Dấu chân trên hành trình tuyệt mù (phê bình) - Mai Văn Phấn

Dấu chân trên hành trình tuyệt mù

 

 

 

Nhà thơ Trần Tuấn

 

 

Mai Văn Phấn

 

 

bước chân chúng ta chậm hơn sự dừng lại

Trần Tuấn

 

Dừng lại, là vận tốc tức thời bằng không. Vậy sao lại có khái niệm chậm hơn nó? Đó có lẽ là câu hỏi thông thường của một người “bình thường” ở cõi thực. Nhưng với cõi thơ Trần Tuấn, đấy có thể lại là câu hỏi ngây ngô của kẻ viễn hoặc cận thị, kẻ mù màu... Vậy hãy khua cây gậy dò đường của bạn lên đi, sẽ thấy, bên dưới, bên cạnh hay phía trên mặt đường kia còn nhiều mặt đường khác nữa. Và thấy bên trong, đằng sau, hoặc xa hơn giọng nói kia còn có những âm sắc mang thông điệp khác nữa. Đọc “chậm hơn sự dừng lại”, tập thơ thứ ba[2]  của nhà thơ Trần Tuấn, tôi nhận thấy, không phải một thế giới mà nhiều thế giới với những chuyển động phi lý, hỗn cực đang ẩn giấu, giao thoa làm nên một cõi thơ khác lạ.

 

“trên con đường mù u

trôi tuyệt mù”.

 

Đó là câu mở đầu tập thơ của Trần Tuấn, dẫn lối cho tôi thung dung đi vào xứ tuyệt mù này. Điểm chạm đầu tiên, dễ nhận thấy, là thế giới phân cực trong “chậm hơn sự dừng lại”, vừa quen vừa lạ. Quen, vì nó vẫn được soi tỏ bằng ánh sáng trần thế, minh bạch và phơi mở trong hệ quy chiếu được đo bằng tần số, hình khối, kích thước thông thường. Lạ, vì cốt lõi của nó đã bị bóc tách khỏi nó, bị cắt trụi chùm rễ từng nuôi dưỡng nó. Nó trở nên cô lẻ, trơ trụi trong một không gian không có điểm đặt, không thể xác định. Nó tồn tại như đơn độc, chuyển động xuyên thấu qua những đồ vật khác, cuộc đời khác, thế giới khác. Những hình ảnh sau đây trong bài thơ cô đơn cô độc cho người đọc thấy được tính phân cực của từng đơn vị hình ảnh trong “chậm hơn sự dừng lại”: 

 

hạt bụi cô đơn với hạt bụi

ngón chân cô độc với bàn chân

 … con chữ cô đơn với hàng chữ

… ánh sáng cô độc với ngọn đèn

… nước cô đơn trong giọt nước

muối cô độc với đại dương…”

 

Tính phân cực này đã làm cho những tứ thơ Trần Tuấn hiện sáng trong không gian mở rộng, mặc dù chúng được quan sát dưới một lăng kính khác thường, tôi tạm gọi đó là những góc nhìn nghiêng. 

 

Cây cầu thang cũng đang bước đi

ra ngoài thế kỷ

khỏi mặt đất đang lún dần, tan chảy.” (tiếng bàn chân trên cầu thang).

 

Góc nhìn nghiêng trong thơ Trần Tuấn cho ta thấy những cái hỗn mang và phi lý trong tập thơ và trong chính tiêu đề của cuốn sách, “chậm hơn sự dừng lại”, bỗng thành hợp lý. Cái chậm của đơn cực này được so sánh với sự dừng lại của đơn cực khác hay đa cực. Ở phía khác ấy, sự dừng lại, có thể đang tồn tại, phát sinh trên cùng một bản thể với những chuyển động của cái chậm lại đó. Tiêu đề này mang nội hàm tất cả đều chuyển động, dù có thể được miêu tả trong trạng thái bất động. Còn những chuyển động kia đang đi về đâu, kết cục thế nào xin tùy độc giả ước đoán. 

 

Tiếp đến là thế giới hoán chuyển, hóa thân. Trong tập thơ của Trần Tuấn, tôi cảm nhận có con mắt của hệ quy chiếu khác từ thế giới xa lạ luôn dõi theo, tác động và chi phối mọi chuyển động trong đời sống chúng ta. Trong bài thơ “đợi nước đang sôi”, nhà thơ 

thấy mình được pha trà

được rót

vào cái chén cũ

nghi ngút khói

hương vị thân thể

cứ thế

đang ngồi uống tôi”.

 

Con mắt “xa lạ” này xưng tôi, cái tôi thi sĩ, nhưng nó tồn tại bên ngoài cơ thể, bản thể của Trần Tuấn, có lúc lại như đồng hành với thái độ bình tĩnh và lạnh sắc: 

 

chạy trên dòng sông chảy ngược

sông lao vào người

xuyên qua tôi

trôi không dấu vết” (trên dòng nước hồi xuân).

 

Vẫn bài thơ ấy, nhưng nhân vật tôi kia có lúc bịn rịn, nao nao với thế thái nhân tình: 

 

thả bộ dưới lòng sông

trong u ơ mùi vị của gió

ướp qua nhiều ánh sáng

thời gian mắc lưới lòng sông

thấy mình già đi rất nhanh

trong ma sát mịn màng kiếp khác”

 

Vậy những thế giới tiếp nối, chồng lấn, giáp mối trong “chậm hơn sự dừng lại” có đường biên không? Có, và khá đa dạng. Cái ranh giới ấy thường mong manh và chỉ xuất hiện khi bắt đầu một chuyển động: 

 

nằm trong cơn mơ

tôi co một chân

định bước qua vũng tối

rồi mờ dần nhẹ dần

chân bước

sang một cơn mơ nào khác” (tôi có sợ tôi không?).

 

Thế giới thơ Trần Tuấn thường có lớp nang, dịch chuyển chậm, tuần tự. Trong bài thơ “đứa bé, đống củi và thị trấn” có ba nhân vật, nhưng khắc họa đủ diện mạo của đời sống, ở cả hai cõi âm dương. 

 

thị trấn trôi theo dòng sông đất

đống củi trôi trong thị trấn

đứa trẻ trôi trong đống củi”.

 

Những hình ảnh trong bài thơ xuất hiện tựa một đoạn phim câm quay chậm trong lời kể trầm tĩnh, từ tốn, có phần mệt mỏi của nhà thơ. Tôi tưởng tượng ba nhân vật vừa nói được lồng vào nhau tựa một thân cây có ba đường vân gỗ, ba lớp vỏ. Cái cây này chôn chân trên mặt đất, ngỡ được đứng yên, nhưng thực ra nó vẫn quay cùng trái đất với mọi thời tiết, mùa màng. Những tấn trò đời luôn diễn ra quanh nó, trong nó, diễn cả với những linh hồn ở bên kia thế giới. Hình ảnh đứa bé được nhà thơ vẽ ra trên phông nền mờ nhòe làm ta ngỡ như nhìn thấy nó qua một tấm kính đã ố mốc, bị hấp hơi nước: 

 

thị trấn đang mỗi ngày lún

dần xuống

… những đứa bé chết non

… bóng nó đang nằm trên đống củi

già đi”. 

 

Nhân vật đứa bé còn xuất hiện đôi lần trong những bài thơ khác của tập thơ này. Nó là biểu tượng của sự sơ sinh, chớm nở, nảy mầm của hạt giống ước mơ. Nó mang hình tướng bấy bớt và run rẩy trong xứ tuyệt mù, trong lẫn lộn sáng tối, thổn thức và mộng mị. Trong bài thơ “ngó lên xã tắc hai hàng mù u”, nhà thơ viết: 

 

những đêm thằng bé mơ

trên con thuyền mù u

trôi tuyệt mù”.

 

Hoặc trong bài “và một đường đạn bay”, hình ảnh đứa bé hiện ra bơ vơ nhìn con chim không lối thoát. Trong không gian hoang lạnh, con chim nằm trong tầm ngắm – đích đến của viên đạn: 

 

thằng bé không thể kêu lên báo động

họng nó đang ươm mầm một hột mù u”.

 

Trong bài thơ “cái chết”, nhà thơ viết về cơn tự tử tập thể của những đứa trẻ con, đó chính là 

 

cuộc săn cuồng loạn dồn đuổi chúng ta

ra khỏi đường biên ra khỏi vô biên

không còn chung nhau

chia nhau một thế giới và nhiều thế giới

dù đó dễ như là cái chết”

 

Trong đa dạng thế giới thơ Trần Tuấn, sự chết được xuất hiện với tần suất cao, sống động nhất. Những linh hồn, dòng ký ức còn sót lại đã quay về tra vấn, muốn chế ngự cái thế gian mà chúng đã từng khuynh đảo. Chính nơi ấy, chúng đã nếm trải mọi đắng cay, được hưởng lợi lộc quyền uy, từng lừa lọc, bị lừa lọc, từng lục vấn, bị lục vấn, từng truy sát, bị truy sát…: 

 

mới hôm qua đang hôm nay đương lúc này

luôn bị nhốt

trong trạng thái thông thường là chết”. (đò máu).

 

Cái chết, hình ảnh hiện lên trên chuyến đò máu ấy đã dựng lại một phần bức chân dung lịch sử. Phải chăng lịch sử hay chính những chân dung âm bản đời sống đang diễn ra trước mắt chúng ta? 

 

chỉ chúng ta những kẻ

mang hình hài cơn u mê giãy giụa

ngày mỗi ngày

xòe tay ra

chôn vào đó nấm mồ”.

 

Hình tướng cõi chết trong thơ Trần Tuấn mang rất nhiều dáng vẻ. Chúng là những hoa vân tay từ bàn tay của những xác chết, là 

 

những con chữ tan hàng lồng chạy

bứt khỏi bãi rác sách mù tối chất cao (chữ),

 

là 

 

những đám đông mù lòa hò hét

bủa lưới vây lòng hồ thối ngạt

qua rừng đạn dùi cui

chết chết chết”. (rắn).

 

Nhà thơ Trần Tuấn đã chia sẻ với nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: “Tôi làm thơ như viết truyện ngắn, có đầu, có cuối. Tôi viết trong những lúc không tỉnh táo nhất. Tôi làm thơ trong bóng tối, trong những lúc lơ mơ, vô thức... Tập thơ mới này, tôi viết nhiều về cái chết. Chúng ta sống không thể thiếu cái chết được. Tôi chọn cách đối diện với cái chết...[3]. Cái chết trong chậm hơn sự dừng lại” được Trần Tuấn phục dựng bằng nhiều bút pháp độc đáo, lạ lùng. Đôi khi cái chết hiện ra tuyệt vọng, thảm khốc, làm đảo lộn thế giới: 

 

ngộ độc tập thể địa cầu

từng con người rụng như chiếc lá không còn mặt đất bên dưới

quê hương tôi rụng xuống như chiếc lá không còn mặt đất

bên dưới

tôi ngã xuống như hạt phấn hoa già”. (cái chết).

 

Nhiều khi cái chết được nhà thơ khắc họa bằng nét bút sắc lạnh với thái độ trầm tĩnh, ví dụ trong các bài thơ “khoét vòng sọ não”, “thở”, “cái chết”… Khi cái chết được tác giả miêu tả lạnh lùng, tự nhiên bao nhiêu, thì chúng càng trở nên kinh hãi, ám ảnh bấy nhiêu. 

 

một lỗ đen đang hút lấy toàn bộ hơi thở tôi

tôi đã chuyển sang thở bằng ý nghĩ”. (thở); 

Kê súng bắn xuyên qua thái dương

người thợ săn vừa kêu thảng thốt

– dậy đi thôi

không phải mơ mà chúng ta đang chết”. (bóng tối); 

cái chết thành con mồi của cuộc săn giấc mơ

hay giấc mơ – con mồi của cuộc săn cái chết” (cái chết). 

 

Trong “chậm hơn sự dừng lại”, cách tạo dựng không-thời-gian đa phương, đa cực chính là đặc trưng thi pháp thơ Trần Tuấn. Tôi xin dẫn nguyên văn bài “ký ức”, một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách của nhà thơ để làm rõ thêm nhận định này.

 

ký ức

 

trong ký ức già nua

cánh đồng vẫn đang đi ngọn cỏ vẫn đang đi

 

nhưng chậm hơn sự dừng lại

 

có những giây nghìn lần thức giấc

có những đời không một lần mở mắt

nỗi hoan lạc đớn đau của sự trở về

không bằng đôi chân người mà tự đôi chân thời gian quay tìm lại.

 

Bài thơ với tiết tấu chậm, hình ảnh sáng rõ và ít có những chuyển động hỗn độn. Ở đây ký ức vào vai nhân vật chính, xuất hiện duy nhất một lần. Bài thơ này giống như phần lớn các bài thơ khác của Trần Tuấn, thường có tính truyện, giọng tự sự chậm rãi, khoan hòa. Sang câu thơ tiếp theo, câu thứ hai của bài thơ, hai hình ảnh cánh đồngngọn cỏ đã đưa bạn đọc sang một không gian, thời gian khác. Không gian này được lồng trong không gian của ký ức trước đó, nhưng cánh đồngngọn cỏ chuyển động với nhịp điệu khác, vận tốc khác. Sự chuyển dịch này tựa một người nhẹ nhàng tự rút cánh tay mình khỏi ống tay áo và làm tay áo rỗng không. Hành động ấy khiến ký ức sâu hun hút khi nó đã già nua, ở đây, người đọc có cảm giác ký ức ấy gần như dừng lại. Do có sự chuyển động lệch pha giữa hai thế giới trong hai câu thơ liền kề, nên câu thơ thứ ba đã xuất hiện để lý giải cho hiện tượng lạ lùng trên: “nhưng chậm hơn sự dừng lại”. Câu thơ mang hồn cốt của cả bài thơ, trở thành tiêu đề cho tập thơ nàyĐoạn thơ tiếp theo là những hình ảnh được tác giả liệt kê nằm trong mạch tự sự. Những giây, những đời, nỗi hoan lạc đớn đau có thể ví như những đốm lửa được nhà thơ thắp lên trên ranh giới mờ nhòe của hai không gian, hai thế giới đã được mở ra từ đầu bài thơ. Đặc biệt, hình ảnh nỗi hoan lạc đớn đau đã làm cho nhân vật thời gian tự quay về tìm lại chốn cũ bằng chính đôi chân của nó. Bài thơ kết cấu với nhiều không gian xa, rời rạc được giáp mối lại, nhưng mở cho ta nhiều liên tưởng mới lạ về cõi nhân sinh. Cho ta cảm nhận về ý nghĩa đời sống trong những hiện tượng tưởng chừng thoáng qua, cả sự mục ruỗng của những điều ngỡ như bất tử. 

 

Cách tạo dựng hình ảnh từ đa chiều không-thời-gian đã đánh dấu sự thành công của Trần Tuấn, nó trở thành đặc trưng thi pháp thơ của ông qua tập thơ này. Để duy trì được lối viết ấy, tác giả luôn giữ được phong độ ổn định với những ý tưởng mới mẻ và cảm xúc mạnh. Cũng có đôi bài trong tập thơ, theo thiển ý của tôi, có thể mở rộng các chiều không gian xa hơn. Xin ví dụ bài thơ “nhai đêm”, ở đây bạn đọc vẫn chờ đợi, vẫn thèm được tác giả dẫn đi thêm một chặng nữa.

 

Cụm từ chậm hơn sự dừng lại còn được tác giả sử dụng trong phần lớn những bài cuối tập thơ. Mỗi lần nó xuất hiện như đánh dấu từng bước sóng trên dòng trôi vào xứ tuyệt mù

 

gió vẫn thổi

nhưng chậm hơn sự dừng lại” (gió); 

 

bước chân chúng ta chậm hơn sự dừng lại” (mùa); 

 

nước – chảy chậm hơn sự dừng lại

qua gương mặt chúng ta

gương mặt chúng ta đã dừng lại quá lâu” (nước); 

 

hay theo chiều ngược lại

trên thời gian

hành hương về rừng già

và chậm hơn sự dừng lại” (những ngón chân di động); 

 

cuộc săn

chậm hơn sự dừng lại” (chữ); 

 

cái chết

chậm hơn sự dừng lại” (cái chết). 

