Thức với miền hương của Nguyễn Đình Di (phê bình) - Mai Văn Phấn

Thức với miền hương của Nguyễn Đình Di

(Đọc tập thơ “Miền hương thức” của Nguyễn Đình Di, Nxb Thế giới, 2017)

 

 

Nhà thơ Nguyễn Đình Di

 

 

Mai Văn Phấn

 

Miền hương thức”, tập thơ thứ sáu của nhà thơ Nguyễn Đình Di vừa ra mắt bạn đọc. Phần lớn những bài trong tập thơ này được tác giả viết khi đang chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo trong điều kiện khắc nghiệt của cuộc mưu sinh thường nhật. Những câu thơ như dòng sông bí ẩn – một câu thơ trong bài thơ “Ai biết” của thi tập này – đã làm nên mạch nguồn sáng tạo, nuôi dưỡng tâm hồn ông. Mỗi bài trong tập thơ đã nối những vòng tay thân ái của những người thân, bè bạn gắng làm nguôi dịu nỗi đau thân xác, đưa ông về với thi giới đắm mê mà thức tỉnh của ông.

 

Tôi cũng như bao người đọc đã nghẹn ngào, thắt ngực đọc liền mạch tác phẩm “Miền hương thức”, chứng kiến những cơn đau bệnh khiến nhà thơ bầm giập giữa sự sống và cái chết, làm tâm thần ông có lúc nhập nhòa giữa hư và thực, sáng và tối, mê man và thức tỉnh. Cái hệ lụy khủng khiếp ấy khó ai vượt qua được mà không thoáng phút giây bi phẫn, buông xuôi. Từ những nguyên cớ ấy có thể thấy, nội lực sáng tạo, đặc biệt cảm xúc thi ca trong tập thơ “Miền hương thức” của Nguyễn Đình Di không còn mạnh mẽ, phát sáng như những tập thơ đã từng công bố trước đây[1]. Cũng không thấy bài thơ nào ngang tầm với “Khấn gọi cây”, một tác phẩm đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Di trong làng thơ Việt đương đại, đặc biệt thơ Hải Phòng sau 1975. Bất chấp hoàn cảnh, Nguyễn Đình Di vẫn luôn giữ phong thái ung dung, tự tin và cốt cách thi sĩ, được thể hiện trong từng trang viết, trong cách sống, cách ứng xử với mọi người. Khi kết nối những câu thơ hay của ông trong “Miền hương thức”, ta vẫn đủ hình dung một chân dung thi sĩ Nguyễn Đình Di đắm mê, ngơ ngẩn, hết mực chân thành.  

 

Trong lời đề từ tập thơ “Miền hương thức”, ông viết:Với tôi, thơ là ân huệ nhận được ở miền thương yêu thức tỉnh. Tôi không thể đoán biết đức tin tôn giáo của Nguyễn Đình Di, nhưng những câu thơ ám gợi, tràn ngập ánh sáng của lòng nhân từ, niềm khát khao hy vọng vào một tương lai hạnh phúc an lành trong tập thơ đã cho tôi thấy được triết lý sống, triết lý sáng tạo của ông.

 

Xin một ngày biển động

Gọi cánh trăng mở buồm” (Lời ngỏ).

Ngăm ngăm mặn gió vô thường

Lênh thênh nắng mọc dọc đường lá bay” (Lời tạ mùa đông)

 

Có thể nói, phủ ngập trong cõi thơ Nguyễn Đình Di từ tập thơ đầu tay “Giấc mơ cây” (Nxb Hải Phòng, 2001) đến nay là tình thương yêu con người, thiên nhiên, vũ trụ. Tình yêu ấy giờ đã được lắng lại trong thơ ông thành phù sa tươi tốt cho cánh đồng người:

 

Lặng yên…

Lặng yên…

Lặng yên…

Hình như ai gọi ở miền cỏ thơm” (Gọi).

 

Lòng yêu thương con người, từ những người thân thương gần gũi trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp tới những người dưng xa lạ vẫn luôn là ánh sáng lan tỏa, là tiếng vọng từ trái tim tới trái tim trong “vương quốc” thơ của ông:

 

Liêu phiêu giăng sợi nắng vàng

Buộc bao nhiêu gió vắt sang vườn người” (Chiều gọi);

 

Sau những lan man này

Thương yêu còn thăm thẳm

Tin lắm chốn an lành

Ánh nhìn ăm ắp nắng” (Lan man Facebook).

 

Ánh sáng ấy từ trái tim nhà thơ buông xuống như nắng sớm mùa đông ấm áp và yên bình

 

 “Câu thơ vừa nín gió

Nắng đã hoe hoe vàng” (Màu xuân)

 

nó mở ra một khoảng không vừa cô liêu vừa xa lạ, mà ở đó chỉ có tiếng gọi con người với con người, chỉ có những bàn tay chân thành tìm đến nhau, nắm chặt mới có thể xua tan được lòng thù hận, đố kỵ, sự hoang lạnh:

 

Ngậm ngùi ta gọi cỏ cây

Che che dắt ngọn gió gày đi hoang

Gọi mình ở cõi mang mang

Thõng tay cùng với trăng vàng uống nhau” (Gọi);

 

Cập bến cạn trọn ân tình ăm ắp

Mặc trái ngang đắng chát ở vườn đời

Quả cay cực bóc vỏ mình để ngọt

Hạt đau buồn buông thả xuống mây trôi” (Phiêu).

