Về bài thơ
“Ghi ở Vạn Lý Trường Thành”
Nhà phê
bình VH Lê Hồ Quang
Lê Hồ
Quang
…
Kết cấu
là cách tổ chức toàn bộ các yếu tố riêng lẻ của bài thơ (ngôn ngữ, hình ảnh, chi
tiết, giọng điệu, chủ đề, cảm hứng….) thành một chỉnh thể chặt chẽ. Đây cũng là
một phương diện hình thức quan trọng của thơ. Trên thực tế, kết cấu thơ hết sức
đa dạng. Có kiểu kết cấu theo hình thức luận đề trực tiếp (chẳng hạn Vội vàng
của Xuân Diệu thời Thơ mới hoặc một số bài của Nguyễn Lương Ngọc, Trương Đăng
Dung, Mai Quỳnh Nam gần đây). Có kiểu kết cấu theo hình thức kể chuyện (chẳng
hạn trong Hai sắc hoa Tigon của TTKH, Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Mưa
xuân của Nguyễn Bính thời Thơ mới; và gần đây, trong thơ Inrasara, Phan Nhiên
Hạo và Nguyễn Đức Tùng…). Phổ biến hơn cả là kiểu kết cấu theo mạch cảm xúc,
trong đó, cái tôi chủ thể đứng ra trực tiếp giãi bày xúc cảm. Lại có kiểu kết
cấu theo trục biểu tượng phổ biến trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn,
Dương Kiều Minh… Bài thơ sau đây của Mai Văn Phấn là một ví dụ.
Ghi ở
Vạn Lý Trường Thành
Mây
xếp lên vai từng tảng đá nặng
nhòe
mắt cát
thở
đầy ngực cát
Vạn
Lý Trường Thành còn xây dở?
Trên
không tiếng hoạn quan truyền chỉ
Bắt
được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ
đánh
hộc máu mồm
Khâm
thử!
Ngước
lên gặp một khuôn mặt bì bì
tay
lạnh, mắt chì, giọng mỡ
Mái
Phong hỏa đài màu huyết dụ
hình
thanh long đao dính máu đang kề cổ
Còng
lưng đẩy nắng đi
Chồn
chân đẩy gió đi
Miễn
sao được gần bông hoa
đang
mởn mơ trong gió lớn
Tâu
hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí…
Bỉ
chức/ thảo dân/ em
sẽ
làm trọn bổn phận
Đây
là đỉnh trời
hay
đáy vực sâu
chỉ
thấy trên lưng lằn roi bỏng rát
Mồ
hôi du khách trên đá xám
nở
thành hoa phù dung.
Cắt dọc
bài thơ theo tuyến sự kiện, ta thấy có một hành trình hiện tại của du khách,
nổi trên bề mặt văn bản: mây xếp trên vai/ nhòe mắt cát/ thở/ ngước lên/ mái
Phong hỏa đài/ còng lưng/ chồn chân/ mồ hôi du khách trên đá xám. Song song với
hành trình của du khách là một hành trình trong quá khứ của những dân công khốn
khổ vác đá xây Vạn Lý Trường Thành. Lằn nghĩa thứ hai đã xuất hiện ngay cạnh
lằn nghĩa thứ nhất, trong chính những hình ảnh được dùng diễn tả lằn nghĩa thứ
nhất: từng tảng đá nặng/ nhòe mắt cát/ thở đầy ngực cát/ Vạn Lý Trường Thành
còn xây dở/ Tiếng hoạn quan truyền chỉ/ đánh hộc máu mồm/ Khâm thử. Tuy nhiên,
ta còn có thể thấy thêm lằn nghĩa thứ ba. Ấy là khi xuất hiện trên hành trình
ấy một tuyến tình tiết, hình ảnh mới, về một con người khá đặc biệt: “vừa vác
đá vừa làm thơ”, “còng lưng đẩy nắng”, “còng lưng đẩy gió” “miễn sao gần được
bông hoa/ đang mởn mơ trong gió lớn”. Ấy là chân dung của kẻ yêu cái đẹp, vì
cái đẹp mà có thể bất chấp mọi trở ngại. Nhờ vào cách sắp xếp xen kẽ/ song hành
hợp lý của các tình tiết, hình ảnh, hành trình của thơ dường như càng ngày càng
đi vào chiều sâu và mở ra nhiều liên tưởng, hy vọng. Song cũng đúng lúc ấy, cắt
ngang mọi ảo tưởng, là sự đồng thanh, trùng điệp, nhẫn nhục của những giọng
nói:
Tâu
hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí…
Bỉ
chức/ thảo dân/ em
sẽ
làm trọn bổn phận
Trong
khoảnh khắc, dường như cửa ngõ tất cả các chiều kích không – thời gian đã chập
lại và mở thông sang nhau. Và cùng lúc ta thức tỉnh về sự lặp lại bi đát, thê
thảm của thân phận kẻ sĩ/ trí thức trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa với
sức mạnh tàn bạo hiện hình ở chính biểu tượng Vạn Lý Trường Thành.
Đan xen
khéo léo giữa nhiều tuyến hình ảnh, sự kiện quá khứ và hiện tại; “đục bỏ” triệt
để các phương tiện kết nối logic tuyến tính; sử dụng yếu tố giễu nhại đúng lúc,
đúng chỗ…, đó là những kỹ thuật kết cấu đã được tác giả sử dụng hiệu quả trong
bài thơ này.
…
Vinh,
2/1/2019
L.H.Q
(Trích
từ bài viết “Về việc đọc thơ hiện đại”)
Tác phẩm của Nhiếp ảnh gia Noell S. Oszvald (Hungary)