 

Trong bài thơ thi thể như là một vật dụng, nhà thơ xưng tôi chứng kiến cuộc viễn du về xứ tuyệt mù của con thuyền mù u. Đây là thời khắc nhà thơ tỉnh dậy trên con tàu hôn mê đã mất liên lạc với sự chuyển động. Mọi dịch chuyển trong bài thơ này đều lệch pha, lệch thời gian theo quy luật thông thường. Ở đây, nhà thơ nhìn thấy con tàu đang trôi kia bằng

 

“hình ảnh của những thân cây mù u trầm mặc trên rừng

bằng chiếc đinh sắt người thợ rèn chưa kịp rút ra khỏi lửa”.

 

Như vậy ở một thế giới khác, nhìn từ hệ quy chiếu khác, những thân cây mù u, chiếc đinh sắt dịch chuyển chậm, chiếc la bàn rỗng chưa được hoàn thiện, cánh buồm mới chỉ là những sợi bông lơ đãng trên đồng. Tất cả đều chuyển động chậm hơn khát vọng của con người. Những hình ảnh này cho chúng ta rất nhiều liên tưởng gợi mở. Phải chăng để có được một đời sống, một thế giới hài hòa trong an lạc, hạnh phúc, con người cần những chuyển động khác, với nhịp điệu và vận tốc khác? 

 

Đọc “chậm hơn sự dừng lại” tôi nhận thấy Trần Tuấn không chuyên tâm sử dụng các thủ pháp của trào lưu hiện đại. Tứ thơ của ông thường được thiết lập bằng ngôn ngữ trần thuật dung dị và không quá sa đà vào cách nói của siêu thực, tượng trưng. Dung lượng hình ảnh cũng được ông tiết chế tối đa, chỉ đủ để “mở khóa” vào không gian thơ vốn huyền hoặc của ông. 

 

thị trấn

như thiếu phụ

đang mỏng dần

nhẹ dần

trôi theo chiếc khăn choàng” (gió).

 

Tôi ấn tượng và thích thú với cách tự sự này, bởi nó được biểu đạt tối giản mà vẫn diễn tả được những trạng thái mơ hồ, đan xen nhiều ý tưởng mới lạ. Thủ pháp giễu nhại, liên văn bản của hậu hiện đại cũng được nhà thơ sử dụng hợp lý, sáng tạo trong tập thơ. Trong loạt bài mang tiêu đề “rằng thì là mà, là..., hay những bản tin rời”, cụ thể như “một con đường nở mãi chiều ngang”, “nhà của chủ nhiệm Thì Là đã ở giữa đường”, “chuyện Rằng”, “đạp lên mắt ngã vỡ mặt”, thì tính phiêu du, mộng mị đã được nhà thơ tiết chế, thay vào đó là những hình ảnh của đời sống được phô bầy ngổn ngang, lộn xộn, bất chấp mọi quy ước. Ở đây, tác giả sử dụng cách nói phóng dụ, tưng tửng để khắc họa một góc của đời sống đương thời, nhếch nhác và kệch cỡm. 

 

nguồn tin riêng cho biết, cách đây khoảng chục năm ông này đã tìm cách bẩy bằng được một gia đình chính sách nằm trước mặt mình đi chỗ khác chơi”. (nhà của chủ nhiệm Thì Là đã ở giữa đường); 

 

loại vai rớt này rất lạ

như có thể Rứt Thịt Làm Mắt, khiến Râu Thành Lông Mu, Rốn Thọt Lên Mồm, Rối Tinh Long Mạch”. (vai rớt lạ RTLM).

 

Đôi khi nhà thơ mượn cách nói phản đề của dân gian hiện đại để bóc mẽ cái xấu, cái giả dối được che đậy bằng sự tử tế, bằng những mỹ từ: 

 

thế nên dân ở Rằng mới có kiểu nói với nhau

thằng ấy nói thế (có mà) tin bằng mắt

con ấy từ thiện (có mà) bằng mắt”. (đạp lên mắt ngã vỡ mặt).

 

Xin lưu ý, rằng, thì, là, mà là những từ đệm trong tiếng Việt. Tác giả đã sử dụng chúng làm tên gọi người, gọi miền đất nhằm mục đích giễu nhại, gây hài, hoặc cố ý đánh tráo những khái niệm nghiêm ngắn với sự bông phèng, tầm phào trong đời sống giả dối, ô hợp. Ý tưởng liên thông trong chùm bài “rằng thì là mà, là” được tác giả xây dựng như một vở kịch, mà những từ đệm chính là các vai diễn. Điều lạ lùng đến phì cười là, 

 

nhưng rốt cuộc chẳng ai biết

có một cái lưỡi đang đi mãi dưới lòng đất từ Rằng đến Thì Là đến Mà

đôi khi

luồn cộm cứng trong quần” (vai rớt lạ RTLM).

 

Vở kịch của những từ đệm mà chúng ta được xem đã tới cao trào. Đó là một màn diễn với phông cảnh hỗn độn, bát nháo với những diễn viên bôi mặt trắng đen nhòe nhoẹt chạy qua sân khấu: 

 

nhà cửa ở Rằng cái này ủ lên cái kia

trường ủ

lên chợ, chợ ủ lên chùa

người

ủ lên nhau như cây cải

héo muối” (chuyện Rằng). 

 

Chỉ riêng tiêu đề tập thơ đã thể hiện nội lực sáng tạo mạnh mẽ cùng quan điểm thẩm mỹ của nhà thơ. “chậm hơn sự dừng lại”, phải chăng là khoảnh khắc bất kỳ trên hành trình tuyệt mù mà nhà thơ đo được bằng chiếc đồng hồ “đặc dụng”. Hoặc có thể, đó lại là một kết cục, khi những chuyển động trong thế giới thơ Trần Tuấn dừng lại đột ngột, như một thành phố bất ngờ bị đóng băng đông cứng. Sự đóng băng khi ấy dành cho cả những khát vọng, ẩn ức, ước mơ…, mà nó từng điều khiển những hình tướng, mọi chuyển dịch. Xứ tuyệt mù mà nhà thơ hướng tới, theo tôi, có thể là ánh sáng mơ hồ mà nhà thơ mong đợi cuối đường hầm, là thất vọng sau những hy vọng, rồi lại thất vọng. Là sự phân rã, hội tụ, và được sắp xếp lại trong một trật tự khác.

 

Những chuyển động trùng phức, hỗn tạp ấy đã vẽ ra đường biên thơ Trần Tuấn, trong đó, dấu chân thời gian của nhà thơ luôn có mặt khắp mọi nẻo, mọi ngóc ngách trong không gian thơ của ông. Những hình ảnh đặc trưng trong đó luôn mang dấu ấn, được dịch chuyển bằng đôi chân thời gian theo hệ quy chiếu của riêng ông. Đó là hệ quy chiếu không-thời-gian của

 

con đường

đang rút dần khỏi những bàn chân của đoàn hành hương

cho đến khi họ không còn mặt đất”.  

 

18/10/2017

 


_________________________

[1] Tên tập thơ và các bài thơ trong tập, tác giả Trần Tuấn không viết hoa.

[2] Trước đó Trần Tuấn đã in hai tập thơ, “Cầm gió” (Nxb Đà Nẵng, 1998) và “Ma thuật ngón” (Nxb Hội Nhà văn và Công ty sách Bách Việt ấn hành, Giải thơ Bách Việt 2008).

[3] Nguồn: Báo Đà Nẵng cuối tuần, 16/09/2017

https://baodanang.vn/channel/6062/201709/tho-2570859

 

 

 

 





 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 5 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị