Không gian phi biên giới trong thơ Pháp Hoan (phê bình) - Mai Văn Phấn

Không gian phi biên giới trong thơ Pháp Hoan

(Đọc tập thơ “Lịch mùa” của Pháp Hoan, Ajar press, 2016)

 

 

Nhà thơ Pháp Hoan

 

 

Mai Văn Phấn

 

Tập thơ “Lịch mùa” của Pháp Hoan dễ đọc nhưng khó nắm bắt được thần thái, ánh sáng trong đó. Dễ đọc bởi, cách biểu đạt của tác giả dung dị, ngôn từ dễ hiểu, tư duy mạch lạc và giọng thơ khá trầm tĩnh. Tuy nhiên, thơ anh khó thâu nhận bởi ánh sáng của nó thường trải rộng, rải đều vào một không gian mở và ít điểm lóe sáng. Có thể ví thơ anh tựa làn hương vừa ra khỏi bông hoa gặp cơn gió mạnh, tức thì bị cuốn đi, tản mát. Muốn cảm nhận đầy đủ tinh thần thơ Pháp Hoan, người đọc cần chuẩn bị một tâm thế ung dung, an lạc. Đó là không gian thơ thênh rộng bất tận, phi biên giới và để ngỏ mọi lối vào.

 

Không gian thơ phi biên giới, theo cách tôi nghĩ, là không gian không thể ước đoán thể tích, không giới hạn địa lý, không có đường chân trời. Không gian ấy được tạo nên bởi độ mở tưởng tượng, sức dồn nén cảm xúctạo ra lực đẩy khiến  hình ảnh chuyển động. Những hình ảnh thường vươn xa, bay trong mê lộ, không có điểm dừng.

 

Để kiến tạo không gian phi biên giới cho Lịch mùa”, nhà thơ Pháp Hoan đã sẵn mang tâm thế một thiền giả, sống trọn vẹn với giây phút hiện tại và thân tâm an lạc. Theo bối cảnh của mỗi bài thơ, vị thiền giả ấy xuất hiện trong những trạng thái thiền khác nhau, có thể thiền ngồi, thiền chấp tác (thiền khi làm việc), hoặc thiền hành (thiền khi đi). Trong bất kỳ trạng thái thiền nào, thiền giả ấy luôn an trú trong nội tâm tỉnh giác, quán tưởng mình đang hít thở ánh sáng thanh sạch, nhẹ nhàng. Đọc “Lịch mùa”, có cảm giác tâm trí và cảm xúc của nhà thơ đã mở ra không gian thênh thang, vô tận trước khi những thi ảnh xuất hiện. Do vậy, đến với thơ Pháp Hoan ta không nên tìm câu, đợi chữ, mà phải đọc toàn bài mới cảm nhận đầy đủ dung lượng không gian trong đó. Trong bài thơ “Tiệc mùa”, hình ảnh 

 

Bức tường đá ngôi giáo đường cổ kính

làm lạc hướng cơn gió

tách khỏi ngọn đồi cỏ” 

 

như không hề liên quan tới lũ chồn đột ngột xuất hiện ở cuối bài thơ. Nhưng một cảm giác viên mãn, được ân hưởng từ Đấng Toàn Năng đã phủ ngập bài thơ này. Chính xúc cảm mãnh liệt về điều thiêng từ Thượng Đế đã làm cho tất cả những hình ảnh xa nhau đến phi lý lại trở nên gắn kết hợp lý. Ta thật khó xác định bữa tiệc đặc biệt này được mở ra, trải rộng đến đâu:

 

“Lũ chồn đói tranh nhau gom góp

bữa tiệc mùa no đủ Chúa ban”. 

 

Trong một số bài thơ, Pháp Hoan chủ ý sắp đặt nhiều hình ảnh đan xen, chồng lấn nhằm tạo dựng không gian sâu với nhiều tầng bậc. Thủ pháp này khiến người đọc hình dung như đang xem một họa sỹ vẽ trên một tấm toan. Đầu tiên anh ta phủ lên đó một lớp màu, rồi lớp màu khác, lớp khác nữa. Những nét bút đưa ra bên ngoài khung tranh kia rất xa: 

 

“gió thốc và sương giá ngoài khơi

ta bơi đi cùng tiếng dội

sóng nhấn chìm tiếng nói

tôi quay đầu nhìn lại

những gì còn lại là hư vô

riêng từng con sóng trắng theo gió buốt tràn mãi vào bờ” (Tiếng gọi).

 

Tùy theo độ dài của bài thơ mà tác giả đặt vào đó số lượng hình ảnh cần thiết, được kết nối nhau bằng cảm xúc nhất quán. Trong bài thơ “Lịch mùa”, những hình ảnh lần lượt xuất hiện trong ngôn ngữ kể, tựa những hạt giống được tác giả gieo trên cùng một dải đất: chữ in hoa, đám mây trắng, vết chân chim, lớp tuyết, hạt mưa xuân, cỏ cây, táo dại trong đêm trổ hoa trắng, ong bướm, chim cu gáy, cầu vồng, mèo, đàn bà, đàn ông, biển… Nếu hình dung mỗi hình ảnh trong bài thơ là một hạt giống, thì những hạt giống đó nằm tách biệt trong những lỗ gieo khác nhau. Nhưng hấp lực cảm xúc của cả bài thơ đã cho người đọc mường tượng cả một cánh đồng cùng nảy mầm xanh tươi tốt. Đến đoạn kết bài thơ, tác giả cố ý khơi lộ ý đồ và cảm xúc để người đọc thấy được dung lượng hình ảnh cùng những điểm đã định vị trước đó: 

 

“Mặt hồ sáng nay thôi không còn xao động

và mây xám đã trở về trên những rặng thông

khắp bốn phía từng trang tuyết trắng mở ra

khi tờ lịch cuối năm bay đi trong gió chướng

 

Bài thơ khép lại, nhưng không gian trong đó vẫn tiếp tục mở ra theo tưởng tượng và cảm xúc của người đọc. 

 

Thủ pháp xây dựng hình ảnh theo kiểu “gieo hạt” trong giọng điệu tự sự như thế được Pháp Hoan vận dụng khá nhiều trong Lịch mùa”. Những hạt giống này thường ở trạng thái rời rạc, chuyển động ngắn và chỉ xuất hiện thoáng chốc rồi lại biến mất trong câu chuyện kể. Chúng được gieo và nằm yên trong đất chờ đợi sự đột biến của thời tiết khí hậu. Sự đột biến” ấy thường được Pháp Hoan cho xuất hiện trong câu thơ kết. Xin dẫn một số câu thơ kết mà Pháp Hoan đã gây ấn tượng mạnh để khai mở không gian: 

 

“một chú bé cưỡi trên lưng con gà trống

giữa đồng cỏ ngập sao

đang đi vào bức tranh của trời đêm tháng bảy” (Mưa);

 

“Một dòng sông nuốt chửng một dòng sông

một ý tưởng lấp đầy một ý tưởng” (Tĩnh tọa);

 

“trong bão táp quay cuồng giữa thế gian nóng bỏng

cả con tim khát vọng được mở rộng lần nữa đến vô cùng” (Nhạc mùa).

 

Trong tập thơ này tôi gặp khá nhiều câu thơ kết độc đáo, vang vọng. Câu thơ sau đây xứng đáng đứng độc lập thành một bài thơ hoàn chỉnh về một đêm mùa xuân thấm đẫm hương vị thiền: 

 

“Không gian yên tĩnh và vũ trụ tối nay thơm mùi lá

một chiếc cầu vồng u tối mở ra dưới chân dải ngân hà” (Mưa xuân).

 

Thơ Pháp Hoan mở ra không gian rộng lớn, dẫn người đọc đi xa theo tưởng tượng và kinh nghiệm của mỗi người. Những hình ảnh trong thơ Pháp Hoan luôn được tác giả sắp đặt trong tư thế chờ đợi. Chúng tựa con tàu nằm trên bệ phóng, vụt bay vào không trung lúc nào hoàn toàn là điều bất ngờ. Ngoài những câu thơ kết độc đáo, Pháp Hoan còn tạo sự chuyển động bất thường ở khổ thơ giữa. Bài thơ “Biến cố mùa đông” kể về một cuộc dạo chơi trong rừng của tác giả vào một sớm mùa đông, bất chợt anh nhìn thấy một thân cây già đổ xuống trên mặt hồ đóng băngBiến cố ấy đã xảy ra từ khổ thơ thứ hai của bài, khi thân cây kia đã làm nên một vết nứt chạy dài

 

“Và khi gió lạnh thổi về

mặt hồ phát ra từng tiếng động đứt đoạn

giòn và khô

như tiếng xương gãy

 

Những tiếng động đứt đoạn trong bài thơ đã gợi cho bạn đọc thấy số phận những đời cây khác. Bài thơ tựa giếng sâu, mỗi lần đọc tôi như được múc từng gàu nước nhỏ, càng múc nước giếng càng thêm trong mát. Trong bài thơ “Giấc mộng đầu đông”, tác giả cho tiếng sấm vang lên ở khổ thơ giữa làm cả không gian bất ngờ chuyển động, kéo theo hàng loạt diễn biến kỳ thú:

 

“Bất chợt có tiếng sấm động trên bầu trời

Bầy ngựa trắng vội vàng trở lại bên trong những giấc mơ

Nhưng con bé nhất chậm chân không về kịp

Trước khi tôi thức giấc

 

Nó chồm lên trong dáng vẻ hãi hùng

Rồi hóa thành bông tuyết đầu tiên rơi vào bầu trời mùa đông.” 

 

Đây là bài thơ hay nhất trong tập thơ này. Giấc mộng nơi bài thơ không chỉ đơn thuần đến với tác giả trong giấc ngủ, nó chính là giấc mộng tỉnh thức của nhà thơ trùng hợp và đồng nhất với chuyển dịch của thiên nhiên, thời tiết. Pháp Hoan vận dụng thủ pháp gây đột biến ở giữa hoặc cuối bài thơ như thổi linh hồn vào những hình ảnh rời rạc, xa nhau làm chúng chuyển động như không có điểm dừng. Anh đã áp dụng thủ pháp gây đột biến này rất thành công trong việc mở ra những không gian phi biên giới cho nhiều bài thơ của anh. 

 

Kiến tạo không gian trong thơ Pháp Hoan có sự khác biệt rõ nét so với thơ của các tác giả đương đại. Theo khảo sát của tôi, phần lớn không gian thơ của các tác giả đương đại đều có biên giới, hoặc là không gian mở nhưng có thể ước định được ranh giới trong đó. Các tác giả ấy có chung cách tạo điểm nhìn, tựa như người đi tìm nguồn nước ngầm trong lòng đất. Họ đặt “mũi khoan” tại một tọa độ, rồi khoan sâu tới khi chạm được mạch nước. Xin lấy bài thơ “Đêm trong vườn” của nhà thơ Ly Hoàng Ly, một trong những bài thơ mà tôi rất ấn tượng để dẫn chứng về một không gian thơ có biên giới. Những hình ảnh trong bài thơ của Ly Hoàng Ly lần lượt sáng lên, chuyển động phức hợp mở ra không-thời-gian nhiều chiều, và khổ thơ kết của Ly Hoàng Ly dồn nén cảm xúc tới cao trào, cho ta thấy một quả cầu lửa đang trôi trên phông nền thẫm tối:

 

“Đợi đêm lên tới ngọn

Đợi cảm giác tồn tại lên tới ngọn

Lên tới ngọn của đêm

Lấy xác hoa

Xoa vào trăng

Trên ngọn đêm”. 

 

Cách tạo dựng không gian của Pháp Hoan khác với Ly Hoàng Ly. Nhìn chung thần thái thơ Pháp Hoan không ngự trị trong câu chữ cụ thể mà nằm trong hấp lực toàn bài. Trong bài thơ “Xuân” của anh, câu thơ đầu tiên gợi cho bạn đọc hình dung bước chân của một thiền giả đang khoan thai đặt lên mặt đất, thiên nhiên sáng nay tụ tập quanh vườn lắng nghe hoa táo nở. Tiếp theo đó, tác giả cho hình ảnh con rắn lục và bướm trắng xuất hiện. Tất cả hiện đến tự nhiên và nhẹ nhàng như một hơi thở. Rồi bất ngờ tác giả đưa bạn đọc tới một vị trí khác, khá xa trong không gian xuân của anh. Khổ thơ đầu chuyển sang khổ thơ thứ hai này như không hề có vết nối nào: 

 

“không nhà, không quê hương

thiền tăng ngủ quên bên bờ suối

mơ thấy mình là cây anh đào

nở ra dưới bầu trời đầy sao...” 

 

Khổ thứ ba cũng là khổ thơ kết, một cảnh giới lạ lùng lại tiếp tục hiện ra. Lúc này, tác giả đã hé lộ ý đồ và cảm xúc, tựa như người buông tay cho quả khinh khí cầu lơ lửng bay lên:

 

“bên trời phương ngoại linh hồn bay đi như một cánh bướm

để cảnh giới mộng mãi lượn lờ trên mặt hồ”. 

 

Ở đây, người đọc không thể hình dung “biên giới” của “Xuân” nằm ở đâu. Ánh sáng trong suốt của nó như đang ngấm xuống từng tế bào, ngấm vào vạn vật trong bầu không thanh sạch và an tịnh. Ánh sáng ấy lan xa và không bị ngăn cản bởi bất kỳ ý nghĩ hay cảnh vật nào. 

 

Bài thơ “Mùa xuân sau một cái chết” là một thức tỉnh về một cõi khác, kiếp khác. Ở đây khái niệm về sự chết đơn thuần là một sân ga chuyển tiếp của một con tàu sẽ qua nhiều ga khác, mà cõi tạm trên dương gian này là một chặng đường hiện hữu. Nhân vật tôi trong bài thơ đã phân thân để con mắt thứ ba xuất hiện trong làn ranh âm dương, cho ta thấy được những điều tuyệt đẹp hiển hiện trong cả hai thế giới cách biệt. Những bông hoa hé nở từ khắp nơi trên thân thể một cái chết đã bị phân hủy. Cũng nhờ những bông hoa đang làm tâm tư tôi trở nên bấn loạn mà người đọc hiểu rằng cái chết đã được phục sinh và bất tử cùng với mùa xuân đang hiện hữu. Câu kết của bài thơ là trạng thái khi linh hồn và di cốt của cái chết hóa thân thành mùa màng, cây cỏ: 

 

“Bất chợt tôi nhớ ra là mình đã qua đời vài năm trước đó

và tấm thân bây giờ là mảnh đất màu mỡ cho đám hoa lá mùa xuân.” 

 

Tôi tưởng tượng trong bài thơ này có hai không gian, âm và dương được giáp nối vào một trục, đó chính là một cái chết. Từ cái trục này mở ra hai phía khác biệt của hai không gian bất tận, không có điểm dừng. 

 

Trong bài thơ “Thu”, những hình ảnh lại được tác giả sắp đặt tựa một xô nước đầy tràn ra mọi hướng, lan chảy trên mặt đất: 

 

“tôi nằm yên nghe gió cuốn lá rơi trên đầu

tôi nằm yên nghe lời thở than từ biển cả

dưới lòng đất sâu nước đang reo lên vui sướng

có tiếng súng nổ đâu đó trong rừng khô mùa thu

và đâu đó tiếng dã thú kêu gọi cái ác trong lá mục.” 

 

Đoạn thơ đã cho bạn đọc thấy được mọi giác quan của nhà thơ mở ra để cảm nhận dòng chảy bất tận của sinh lực vũ trụ. Hình ảnh tôi nằm yên nghe phải chăng là tư thế của thiền buông thư, đưa thân tâm về trạng thái nghỉ ngơi, được chữa trị và hồi phục. Lúc này nhà thơ quán tưởng về một thế giới an lạc, gửi tình thương yêu lần lượt đến từng tế bào, vạn hữu. 

 

Thủ pháp xây dựng không gian phi biên giới đã tạo được phong cách thơ độc đáo, phóng khoáng và trải rộng, khá ấn tượng ngay từ tập thơ trình làng này. Song nếu thủ pháp ấy được sử dụng nhiều lần, hoặc cảm xúc mạnh mẽ không được duy trì, ý tưởng không đột khởi, thì lại dễ gây cho người đọc cảm giác đơn điệu, mờ nhạt. Trong các bài thơ “Chiều ngang của cuộc đời”, Nhà thơ nghèo”, “Tôi vừa mới chào đời”, theo cảm nhận của tôi, tác giả đã lập tứ cầu kỳ, cảm xúc chưa tới độ, chưa có câu thơ hay đủ sức dẫn dụ người đọc vào không gian riêng biệt. Tuy vậy, về tổng thể, “Lịch mùa” vẫn là tập thơ hay đặc sắc, mang đến cho đời sống văn học một giọng thơ mới, khoáng đạt, gợi mở.

 

Pháp Hoan còn rất trẻ, anh sinh năm 1992, tại xã Sơn Mỹ, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. Anh tu học Phật giáo tại Việt Nam, xuất gia từ lúc 15 tuổi. Từng sống và làm việc tại viện Phật học ứng dụng châu Âu (CHLB Đức). Từng dịch nhiều thơ của các nhà thơ uy tín của Âu-Mỹ từ tiếng Anh, tiếng Đức sang tiếng Việt, Pháp Hoan có kiến văn rộng, say mê hội họa và âm nhạc, sống kín đáo và khiêm nhường. Nền tảng vững vàng và phong phú ấy đang tạo cho anh nội lực mạnh mẽ để dấn thân, cũng như sẽ vượt qua được những kinh nghiệm quen thuộc trong sáng tạo. Nhà thơ Pháp Hoan, theo cảm nhận của riêng tôi, chắc chắn sẽ mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ hơn nữa trong những tập thơ tiếp theo.

 

25/10/2017

 





















BÀI KHÁC
1 2 3 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị