Người đi tìm ánh sáng của thơ
Bìa 1 cuốn sách “Thơ cần thiết cho ai””
Mai Văn Phấn
Mười gương mặt thơ trong
tập sách “Thơ cần thiết cho ai”
của Nguyễn Đức Tùng được chọn ngẫu nhiên, ngỡ như tác giả vô tình thắp lên
mười ngọn nến trong màn đêm mờ mịt các khuynh hướng, quan niệm thơ. Mỗi ngọn
nến ấy tỏa một cường lực, chiếu sáng, soi tỏ những góc nhìn trong đời sống,
giúp con người nhận đường, nhìn rõ thiện-ác và hướng đến những mục đích cao
đẹp. Như những gợi ý nhẹ nhàng và tự nhiên trong cuộc tri nhận thế gian đầy
mông lung và khó khăn, một câu hỏi đặt ra cho những ai cầm cuốn sách, với tiêu
đề nghe vừa quen vừa lạ: “Thơ cần thiết cho ai”.
Nguyễn Đức Tùng là
nhà thơ, dĩ nhiên vậy, nhưng ông không bị lệ thuộc vào văn bản tác phẩm, cảm
xúc, cũng như không bị ràng buộc bởi những duyên cớ, hay có thể gọi là hệ lụy của
thi pháp. Ông đi tìm nguồn sáng phát ra từ mỗi gương mặt thơ, từ mỗi bài thơ,
câu thơ của họ. Ông tiếp cận cẩn trọng, kỹ càng những di sản mà mười gương mặt
thơ để lại, như nâng niu từng viên ngọc, rồi đặt chúng ngay ngắn vào mỗi chiếc
hộp. Và để đó, ông ra đi! Sự “ra đi” của ông là để đón ánh sáng từ mười gương
mặt kia lan tỏa, soi rọi lại. Ánh sáng ấy đã đến với ông tình cờ trong mọi tình
huống, ở mọi cung bậc của đời sống. Ấy là lúc đang lái xe bỗng nghe được bài
thơ của nhà thơ W. C. Williams, ông nổi hứng chạy chậm lại rồi tấp vào giữa hai
bụi gai có nhiều trái dâu blackberries, gần một hồ nước, lao xao bầy vịt trời
hạ cánh... Hay vô tình gặp một tháng
sáu lạ lùng, trời đang nắng bỗng lạnh bất ngờ, tuyết rơi trắng xoá, và thơ
Mary Oliver
đã cuốn hút ông, cứu ông thoát khỏi sự giả trá, đe doạ, thôi thúc ông đến với
một đích mới. Chối từ cách tiếp cận công thức, sáo mòn (cliché), ông đến với mỗi tác giả bằng con đường riêng, đôi khi là độc
đạo. Người đọc ngỡ như đã ông trải nghiệm cùng Patrick Lane trong đời sống khốn
quẫn, gặp tai nạn khi đang lái xe
“Cuộn tròn và xe tải
Lăn quay cuồng bên đồi”.
Và ông thấy vẻ đẹp thơ
Patrick Lane
như báu vật tình cờ xuống trên tay,
như thiên sứ, như cứu rỗi. Ông sẻ chia, đồng hành với William Stafford trên “Đường qua bóng tối” để có được những liên
tưởng rất độc đáo và hợp lý này: “Thơ
Stafford không làm người đọc sợ hãi, trái lại chúng kéo dài đời sống của chúng
ta, như phong tục kỵ giỗ của người Việt Nam. Có lẽ vì thế mà ông cho tôi cảm
giác về một người thân trong gia đình. Tôi tưởng tượng ông vừa viết xong những
câu thơ trên đây bên cửa sổ, căn nhà thôn quê yên tĩnh, ngoài sân vẳng lại
tiếng cười đùa trẻ con trong buổi chiều ấm áp, rồi sắp xếp lại giấy tờ trên
bàn, chuẩn bị bước ra đường.”. Nhưng với Wallace Stevens, Nguyễn
Đức Tùng đã đến với thơ ông trong một trạng thái nghiêm cẩn như cử hành một
nghi thức tôn giáo, “vừa là nguồn rung
động trước vẻ đẹp, vừa là nỗi thương xót đối với con người, sự chiêm nghiệm
thanh khiết về hạnh phúc”.
Lần giở, chiêm
ngưỡng mười gương mặt thơ trong cuốn sách này, tôi mường tượng nhà thơ Nguyễn
Đức Tùng là người đi gỡ những mối nhân duyên, thay vì xe duyên như nhiều người
đã làm. Bởi ông không chú tâm bình thơ, không khêu gợi những bí ẩn tiểu sử tác
giả, mà dõi tìm ánh sáng của bài thơ, câu thơ đang lan tỏa, chiếm lĩnh, chi
phối đời sống thường nhật. Dưới con mắt của Nguyễn Đức Tùng, bài thơ, câu thơ
hay và hấp dẫn đang được tồn tại sống động như một sinh thể độc lập. Chúng có
số phận riêng, luôn chuyển động song hành cùng đời sống chúng ta, tựa người
thân luôn có mặt để sẻ chia, tri ngộ trong từng hoàn cảnh cụ thể.
“Trước khi biết lòng tử tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều
thứ”.
Câu thơ trên của Naomi
Shihab Nye, được
ông viện dẫn, không còn là sợi dây mong manh nối giữa hai nền văn hóa Đông và
Tây, mà trở thành một triết lý sống và giác ngộ của con người. Nếu không đọc
kỹ, ai đó có thể cho rằng Nguyễn Đức Tùng đã viết lan man, viết như nhàn đàm,
tản mạn về thơ, và một số đoạn tựa như tùy bút, hồi ký... Đây là một chủ ý độc
đáo của tác giả, cố tình “buông lỏng dây cương” để “con tuấn mã” phê bình chạy
chậm lại nhặt những ngọn cỏ xanh non tự nhiên của thơ. Trong lời kết bài về thơ
Naomi Shihab Nye, ông viết: “Nếu điều này
làm cho bạn có chút nghĩ ngợi mông lung, ngay giữa một ngày bận rộn, chuyện này
lan qua chuyện khác, đó mới thật là thơ. Ngoài ra, thì không phải.”.
Tôi cảm nhận bàn
tay vô hình của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đang khéo léo gỡ những mối tơ duyên
bòng bong của đời sống vốn ẩn mật trong thơ, hoặc chỉ mới xuất hiện
qua lớp sương mù của nghệ thuật văn chương. Những mối nhân duyên ấy đan kết
lại, giờ đã được gỡ ra cho phân tán, bắt đầu những duyên khởi khác, quy tụ
trong những vận hội khác. Trong nhiều câu thơ, bài thơ khi được “gỡ ra” theo
cách của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, bạn đọc sẽ thấy ánh sáng tỏa ra mạnh hơn, dễ nhận biết hơn.
Từng tác phẩm của
mỗi nhà thơ trong cuốn sách này đều gắn với những kỷ niệm, thậm chí riêng tư
của Nguyễn Đức Tùng. Nó thực sự là những sẻ chia, nơi níu bám, có lúc là mộng
báo, là căn đế trong những biến động cuộc đời ông. Trong những ngày được ân
hưởng hạnh phúc, và cả trong những thời khắc được sống, phải sống..., Nguyễn
Đức Tùng đã được ánh sáng thi ca soi chiếu để ghi chép lại, vừa cẩn trọng và tự
nhiên, vừa ngẫu nhiên và chủ ý, để minh chứng cho những điều hết sức bình dị và
thiêng liêng của thơ ca.
3/2014
Bìa 1 và 4 cuốn sách “Thơ cần thiết cho ai”