 

Có thể thấy, “Miền hương” của Nguyễn Đình Di vẫn thức khi chiều đã muộn. Như mỗi khi thủy triều đã lùi xa để lại bãi bờ trải dài thoai thoải, thi sĩ đã đặt từng bước chân mình lên đó, in rõ dấu vết, lún sâu xuống cát: “Mặt trời vùi vào ngực em tĩnh lặng” (Khoảng vắng). Đây là câu thơ tình hay và hiếm hoi trong tập thơ này. Nó đem đến cho bạn đọc sự nồng ấm, mặn mà, ngỡ như được nhấp chén trà thơm hương vị đất đai bên hiên vắng, hay trong góc vườn yên tĩnh nơi thôn dã. Viết đến đây tôi bỗng nhớ những câu thơ tình khác nữa của Nguyễn Đình Di đã in ở tập thơ trước:

 

Tôi lạy hoa trặc trìu đừng thơm day dứt nữa

Anh sẽ nói được lời chưa kịp nói em nghe

Trong hương trặc trìu tóc bạc đã như mê”  (Hoa trặc trìu).

 

Hơn hai mươi năm trước đây, tôi thích bài thơ “Hoa trặc trìu” của Nguyễn Đình Di khi nhà thơ mới công bố, thích nhất cái âm hưởng của nó trong âm sắc tiếng Việt. Sau đó tôi đã cất công đi tìm loài hoa có tên lạ này. Ban đầu tôi cứ ngỡ loài hoa mà nhà thơ viết trong bài thơ là cây chặc chìu thường mọc ở miền Trung, có nhiều cành, lá hình bầu dục, mép có răng cưa, hoa màu trắng mọc thành chùm. Nhưng không phải thế! Đến tháng 12 năm 2016, trong bài “Tản mạn thơ” nhà thơ đã tâm sự:có người quy kết tôi viết sai “chạc chìu” thành “trặc trìu”. Không phải đâu. Tôi đã viết “trặc trìu” với cảm thức về một chuyện trình lỡ dở (trắc trở, trục trặc) với cảm xúc tiếc thương trìu mến sau khi ngẫm ngợi về âm và nghĩa, sự diệu kỳ của tiếng Việt”. Đến mùa đông năm Tân Mão (2011) “hoa trặc trìu” của Nguyễn Đình Di lại tiếp tục nở:

 

"Em có biết hoa trặc trìu ở đâu không?

Cái loài hoa cơn mê tôi gọi được" (Hoa trặc trìu vẫn nở).

 

Và, trong tập thơ “Miền hương thức” này, nhà thơ lại hai lần tặng hoa trặc trìu cho người đọc yêu mến thơ ông:

 

Rượu đời xót rễ cỏ hoa

Trặc trìu thơ níu trăng và mây bay” (Bạn đời);

 

Trặc trìu hoa trái tim mình

Nở từ thắt buộc nghĩa tình người xa

Chạc chìu dây. Trặc trìu hoa

Cây sương gió nhập thơ nhòa khói nhang

Hương loài hoa xứ nhỡ nhàng

Mượn thơ ngâm khúc dịu dàng gọi nhau” (Tên hoa)

 

Miền hương thức” với cách viết dung dị, luôn trung thành với thi pháp truyền thống của thế hệ thơ Nguyễn Đình Di, đã mang đến cho bạn yêu thơ lời tâm sự nhẹ nhàng, thấm sâu mà giản dị. Tập thơ cũng như lời tiên tri của nhà thơ ước đoán được cung mệnh mình. Trong bài thơ “Khúc tạ từ”, Nguyễn Đình Di thanh thản nhẹ nhõm cảm nhận về một đời sống khác khi ông phải rời xa cõi tạm, thấy được sự yêu tin nồng hậu của người thân, đồng nghiệp dành cho mình, thấy cả sức lan tỏa của những con chữ nóng ấm đầy thân phận đến được trái tim bạn đọc:

 

Mai rồi chiếc lá lìa cành

Xác về tro bụi hồn xanh mây trời

Câu thơ hoang hoải thảnh thơi

Hoàn nguyên nhập trái tim người ngân nga

 

Miền hương ấy đã mở ra cho chúng ta một thế giới tuyệt đẹp, với nắng vàng, mạn thuyền, bao nhiêu gió, rượu ngon, hoa giấy rụng, tiếng chim tu hú, tường rêu, dúm muối, nước mắt, viên thuốc, bờ cỏ lau, chân mây…, với những bông hoa trặc trìu trong tâm tưởng để làm nên một cõi thơ Nguyễn Đình Di mê đắm, nhân hậu, chân thành. Tôi cũng như bao bạn đọc đã thao thức cùng miền hương ấy, được chia sẻ và trải nghiệm cùng ông, biết được ông luôn kiên nhẫn vượt lên mọi thử thách, sự khắc nghiệt của số phận, chống đỡ mọi khăm ác của đời sống để sống thật đẹp, để sáng tạo và dâng hiến. Phải chăng Nguyễn Đình Di luôn tự biết mình là một kẻ du ca đắm say, bàn chân tướp máu hát trên con thuyền kẹt lái (Ai biết) lênh đênh sang cõi thơ.

 

11/10/2017


_____________________

[1] Nguyễn Đình Di đã xuất bản 6 tập thơ, gồm: “Giấc mơ cây” (Nxb. Hải Phòng, 2001), “Cỏ khát” (Nxb. Hải Phòng, 2006), “Trường ca Lộ trình” (Nxb. Hải Phòng, 2008), “Tín chấp” (Nxb. Hải Phòng, 2011), “Vườn gió mặn” (Nxb. Hải Phòng, 2015), “Miền hương thức” (Nxb Thế giới, 2017).


 

 

MỘT SỐ HÌNH ẢNH “BÀN TRÒN VĂN CHƯƠNG”

Hải Phòng, 11/10/22017

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 5 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị