao bóng xanh dịu đi nắng lửa
Cho tao quả ngọt để đẩy cái đắng khỏi
lưỡi
Cho tao thao thức nghe lá rụng và
gửi được vào trong trang thơ một loài lá
chỉ chịu rơi khi nõn đã xanh đầy
Cây ơi
Ta bầy lễ ra đây
Thắp hương
Khấn gọi
Mày hãy về mọc trong trang thơ này
Hãy tỏa bóng mày che mát vết bỏng đêm
của tao
Hãy gọi chim về hát trong nỗi nhớ của
tao
Và mang quả chín của mày đặt vào tay
ông nội
Cây ơi
Tao bẻ lưỡi cưa rồi vì sợ sẽ ngã cùng
với mày
Khi nghe hồn cây đang nói lời của
người sắp bị chặt.
Bài thơ “Khấn gọi cây” cùng với hai bài thơ “Lãng du” và “Những con chữ” đã đoạt Giải thưởng thơ hay tháng 11/2011 của tuần
báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam). Nét độc đáo ở đây là, tác giả dành hẳn hai khổ
thơ đầu chỉ để liệt kê “lịch sử” của cây đã gắn với “lịch sử” người viết – nhân
vật xưng tao – ra sao. Với giọng điệu
bông lơn nhưng thân thiết và gần gũi, ông nói cho cây nghe thấy: mày bằng tuổi em tao; mày đã cho…;
cho tao.... Và, đây là câu thơ đặc sắc, mang thần khí vực dậy hồn vía của
tất cả những sự kiện tưởng chừng khô khan, đơn điệu vừa kể: gửi được vào trong trang thơ một
loài lá/ chỉ chịu rơi khi nõn đã xanh đầy”. Khổ
thơ tiếp theo là những khát vọng của cây xanh, của diệp lục, khát vọng sống của
mọi sinh linh trên mặt đất. Câu
kết bài thơ là sự hóa thân, đổi ngôi…, nói khác đi, chính là sự thức tỉnh của
con người trước thiên nhiên: khi nghe hồn cây đang nói lời của người sắp bị
chặt. Bài thơ “Khấn gọi cây” của
Nguyễn Đình Di là một gợi ý cho chúng ta liên tưởng tới mối quan hệ sống còn
giữa sinh thể và môi trường sống quanh ta.
Từ sự xuất hiện
được đánh dấu với tập thơ đầu tay “Giấc mơ cây” (2001),
Nguyễn Đình Di đã đem đến cho thơ Hải Phòng và rộng hơn là thơ Việt Nam đương
đại một giọng thơ đằm mặn và ám gợi. Chỉ tiếc rằng, những bài thơ có nền
tảng vững chắc, có vỉa tầng chồng lấn, có ngôn ngữ tự sự hồn nhiên như “Khấn gọi cây” lại không nhiều. Thêm vào
đó, về sau này, thơ ông có phần nào phai nhạt sự đắm mê, ngơ ngẩn và hồn hậu so
với tập thơ trình làng. Tuy cấu tứ bài thơ và câu chữ một số tập thơ gần đây có
chặt chẽ hơn trước, nhưng chính điều đó lại làm thưa vắng cái khờ khạo, vụng
dại rất đáng yêu trong thuở sáng tạo ban đầu.
Những bài thơ hay
trong năm tập thơ đã đến với nhà thơ Nguyễn Đình Di bằng nhiều nẻo của tư duy
và cảm xúc, đôi khi bằng tiềm thức, vô thức trong quá trình sáng tạo.
“Chắc gì thơ tôi biết nghĩ
Chắc gì hồn tôi biết nhìn” (Khiếm thị).
Đó là lời tác giả
nói với một bé gái mù. Cách ông luôn
cật vấn, phản tỉnh, chính là thái độ sống của ông, với tư cách người cầm bút
trước cuộc đời đầy âu lo, thổn thức chờ đợi này. Ông cũng đã nhìn thấy con đường
xa tít trước mặt mà quỹ thời gian có thể không còn nhiều.
“Gánh số phận mình
Con chữ mơ mọc cánh bay
giữa khoảng đặc giữa trời và đất” (Những con chữ).
Hình ảnh con chữ mơ mọc cánh bay giữa khoảng đặc giữa trời và đất khiến giấc mơ cứ bay mãi giữa mông lung thiên
địa, không có điểm dừng. Tôi viết những dòng cuối của bài viết nhỏ này khi biết
nhà thơ Nguyễn Đình Di đang phải vật lộn với căn bệnh hiểm nghèo. Cầu mong cho
ông mau bình phục. Độc giả cũng đang lần theo từng câu thơ còn in dấu vân tay
nhà thơ để chúc phúc an lành cho ông.
“Trong mỗi ngón
tay
Có một trái tim đang dịu dàng nói” (Nói hộ bàn tay
chai).
Cõi chiêm bao trong thơ Nguyễn Đình Di dẫn người đọc đến những miền trong
veo tuyệt đẹp và níu giữ chúng ta ở đó mãi. Nơi ấy là cõi sống thật, cõi yêu
thương và đắm mê.
01/2016
__________________
Trang Tử (369 – 286 trước CN): triết
gia và tác gia Đạo Lão thời Chiến Quốc (Trung Quốc), tác giả bộ Nam Hoa kinh
nổi tiếng, trong thiên “Tề vật luận”
của kinh này có thuật lại giấc mơ Trang Tử hóa bướm, sau này được gọi là “Trang Chu mộng hồ điệp”.