Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn (Khóa luận tốt nghiệp đại học) - Nguyễn Thị Thanh Nguyên
KHOA KHXH & NV
Nguyễn Thị Thanh Nguyên
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Chính
ĐẶC ĐIỂM THƠ VĂN XUÔI
CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
VÀ MAI VĂN PHẤN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỒNG THÁP, NĂM 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch
sử vấn đề
3. Mục
tiêu nghiên cứu
4. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối
tượng nghiên cứu:
4.2. Phạm
vi nghiên cứu
5. Phương
pháp nghiên cứu
6. Cấu
trúc khóa luận
Chương 1.
NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ
VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ
1.1. Một
cái nhìn chung về nền thơ Việt Nam sau đổi mới
1.1.1.
Bối cảnh lịch sử - xã hội
1.1.2.
Nền thơ Việt Nam sau đổi mới
1.2. Đôi
nét về thể thức thơ văn xuôi
1.2.1.
Khái niệm thơ văn xuôi
1.2.2.
Một số đặc điểm của thơ văn xuôi
1.2.3. Sự
phát triển của thơ văn xuôi ở Việt Nam sau đổi mới
1.3. Thơ
văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ
1.3.1.
Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong thơ ca Việt Nam sau đổi mới
1.3.2.
Hành trình thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Thiều và Mai
Văn Phấn
Chương 2.
NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI
VĂN PHẤN
2.1. Cảm
hứng thế sự
2.1.1.
Chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống
2.1.2.
Khát khao về tình yêu và hạnh phúc
2.1.3.
Yếu tố tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc
2.2. Cảm hứng chính luận
2.2.1. Cuộc sống đô thị công nghiệp
với những bất an
2.2.2.
Tiếng kêu cứu cho những đổ vỡ của truyền thống văn hóa
Chương 3.
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN
3.1. Kết
cấu văn bản thơ
3.1.1.
Kết cấu bên ngoài
3.1.2. Kết cấu bên trong
3.2. Ngôn ngữ thơ
3.2.1. Dung nạp ngôn ngữ đời thường
3.2.2. Tính tạo hình và tính biểu hiện
trong ngôn ngữ thơ
3.2.3.
Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí
3.3. Nhạc
điệu
3.3.1.
Thanh điệu
3.3.2.
Nhịp điệu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam trong tiến trình vận động đã không ngừng
phát triển và đổi mới từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Việc cho ra đời một
hình thức nghệ thuật mới là một nhu cầu tất yếu. Nền văn học hiện đại có nhiều
cách tân như thế về mặt hình thức lẫn nội dung. Chúng ta biết đến lục bát đương
đại một thể thơ được cách tân rất nhiều từ lục bát truyền thống, thì thơ văn
xuôi được xem là một biến thể mới về sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi. Cũng
giống như lục bát đương đại, việc xuất
hiện thể thức thơ văn xuôi là nhu cầu tự thân của thời đại, nó giống như sự
xuất hiện những hình thái nghệ thuật khác trong dòng chảy của lịch sử phát
triển nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng.
Tuy thơ văn xuôi ở Việt Nam xuất hiện muộn so
với thế giới hơn một trăm năm và chỉ thực sự nở rộ trong những thập niên gần đây
nhưng vẫn khẳng định vị thế và hướng phát triển của riêng mình trong dòng chảy
Văn học Việt Nam. Sự xuất hiện thơ văn
xuôi là một đặc trưng khá tiêu biểu của thơ hiện đại. Nó là sự cách tân điển
hình về nghệ thuật, những cảm xúc, tư tưởng, những dòng suy tư, trăn trở của
chủ thể trữ tình không còn bị gò bó hạn hẹp như các thể thơ truyền thống.
Nghiên cứu về thơ văn xuôi, không chỉ để hiểu đặc trưng về phương diện cấu trúc
thơ mà còn gợi mở nhiều vấn đề về hình thức thơ và thời đại.
Trong số ít những
tác giả thành công khi viết về thơ văn xuôi, bên cạnh những nhà thơ như Chế Lan
Viên, Thanh Thảo,… Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn được xem là hai cây bút
có những cống hiến đáng kể về nội dung và nghệ thuật góp phần định hình và phát
triển vị thế của thơ văn xuôi trong nền văn học đương đại. Thơ văn xuôi của
Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn, mang đậm hơi thở của thời đại, sắc thái đời
thường, phản ánh triết lí lẫn những suy tư trước cuộc sống mới muôn màu muôn
vẻ. Nội dung được chuyển tải qua ngôn ngữ bình dị, đậm chất đời thường cùng với
sự bứt phá, tìm kiếm một hình thức thể hiện mới, ấn tượng, phong phú và đa dạng
hơn.
Đến nay, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 7 tập thơ, 15 tập văn xuôi và 3 tập sách
dịch. Tập thơ tuyển mới nhất của ông, “Châu
thổ” - Nxb Hội Nhà văn 2010
đang thu hút sự chú của dư luận và giới phê bình. Ngoài giải thưởng Hội Nhà Văn
Việt Nam năm 1993, giải A cho tập thơ “Sự
mất ngủ của lửa”, Nguyễn Quang Thiều còn nhận được hơn 20 giải thưởng văn
học khác trong và ngoài nước. Về phía Mai Văn Phấn, nhà thơ cũng đã xuất bản 10
tập thơ, 1 tập trường ca và đạt nhiều giải thưởng giá trị như giải thưởng tuần
báo Người Hà Nội (1994), tuần báo Văn nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng)
liên tiếp từ các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và gần đây là giải thưởng Hội Nhà
văn Việt Nam năm 2010 cho tập thơ “Bầu
trời không mái che”. Mai Văn Phấn còn được giới phê bình, nghiên cứu đánh
giá cao qua “Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và
Đồng Đức Bốn” được tổ chức tại Hải Phòng năm 2011.
Với những thành công rất đáng được ghi nhận trên chúng tôi nhận thấy việc
tìm hiểu và nghiên cứu về đặc điểm thơ của hai nhà thơ này là một việc làm có ý
nghĩa và cần thiết. Khóa luận này hướng đến việc đề cao cũng như công nhận
những đóng góp tiêu biểu của một lực lượng sáng tác góp phần hình thành, phát
triển cũng như khẳng định vị thế của thơ văn xuôi trong nền Văn học Việt Nam từ
trước đến nay.
Ngoài ra, đề tài nghiên
cứu này còn giúp chúng tôi có thêm một tri thức thực tiễn về thể loại có thể áp
dụng vào quá trình học tập và giảng dạy sau này. Bổ sung thêm một phần tài liệu
học tập và nghiên cứu cho việc học tập của sinh viên. Cùng với ý nghĩ hết sức
thiết thực trên, qua việc nghiên cứu về đề tài này còn giúp chúng tôi có thêm
kinh nghiệm, có thêm một cách nhìn, một nếp nghĩ và làm việc khoa học hơn với
những tác phẩm văn học đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những ý kiến xoay quanh về thể thơ
văn xuôi
Trên thực tế, thơ văn xuôi đã khẳng
định vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam qua quá trình hình thành và
phát triển lâu dài sau chặng đường gần một trăm năm cùng với lịch sử phát triển
của dân tộc. Trải qua nhiều biến đổi thăng trầm của thời đại, từ khi mới manh
nha vào đầu thế kỉ XX cho đến lúc phát triển đỉnh cao vào khoảng những năm 80
và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật như ngày hôm nay, nhưng vẫn còn có những
nhận định phủ nhận vị trí và vai trò của thơ văn xuôi trong dòng chảy chung của
nền văn học nước nhà. Thế nên, những công trình nghiên cứu chuyên sâu, khoa học
và mang tình quy mô về thơ văn xuôi vẫn còn rất ít. Hầu hết chỉ dừng lại ở
những bài cảm nhận, phê bình, giới thiệu chung về thơ văn xuôi hoặc một vài bài
thơ văn xuôi cụ thể. Qua tìm hiểu, chúng tôi xin điểm qua một số công trình
chuyên sâu nghiên cứu về thơ văn xuôi như sau:
Từ năm 1997, nhóm tác giả Nguyễn Văn
Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện cho ra đời công trình “Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài)”. Công trình này
gồm ba phần. Phần một tuyển chọn 161 bài thơ văn xuôi Việt Nam, trong đó giai
đoạn trước tháng Tám năm 1945 là 23 bài và giai đoạn sau tháng Tám năm 1945 đến
nay gồm 138 bài (theo quan điểm của người soạn sách). Phần hai tuyển chọn 65
bài thơ văn xuôi nước ngoài. Phần ba là tập hợp 19 bài viết của các tác giả
trong và ngoài nước bàn về thơ văn xuôi hoặc những vấn đề liên quan đến thể thơ
này. Tuy đây chưa phải là một chuyên khảo nhưng nó được xem là công trình đầu
tiên ở Việt Nam quan tâm tương đối toàn diện đến thơ văn xuôi.
Qua 19 bài nghiên cứu trong tuyển
tập, chúng tôi thấy những ý kiến về thơ văn xuôi nhìn chung mới chỉ dừng lại ở
nhận định, chưa có một đánh giá cụ thể mang tính khái quát. Có giá trị hơn cả
là ba bài viết “Một vài ý kiến về thơ văn
xuôi” của Xuân Diệu, “Thơ văn xuôi”
của Hà Minh Đức và “Tư duy và cấu trúc
nghệ thuật thơ văn xuôi” của Nguyễn Ngọc Thiện.
Bài viết của Xuân Diệu đã đề cập đến
khá nhiều vấn đề xung quanh thể thơ văn xuôi, đây là một công trình tìm tòi
mang tính lí luận về sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi nói chung và
thơ văn xuôi Việt Nam nói riêng. Theo tác giả “Có những bài “thơ” mà không chứa đựng một cảm xúc thơ, đó chỉ là những
bài văn vần khô khan lạnh lẽo; trái lại có những bài văn xuôi mà đầy thi vị,
đầy rung cảm thơ, đọc vào như tưới thắm tâm hồn người, vừa có hình tượng đẹp,
vừa có âm thanh hay, lại có tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi những bài
“văn xuôi có chất thơ” ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi
về chất lượng, về tính chất thì hóa thành những bài thơ bằng văn xuôi” [12;
611]. Ý kiến này có thể xem là quan niệm của Xuân Diệu về thơ văn xuôi. Ông
cũng chỉ ra một số đặc điểm của thơ văn xuôi như: về hình thức nó thường ngắn,
không có vần, về nội dung nó cố gắng “rút
lấy cái tinh chất của sự vật, chú ý đến sự phản ánh, sự tác động của sự vật vào
tâm hồn, trí tuệ con người thành cảm xúc, tình cảm, tư tưởng” [12; 611]. So
với các thể thơ cách luật và thơ tự do, thơ văn xuôi có thế mạnh là diễn đạt
được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những hình ảnh, những ý thơ liên
tiếp. Do đó, trong một câu thơ văn xuôi có thể diễn tả được nhiều sự kiện, hình
ảnh, cảm xúc bộn bề đan xen nhau.
Hà Minh Đức với bài viết
“Thơ văn xuôi”, tác giả đã đi vào tìm
hiểu ranh giới về hình thức giữa thơ và thơ văn xuôi, văn xuôi và thơ văn xuôi
trên các phương diện như: phương thức biểu hiện trữ tình, những hình ảnh so
sánh và vận dụng ngôn ngữ, hình ảnh và tứ thơ, cấu trúc câu thơ…Điều này thể
hiện qua nhiều khía cạnh như “Tổng số
tiết tấu trong một nhịp thơ, số từ trong một câu và lối diễn đạt nội dung ý
thơ” [12; 625]. Hay “Những câu thơ
dài từ 11, 12 từ trở lên sẽ dần dần biến thành câu thơ văn xuôi và bài thơ bao
gồm những câu thơ đó sẽ có xu hướng trở thành thơ văn xuôi” [12; 627]. Theo
ông, “thơ văn xuôi buộc người viết phải
tuân theo những qui luật nghiêm khắc bên trong của nó. Trước hết tác giả phải
có cảm xúc của một thi nhân, nhà thơ phải tìm được sự hài hòa bên trong của
ngôn ngữ và nhịp điệu, sự hàm xúc của hình ảnh và lời thơ. Một bài thơ văn xuôi
không phải là một bài văn xuôi bình thường mà phải là một sáng tác giàu chất
thơ. Ở đây cảm hứng thi ca tuy không biểu hiện ra ở những câu thơ, nhưng người
viết phải biết chọn lọc những hình thức phù hợp” [12; 627]. Có thể nói, Hà
Minh Đức đã có cái nhìn bao quát trên cả hai phương diện nội dung và hình thức
của thể thơ văn xuôi cũng như các đặc điểm loại hình của thơ văn xuôi trong quá
trình lập luận nhằm phân định ranh giới giữa thơ văn xuôi với văn xuôi, giữa
thơ văn xuôi và thơ.
Trong bài viết “Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi”
của tác giả Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng, thơ văn xuôi có những đặc điểm ưu việt
hơn các thể thơ khác trong việc bộ lộ tình cảm vì thơ văn xuôi giúp người đọc
tự do trong cách gieo vần “một khi khuôn
khổ thể thơ thường, quen thuộc, không đủ giúp người ta thực hiện sự tự phơi bày
mình như một bản thể tự do, khi đó người ta đi tìm một lối khác: đến với thơ tự
do không vần hoặc thơ văn xuôi” [12; 648]. Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý nhất của bài viết là sự thể hiện
quan niệm của hình thức thể loại, theo tác giả thì: “Thơ văn xuôi ra đời, tôi nghĩ trước hết là đòi hỏi của một tư duy nghệ
thuật mới, đi tìm một độ căng thẩm mĩ mới dựa vào áp lực liên kết của các ý
thơ, câu thơ xếp liền nhau theo một liên hệ cộng hưởng nước đôi: một mặt vẫn
tuân thủ trục dọc liên tưởng của thơ, mặt khác thu nạp sự diễn tiến theo trục
ngang của câu văn xuôi” [12; 649]
Mã Giang Lân (1990), với
bài viết “Xu hướng tự do hóa hình thức
thơ” đã cho rằng: “Cấu trúc câu thơ
văn xuôi gần với cấu trúc câu văn xuôi. Cái khác là câu thơ mang đầy đủ những
phẩm chất cơ bản của thơ: tính hình tượng, cách điệu hóa, rung động, liên tưởng
và vận dụng ngôn ngữ đều nằm trong quá trình chọn lọc, sáng tạo” [12; 643].
Theo ông, sự “nới rộng”, “kéo dài” về
hình thức câu thơ không phải là việc làm tùy tiện mà nhằm khái quát “những sự
kiện thời sự nóng hổi, những suy nghĩ cảm xúc ào ạt vào thơ. Có khi phải mô tả,
phải ghi nhanh, ghi nhiều hình ảnh, sự việc [12; 643]. Điểm hạn chế của Mã
Giang Lân là ở chỗ ông vẫn chưa coi thơ văn xuôi là một thể thơ độc lập với các
đặc điểm riêng mà chỉ là “một nẻo đường
phát triển của thơ tự do”. Do vậy, phần lớn những đặc điểm của thơ văn xuôi
mà ông bàn đến trong bài viết của mình cũng được ông coi là các “biến thể” của các đặc điểm thơ tự do
chứ không hoàn toàn là các đặc điểm “tự
thân” của thể thơ đó.
Nguyễn Văn Hoa với bài
viết “Mấy ý kiến nhỏ về thơ văn xuôi Việt
Nam”, đăng trên tạp chí Sông Hương số 132, tháng 2. Nhận định rằng “Thơ văn xuôi là phần giao nhau của hai vòng
tròn Thơ và Văn xuôi. Phần giao nhau của hai vòng tròn thể hiện hai đặc điểm
ngang nhau của Thơ và Văn xuôi. Nếu vượt ra khỏi vùng giao nhau thì sẽ thành
Thơ có vần hoặc trở thành Văn xuôi” [11].
Nhìn chung, bài viết của Nguyễn Văn Hoa mới chỉ nêu lên một vài suy nghĩ, cảm
nhận của một người làm công tác nghiên cứu về một thể loại “đang hình thành” chứ chưa thật sự có những kiến giải sâu sắc về
đối tượng.
2.2. Những ý kiến đánh giá và nhận định về thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều và Mai Văn Phấn.
Bên cạnh những bài viết,
nghiên cứu và nhận định về thơ văn xuôi còn có những bài phê bình, phỏng vấn và
giới thiệu về hai nhà thơ có những đóng góp tiêu biểu cho thể loại thơ văn xuôi
bằng những sáng tác không ngừng cách tân về hình thức lẫn nội dung.
Với nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều là một hiện tượng thơ khá đặc biệt, mặc dù có nhiều ý kiến khen chê trái
chiều xung quanh hiện tượng thơ của ông, nhưng hầu hết những bài viết ấy chỉ
dừng lại ở mức tản mạn, những bài bút chiến trên phương tiện Internet và một số
tạp chí.
Công trình đầu tiên có
đề cập đến thơ Nguyễn Quang Thiều mà chúng tôi xin phép được nói đến ở đây là
bài viết “Thơ – phản thơ” của Trần
Mạnh Hảo. Ở công trình này, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo tiến hành điểm diện một
số gương mặt có xu hướng cách tân thơ ca như: Lê Đạt, Hoàng Hưng, Đặng Đình
Hưng… Riêng về Nguyễn Quang Thiều, trong bài viết “Sự mất ngủ của lửa hay là bệnh ngủ của thơ” theo tác giả thì những
cách tân của Nguyễn Quang Thiều là “thứ
thơ tây giả cầy”, “từ cách cảm, cách
nghĩ, cách ví von, liên tưởng, cách hành văn, kết cấu…tất thảy đều như…tây cả,
tịnh không có chút không khí Việt Nam nào” [13; 67]. Sau khi đưa ra một vài
ví dụ để chứng minh, tác giả Trần Mạnh Hảo đi đến đúc kết “Bên cạnh cái non kém lồ lộ của nghệ thuật làm thơ, có ý mà thiếu tứ,
có quả mà không có nhân, nhiều chữ mà ít nghĩa, ưu triết lí mà thiếu ly, muốn
siêu mà bỏ thực, muốn cô mà không đọng, muốn tâm mà thiếu huyết…” [13; 81]
Đương nhiên với một hiện tượng thơ mới, với những cách tân không ngừng lại được
đặt trong sự thẩm định với những tiêu chí, lựa chọn riêng thì việc khen hay
chê, khẳng định hay phủ định những đóng góp trong hành trình sáng tạo thơ ca
của Nguyễn Quang Thiều là điều không thể tránh khỏi.
Ngoài những ý kiến phủ
định còn có những ý kiến đánh giá về sự sáng tạo, cách tân của Nguyễn Quang
Thiều được đặt trong bối cảnh không ngừng vận động và phát triển của văn học
Việt Nam đương đại, thì có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Công trình nghiên cứu “Thơ Việt Nam – Tìm tòi và cách tân (1975 –
2005)” của tác giả Nguyễn Việt Chiến là một trong những ví dụ điển hình.
Theo tác giả, những cách tân trong thơ Nguyễn Quang Thiều là sự cần thiết cho
thơ Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa và có tác dụng tạo ra một diện mạo
mới cho thơ ca đương đại. Trong số 45 gương mặt được điểm diện thì Nguyễn Quang
Thiều được xem là “xu hướng cách tân đích
thực và tích cực” với những vần thơ được biết đến ở những năm 90 của thế kỉ
XX, Nguyễn Quang Thiều đã góp phần làm cho “thơ
đương đại Việt Nam khởi hành sang chặng đường mới” [1; 31]
Đồng quan điểm với nhận
định của tác giả Nguyễn Việt Chiến vào ngày 28/2/2012 vừa rồi tại Hà Nội đã
diễn ra Hội thảo khoa học học “Thơ Việt
Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều” nhằm nhìn nhận lại chặng đường sánh tạo
thơ ca của Nguyễn Quang Thiều. Trong hội thảo này có 25 nhà nghiên cứu, phê
bình trình bày tham luận của mình để đưa ra những ý kiến, nhận định về đóng góp
của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại. Nhà
phê bình Nguyễn Chí Hoan với tham luận “Cú
pháp tạo dựng cổ tích trong thơ Nguyễn Quang Thiều” (Về bài tựa Châu thổ,
thơ tuyển lần thứ nhất của Nguyễn Quang Thiều) ngay từ đầu bài viết Nguyễn Chí
Hoan đã nhận định “Điều khiến ngay cả một
vài cây bút bình luận với đầy thiện cảm vẫn phải nói rằng thơ Nguyễn Quang
Thiều “khó hiểu” nằm hiển hiện trên mặt chữ trong phép dựng câu, dựng hình và
đặt tên của các bài thơ. Tuy nhiên, ở tập tuyển này, tác giả lần đầu trực tiếp
gợi ý bằng một bài tùy bút thay lời tựa mà cái tên bài hoàn toàn có thể xem như
đầu đề một bài thơ nào đó của anh – Trong căn phòng của một người bại liệt” [6; 60]là cách nhìn nhận, đánh giá sự đổi
mới của Nguyễn Quang Thiều trong tuyển tập thơ đầu tiên. Trong buổi hội
thảo còn có bài viết của tác giả Đông La, “Sự
mất ngủ của lửa hay sự thao thức của một tâm hồn”, tham luận tại tọa đàm
thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều. Bài phê bình về sự bức phá trong
thơ Nguyễn Quang Thiều từ tư duy đến nghệ thuật. Bài tham luận của tác giả
Nguyễn Việt Chiến “Thơ Nguyễn Quang Thiều
trong dòng chảy thi ca cách tân sau 1975” với nhận định “Theo tôi, trong số những nhà thơ đương đại
từng làm chuyển động một chân-trời-thơ-mới, có Nguyễn Quang Thiều. Và, trong
những gương mặt thời hậu chiến, Nguyễn Quang Thiều là một trong những giọng thơ
nổi bật nhất” [6; 245] đã nhận định về một chặng đường phát triển thơ ca
của Việt Nam sau năm 1975, trong đó có thơ của Nguyễn Quang Thiều.
Trong buổi hội thảo khoa
học được nhắc đến ở trên, còn có những công trình nghiên cứu, nhận định riêng
về thơ Nguyễn Quang Thiều được đối sánh, soi rọi ở nhiều góc độ khác. Nguyễn
Đăng Điệp với bài phê bình “Thơ Việt Nam
đương đại từ trường hợp Nguyễn Quang Thiều”, bàn về quan điểm đổi mới trong
hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều từ tư duy đến hình thức nghệ thuật. Hay Mai
Văn Phấn, “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang
Thiều và lộ trình cách tân”. Bài viết xoay quanh những nhận định về sự cách
tân nghệ thuật độc đáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều được đánh dấu mốc từ tập
thơ “Sự mất ngủ của lửa”. Tác giả bài
viết cho rằng: “Bóng dáng thời đại và thi
pháp là hai vấn đề lớn, mang tính quyết định để định
danh định tính thơ Nguyễn Quang Thiều trong lộ trình cách tân thi pháp. Thơ ông
tỏa sáng và khuynh loát trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác nhau,
với nhiều cung bậc cảm xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả siêu
thực” [6; 272] và chính tác giả đã nhận định rằng “Lộ trình thơ Nguyễn Quang Thiều khởi đi từ tập thơ Sự
mất ngủ của lửa đến những
tập thơ về sau đã định hình một phong cách riêng biệt. Ông đã khẳng định tài
năng, bản lĩnh thi sĩ và sự dũng cảm của mình bằng khả năng thiên bẩm, bằng
kiến thức và trải nghiệm phong phú. Phổ thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
không giới hạn trong không gian hẹp, hay vùng miền mà nhân rộng, giàu sức khái
quát và tính biểu tượng cao, có thể nhìn từ nhiều góc độ, nhiều hệ quy
chiếu thẩm mỹ. Ông là một trong những thi sĩ tiên phong của dòng chảy thơ ca cách
tân đương đại trong nước” [6;
285]
Bên
cạnh những bài viết, bài phê bình, xung quanh hiện tượng thơ Nguyễn Quang
Thiều, nhằm nhận định về một tác giả thơ đương đại với những đóng góp và thành
công. Trong đó, Mai Văn Phấn người được mệnh danh là “cặp bài trùng” với Nguyễn Quang Thiều
như nhận định của nhà phê bình Đỗ Quyên đã có những đóng góp không nhỏ trong
nền thơ ca Việt Nam đương đại. Mai Văn Phấn là nhà thơ có giọng điệu riêng biệt, một "hiện tượng"
đang được
lớp
trẻ hưởng ứng
và yêu mến, nên những bài
viết tìm hiểu về
sáng tác thơ của Mai Văn Phấn được đăng tải nhiều trên các phương tiện truyền
thông. Số lượng bài viết dồi dào, sắc thái, "cấp độ" tình cảm khác nhau; người
viết có khi là nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học chuyên nghiệp.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có những công trình nghiên cứu, nhận định có
giá trị sau:
Vào năm 2011, tại Hải
Phòng đã diễn ra Hội thảo “Thơ Mai Văn
Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” nhằm đánh giá và khẳng định
hành trình sáng tạo thơ ca của hai nhà thơ nói riêng và những đóng góp của hai
nhà thơ trong nền văn học đương đại Việt Nam nói chung. Cùng diễn ra với Hội
thảo là việc xuất bản Kỷ yếu hội thảo “Thơ
Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” đây là tuyển tập, tập
hợp 45 bài tham luận xoay quanh đề tài của hội thảo. Trong đó, gồm có 24 bài
viết là những ý kiến đánh giá, nhận định riêng về thơ Mai Văn Phấn. Bên cạnh
đó, có một số bài viết nhận định về thơ văn xuôi trong lộ trình sáng tạo, cách
tân thơ ca của nhà thơ Mai Văn Phấn.
Trong số các bài viết về Mai Văn Phấn, trước hết phải đến bài “Mai Văn Phấn - những chặng đường sáng tạo thơ” của tiến
sĩ Đào Duy Hiệp là
nhận định về những chặng đường sáng tạo thơ ca qua tập “Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn”.
Trong đó ông phân tích giá trị những hình ảnh ẩn dụ,
siêu thực, triết lí, biểu tượng nhằm nhận định “ý thức lao động chuyên nghiệp và sự tìm tòi cách thể hiện không ngưng
nghỉ của nhà thơ” [16; 70]. Từ đó đi đến
kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi
năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc
hôm
nay đã đánh dấu một trưởng thành” [16; 75]
Đỗ
Quyên với bài viết “Thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cần giải thích giá trị”
là sự đánh giá những dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của Mai Văn Phấn trên chặng
đường sáng tạo thơ ca. Xem thơ Mai Văn Phấn là đối tượng được phê bình dựa vào
những cảm nhận, nhận định ban đầu của tác giả Đỗ Quyên và nhiều nhà phê bình,
nghiên cứu khác như Dương Kiều Minh, Khánh Phương, Đặng Văn Sinh từ tập thơ đầu
“Giọt nước” (1992) đến tập “Bầu trời không mái che” (2010). Ngoài
ra bài viết còn giới thiệu những bài thơ tiêu biểu, cũng như đi vào khám phá
giá trị nội dung, tư tưởng, thi pháp và thể loại thơ của Mai Văn Phấn. Trong
đó, tác giả bài viết có đề cập đến thể thơ văn xuôi với nhận định: “Với thể
thơ văn xuôi, Mai Văn Phấn đã tạo dấu ấn riêng ở những nơi nào có thể: hơn chục
bài thơ độc lập trong giai đoạn truyền thống và nhiều bài thơ ở thời cách tân,
nhiều trường đoạn trong một bài thơ dài, tất nhiên cả trong trường ca” [16;
183]
Nguyễn
Ngọc Thiện với bài viết “Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi” là
sự thể hiện quan điểm về thơ văn xuôi qua việc tìm hiểu về đặc trưng về chất liệu ngôn từ và cấu trúc văn bản thơ.
Theo tác giả phân tích “Thuộc thế hệ các tác giả thơ xuất hiện trong thời kì
Đổi mới vào thập kỷ cuối của thế kỷ trước, thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn đã có
những nét khác biệt so với các bậc cha anh nửa đầu thế kỷ XX” [16; 363].
Cùng với việc khám phá nội dung thơ là “những cơn lốc xoáy của niềm cảm xúc
ám ảnh, dòng tâm tư tranh biện, diễn giải về một ý tưởng đột khởi, hiện hữu
trong ấn tượng mạnh mẽ nơi thi nhân” kết hợp với hình thức thể hiện “không
viết hoa chữ đầu câu, đầu dòng, không có dấu chấm lúc cuối câu, cuối đoạn”
điều này đã tạo nên một chỉnh thể thơ văn xuôi khác biệt khẳng định được ngay
vị trí tồn tại vững chắc của một thể loại thơ còn đứng trước nhiều thách thức
của quá trình tiếp nhận.
Đặng Văn Sinh, “Mai Văn Phấn tìm về cội nguồn thi ca”,
wedsite http://trannhung.com. Bài phê bình và giới thiệu về tập
thơ “Bầu trời không mái che”, so sánh
với các tập thơ trước đó của nhà văn Mai Văn Phấn để thấy được nét khác biệt và
sự chuyển mình không ngừng đổi mới trong thơ của ông.
Văn
Giá trong bài “ Thơ sinh ra để nói về niềm hy vọng của con
người” đã nhận định chung về thơ Mai Văn Phấn: “Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất lên những niềm hy vọng
mãnh liệt và cảm
động của con người. hy vọng làm nên sự sống, thăng hoa sự
sống. tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng chính là sự
sống. Biểu hiện thì đa dạng, nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng
tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa
sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định; và còn phồn sinh hóa sinh bất định là còn khiến con người ta có quyền hy vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ ở con người” [16; 528] Tuy các bài viết chưa thể hiện
bao quát hết các phương diện nội dung, nghệ
thuật cũng như sự nghiệp thơ Mai Văn Phấn
nhưng nhìn chung các bài viết
đều
tập trung thể hiện thái độ yêu mến và trân trọng thơ anh.
Nhìn chung, đa số các
tài liệu trên chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, bình phẩm, phỏng vấn mang tính
khái quát, đặc biệt, vấn đề nghiên cứu về “Đặc
điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn” chưa có một công
trình nào nghiên cứu. Tuy nhiên, tất cả những ý kiến, nhận định trên sẽ góp
phần định hướng, gợi mở cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài khóa
luận này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài về Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều
và Mai Văn Phấn chúng tôi hướng đến những mục tiêu sau:
- Đưa ra cái nhìn khái
quát về hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong nền thơ Việt Nam
đương đại. Xác định vị trí của hai nhà thơ trong nền thơ dân tộc.
- Khảo sát, phân tích và
xác định đặc điểm nội dung và một số hình thức biểu hiện của thơ văn xuôi ở hai
tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn. Từ đó thấy được sự sáng tạo riêng
của từng nhà thơ khi viết về thơ văn xuôi.
- Khẳng định sự đóng góp
của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong sự phát triển thơ văn
xuôi. Qua đó, thấy được sự vận động và những biến chuyển của thể thơ này trong
thời kì hiện đại.
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu những nét đặc sắc
về đặc điểm thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn ở
hai phương diện chủ yếu là nội dung và hình thức thể hiện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Sáng tác của hai nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn rất phong phú và đa dạng. Nhưng trong
dung lượng cho phép của một đề tài khóa luận chúng tôi chỉ giới hạn khảo sát
trong phạm vi hai tuyển tập thơ: “Châu
thổ” của Nguyễn Quang Thiều (nhà xuất bản Hội nhà văn 2010) và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và
trả lời phỏng vấn” (nhà xuất bản Hội nhà văn 2011).
Để thực hiện đề tài này,
chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp
đề tài luận văn có những nhìn nhận đánh giá chính xác dựa trên tương quan tỉ lệ
cụ thể.
- Phương pháp phân tích,
lí giải, chứng minh: Phương pháp này giúp đề tài luận văn đi vào cụ thể từng
vấn đề giúp làm sáng rõ vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh -
đối chiếu: Phương pháp này giúp đề tài luận văn đặt đối tượng nghiên cứu trong
mối quan hệ đồng đại và lịch đại nhằm làm nỗi bật đâu là những kế thừa, đâu là
những cách tân sáng tạo độc đáo của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn
Phấn.
- Phương pháp tổng hợp:
Phương pháp này được sử dụng khi tổng hợp tài liệu, hệ thống hóa vấn đề giúp đề
tài luận văn có cấu trúc rõ ràng và chặt chẽ.
Ngoài phần mở đầu và kết
luận, phần nội dung của khóa luận gồm có ba chương sau:
Chương 1. NGUYỄN QUANG
THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ VĂN XUÔI
TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ
Chương 2. NHỮNG NGUỒN
CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH
THỨC THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN
Chương 1
NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ
Văn học Việt Nam giai
đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con người sống vì lý tưởng mà
những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần con người càng thêm
rạng rỡ. Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới. Lúc
này với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học
vốn đã chuyển mình nay nhanh chóng đổi thay diện mạo. Đất nước hoàn toàn được
giải phóng. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập đã hoàn thành. Giờ đây,
cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên hàng đầu. Do vậy,
nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh mọi mặt cuộc
sống đa dạng và phức tạp.
Tất cả những lý do trên
chính là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần,
được thay thế bởi cảm hứng đời tư thế sự. Trong bối cảnh những năm đầu sau ngày
thống nhất đất nước, dân tộc ta hân hoan trong khúc ca khải hoàn bên cạnh những
khó khăn phải khắc phục hậu quả chiến tranh đã tác động rất nhiều đến tâm lí,
tư duy của người dân. Đến năm 1986, với chủ trương đổi mới của Đảng đã thổi một
luồng gió mới vào đời sống xã hội Việt Nam. Tạo nên những bước khởi sắc đưa
Việt Nam hòa nhập vào cộng đồng thế giới. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ về sự thật”,
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về
những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Nhưng khi công cuộc đổi mới
vừa thực hiện được mấy năm và chỉ mới thu được một số kết quả bước đầu, khó
khăn còn nhiều thì trên thế giới đã xảy ra một số biến động lớn, với sự sụp đổ
của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự tan rã ở Liên Xô, gây tác động
nhiều mặt đến tình hình nước ta. Thêm vào đó, Mỹ vẫn kéo dài cấm vận về kinh tế
chống Việt Nam (đến đầu 1994) gây khó khăn không nhỏ cho sự phát triển bình
thường của đất nước.
Đặt Việt Nam vào bối
cảnh với tình hình trong nước và quốc tế như trên, những xáo trộn trong đời
sống xã hội, mặt trái của cơ chế quản lí thị trường và sự phức tạp của xu hướng
toàn cầu đã khiến cho tâm lí con người bị phân hóa. Một mặt con người lạc quan
tin tưởng vào tương lai, mặt khác không ít người tỏ ra bi quan và hoang mang
trước sự đảo lộn các giá trị, sự tác động mạnh mẽ của đồng tiền, sự trượt dốc,
băng hoại của các giá trị đạo đức, nhân cách của con người. Bức tranh xã hội
mang một mảng màu sáng tối phức tạp chưa từng có, điều này đã tác động trực
tiếp đến cách cảm, cách nghĩ của con người, trong đó có các nhà văn, nhà thơ
nảy sinh nhu cầu nhận thức lại cuộc sống. Con người thoát khỏi vòng hòa quang
của quá khứ, dũng cảm đối mặt với vấn đề phức tạp của đời sống đang diễn ra
hàng ngày, hàng giờ. Con người bộc lộ tất cả những gì tích cực cũng như tiêu
cực, những khát khao và bất lực, bản lĩnh và những sự tuyệt vọng, sự bứt phá và
kiếm tìm, lí giải sự cô đơn và cả nỗi hoài nghi. Ý thức dân chủ được trỗi dậy
mạnh mẽ và sâu sắc, con người khát khao tìm về các giá trị nhân bản đích thực
mang tính chất vĩnh hằng.
Như vậy sự chuyển biến
xã hội đã dẫn đến sự thay đổi trạng thái tâm lí và ý thức con người sau quá
trình đổi mới và phát triển. Và từ bối cảnh đó đã nảy sinh những tiền đề thẩm
mỹ làm nên sự phát triển phong phú đa dạng của diện mạo văn học sau đổi mới nói
chung và thơ văn xuôi nói riêng.
Từ sau năm 1986 với chủ
trương đổi mới của Đảng, tạo nên một bước ngoặc đánh dấu sự thay đổi to lớn
trong đời sống xã hội, mà tiêu biểu là sự thay đổi trong cách nhìn nhận các giá
trị cuộc sống nói chung và của văn học nghệ thuật nói riêng.
Trước hết là là sự thức
tỉnh ý thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn về con người cá thể, với những nhu
cầu trong thời bình là bước chuyển biến tất yếu của ý thức xã hội. Con người cá
nhân đã dần dần trở thành nhân tố trung tâm trong đời sống xã hội. Đó là con
người được nhận diện trong mối quan hệ đa chiều và luôn khao khát được nhận
thức, được khẳng định mình. Cùng với nhu cầu xã hội, thị hiếu công chúng không
còn ưa lối nói một chiều, lí tưởng hóa cuộc sống mà họ đòi hỏi phải có sự lí
giải, cắt nghĩa nhiều dữ kiện của đời sống, nhận thức lại nhiều vấn đề. Văn học
thời kì này có xu hướng nhạt dần cảm hứng sử thi, chuyển hướng quan tâm nhiều
hơn đến những số phận đời tư, đời thường, từ cộng đồng tổ quốc đến con người cá
nhân, cá thể. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải phản ánh hiện thực đời
sống hàng ngày, những quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, đa sự, chằng chịt được đan
dệt bởi những mạch nỗi, mạch ngầm. Con người được phản ánh trong giai đoạn này
là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân, chen lẫn giao tranh giữa bóng tối và
ánh sáng, cao cả và tầm thường trong một thế giới tạp âm và đầy nghịch lí. Văn
học bao giờ cũng phản ánh thực nhu cầu của thời đại “Qua nhà thơ, người ta thấy thời đại mà anh ta đang sống”, để phản
ánh hết thực tế cuộc sống với nhiều gam màu sắc khác nhau, đòi hỏi nhà thơ phải
có những tìm tòi, đổi mới từ nội dung đến hình thức trình bày. Nếu như các thể
thơ truyền thống ràng buộc cảm xúc theo cách ngắt vần điệu theo một nguyên tắc
nhất định, thì họ đòi hỏi một sự sáng tạo mới, không gò bó cảm xúc, thơ ca
không chỉ đơn giản được sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, mượt mà mà ở đó còn có cái
gay gốc, dứt khoát và mang đậm hơi thở cuộc sống nhưng không tầm thường, mà vẫn
mang một màu sắc nghệ thuật độc đáo riêng.
So với trước, thơ sau
đổi mới xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới: cảm hứng nghệ thuật bắt nguồn từ
chính số phận và kinh nghiệm của chính cá nhân nhà thơ. Thơ đã có một cái nhìn
mới. Các mặt, các khía cạnh khác nhau của hiện thực được soi rọi bằng một nhận
thức mới. Nhận thức trong sự đa dạng, đa chiều cả về nội dung và nghệ thuật.
Tất nhiên sự xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới có tính lịch sử, phụ thuộc vào
yêu cầu của thời đại, của người đọc và cả chính bản thân chủ thể sáng tạo. Sự
cảm nhận đó được thể hiện qua một số tập thơ của các tác giả tiêu biểu như: Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, Ánh trăng (1984) của Nguyễn Duy, Khối vuông Rubich (1985) của Thanh Thảo,
Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý
Nhi, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986)
của Nguyễn Quang Thiều… Trong đó có nhiều bài thơ nói lên những suy nghĩ thấm
thía về con người, về sự chiêm nghiệm, lí giải cuộc sống, bình luận, đánh giá
và làm bật lên một triết lí sống sâu sắc của các nhà thơ.
Trước thời gian này,
nhiều nhà thơ đã dồn sức cho thể loại trường ca và sự thể nghiệm thơ văn xuôi: Những người đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1982) của
Thanh Thảo, Ngọn giáo búp đa (1977)
của Ngô Văn Phú, Đường tới thành phố
(1979) của Hữu Thỉnh, Đất nước hình tia
chớp (1981) của Trần Mạnh Hảo… được xem là những ngòi nổ khai hỏa cho cả
một chặng đường thơ thực sự chuyển mình từ sau những năm đổi mới. Những vấn đề
mà trong chiến tranh thơ không đụng đến, hoặc có gợi lên thì vẫn hướng tới mục
đích cộng đồng, bây giờ được khơi gợi, nhấn mạnh, khẳng định: nỗi buồn riêng,
thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội tâm, vấn đề muôn
thuở của con người…đều được soi rọi từ nhiều khía cạnh khác nhau. Thơ lúc này
không phải chỉ là tả, là kể, trình bày mà là biểu hiện hiện thực bằng những tâm
trạng, những cá tính sáng tạo độc đáo, nhờ vậy vừa phản ánh cuộc sống, thơ vừa
đi vào tầng sâu của tình cảm con người. Trong sự phát triển của văn học từ sau
1975 đến nay, có thể khẳng định một điều rằng hình thức thơ văn xuôi đang có xu
hướng nở rộ. Những nhà thơ từ thời chống Mỹ vẫn tiếp tục thể hiện sức sáng tạo
của mình như Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Chế Lan Viên, Nguyễn Quang Thiều…
Từ sau đổi mới, nội dung
thơ chuyển hướng nhanh chóng sang các chủ đề xã hội. Các cảm xúc cá nhân của
nhà thơ thường ít gắn liền với những chấn động lớn lao của thời đại. Thơ chuyển
hướng mạnh mẽ vào các chủ đề xã hội mang tính chất thế sự và đời tư. Nhiều nhà
nghiên cứu văn học cho rằng, tìm hiểu sự vận động của văn học từ sau 1975, nếu
không thấy sự xuất hiện của cá nhân như một phạm trù xã hội phổ biến sẽ không
thể lí giải cho sự biến động và phân hóa trong nội dung thể loại của nó. Nỗi
buồn, sự cô đơn, tình yêu đôi lứa, những góc khuất của con người, cái chết thể
chất và cái chết tinh thần, sự lật trở lại của các giá trị siêu cá nhân… trong
thơ không thể không mang ý nghĩa xã hội. Khi chuyển hướng vào các chủ đề xã
hội, các nhà thơ đặt lên hàng đầu những suy nghĩ cá nhân và bộc lộ chính kiến
của riêng mình. Những bài thơ như “Đánh
thức tiềm lực”, “Nhìn từ xa tổ quốc”
của Nguyễn Duy, “Người đàn ông bốn mươi
tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao… cho thấy sự khuấy động đời sống văn
học. Trong sự nhập cuộc với đời sống bộn bề, phức tạp, thơ dẫu chưa có được
những thành tựu rực rỡ, những đỉnh cao tiêu biểu, vẫn mang được hơi thở và khát
vọng của thời đại, cố gắng vươn tới những cảm hứng phong phú và vĩnh cửu vốn có
của thể loại trong tiến trình đổi mới.
Không còn nghi ngờ gì
nữa, tính hiện đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của thơ
tự do và thơ văn xuôi so với các thể thơ khác. Điều này xuất phát từ ba lý do
cơ bản: đây là những thứ thơ cho phép nhà thơ triển khai tự do hơn những phức
hợp cảm xúc cá nhân, thể hiện sự giao thoa thể loại, trong đó đáng kể nhất là
ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thi ca và việc tìm đến thơ tự do và thơ văn
xuôi khiến cho giọng điệu thơ không còn êm ái, mượt mà như trước mà trở nên thô
ráp hơn, nhịp điệu thơ mang nhiều tính bất ngờ hơn. Thơ tự do khiến cho các nhà
thơ có khả năng tạo ra những cú vặn cấu trúc nhằm gây ấn tượng cho người đọc.
Thơ tự do và thơ văn
xuôi không phải chỉ mới xuất hiện trong giai đoạn xã hội có nhiều chuyển biến
phức tạp như thời kì sau đổi mới này. Trước đó nó đã được manh nha qua những
tìm tòi thể nghiệm đổi mới hình thức thơ đầu thế kỉ XX, các nhà thơ luôn có xu
hướng muốn phá vỡ khuôn khổ câu thơ xưa cũ, bó buộc để tự do hơn trong việc thể
hiện cảm xúc. Thơ Tản Đà là một điển hình trong bài Hoa rụng:
“Đang ở trên cành bỗng chốc rơi
Nhị mềm cánh úa
Hương nhạt màu phai
Sống chửa bao lâu đã hết đời
Thế mà hoa rụng lại sướng hơn người”
Cùng với một số thi sĩ
cùng thời như Phạm Công Thạch, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Rồi đến cuộc cách
tân trong phong trào Thơ mới, giọng điệu là tiếng nói của đời sống hàng ngày
phong phú, thoát khỏi những niêm luật của thơ cổ. Mở đầu là hiện tượng văn xuôi
hóa, văn xuôi biền ngẫu, câu thơ cốt giữ cái nhịp nhàng, xóa đi những cái khô
cứng, mòn cũ, ghi lại kịp thời những dòng cảm xúc, những cái gần gũi, cụ thể và
mơ hồ, như bài “Tình già” của Phan
Khôi:
“Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa
gió lại vừa mưa
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở…”
Hay như bài thơ Trên
đường của Lưu Trọng Lư, cùng với một số tác giả khác như Thế Lữ, Tế Hanh, Tố
Hữu viết nhiều về hình thức thơ 7, 8 chữ (một thể thơ có nguồn góc thơ ca dân
tộc) Điều này chứng tỏ các nhà thơ muốn phá vỡ cái cũ, giọng điệu cũ nhưng chưa
kịp tạo ra cái mới cho nên còn dựa vào một số truyền thống trong thơ ca dân
tộc. Song, đó lại là giọng điệu của tiềm thức, bất cứ lúc nào, chỉ cần một rung
động nhỏ cũng có thể nổi bật lên, ngân nga. Chính cái giọng điệu này làm thay
đổi các dòng thơ, câu thơ, cũng có nghĩa là các thể thơ trở nên bất ổn dù đó là
những cách luật của dân tộc đã được ổn định.
Đến thời đại ngày nay,
khi mà hình thức tự sự, nhất là tiểu thuyết đang hiện lên như nhân vật chính
trên sân khấu văn học thì ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thơ là điều dễ hiểu.
Nhưng để không bị hòa tan, thơ vừa tìm cách níu giữ những yếu tố hạt nhân làm
nên cấu trúc thể loại, vừa mở rộng chính nó để thích ứng với điều kiện và môi
trường văn hóa mới. Trong thơ văn xuôi và thơ tự do, các nhà thơ vẫn kiên trì
giữ vững tính ẩn dụ thể hiện rõ nhất ở các biểu tượng giàu sức gợi, đồng thời,
tổ chức nhịp điệu thơ một cách linh hoạt. Nhiều độc giả khẳng định: thơ ngày
nay khó nhớ, khó thuộc hơn so với thơ ca giai đoạn trước. Điều này là một thực
tế. Nó cho thấy sự vận động khá rõ trong tư duy thơ. Trước đây, các nhà thơ chủ
yếu tập trung xây dựng những câu thơ ám ảnh, cấu trúc thơ chủ yếu xoay quanh
nghệ thuật lập tứ và nghệ thuật dùng từ, xây dựng tính nhạc nhằm tạo nên sức mê
hoặc khiến cho thơ dễ ru người đọc. Hiện nay, các nhà thơ lại tập trung vào tổ
chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng ấy
nhiều khi không dễ nhận ra bằng sự cảm nhận thông thường. Nó đòi hỏi người tiếp
nhận vừa giàu trải nghiệm vừa phải có khả năng tiếp nhận cái siêu nghiệm trong
thơ.
Thơ ca sau đổi mới vận
động nhiều hướng nhưng chủ trương đào sâu vào bản thể tâm linh là một hướng đi
được nhiều người tìm đến. Tại đây, nhiều khi nhà thơ không đứng ra làm nhiệm vụ
giải thích, thuyết minh mà để cho người đọc tự khám phá những bí mật sau những
cách nói ngỡ như không ăn nhập gì với nhau, cấu trúc thi phẩm nhìn qua hết sức
lỏng lẻo nhưng thật ra lại hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, từ ý thức cách tân đến
việc sáng tạo nên những tác phẩm mang ý nghĩa kết tinh cao độ là cả một chặng
đường dài.
1.2. Đôi nét về thể thức thơ văn
xuôi
1.2.1. Khái niệm thơ văn xuôi
Thực ra cho đến nay, thơ
văn xuôi vẫn chưa có một khái niệm hoàn thiện và ổn định. Điều này có lẽ do
nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. Về mặt
khách quan, thơ văn xuôi là thể thơ ít
được phổ biến và vẫn đang trong tiến trình tự hoàn thiện nên chưa tạo được sự
chú ý đúng mức của các nhà nghiên cứu. Mặt khác, các đặc trưng của nó cũng chưa
định hình rõ ràng, thậm chí còn không ngừng phát sinh, nên rất khó có thể qui
chiếu nó vào một khái niệm hoàn chỉnh. Về phần chủ quan của các nhà nghiên cứu
thì trong các tài liệu có đề cập đến thơ văn xuôi, mỗi tác giả có mỗi cách nhìn
nhận, đánh giá khác nhau nên cũng nêu các khái niệm không trùng nhau về thơ văn
xuôi.
Theo sự khảo sát của
chúng tôi, ở Việt Nam người nghiên cứu về thơ văn xuôi sớm nhất là Xuân Diệu.
Theo ông. Thơ văn xuôi là “những bài văn
xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm thơ… vừa có hình tượng đẹp, vừa có âm thanh
hay, lại có nhịp điệu và tiết tấu nhanh chậm của câu văn” [12; 661]. Nhưng
theo chúng tôi, Xuân Diệu chỉ mới nêu ra các đặc trưng của thơ văn xuôi chứ
chưa khái quát thành khái niệm cho thơ văn xuôi. Cũng như vậy, Hà Minh Đức và
Bùi Văn Nguyên trong cuốn “Thơ ca Việt
Nam – Hình thức và thể loại” dù có dành hẳn một chương để viết về thơ văn
xuôi nhưng cũng chỉ đi sâu vào khía cạnh phân biệt thơ văn xuôi với thơ nói
chung và thơ văn xuôi với văn xuôi dựa trên các phương diện nội dung và hình
thức chứ không nhằm đưa ra một cách hiểu, một sự nhận định rõ ràng về thể thơ
này. Sự nhận định này còn kéo dài đến các tác giả gần đây như Hữu Đạt (trong “Ngôn ngữ thơ Việt Nam”), Nguyễn Đăng
Điệp (trong “Nghĩ về thơ văn xuôi”),
Lê Thị Hồng Hạnh (trong “Một số đặc điểm
của thơ văn xuôi”)…với khuynh hướng chung là lấy một hay một vài đặc điểm
nổi bật nhất của thơ văn xuôi để gọi tên thay cho khái niệm của nó. Và rõ ràng,
điều đó đã không mang lại một cách hiểu khái quát và đầy đủ cho thể thơ này.
Trong Từ điển thuật ngữ
văn học, khái niệm “Thơ văn xuôi”
được nêu là “Một hình thức cơ bản của thơ
được viết bằng văn xuôi. Thơ văn xuôi khác thơ tự do ở chỗ không phân dòng,
không dùng hình thức dòng thơ (cũng gọi là “câu thơ”) làm đơn vị nhịp điệu,
không có vần” [319]. Theo chúng tôi, khái niệm này cũng không thật hoàn
chỉnh và rõ ràng vì mới chỉ tập trung vào mặt hình thức của thơ văn xuôi và
chưa nêu được đặc trưng của thể loại thơ văn xuôi.
Bên cạnh đó, nếu xét
trên phương diện tổ chức ngôn ngữ, thì trước thơ văn xuôi, thơ Việt Nam được
chia làm hai loại: thơ cách luật và thơ tự do. Trong đó, thơ cách luật bao gồm
tất cả các thể thơ được “luật hóa” về
số tiếng, số dòng, về âm thanh, nhịp điệu, vần điệu… của ngôn ngữ; thơ tự do
thì không tuân theo qui tắc ràng buộc nào nhưng vẫn phân dòng, chia khổ và
khuynh hướng gieo vần vẫn phổ biến. Có thể xem thơ văn xuôi là loại thứ ba: dùng hình hình thức câu văn xuôi để biểu
hiện những nội dung tư tưởng, tình cảm đầy chất thơ. Tuy nhiên, thơ văn
xuôi vẫn giữ lại yếu tố cốt lõi nhất của ngôn ngữ thơ là nhịp điệu. Điểm đáng
chú ý là nhịp điệu trong thơ văn xuôi vừa là nhịp điệu của ngôn ngữ, vừa là
nhịp điệu của cảm xúc.
Về phương diện nội dung,
thơ văn xuôi, do sự mở rộng về dung lượng ngôn ngữ, nên cũng có khả năng bao
chứa hiện thực rộng lớn hơn, hình ảnh và cấu tứ thơ đa dạng hơn, chất suy tưởng
và triết lí đậm nét hơn.
Trên cơ sở kế thừa ý kiến
các nhà nghiên cứu trên đây, đồng thời xuất phát từ đặc trưng cơ bản về nội
dung và hình thức của thơ văn xuôi như đã trình bày, chúng tôi đồng tình với
quan điểm: thơ văn xuôi là tác phẩm thơ
dùng hình thức câu văn xuôi có nhịp điệu để biểu hiện những nội dung tư tưởng,
tình cảm giàu chất thơ. Thơ văn xuôi thường tập chung khai thác và xây dựng
hình ảnh, cấu tứ mới lạ, giàu chất triết lí và suy tưởng. Trong chừng mực nào đó, khái niệm trên có thể chưa thực sự
hoàn thiện, nhưng nó cũng giúp chúng tôi có thể hình dung được khá đầy đủ diện
mạo của thể thơ này, đồng thời có thể dựa vào đó để bước đầu phân biệt được thơ
văn xuôi với các thể thơ khác.
1.2.2. Một số đặc điểm của thơ văn xuôi
Thơ văn xuôi là một thể
loại đang trong quá trình vận động, chưa hoàn thiện, cho nên còn quá sớm để có
thể đóng khung nó vào trong vài đặc điểm nhất định. Thế nên, trong quá trình
nghiên cứu của mình, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số đặc điểm cơ bản làm
nên sức hấp dẫn của thể thơ này.
Về cơ bản, thơ văn xuôi
có ý thức bứt phá khỏi những qui phạm cứng nhắc của thơ cách luật, trong thơ
văn xuôi không có một kiểu tổ chức hình thức nào, dù là tự do nhất cũng không
được người làm thơ chấp nhận. Qua quá trình tìm hiểu và khảo sát, chúng tôi
nhận thấy thơ văn xuôi có ba đặc điểm cơ bản là sự tự do trong trong mô hình tổ
chức câu thơ, khước từ các dấu câu trong văn bản được trình bày, có những biểu
hiện nội dung thi tứ bất ngờ, độc đáo, mang chiều sâu triết lí và giàu hình
ảnh.
Thứ nhất, biểu hiện
của thơ văn xuôi là sự tự do trong mô hình tổ chức câu thơ, các nhà làm thơ văn xuôi không phải
chịu một qui định nào về niêm luật. Họ không bị giới hạn về số lượng âm tiết
trong một câu thơ, số lượng câu thơ trong một khổ thơ, thậm chí bài thơ không
cần phân dòng, chia khổ. Đặc biệt, cấu trúc văn phạm của câu thơ văn xuôi cũng
ngã về phía văn xuôi, với nhiều lớp lang, nhiều thành phần mở rộng hoặc đôi khi
dung nạp cả những liên từ, kết từ, điều mà thơ thông thường rất kị. Sự tung phá
này còn thể hiện ở sự linh hoạt trong cách thức tổ chức kết cấu văn bản. Bài
thơ có thể được trình bày như một văn bản văn xuôi tự do hoặc có dạng thức như
một truyện ngắn như: “Cái đêm Thánh Giống
về trời” của Phạm Hổ, “Cánh rừng
nhiều đom đóm bay” của Nguyễn Đức Mậu… Đôi khi như một màn kịch nhỏ với
những lời đối thoại như “Đối thoại biển”
của Hữu Thỉnh, một số phần trong “Khối
vuông rubic” của Thanh Thảo. Cũng có đôi lúc nó được tạo nên từ sự phối hợp
giữa truyện ngắn và thơ như “Trăng hoàng
cung” của Phùng Quán, “Lời Mị Châu”
của Đỗ Trung Lai…
Thứ hai, một hướng đổi
mới nữa trong thơ văn xuôi là viêc khước từ dấu câu trong các văn bản được
trình bày dưới hình thức văn xuôi. Đây chưa phải là xu hướng phổ biến nhưng
cũng nên được ghi nhận như một nổ lực nhằm làm mới thơ ca của các nhà thơ hiện
đại. Nếu như thơ cách luật không sử dụng dấu câu, nhưng nó lại được khuôn vào
một mô hình âm luật chịu sự ràng buộc về cách tổ chức nội dung và cách ngắt
nhịp của mô hình đó. Thơ tự do cũng có thể không cần dấu câu nhưng nhờ cách
ngắt nhịp dòng thơ, nhà thơ có thể hướng bạn đọc theo chủ ý ngắt nhịp của mình.
Các bài thơ văn xuôi thì khác. Khi nó được tổ chức như một văn bản văn xuôi,
thông thường nhà thơ phải đưa vào trong đó các dấu câu để biểu hiện sự phân
đoạn ngữ nghĩa, ít nhiều định hướng cách ngắt nhịp cho người đọc. Với việc loại
bỏ các dấu câu khỏi văn bản, tác giả dường như chỉ cung cấp cho chúng ta một
chuỗi ngữ lưu để ngỏ, buộc người đọc phải căn cứ vào cách hiểu của mình mà phân
ý, ngắt câu. Nhịp điệu của bài thơ vì thế cũng chịu sự chi phối từ cách hiểu,
cách cảm riêng của mỗi người. Lối viết với những dòng chữ miên man không nghĩ
còn gợi cho người đọc cảm giác về một cuộc chạy đua của ngôn từ với dòng ý thức
ào ạt của cái tôi trữ tình. Dường như khi bỏ qua yêu cầu suy nghĩ cho rạch ròi
về ngắt câu, ngắt ý hay chuẩn chính tả, tác giả sẽ có điều kiện bắt kịp dòng
chảy của tâm tư. Hình thức tuyệt đối tự do của văn bản cũng thể hiện một cách
sống động tính chất liên tục, hỗn độn của dòng ý thức.
Thứ ba, thể thơ văn xuôi
còn biểu hiện một nội dung thi tứ bất ngờ, độc đáo, mang chiều sâu triết lí.
Bằng khả năng đặt vấn đề, thơ văn xuôi làm thay đổi thói quen cố hữu của đọc
giả trong cách đọc thơ. Đến với thơ văn xuôi không phải chúng ta chỉ cần đọc
bằng mắt, bằng tai mà phải đọc bằng trí tuệ, bắng ý thức đối thoại triệt để với
những đều mà người viết đặt ra trong tác phẩm. Cũng chính vì thế, thơ văn xuôi
đòi hỏi chiều sâu triết lí nên đây là thể thơ rất kén đọc giả và khó thành công
đối với những nhà thơ. Bên cạnh vẻ đẹp của chiều sâu triết lí, sức mạnh của thơ
văn xuôi còn bắt nguồn ở khả năng liên tưởng dồi dào, tinh tế, độc đáo chính là
những bài được kết cấu theo dòng cảm xúc tự nhiên, sống động của nhân vật trữ
tình.
Thứ tư, ngôn ngữ của thơ
văn xuôi là ngôn ngữ giàu hình ảnh. Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến một đặc
trưng khác của thơ văn xuôi đó là giàu hình ảnh. Giàu hình ảnh là đặc trưng của
ngôn ngữ thơ, trong đó có thơ văn xuôi. Do đó, ngôn ngữ thơ văn xuôi chủ yếu
cũng được sử dụng theo phương thức biểu hiện nhằm thể hiện những suy nghĩ, cảm
xúc của con người về cuộc sống. Mặt khác, do diễn đạt bằng hình thức câu văn
xuôi và cũng do yêu cầu phản ánh ngày càng cao, nên thơ văn xuôi ít nhiều cũng
chịu ảnh hưởng bởi phương thức tạo hình – trực tiếp miêu tả, vẽ nên những bức
tranh về hiện thực, vốn là một thế mạnh của ngôn ngữ văn xuôi. Vì thế, tính tạo
hình trong thơ văn xuôi được thể hiện đậm nét hơn. Tuy nhiên, cần hiểu tính tạo
hình ở đây là một đặc điểm chứ không hẳn là một ưu điểm. Nét đặc sắc trong việc
xây dựng hình ảnh của thơ văn xuôi là bên cạnh xu hướng mĩ lệ hóa truyền thống
các hình ảnh còn được khắc họ bằng những kết hợp có tính chất “nghịch dị”. Hướng đi này có thể thấy rõ
ở các nhà thơ Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều…dưới cái nhìn của các tác giả
này, sự vật thường được miêu tả như là một kết hợp của những đối cực: cái đẹp
và cái xấu, cái chết chóc và cái sinh thành, hiện thực và siêu thực… Ví dụ như
tác giả Nguyễn Quang Thiều là một điển hình. Nét đặc sắc ở tác giả này là phép
lạ hóa hình ảnh thông qua cách kết hợp độc đáo giữa các danh từ chỉ hình ảnh
với các hình tượng từ đi kèm hoặc qua những so sánh, liên tưởng có phần kì dị.
Khảo sát 18 khúc ca trong bài “Nhân chứng
của một cái chết” (trừ Khúc mười chín) chúng tôi thấy những cách kết hợp từ
hết sức lạ lùng như: “bình minh máu rực
rỡ/ da thịt tối tăm/ sự im lặng khổng lồ/ những chiếc thuyền phờ phạc/ những
tháng năm bóng tối nham nhở/ nóng nhão óc/ lạnh vỡ xương/ những nấm mộ hoan hỉ/
những nấm mộ tươi sáng…”. Những kết hợp từ bất thường này không đơn thuần
nhằm tạo ra sự tân kì mà là khúc xạ của một cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống.
Từ việc xây dựng nên
những đối cực như vậy đã thể hiện một nhãn quan mới về cuộc sống của con người
hiện đại so với cái nhìn mĩ lệ hóa trong gia đoạn trước, đồng thời thể hiện sự
thay đổi trong quan niệm sáng tác. Thơ không chỉ gắn với cảm hứng về cái đẹp mà
còn có thể được khơi nguồn từ chính thực tại đầy những bất cập, tan vỡ, thậm
chí đầy rẫy cái xấu và cái ác.
1.2.3. Sự phát triển của thơ văn xuôi ở Việt Nam sau đổi mới
Ở Việt Nam, thơ văn xuôi
bắt đầu xuất hiện ở nước ta qua sáng tác của các nhà Thơ mới giai đoạn
1932-1942. Trong công trình hợp tuyển Thi nhân Việt Nam in năm 1942, Hoài Thanh
và Hoài Chân đã viết: “Phong trào thơ mới
lúc bột phát có thể xem như một cuộc xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào
địa hạt thơ, phá phách tan tành.” Đấy là nói đến ảnh hưởng của văn
xuôi nói chung, một dấu hiệu của công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam, khi
mà trước đây, trong thời trung đại, văn chương Việt Nam chủ yếu phát triển ở
lĩnh vực thơ ca. Trong bối cảnh đó, thơ văn xuôi của phương Tây được coi là một
trong những con đường giải phóng cho thơ ca Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc
của các quy tắc thơ cũ.
Từ sau năm 1975 đến nay,
thơ văn xuôi đã khẳng định được chỗ đứng trong thơ ca Việt Nam. Đặc biệt, thơ
văn xuôi dường như đã tìm được mảnh đất thích hợp trong trường ca. Sau khoảnh
khắc được thử nghiệm ngắn ngủi trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, thơ văn xuôi tự tin
thâm nhập vào trường ca với “Khối vuông rubíc” của Thanh Thảo (1985). Thanh Thảo đã
dành trọn vẹn trường ca này cho thơ văn xuôi. Tiếp đến, thơ văn xuôi xuất hiện
ở một số chương trong “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn (1999), trong “Trên đường” (2004) và “Ngày đang mở sáng” (2007) của Trần Anh Thái, “Hành trình của con kiến” của Lê Minh Quốc (năm 2006), và lại có
mặt trong suốt bản trường ca “Phồn sinh” dài 200 trang của Nguyễn Linh Khiếu
(2007).
Như cùng một ước hẹn,
thơ văn xuôi trong trường ca Việt Nam hiện đại được các nhà thơ vận dụng để bày
tỏ những dòng trăn trở, suy tư, cả những dòng suy tư triết lý và những cảm xúc
sôi trào, những điều mà có lẽ cái khuôn khổ gò bó của các thể thơ truyền thống
không cho phép họ bộc bạch hết được: “Tôi
xoay những ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất. Rubíc một trò chơi kỳ lạ.
Chúng ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp lại những ý nghĩ. Có hàng tỷ cách sắp
xếp. Rubic – đó là cấu trúc của thơ.” (Thanh Thảo, “Khối vuông rubíc”) Hay “Không
có ai đốt lửa trước con đường, chỉ có niềm hy vọng cháy lên. Sức mạnh bàn chân
ở nơi thẳm sâu niềm trắc ẩn, ngân nga nơi dấu chân tổ tiên, nơi những câu
chuyện buồn không dứt. Đi! Dừng lại là đắm chìm, là hoang mang cay đắng, là
tiếng vọng xa xăm lạnh buốt cõi người. Không có bờ sóng vỗ vào đâu?” (Trần
Anh Thái, “Trên đường”).
Đến đây, chúng ta có thể
thấy thơ văn xuôi xuất hiện như là một thể thức lưỡng tính, có nghĩa nó phải
trước hết là thơ, sau phải mang hình thức của văn xuôi, đến độ nếu nhìn bề
ngoài rất khó phân biệt rằng đó là một bài thơ theo quan niệm truyền thống. Hai
yếu tố này phải là một, hợp nhất, hòa quyện trong một thể thống nhất mang tính
lý tưởng mới tạo ra thơ văn xuôi. Tác phẩm thơ văn xuôi được hình thành bắt đầu
từ việc cảm xúc và ý tưởng cùng khởi lên một lúc trong một cảm quan rộng lớn.
Nhịp điệu của thơ văn xuôi được hình thành bởi những sợi cực mảnh nhưng với độ
rung vang cực nhạy, nó được chìm lẫn trong ngôn ngữ với những cảm xúc và ý
tưởng hòa quyện. Cái nhịp điệu với độ rung đặc biệt này, nó làm cho thơ văn
xuôi không thể lẫn với văn xuôi và đương nhiên nó khác biệt hẳn các thể thơ ra
đời trước nó.
Đời sống trải nghiệm của nhà thơ là một cái gì đó như một yếu tố không
thể thiếu, chúng được ngấm vào từng mao mạch li ti trong toàn bộ cơ thể của bài
thơ. Đời sống trải nghiệm chính là cái tinh chất của thời đại được giữ lại từ
hàng ngàn những tia xạ của thời đại xuyên thấu nhà thơ qua thời gian năm tháng
đời người. Nếu không có sự tỏa ra từ đời sống trải nghiệm của nhà thơ, bài thơ
văn xuôi sẽ thiếu vắng cái phong vị ý vị nhất mà thể thơ này có được.
Thơ văn xuôi là bước phát triển cao
nhất của thơ tự do. Ngoài đặc trưng chung của thơ ca là nhịp điệu, thơ văn xuôi
còn giống thơ tự do ở cùng một điểm chung là không bị ràng buộc vào các quy tắc
về số câu, số chữ, niêm luật... Nhưng, nó khác với thơ tự do ở chỗ là trong khi
thơ tự do vẫn lấy câu thơ làm đơn vị nhịp điệu và có thể vẫn có vần, thì thơ
văn xuôi không phân dòng, không dùng hình thức câu thơ làm đơn vị nhịp điệu, và
thứ hai là thơ văn xuôi không có vần.
Cùng trong xu hướng của thơ tự do,
thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp với việc diễn đạt những trăn trở, suy tư
triết lý và suy tưởng về nhân tình, thế sự. Đây là một lối thoát cho các nhà
thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn luận tự do về số phận của
con người và xã hội, khi mà các thể thơ có niêm luật gò bó không đáp ứng được
yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề của thời đại.
Thật vậy, thơ văn xuôi
thể hiện nhu cầu xã hội của thời đại, một nhu cầu đa dạng, phức tạp, lắm biến
đổi. Cũng như thơ nói chung, thơ văn xuôi thuộc phương thức biểu hiện trữ tình
nhưng nó mượn yếu tố hình thức của văn xuôi để biểu đạt. Thơ xưa lấy ý tại ngôn
ngoại làm trọng nên đề cao sự tinh lọc đến mức ước lệ, sáo mòn. Cuộc sống hiện
đại không phải không cần tinh lọc nhưng sự tinh chọn phải luôn đi kèm với mới
lạ. Do đó, một thể loại như văn xuôi mới có thể tiếp cận được mô hình nguyên
chất của đời thường, cập nhập được thông tin nhiều bề, gai góc để rồi từ đó
nâng lên thành tầm khái quát, thành tư tưởng. Sự mở rộng, phóng khoáng, sẵn
sàng dung nạp nhiều hàm lượng thông tin, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển
nhânh chóng, vượt bậc của xã hội hiện đại so với những thời đại trước nó.
1.3. Thơ văn xuôi trong sự nghiệp
sáng tác của hai nhà thơ
1.3.1. Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong thơ ca
Việt Nam sau đổi mới
Ngay sau năm 1986, đã
xuất hiện một số ít nhà thơ có ý thức sâu sắc về cách tân thơ Việt. Họ có chủ
thuyết chắc chắn và riêng biệt trên con đường đã chọn. Họ có đủ kiến thức thi
ca, có nền tảng văn hóa và xã hội sâu rộng, có bản lĩnh khám phá và cả lòng
dũng cảm, bình tĩnh trước sức ép công luận, dám chấp nhận đơn độc trên con
đường mới, mở ra một không gian thơ khác. Họ khác hẳn số đông từ nền tảng, lí
tưởng thơ ca đến cách biểu đạt ý tưởng, lập ngôn, cách tạo những chuyển động
thi ảnh…Thời kì đầu đa số bạn đọc phản ánh quyết liệt trước một số hiện tượng
thơ cách tân, thậm chí là chóng lại những quan niệm thẩm mỹ mới lạ.
Tuy nhiên, thực tiễn
cuộc sống và nghệ thuật thay đổi khiến cho những cây bút nhạy cảm nhất cũng
phải thay đổi theo hướng hiện đại, cho dù mức độ đổi mới của từng cây bút là
hết sức khác nhau. Điều đó có thể nhận thấy trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khoa Điềm,… Nhưng nhìn đại thể, sự đổi mới
của các cây bút này vẫn chủ yếu nằm ở phương diện cái nhìn và cảm hứng chứ chưa
có sự cách tân mạnh mẽ về thi pháp. Nhưng thời gian khách quan đã minh chứng
một số thành công nhất định của các tác phẩm dù chưa nhiều nhưng cũng là những
ví dụ điển hình cho những chuyển động mới. Ở đây không thể không nhắc đến những
gương mặt trẻ hào hứng đi tìm những tiếng nói mới cho thơ như Thanh Thảo,
Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư... Và mỗi
người, theo cách nói của riêng mình đã ít nhiều tạo cho thơ những diện mạo mới
lạ hơn.
Cùng hòa mình vào dòng
chảy chung của thơ ca Việt Nam sau đổi mới, hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và
Mai Văn Phấn đều thể hiện những chuyển biến đổi mới trong thơ ca của mình từ
phương diện nội dung đến hình thức thể hiện. Những vấn đề xã hội lớn lao, ca
ngợi chủ nghĩa anh hùng, xa rời thực tế cuộc sống đã dần rơi vào quên lãng.
Thay vào đó là cách nhìn nhận, đánh giá lại các giá trị sống, những chuẩn mực
xã hội, khám phá thế giới bên trong của con người thông qua nguồn cảm hứng chủ
đạo là chính luận, thế sự và đời tư đi vào thơ ca của hai nhà thơ như một niềm
khắc khoải, trăn trở với cuộc đời. Ở đó có sự mạnh mẽ, dứt khoát nhưng cũng day
dứt không nguôi.
Thơ với mạch chảy là
hiện thân của những hình ảnh đứt đoạn, nhảy cóc, mở ra những trường liên tưởng
xa nhất định là khó nhớ nhưng như thế chưa hẳn là không hay. Có rất nhiều khía
cạnh khác nhau, như thơ Phạm Thiên Thư ẩn mình trong thần thái phiêu lãng giữa
đạo và đời, thơ Nguyễn Quang Thiều mang một nỗi nhớ khắc khoải về ngôi làng nơi
chôn rau cắt rốn của mình. Thơ Mai Văn Phấn lại là những trăn trở trước sự đổi
thay của cuộc sống muôn hình muôn vẻ. Nỗ lực đi sâu vào thế giới cảm giác, vào
cái vô thức, tiềm thức, đánh thức những mối liên hệ ẩn tàng trong lòng tạo vật
tồn tại bình đẳng và thống nhất cũng là nỗ lực tra vấn các kinh nghiệm mới mẻ
của ngôn ngữ trong việc thăm dò tiềm thức và tái hiện những kinh nghiệm đột
khởi tươi ròng.
Từ những năm 1990, thơ
Việt Nam đương đại bắt đầu có sự chuyển đổi lớn về mặt thi pháp và có thể nói,
Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ đầu tiên, bằng những nỗ lực vượt bậc và tài năng
xuất sắc của mình, đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt. Thập kỷ tám
mươi đã xuất hiện “những tín hiệu mới”
trong văn học nước nhà, cả thơ và văn xuôi. Về thơ, trước Nguyễn Quang Thiều đã
có sự “vỡ giọng” trong thơ Nguyễn
Lương Ngọc, Nguyễn Bình Phương,… và trước nữa là Dương Kiều Minh. Hai tập “Củi
lửa” (1989)
và “Dâng mẹ” (1990) của Dương Kiều Minh đã hiển thị
những đổi khác về thi pháp và giọng điệu. Sau “Củi lửa” vài ba năm, khi “Sự
mất ngủ của lửa” ra
đời, thi đàn mới bắt đầu thực sự dậy sóng với những tranh cãi gay gắt. Giữa lúc
đội ngũ đông đảo các nhà thơ trong nước còn mơ hồ, nghi ngờ hoặc về yêu cầu
cách tân thơ, thì tập thơ “Sự
mất ngủ của lửa” của nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều (1992) đã cất tiếng nói khẳng định, đặt dấu mốc quan trọng
khai mở dòng chảy thi ca cách tân trở về sau. Tập thơ đoạt Giải thưởng Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1993, và, nhanh chóng làm xáo trộn tư duy đời sống thơ ca
đương đại. Ánh sáng của tập thơ đã lan tỏa, tác động tích cực, sâu rộng trong
đời sống thơ ca Việt, gây hiệu ứng dây chuyền. Bắt đầu xuất hiện nhiều tác giả trẻ
với những cách viết mới lạ, nhiều khuynh hướng mới được hình thành. Hiện tượng
tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, ở chừng mực nào đó gợi chúng ta liên tưởng
tới hiện tượng thơ V.V.Mayakovsky của văn học Nga đầu thế kỷ XX; trường ca Đất hoang (The Waste Land) của Thomas Stearns Eliot trong
văn học Mỹ những năm 50 thế kỷ XX… Không ai có thể phủ nhận vai trò cột mốc văn
học mà những tên tuổi kể trên đã đánh dấu. Với những bứt phá mạnh mẽ của Nguyễn
Quang Thiều, ý thức cách tân về lối viết trở
nên thường trực và riết róng. Từ đây, đội ngũ làm mới thơ ngày càng đông đảo
với sự hiện diện của Trần Quang Quý, Nguyễn Quyến, Mai Văn Phấn, Inrasara, Trần
Tiến Dũng, Trần Anh Thái, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,… Không cần cường
điệu, có thể khẳng định dứt khoát: tính đến thời điểm này, những cách tân nghệ
thuật của Nguyễn Quang Thiều vào những năm đầu 90 của thế kỷ XX là những cách
tân tạo được hiệu ứng nghệ thuật sâu đậm nhất trong thơ Việt sau 1975.
Sự cách tân trong thơ
Nguyễn Quang Thiều, cả mặt thành công và cả những điều chưa tới đã tạo nên sự
khác lạ về cái nhìn nghệ thuật, hệ thống biểu tượng, cách tổ chức cấu trúc văn
bản….Tất cả xuất phát từ những cơn mơ hoang tưởng Nguyễn Quang Thiều. Rõ ràng,
kể từ “Sự mất ngủ của lửa”,
Nguyễn Quang Thiều đã đẩy nhịp điệu đổi mới thơ lên một tầm mức mới, cú hích
nghệ thuật của anh có khả năng gây chấn động mạnh.
Bên cạnh đó, trong số những nhà thơ sung sức hiện nay đang có những cách
tân được dư luận chú ý phải kể tới Mai Văn Phấn. Thơ của ông biết cách giữ được
đặc thù của ngôn ngữ thơ trong chuyển động đổi mới của những con chữ. Đây chính
là sự khác biệt giữa một số cây bút cách tân đã nhân danh cái mới để "lạ hóa" thơ đến mức phản-thơ
với những tác giả có xu hướng tìm tòi nhằm nâng cao vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ
bằng những ý tưởng mới. Điển hình như cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn,
không phải là cái tôi công dân, cái tôi sử thi, hay cái tôi riêng tư, mà là cái tôi nhân sinh. Nhà thơ chuyển
từ quan niệm thơ là nỗi lòng mình, mục đích khiến cảm động lòng người đến thái
độ coi thơ là cách lập ngôn, làm thơ là thực hiện đạo sống. Hai đối tượng chính
lập trình nên dòng thơ này là con người và thiên nhiên, đến mức tác giả không
nén được, phải tuyên bố bằng câu kết của trường ca “Người cùng thời”: “Khắp
nẻo không gian đã giãn ra cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp/ Muôn năm con
người! Muôn năm thiên nhiên!” Ở đó sẽ thể hiện tầm vốc của thi sĩ chính là
khả năng khái quát, biến những hình ảnh thân thuộc thành biểu tượng của thi ca.
Nhìn chung, tuy bước đầu
có sự lúng túng giữa các các trường phái, có cả những vấp ngã, lạc đường dung
tục, có những khuynh hướng phi thơ. Bên cạnh đó, cũng có những những tác giả
trẻ có kiến thức tổng hợp và phong phú, có biểu hiện khao khát muốn mang đến
một diện mạo mới, một tâm thế mới để hòa bước vào hành trình thi ca của dân
tộc. Với tâm thức của thời đại, họ biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường
phái mà không đánh mất bản chất tâm hồn Việt, vốn trong sáng, chân thành, bao
dung mà rất hiện sinh, tinh tế trong cảm nhận, nhân bản và hồn hậu trong cách
nhìn, cách nghĩ về số phận con người.
1.3.2. Hành trình thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn
Thơ Nguyễn Quang Thiều
có điểm khác biệt rõ nét với phần đông các nhà thơ đi trước khi thơ ông không
có sự mô phỏng, sao chụp rồi đặt vào đó những ẩn ý, chủ ý. Nguyễn Quang Thiều
thường bày tỏ thái độ thẳng thắn, quyết liệt, trực diện nhằm lý giải một cách
chính xác nhất bản chất, chân tướng của đời sống: “Tôi là con chim sinh đầu hoàng hôn, cuối bình minh chưa biết hót. Cặp
mỏ tấy sưng mổ những thì thầm” (“Bài hát”). Đó đồng thời cũng là nỗi
khắc khoải, khao khát tự do, công bằng, là chân lý của mọi thế hệ, nhất là thế
hệ ông. Những vẻ đẹp lộng lẫy, rộng lớn nhiều khi hiện hữu trong những điều hết
sức bình dị của đời sống, trong hơi thở, trong cử chỉ hành động và lối cảm nghĩ
của mỗi chúng ta.
Tập thơ “Châu
thổ” (2010) gồm 144 bài được Nguyễn Quang Thiều tuyển chủ yếu trong 6 tập
của ông từ năm 1990 đến năm 2010, trong đó có khoảng 58/144 bài là thơ văn xuôi
(theo quan điểm của tác giả bài viết này). Từ tập “Ngôi nhà tuổi 17” (1990) - làm trong những năm 80 của thế kỉ 20 -
đến “Cây Ánh sáng” (2009) - thập niên
đầu của thế kỉ 21. Và năm sau, năm 2010, tuyển thơ lần thứ nhất của ông ra đời.
Gối đầu qua 2 thế kỉ, với gần ba mươi năm hành trình lao động sáng tạo, Nguyễn
Quang Thiều đã tạo thành một hiện tượng thơ với nhiều ý kiến khác nhau, trái
chiều.
Từ tập thơ đầu tay “Ngôi nhà tuổi 17” (1990) đến tập thơ thứ
hai “Sự mất ngủ của lửa” xuất hiện
hai năm sau đã cất tiếng nói khẳng định, đặt dấu mốc quan trọng khai mở dòng
chảy thi ca cách tân trở về sau. Ở những tập thơ nối tiếp phía sau, từ “Những người đàn bà gánh nước sông”
(1995) đến tập thơ “Châu thổ” (2010)
đã cho thấy thơ ông tỏa sáng trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác
nhau, với nhiều cung bậc cảm xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả
siêu thực trong đó có thơ văn xuôi. Thơ văn xuôi của ông, dù viết về đời thường
dung dị vẫn ẩn chứa tài năng, tài hoa và sự tinh tế. Những bài thơ “Chuyển động”, “Bài hát”, “Lời cầu
nguyện”,”Chuyển dịch màu đen”, “Những ví dụ”,… là những ví dụ tiêu biểu.
Bên cạnh những bài thơ về xã hội, triết lý, nhân sinh, tiên tri,… nhiều bài thơ
mang tầm vóc thời đại với tầm tư tưởng lớn được Nguyễn Quang Thiều khắc hoạ
thành công, với tính khát quát và biểu tượng cao. Các bài như “Bầy kiến qua bàn tiệc”, “Dưới
trăng và một bậc cửa”, “Con bống đen đẻ trứng”, “Nhịp điệu châu thổ mới”, “Bài ca những con chim đêm”, “Nhân
chứng của một cái chết”, “Cây ánh sáng”,… là những bức tranh minh họa đặc
sắc cho mảng thơ này. Hiện thực trong thơ văn xuôi Nguyễn Quang Thiều thường
được tái hiện như giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải trong những
cơn dư chấn; là giấc mơ của người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến hiểm nghèo,
hoặc như người vừa chợp mắt đã nhìn thấy những trải nghiệm trong đời thực nhưng
được phóng chiếu theo những cách thức khác lạ, có thể cảm nhận được cả hơi thở
nóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh hoàng của đời sống trên da thịt.
Có thể nhìn ngắm hiện
thực thơ văn xuôi trong tập “Châu thổ”
của Nguyễn Quang Thiều với nhiều gam màu dị biệt, lạnh lùng u tối nhưng không
bi lụy, tuyệt vọng,… mà ngược lại, luôn thấy ánh sáng hy vọng, niềm tin mãnh
liệt vào một tương lai tốt đẹp. Đó cũng chính là vẻ đẹp vĩnh cửu và quyền năng
tái tạo thế giới của thi ca: “Nhìn xa
chân trời nơi bình minh hé môi cười là bóng/ Những gót chân đích thực, những
gót chân đang khuất/ Như những vệt nước lớn bay hơi nhẹ nhõm không rên rỉ điều
gì…/ Cho đến khi từ vòm miệng nồng hôi, nhớp nháp/ Những cái lưỡi của người tìm
được lối ra” (“Bình minh đang lên”). Bằng linh cảm nhạy bén và khả
năng tiên tri của thi sĩ, Nguyễn Quang Thiều đã nhìn thấy khoảng cách từ bóng tối tới ánh
sáng đó là cách nghĩ, cách
gợi, một gọi mời của thi sĩ khi ranh giới giữa xấu tốt thị phi là… vô cùng mỏng
manh.
Những cuộc lên đường
cũng là điểm đến trong chuyển động thơ Nguyễn Quang Thiều. Đó là con tằm chui
ra từ vỏ kén, là mầm cây bật lên từ khe đá, là cơn mưa xuống ngọn đồi trơ trọc,
đích đến phía chân mây mù mịt sương mù, là sự dũng cảm nhích lên nửa bước chân,
những mất mát thua thiệt trong đời sống được đền bù: “Và giờ đây trong bóng tối của tháng
Chạp đông cứng như một chiếc hàm thiếc/ Tỏa rừng rực hơi nóng những bao hạt
giống/ trong tiếng nghiến kiên trì khủng khiếp của bánh xe/ đi đến cánh đồng
đang chờ quyền phép của tháng Giêng ban tặng” (“Quyền phép của thời gian”). Ở đó, thường mở ra không
gian bất tận để bạn đọc nhận ra mình đang đứng trong áp lực của những cơn gió
lớn và ông đã thấy “Con đường và số phận
dân tộc chúng ta từ một đỉnh đồi” (“Bài
ca những con chim đêm”).
Cùng với Nguyễn Quang
Thiều và nhiều tác giả khác góp phần định hình nên thể thức thơ văn xuôi ở Việt
Nam thì chúng ta không thể không kể đến Mai Văn Phấn. Nhà thơ ngay từ những năm
đầu thập niên 90 thế kỷ trước bằng sự giản dị bình thường của cuộc sống thường
nhật mà nói được vấn đề lớn đang thu hút sự quan tâm của nhiều người, như công
cuộc đổi mới hồi bấy giờ. Thơ Mai Văn Phấn chỉ nói đến cái riêng mình, từ cái
có thật của riêng mình, nhà thơ đề cập tới những mối quan tâm chung của xã hội,
hay nói cách khác là chỉ bằng sự giản dị, ngay từ bấy giờ, không gian thơ Mai
Văn Phấn đã được đặt trong khung cảnh nhất định. Đến sau những năm đầu thập
niên 90 thế kỷ 20, có thể nói thơ ông liên tiếp gặt hái những mùa bội thu, thì
từ năm 1995 trở đi, với vốn kiến thức phong phú tích lũy hàng chục năm và sự
cập nhật thông tin văn chương gần như hàng ngày, nhất là thơ, cả trong nước và
ngoài nước, Mai Văn Phấn tự mình làm cuộc “lột
xác” bằng việc thử sức vào một số khuynh hướng thơ trên thế giới. Nhưng
công bằng mà nói, giai đoạn từ năm 1995 đến 2000, bên cạnh những bài thơ kết
hợp được truyền thống với tâm thức, thì cũng không ít bài thơ của ông sa vào
rắc rối, bí hiểm, khó hiểu, một số bài như thách đố người đọc.
Cho đến năm nay, ngoài
hai tập thơ công bố trên website riêng là Anhanhemem, Quay theo
mái nhà ra, Mai Văn Phấn đã cho in 10 tập thơ và 1 tập
trường ca, gồm: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995),
Cầu nguyện ban mai (1997), Người cùng thời (1999), Nghi
lễ nhận tên (1999), Vách nước (2003), Hôm sau (2009),
Và đột nhiên gió thổi (2009), gần đây là Bầu trời không mái
che (2010) và Thơ tuyển Mai Văn
Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn” (2011). Trong đó, đặc biệt tập
thơ tuyển năm 2011 có ý nghĩa như sự đánh dấu hành trình sáng tạo thơ ca của
thơ Mai Văn Phấn. Trong tập thơ có 197 bài thơ và một
trường ca, trong đó có đến 43/198
bài thơ là tác phẩm thơ văn xuôi cho thấy tập thơ này mang một phẩm chất khác hẳn, cả
hồn lẫn xác, đánh dấu bước chuyển rõ rệt trong thơ Mai Văn Phấn từ
lãnh địa thân thuộc của thơ ca
truyền thống bước hẳn sang khoảng không diệu vợi của thơ ca hiện đại.
Mai Văn Phấn cũng đã tạo dấu ấn riêng về thơ văn xuôi ở những nơi nào có
thể: hơn chục bài thơ độc lập trong giai đoạn truyền thống (“Lúc mặt trời
mọc”, “Hoa bằng lăng”…) và nhiều bài ở thời cách tân; nhiều trường
đoạn trong một bài thơ dài (các đoạn 6, 8, 16, 23… của “Những bông hoa mùa
thu”); tất nhiên cả trong trường ca (Chương VI, Cộng hưởng II, Chương
VII, “Mail cho em”… trong “Người cùng thời”). Cũng như trường ca,
thứ “văn bản nặng” và thâm niên này
của lịch sử thơ ca thế giới và Việt Nam luôn là bến đỗ của các tranh luận,
khiến nhiều người vẫn khoan khoái khi đánh đồng việc sáng tác thơ văn xuôi
(điều bình thường) với sự thay đổi thi pháp, làm mới lạ thơ (điều bất thường).
Mai Văn Phấn tự đánh giá: “Khuynh hướng cách tân của tôi, là xóa nhòa ranh
giới giữa văn xuôi và thi ca. Tôi đã từng thử nghiệm thành công, viết nhiều bài
có hình thức văn xuôi xuôi, nhưng quyến rũ bạn đọc vào một không gian thơ rộng
lớn và thậm phồn.” [25; 6]
Có thể dễ nhận ra những
phẩm chất thi ca mới mẻ từ tinh thần tới ngoại hiện ở hầu hết các bài trong
những tập thơ sau của Mai Văn Phấn: “Hôm sau” (2009), “Và
đột nhiên gió thổi” (2009), “Bầu trời không mái che” (2010).
Cố nhiên đôi lúc ông vẫn có ý định trở về với những vần thơ chân chất buổi đầu, nhưng
hầu như với những biểu hiện không còn như cũ nữa. Thơ Mai Văn Phấn
thời này có thể nói luôn gắn với đời sống theo yêu cầu nghiêm nhặt của thứ mỹ
học hiện thực cổ điển: “Đất miên man tìm đến chân trời/ Hơi thở đằm
của bờ xôi ruộng mật; Trong mơ thấy ban mai thành lúa vàng ươm/ Và dấu
chân người gieo thành hạt thóc; Những hạt mưa đang thầm thĩ trên đầu/ Đất
vạm vỡ dưới bầu trời tươi tốt/ Qua vỏ trấu của mùa gặt trước/ Đã nảy
những đọt mầm tia nắng tinh khôi” (“Tiếng gọi từ những cánh đồng” ). Không lấy làm lạ khi vào thời ấy
thấy Mai Văn Phấn thi thoảng cũng ưa đánh đu cùng thể lục bát truyền
thống “Vẫn nghe tiếng gọi ê a/ Chồn chân tóc lại mở ra làm buồm” (“Du ca”). Rồi “Bàn
tay đã đẫm hương thơm/ Dìu em về lại con đường rung cây” (“Du ca”). Như đã thấy, ông nào có kém
cạnh gì với những bậc thầy lục bát thời hiện đại “Gọi tìm tôi thuở dại
khờ/ Về thương tôi của bây giờ tinh khôn” (“Không đề 1”). Hay “Đem thời gian bắc cầu vồng/ Gieo cơn
mưa xuống cánh đồng tuổi thơ” (“Mưa
cuối hạ”). Vậy là ông vẫn nhất quán với lối viết quen thuộc như từng được
thổ lộ trong bài “Một lần thi pháp”: “Chọn màu áo em/
Làm bìa tập thơ/ Những đốm bóng/ Theo tay người dệt lụa/ Miệng tằm/ Bờ
bãi/ Bóng dâu”...
Sau
bước đột phá của một thể loại mới là thơ văn xuôi với những khám phá mới mẽ theo xu hướng hiện đại và rất kén độc
giả. Hơn thế, ở thể loại mới này, dường như ông đã thoát ly hoàn toàn với những
vấn đề “nhạy cảm” xã hội, bỏ ngoài
tai mọi cám dỗ chính trị, loại khỏi bộ nhớ đủ thứ màu sắc chủ nghĩa cùng những
hệ lụy của nó để tìm đến ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo, cho dù đó là cảm
hứng cô đơn trên miền đất hoang vu như cánh rừng tiền sử vừa trải qua cơn đại
hồng thủy. Cảm hứng chủ đạo của
trong thơ văn xuôi của ông thường là nhân sinh, những vấn đề về đời sống đa
dạng nhiều chiều và những dạng thức khác nhau của tình yêu được phát triển trên
cái nền cổ điển thông qua ngôn ngữ đời thường giản dị. Ngôn ngữ siêu thực là
một đặc trưng của bút pháp Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ văn xuôi
thường là không vần, không nhịp điệu, không đăng đối và thường đảo ngược cấu
trúc ngữ pháp. Đúng như phát hiện của nhà thơ Lê Đạt, “chữ bầu nên thơ”, hiệu ứng của những dòng thơ cấu trúc ngôn ngữ bị
thay đổi hay chuyển dịch vị trí cú pháp dẫn đến thay đổi cả về nội dung ngữ
nghĩa lẫn giá trị biểu cảm. Tuy nhiên, đó là thế giới khách quan, vì thế, nó
luôn song hành với hiện thực cuộc sống nhưng thường đưa ra những cách giải
thích của riêng mình.
Có
thể nói, thể thức thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn
Phấn dường như đã thoát khỏi ràng buộc có tính quy phạm của những định chế xã
hội. Những đối tượng mà chủ thể “trần
thuật” hoặc hồi ức trong đời sống tự nhiên đều vận hành theo tinh thần tự
do, an nhiên trong một thế giới không có bạo lực, không chiến tranh. Chẳng
những thế, nó còn thoát ly ngay cả thứ đạo đức giả được núp dưới đủ thứ danh
xưng mỹ miều mà xác lập cho mình một thang giá trị mới. Thi pháp này không xa
lạ mà chỉ là sự tiếp nối một cách sáng tạo truyền thống thi ca của cha ông ta
từ cả ngàn năm trước. Từ cách nhìn của tác giả, người đọc nhận thức thêm được
một điều, thiên nhiên thật hào phóng, tình yêu thật diệu kỳ một khi con người
hiểu được tiếng nói của nó bằng trái tim mình. Đúng như phương châm thẩm mỹ mà
trong một lần đã được Mai Văn Phấn điềm tĩnh thốt lên: “Quá trình sáng tạo chính là những cuộc cách
mạng liên tiếp xẩy ra trong mỗi nhà thơ” [26; 398]. Hành trình thơ văn xuôi
cho đến giờ của Mai Văn Phấn nhìn đại thể là vậy. Phía trước vẫn còn đó: Một
khoảng không rộng mở… cùng một khát vọng da diết… có lẽ vì thế mà Mai Văn Phấn
từng tâm niệm: “Đổi mới thi pháp trước
hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ
khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca
của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện
đại” [26; 411]
Thiết nghĩ đó không chỉ
là tâm niệm của nhà thơ Mai Văn Phấn mà còn là tâm niệm và suy nghĩ chung của
nhiều nhà thơ khác đang trên hành trình cách tân, tìm tòi sáng tạo những hiệu
ứng mới trong nền thơ ca dân tộc đang trên nền hội nhập và không ngừng phát
triển như hiện nay. Sự cách biệt giữa khát vọng sáng tạo của người nghệ sỹ đích
thực và thực tế cảm thụ của công chúng nghệ thuật rộng rãi là có thật. Bởi vậy,
với những ai luôn mong muốn sự tiến bộ thật sự trong nghệ thuật không thể không
có nhu cầu xóa bỏ sự cách biệt vô lối và vô lý ấy. Nhất là giữa lúc này, khi
nền nghệ thuật dân tộc ta đang đứng trước những thách thức cùng những đòi hỏi
ngày một cao và lớn hơn nhiều.
NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG
THƠ VĂN XUÔI
CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, cảm hứng
chủ đạo được hiểu là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên xuốt tác phẩm
nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây
tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Bê-lin-xki xem cảm
hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích
thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần
túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh
mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [29; 45]. Có thể thấy rằng, cảm hứng chủ
đạo mang lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất
tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm. Như vậy, cảm hứng chủ đạo
ban đầu là cái thuộc về chủ thể sáng tạo, nhưng mỗi chủ thể sáng tạo lại thường
chọn cho mình một hình thức sáng tạo phù hợp với từng nội dung phản ánh nhất
định. Trong thực tế, cảm hứng chủ đạo của tác giả đã chuyển hóa thành cảm hứng
chủ đạo của tác phẩm, thể loại tác phẩm.
Thơ văn xuôi Việt Nam
nói chung và hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng, viết về
nhiều đề tài, bộc lộ nhiều trạng thái tâm lý của nhân vật trữ tình. Nhưng nhìn
chung, cái nhìn của các tác giả thơ văn xuôi phần lớn đều xuất phát từ mối quan
hệ giữa con người cá nhân với đời sống xã hội và lịch sử. Cảm xúc, tình cảm thơ
cũng hình thành từ mối quan hệ này. Nổi bật hơn hết là dòng cảm hứng thế sự và
dòng cảm hứng chính luận.
2.1. Cảm hứng thế sự
Tác giả Nguyễn Ngọc
Thiện đã rất có lý khi cho rằng sở dĩ thơ văn xuôi phát triển mạnh trong thời
gian gần đây là vì nó “đáp ứng được nhu
cầu hướng nội, giải bày khá thoải mái sự tuôn chảy của thi tứ, sự ưu thích luận
bàn từ gốc độ cá nhân và nỗi khát khao tự bạch chủ kiến độc đáo của chủ thể trữ
tình” [12; 649] Đặc biệt là trong thời đại mà cái tôi người nghệ sĩ, cái
tôi con người cá thể luôn khao khát được bộc lộ và khẳng định. Trong những điều
kiện như thế, thơ văn xuôi trở thành vùng đất màu mỡ để các nhà thơ ươm mầm cảm
xúc và tâm trạng. Chính nhờ vào những ưu thế của thể loại, thơ văn xuôi cũng
giúp nhà thơ đi vào khám phá những nỗi niềm sâu thẳm của tâm linh, của bản thể
con người.
Có thể nói thơ văn xuôi
là nơi chứa đựng những mảng tâm trạng, những cảm xúc suy tư của nhà thơ về hiện
thực cuộc đời, về cá nhân và xã hội. Những tác phẩm thơ văn xuôi của hai nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn, đã tạo thành một cảm hứng xuyên suốt
như thế, đó là cảm hứng thế sự. Dòng cảm hứng này chiếm một vị trí đáng kể
trong sự nghiệp sáng tác thơ văn xuôi của hai nhà thơ này nhất là trong hai
tuyển tập thơ gần đây nhất là tập thơ tuyển “Châu
thổ” của Nguyễn Quang Thiều và “Thơ
tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn” của Mai Văn Phấn.
2.1.1. Chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống
Vào đầu thập niên 80 của
thế kỉ XX, đời sống văn học nước ta có nhiều sự chuyển biến rõ rệt. Bên cạnh sự
đổi mới về nội dung, đề tài, hình thức văn học còn có sự xuất hiện những gương
mặt nhà thơ mới, điều này đã tạo nên một diện mạo mới cho thơ thời hậu chiến.
Sự mới lạ được thể hiện trong cách nhìn cuộc sống, cách thể hiện những lo âu,
trăn trở và ngay cả cách bày tỏ cảm xúc, tiếng nói trữ tình trong thơ ca nói
riêng và văn học nói chung. Điều này cho thấy rằng, ở chiều sâu của một quá
trình chuyển động, thơ đã có những kiếm tìm thay đổi ngay từ trong ý thức sáng
tạo của nhà thơ. Sự thay đổi từ cảm hứng sử thi, hướng đến lí tưởng anh hùng
cao cả, thơ đã dần dần hướng về con người cá nhân, chiêm nghiệm, suy tư đối thoại
với chính mình, với cuộc sống. Như cách nói cụ thể của nhà thơ Chế Lan Viên “Thơ không phải chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh/
Không phải chỉ ơ hờ mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan” (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…)
Thế nên thơ bớt dần lối
viết ngợi ca, miêu tả mà đi sâu vào thể hiện những tâm trạng cá nhân, cái tôi
trở thành trung tâm của cảm hứng sáng tạo với những dằn vặt, suy tư, tự vấn…Đến
đây, một tư duy nghệ thuật mới được hình thành. Một mặt phản ánh về hiện thực
cuộc sống, mặt khác cảm hứng sáng tạo lại bắt nguồn từ chính số phận và kinh
nghiệm của cá nhân nhà thơ. Nhận thức trong thơ trở nên đa dạng, đa chiều về cả
nội dung và nghệ thuật. Chính điều này đã khỏa lấp dần khoảng cách giữa thơ với
nhà thơ. Những vấn đề mà trong chiến tranh thơ không nói đến, hoặc có gợi lên
thì vẫn hướng đến lợi ích chung của cộng đồng, bây giờ lại được khơi sâu, nhấn
mạnh và khẳng định. Nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt
khuất của thế giới nội tâm…đều được thể hiện bằng những tâm trạng, cá tính sáng
tạo độc đáo.
Xu hướng cái tôi trong
thơ trở về được thể hiện rõ ở sự tìm kiếm, nhận diện chính mình hay nói cách
khác đi tìm và khẳng định mình trở thành một khát vọng âm thầm nhưng mãnh liệt
trong mỗi cá nhân, bài “Thơ về thơ”
của Chế Lan Viên là một ví dụ:
“Người diễn viên ấy đóng trăm vai,
vai nào cũng giỏi
Chỉ một vai không đóng nỗi
Vai mình
Lỗi ở ai nào? Chính lỗi ở anh
Cuộc đời anh quan liêu, anh trả thù
Anh nghĩ nó là đời anh, nhớ hay quên
lúc nào chả được
Anh đóng giỏi trăm vai, lại đánh mất
vai mình”
Chiến tranh kết thúc, đã
qua rồi cái thời người ta dám đứng lên, dám ra đi vì quê hương của mình. Trong
thời kì đất nước đang dần chuyển mình, sự mất đi phương hướng của một số cá
nhân chưa thích ứng kịp thời là điều dễ hiểu. Mượn hình tượng con ốc sên chậm
chạp, không định hướng được tương lai của mình nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã
tài tình đặt ra câu hỏi đầy trăn trở:
“Bầy ốc sên đã giấu mình trong những gốc chuối, những bụi
gai. Giờ thức dậy dưới trăng và ra đi lặng lẽ. Khu vườn này là quê hương chúng,
hay là khu vườn bên, hay còn… xa nữa. Chúng đang rời bỏ quê hương mình hay đi
tìm lại quê hương.” (“Chuyển động”)
Trước kia họ đã từng
đồng nhất hạnh phúc với chiến thằng kẻ thù xâm lược mà quên rằng đó chỉ mới là
điều kiện cần, còn đường để xây dựng được cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con
người thì vẫn còn ở phía trước. Vì thế trong tâm hồn họ đã có sự hụt hẫng. Buồn
thương khi nghĩ lại cuộc đời mình là điều có thật. Nỗi buồn thời cuộc đã tạo ra
những nỗi buồn nhân thế của cả đời người… Như sự đối diện của nhà thơ với chính
mình trong câu hỏi mà chẳng cần lời đáp trả:
“Giấc mơ chúng ta đầy sự xếp đặt và không dám bay lên những đỉnh cây. Và
đêm nay trong tiếng sông và tiếng bầy cá. Chúng ta bỏ những ngôi nhà và đứng
dọc hai bờ. Một con cá vàng nổi lên hỏi chúng ta cần gì không?
Phải chăng chúng ta cần một đôi mắt không biết chớp của
bầy cá. Hay chúng ta cần một đôi vây lớn của tâm hồn.
Lời của chúng ta từng bất lực trong chính cái lưỡi của
mình.” (“Nhân chứng của một cái chết” - Nguyễn Quang Thiều)
Đến đây, chúng ta chợt
nhớ đến những dòng thơ của nhà thơ Chế Lan Viên cũng đầy nỗi niềm trăn trở suy
tư ngay trong những giấc ngủ chập chờn:
“Lũ chúng con đêm ngủ giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp
Một mái nhà tranh rũ bóng xuống tâm hồn
Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dài
Lòng ta thành con rối
Cho cuộc đời giật dây” (“Người đi tìm hình của nước”)
Điểm giống nhau của hai
bài thơ là đều thể hiện một cái tôi cá thể đầy suy tư và gần như lệ thuộc vào
chính cuộc sống mà không hề có bất kì sự phản kháng nào “Lòng ta thành con rối/ Cho cuộc đời giật dây” và “Giấc mơ chúng ta đầy sự xếp đặt và không dám
bay lên những đỉnh cây” Cái bản ngã yếu ớt, nhỏ bé của con người được nhìn
nhận, từ bề rộng đến bề sâu, chính sự nhìn nhận nên họ biết mình đang cần gì “Hay chúng ta cần một đôi vây lớn của tâm
hồn” . Khi cuộc sống hiện tại làm cho người ta trở nên thực dụng thì những
giá trị tâm hồn luôn như một sự cứu cánh, giúp cho con người sống ý nghĩa hơn
chăng.
Ở đó, ngoài những suy
tư, dằn vặt riêng, chung chúng ta còn thấy trong thơ Nguyễn Quang Thiều là sự
hoang mang, bế tắc, tưởng chừng như vô vọng trong bài “Nhân chứng của một cái chết” :
“Đã có những tháng năm tôi trốn chạy. Nhưng ở đâu ngôi sao cũng mọc
trước mặt tôi. Tôi đã từng giá lạnh, đã từng hoang vu, đã từng không trả lời
được câu hỏi về số phận. Trong những đêm của năm tháng đó, tôi đứng một mình
trên cánh đồng xứ sở sau những mùa gặt hái. Sương mù giăng như khói và mây mù
che lớp lớp bầu trời. Tôi cất tiếng hỏi những ngôi mộ nhiều tuổi tác. Nhưng
không một ngôi mộ nào cất tiếng trả lời tôi. Những ngôi mộ ngồi lặng im và suy
nghĩ triền miên về sự sống và cái chết. Và tôi thấy tỏa về xa xăm ánh sáng ngôi
sao. Tôi nghe thì thầm một giọng nói. Và thời gian năm tháng ấy đi qua tôi náo
nức, và bí ẩn, và câm lặng một niềm tin”
Nhưng ngay trong lúc
tưởng chừng tuyệt vọng ấy vẫn có ánh sáng của một tia hy vọng bừng lên:
“Rồi tôi nghe tiếng ông vang lên: “Hãy đừng khóc con trai ta, nước vô
tận ở bình không và chữ vô tận trong sách trắng”.
Tôi nín khóc và thấy ánh mắt ông xuyên thủng lớp mây mù.
Và dọi sáng bến bờ của đại dương đã chết.”
Có lẽ, “nước vô tận ở bình không và chữ vô tận trong
sách trắng” chỉ thật sự dành cho ai cần đến, biết quí trọng, nâng niu nó
thì lúc đó nước sẽ là vô tận cũng như những trang sách chẳng còn là sách trắng.
Một triết lí rất gần gũi từ đời sống, cái gì con người khi cần đến đều trở nên
vô giá, những thứ gì con người không cần đến tất yếu sẽ chẳng có giá trị gì như
chiếc “bình không” và “sách trắng” đều trở nên vô nghĩa. Cũng
giống như khi đối diện với cái chết đã được đoán định trước, mọi đồ vật mà
thường ngày người ta thường hay trân quí phút chốc cũng trở nên vô nghĩa, nhân
vật trữ tình nhìn những đồ vật ấy bằng ánh mắt hết sức bình thản và xem chúng
như một nhân chứng hiện hữu trong bài “Nhân
chứng của một cái chết”:
“Tất cả hồn hoa, thư tình, bồ câu và những cuốn sách gặp
nhau trên con đường cắt qua cánh đồng ngoại ô. Cuốn sách già nhất vuốt nước mưa
trên mặt và nói: “Chúng ta phải ra đi, nhưng hãy nhớ đường về”
“Lúc đó trong ngôi nhà nước chiếm ngụ mọi lối đi. Những thỏi vàng ôm nhau
chờ chết. Chúng không thể ra đi vì mọi lối đi của chúng đều bị khoá chặt. Thân
xác chúng nặng nề không thể nhấc nổi chân.”
Mọi đồ vật đều được nhân
hóa cho một sự sống, chúng trở nên có tư duy, có linh hồn, có xúc cảm…Từ những “hồn hoa”, lá thư hay cuốn sách đến thỏi
vàng, những lá thư, hoa và sách có thể ra đi, riêng thỏi vàng bị khóa trong tủ
thì chỉ biết “ôm nhau chờ chết”.
Những đồ vật quí giá như vàng, trong giờ phút cuối cùng thì vẫn còn đấy, nhưng
cũng chẳng còn giá trị gì, ngược lại những đồ vật như thuyền giấy trong cơn lũ,
nước tràn về như thế này lại trở thành vô giá:
“Bỗng lúc đó từ một ngõ phố nhỏ tối đen như cửa địa ngục
của trí tưởng tượng túa ra những chiếc thuyền giấy. Những chiếc thuyền quá thờ
ơ ngày ngày đối với chúng ta... Những chiếc thuyền vẫn tràn ra từ ngõ phố tối
đen. Như ánh sáng phun trào từ bóng tối.”
(“Nhân chứng của một cái chết”)
Ranh giới giữa những giá
trị thực và ảo gần như chỉ trong tít tắc mơ hồ, khó mà phân định. Cuộc sống con
người cũng vậy, cần bao nhiêu niềm tin để con người có thể sống tiếp, vượt qua
những khó khăn, sóng gió. Đâu là giá trị thực cần thiết, đâu là những giá trị
ảo mà con người vẫn mù quáng đánh đổi ngày ngày, câu hỏi như trở nên bứt bách
hơn bao giờ hết, nhưng câu trả lời thì mãi chỉ là một ẩn số vô hình.
Bên cạnh những suy tư,
trăn trở về hiện thực cuộc sống trong thơ Nguyễn Quang Thiều còn được nói đến
bởi cách phản ánh hiện thực cuộc sống qua số phận của những người phụ nữ. Vấn
đề đó không mới nhưng lại là sự nhức buốt đã xuất hiện trong văn học trung đại
và nó vẫn có sức ảnh hưởng cho đến ngày nay. Đó là vấn đề về người phụ nữ. Vấn
đề này đã được phản ánh qua những tác phẩm đi cùng với thời đại như Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn, Khuê oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, đến kiệt tác
của văn học Việt Nam là Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đến thời
kì văn học đương đại, sau khi chiến tranh kết thúc, một cuộc sống mới được xây
dựng những tưởng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho những người phụ nữ ngàn
đời vất vả “bẩy nổi ba chìm” nhưng không, cuộc đời của họ dường như bước từ một
nổi khổ đau này sang khổ đau khác. Nếu thời kì chiến tranh họ vò vỏ ở nhà nuôi
mẹ già, nuôi con thơ cho chồng yên tâm đi đánh giặc ngoại xâm, khi hòa bình họ
lại trở thành những góa phụ với cuộc sống lặng thầm trong bài “Những ví dụ” của
Nguyễn Quang Thiều như:
“Những người đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai,
trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất vả. Họ mộng du
qua những cơn gió hồng hoang nổi lên lúc mặt trời lăn vòng cuối cùng vào bóng
tối.”(“Những ví dụ”)
Đề tài về người phụ nữ
là đề tài không hề mới, nhưng đến giai đoạn văn học này, cái nhìn về người phụ
nữ lại càng sâu sắc hơn. Họ là nạn nhân của những cuộc chiến phi nghĩa, chính
chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc gia đình giản dị mà những người phụ nữ luôn ao
ước. Nếu như Hữu
Thỉnh khắc họa hình ảnh
người phụ nữ cô độc, lẻ loi ngay chính ngôi nhà, tổ ấm của mình với những vần
thơ khiến người độc không khỏi xót lòng trong trường ca “Đường tới thành phố”:
“Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
Súng thon thót ngoài đồn dân vệ
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng
tiền”
Thì hình ảnh người phụ
nữ góa trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng cô độc, lặng lẽ không kém. Họ lặng lẽ
đếm thời gian đi qua tuổi xuân thì, lặng lẽ ngay sau những ngọn cỏ dại trên
đồng, như mình chưa từng tồn tại:
“Thời gian cứ lặng lẽ…lặng lẽ chảy ào vào chiếc bình gốm
cổ khổng lồ. Những người đàn bà góa bụa làng tôi như những con cào cào áo nâu
cứ khuất dần… khuất dần sau cỏ.”(“Những ví dụ”)
Và đằng sau sự cô độc,
lặng lẽ đó gần như là sự cam chịu, câm lặng ngàn đời của người phụ nữ truyền
thống. Họ chỉ tồn tại như một bản thể không tên tuổi, không danh phận, họ chỉ
được nhắc nhớ qua những hình ảnh bình thường như ngọn cỏ, cái cây:
“Mưa chảy trên mặt cô đan thành tấm mạng. Nước quấn chặt
thân thể cô. Và cô trở thành con đường của nước. Cô là sự dâng tràn, sự bền bỉ
và sự lặng câm của nước. Cô như bức tượng dựng lên của thị xã này từ thuở chưa
có những cái cây.
Chớp lóe lên soi mặt cô tái nhợt. Hai bàn tay cô ấp chặt
vào nhau. Trong ánh chớp cô trắng lên như một quả đồi. Sấm càng rền vang càng
làm sự im lặng của cô lặng im hơn. Đôi mắt cô như hai hồ nước lớn. Chớp không
rọi tới được đáy hồ. Sấm không vọng tới được đáy hồ. Nỗi cô đơn và sự chờ đợi
chiếm ngự hoàn toàn nơi đó (“Nhân chứng của một cái chết”)
Những người phụ nữ giữa
nỗi cô đơn của sự chờ đợi vây trùm lấy họ, chênh vênh, chính họ phải đi qua nỗi
cô độc trong sự bình thản như “Sấm không
vọng tới được đáy hồ”. Hay là nỗi đau khắc khoải, âm ỉ, cồn cào trong bài “Nước mắt” của Mai Văn Phấn:
“Nước mắt những người đàn bà
góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có bao nhiêu hòn
Vọng-Phu. Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày tàn héo xuân
xanh, rồi bay về trời tụ thành mây hồng hoang. Đám mây hình những người
đàn ông mơ màng... mà không, họ đang thao thức trên đầu ta từng mảng rêu
phong. Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hoá. Các anh về rồi lại ra đi.
Bởi sấm đã rung và chớp đã giật, mây chồng lên mây, người chất lên người.
Thương các chị mòn mỏi khóc bao đêm mà trời chỉ trả
cho nước mắt đôi lần. Nước mắt bay ngang trời bầm tím! Từng mái gianh
nghèo như mi mắt ai đẫm ướt. Các chị hứng mưa, giọt từng giọt như lần
tràng hạt: Mưa! Mưa! Mưa!
Nụ hôn nào trong veo tan loãng thế. Các chị cầm tan
nát đóa hoa mưa...”
Đó là “Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hoá”
vì họ không thể ngã gục trước nỗi
đau nên chỉ còn cách vươn lên mà sống, sống kiên cường và sống mạnh mẽ hơn.
Nhưng sự bình thản đến kì lạ của họ không làm cho chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng
hơn, mà ngược lại sự bình thản ấy làm cho chúng ta càng đao đáo về những số
phận, những con người nhỏ bé giữa cuộc sống mênh mông, vô cùng. Chính cảm hứng
này, thơ Mai Văn Phấn cũng làm cho người đọc không khỏi khắc khoải lo âu cho
những kiếp người nhỏ bé, mong manh:
“Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh
giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia
liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.
Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái
ga ấy không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi
vừa nãy!” (“Bừng tỉnh trên tàu”)
Câu hỏi cuối bài thơ đầy
khắc khoải, đó là cái ga nào, có hay không có, để đón nhận một số phận bé nhỏ,
mong manh. Tại sao nhân vật trữ tình không thắc mắc người phụ nữ kia sẽ đi đâu,
đã đi đâu, số phận chị ra sao, mà chỉ hốt hoảng, lo lắng chị đã xuống ga nào
hay bị trượt chân ngã xuống đường tàu. Như một sự dự đoán trước hay sự cảm nhận
về sự yếu đuối, mong manh của chị , nhân vật trữ tình đã nhường chỗ cho chị
ngồi, chị từ chối nhưng vẫn có điều gì như thôi thúc khiến anh bừng tỉnh giữa
giấc ngủ hay đó còn chính là sự bừng tỉnh của nhận thức, cần phải chở che cho
những phận người đặc biệt là người phụ nữ.
Những thế hệ nhà thơ
tính từ sau Nguyễn Quang Thiều không còn mang mặc cảm của người dân mất nước,
nhưng từ cuộc sống hòa bình, tấp nập, nhôn nhịp, nỗi cô đơn vẫn hiện hữu. Tuy
đó không còn là nỗi buồn trước trời nước bao la kiểu như “Sông dài trời rộng
bến cô liêu” (Huy Cận), con người của thời đại mới không còn đủ thời gian cho
những điều ấy, mà nỗi buồn, nỗi cô đơn của học xuất phát từ thực tế cuộc sống.
Giống như thơ Nguyễn Quang Thiều, thơ Mai Văn Phấn cũng chất chứa nhiều những
trăn trở, suy tư và cả sự khao khát kiếm tìm một thế giới mới để giải tỏ đi nỗi
cô đơn, một thể nghiệm mới lạ hơn:
“Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để tìm
ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si.
Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng trong ánh
sáng bảy màu lung linh huyền ảo, để những bóng tối kia cũng mang hình ống
sáo, cho tôi lại ghé môi khắc khoải thổi vào.”(“Viết cho cây sáo” )
Mà sự mới lạ ở đây chính
là sự thay đổi những thang bậc giá trị to lớn trong đời sống xã hội, cùng với
cuộc sống đời thường con người luôn phải đối mặt với những lo toan thường nhật.
Nhà thơ cũng ở tư thế ấy để nhìn nhận, chiêm nghiệm, nhìn thẳng vào hiện thực.
Sự xuất hiện những bài thơ thế sự từ chiều sâu rung động chính là tiếng nói
muốn thức tỉnh những tâm hồn đã và sắp rơi vào vô cảm. Mượn hình ảnh con quạ,
trong bài thơ “Biến tấu con quạ”, Mai
Văn Phấn đã làm được điều này
“Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng
đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ.
Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao
công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống
rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi
vào.
Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát.
Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao
động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một
mình trong bóng tối.
Con quạ khật
khừ xuyên đêm
Thảng thốt
kêu
Lần đầu tiên
tiếng động ra đi không vọng lại”
Con quạ như lẽ loi, cô đơn đối diện với chính
mình trong bóng tối, sự thảng thốt, tiếng kêu thất thanh không được đáp trả,
hụt hẫng, âm thầm. Ở đó có đôi lúc, tưởng chừng như chính con người rơi vào vực
sâu bế tắc. Sự bế tắc do chính mình tìm được nguyên nhân, nhưng không thể giải
quyết được dẫn đến sự hoang mang cực độ:
“Sau giấc
ngủ dài mới hay cả quá khứ bị đánh cắp. Trên cỏ xanh kia, những đỉnh núi đã bị
san phẳng, hàng rào được đan bện cẩn thận đang co lên lơ lửng trên đầu. Mắt
ngọn đèn soi trong đêm lầy lội cùng vẻ mặt quan trọng của người hàng xóm giờ
mủn bục. Trên cỏ xanh kia ta được sinh ra và ủ ấm bằng nhiều quan niệm. Từng xả
thân, từng lắt léo, từng kính trọng, từng bợ đỡ, từng hãnh hỗ, từng nịnh nọt,
từng mạo nhận, từng thủ dâm, từng thánh thiện, từng vu oan, từng thiêng
liêng... Cỏ lừng lững dựng lên trước ta uy hiếp”(“Di chứng”)
Thật đau xót khi ngay những đứa trẻ, những
tâm hồn trong trẻo cũng bị ảnh hưởng, không khác gì người lớn, thậm chí còn đầy
ngờ vực và hoang mang cực độ hơn:
“Lũ trẻ xóm
tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì
thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm,
chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc
hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng
cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… Ít thấy chúng gào khóc ăn vạ. Có
đứa nghẹn ngào: “Trẻ con nước mắt chảy
vào trong!”(“Dạy trẻ con”)
Cái mà tác giả gọi là “bệnh tuổi già”, tạo cho người đọc một cảm giác vừa bất ngờ, thú vị
vừa xen lẫn sự chua xót, ngậm ngùi. Đáng lẽ ở lứa tuổi các em, các em còn đang
hồn nhiên cười đùa, chơi và học, vậy mà chúng đã sớm ý thức nhận ra “Trẻ
con nước mắt chảy vào trong!”, có những nỗi lo sợ không khác gì
những ông bà cụ tuổi tám mươi. Hay đó còn là sự đối diện với con người bản thể,
sự đấu tranh giữa phần con và phần người để sinh tồn mặc cho bản năng hành hạ,
nhưng khi đã chấp nhận từ bỏ phần con thì con người như sống tích cực hơn,
khoang dung và độ lượng nhiều hơn
“Bàn tay săn
bắn và hái lượm giờ tìm đường lên vì sao và xuống các đại dương. Ta bỏ lại phần
Con để đến với phần Người không phải không có lúc bị bản năng hành hạ... Trái
tim là khoảng sáng tầm nhìn, vin một nhành hoa, nhặt vài chiếc lá... Một viên
cuội vô tình an ủi trái tim ta.” (“Trái tim giải thoát”)
Cho đến sự đấu tranh giữa cuộc sống bình dị
không đua chen và quyền lực, tham vọng, của cải vật chất và tâm hồn thánh
thiện, thanh cao dường như là cuộc chiến không có hồi kết bên trong một con
người:
“Tôi đi xe
hết ga hết số. Răng nghiến chặt. Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt trên mặt đất.
Những hàng cây, bức tường mới cũ, cùng những bóng người trôi vụt lại sau. Đích
đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao
một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng... Hắn kéo căng mọi giác quan
tôi, ninh nhừ ý nghĩ, đóng đinh dây thần kinh giữa hai đầu phố.” (“Đến trong ý
nghĩ”)
Ý nghĩ muốn rủ bỏ những đều lớn lao, những sứ
mệnh của phận người để tìm đến những đều bình dị, không đua chen giữa cuộc sống
xô bồ, tự tìm đến sự nhẹ nhàng đơn giản cho cuộc sống của mình từ tinh thần đến
vật chất khi người ta quá mệt mõi giữa đời sống kinh tế thị trường tất bật.
Không riêng gì tác giả Mai Văn Phấn tìm đến đều này, nhà thơ Thu Bồn cũng có
cùng chung ý nghĩ “Tôi lột hết ngôn ngữ
bóng bẩy, những áo xống triệu thần trong những tụng ca, những bài thơ trẻ trung
cởi áo dưới mặt trời làm nghĩa vụ công dân”. Việc đấu tranh giữa tâm hồn và
bản ngã, giữa phần con xác thịt và phần người tâm hồn không phải là một đề tài
mới, song với cách nhìn dám đối diện với chính bản chất thật của mình cho thấy
sự đào sâu đi vào khám phá thế giới nội tâm của con người, dám nhìn nhận bản
chất thật bên trong của mình chính là nét mới của thơ Mai Văn Phấn nói riêng và
thơ Việt Nam đương đại nói chung. Khi mà tâm hồn con người được vun tưới, sự u
mê của thể xác được đẩy lùi con người mới đủ can đảm để xua đi mọi nỗi sợ hãi
mà cảm nhận cuộc sống vẫn còn có những cái đẹp đáng để được ngợi ca, trân trọng
như một mầm cây mới nhú, một ngọn cỏ, cành hoa quanh mình:
“Vội ve
vuốt một mầm cây vừa mọc dưới chân và tưởng tượng ra mùi hoa trái dâng
lên trong một khung cảnh mới. Đứng lên, ta hiểu mình vừa xua đi một nỗi
kinh hoàng.”(“Giải pháp”)
Cách suy nghĩ, chiêm
nghiệm, họ như hiểu mình, hiểu người, hiểu đời hơn. Chính vì vậy họ cảm thấy
đau đớn, xót xa… và giọng điệu trong thơ lúc này cũng buồn hơn, lắng hơn và cô
đơn hơn. Con người với cách hiểu đầy đủ và mang tính nhân văn thì phải chứa
đựng trong đó những tâm sự, tình cảm sâu lắng, những vui buồn đau khổ và ngay
cả những bi kịch cá nhân. Đứng trước cuộc sống mới đầy rối ren với nhiều so
sánh đối nghịch, những trải nghiệm trong đời sống, những mất mát đã qua và
những thiệt thòi không được bù đắp. Đứng trước sự tan vỡ của những giấc mơ, bất
lực trước những đòi hỏi tất yếu, những giá trị của cuộc sống đã và đang bị tha
hóa. Thì làm sao tránh khỏi những nỗi buồn xót xa.
Chúng ta có thể thấy,
mọi vấn đề của đời sống được gửi gắm nhiều hơn, mạnh dạn dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, ở đó là những nỗi niềm băn khoăn, sự day dứt, trăn trở về cuộc sống
mưu sinh, sự sinh tồn được mất, sự đấu tranh giữa tâm hồn và bản thể, sự cảm
thương cho thân phận luôn chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ…tất cả đã phản
ánh nên một cuộc sống sinh động, đa chiều trong đời sống hiện thực được phản
ánh qua nghệ thuật ngôn từ là thơ ca gần gũi, chân thực và hết sức đa dạng. Góp
phần tạo nên một diện mạo mới cho nền thơ ca hiện đại.
2.1.2. Khát khao về tình yêu và hạnh phúc
Trong sự phát triển đa
dạng, phong phú và sinh động của thơ, có một nguồn cảm hứng kì diệu đó là cảm
hứng về tình yêu và hạnh phúc. Tình yêu là đề tài muôn thuở, là đối tượng khai
thác không bao giờ vơi cạn trong cảm hứng thi ca. Sự xuất hiện hàng loạt tập
thơ tình ở giai đoạn này đã nói lên những đòi hỏi bức thiết của ý thức cá nhân
con người trong hoàn cảnh lịch sử mới. Nếu như trước đó cả dân tộc gồng mình
lên chiến đấu, cảm hứng thơ thường ít đề cập đến tình cảm riêng tư, bởi tất cả
đã thấm nhuần một điều giản dị mà rất đổi thiêng liêng “Khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau” (Nguyễn Mỹ). Nếu có viết về
tình yêu, thì đó cũng là tình yêu lí tưởng, tan hòa cùng tình yêu tổ quốc. Tình
yêu, hạnh phúc riêng tư đã trở nên tầm thường bé nhỏ. Khi chiến tranh kết thúc,
trở về với cuộc sống thường nhật, tất cả những gì chất chứa, dồn nén giờ đây
đều được gửi hết vào thơ. Hạnh phúc, khổ đau, hi vọng, tuyệt vọng, khát khao
yêu thương, sự trỗi dậy của bản năng bên trong con người đều tự nhiên đi vào thơ
văn xuôi một cách giản dị nhất, như nó vốn có.
Trở về với cái tôi cá
nhân, tình yêu trở thành một chủ đề, đề tài lớn trong thơ. Thơ lúc này không
ngần ngại đề cập đến sự chung đụng thể xác, từ những ẩn dụ kín đáo cho đến sự
phơi bày phóng đãng. Nó trở nên phức tạp và trần tục hơn. Thể hiện khát khao
yêu và được yêu mãnh liệt hơn bao giờ hết. Cảm hứng về tình yêu trong thơ văn
xuôi đều được nhìn nhận như một nhu cầu nội tại, tự nhiên. Đó là những tình cảm
riêng tư, mang nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc, có êm ái thơ ộng nhưng nhiều
hơn là những éo le, nghịch lí cùng những đam mê cuồng nhiệt. Tình yêu ấy say
đắm mà tỉnh táo, đau đớn nhưng không bi lụy, tin cậy nhưng cũng đầy hoài
nghi…Nó bộc lộ được chân dung tâm hồn con người của thời đại bấy giờ.
Những nhà thơ trẻ thế hệ
ngày hôm nay thường phản ánh tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình, những buồn
vui và cả những mất mát với nhiều cung bậc cảm xúc, sắc thái riêng. Tình yêu
được phản ánh bằng thơ văn xuôi lúc này thực hơn, đời hơn, phức tạp và cũng đau
đớn hơn. Thơ không ồn ào mà bình dị thâm trầm, không có chuẩn mực hay một khuôn
mẫu nào nhất định…những vần thơ như bật ra từ chính cuộc sống con người. Từ
chính cuộc đời trần trụi, thô ráp, đầy mạnh mẽ và tự tin, đam mê và chấp nhận.
Cùng với khát khao yêu thương là niềm đam mê nhục cảm được phơi bày và phản
ánh, bài thơ “Màu đen một” của Nguyễn
Quang Thiều là một ví dụ:
“Hai màu đen đã sát nhau như hai cái cây trong đêm và thì
thào như khóc. Thì thào, thì thào dẫn lên thành tiếng gào gọi. Ngôn ngữ trắng
không giết được những u oa của chúng. Chỉ còn lại thì thào như lá khua, dội lên
trong tiếng răng rắc của cây đang đổ.
Chúng, hai mảng đen, đã trộn vào nhau. Những cặp môi xiết
vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá. Và máu của cô đơn, khát vọng rỉ ra chảy
trên hai bi kịch đen. Hai bi kịch rã rượi, soãi dài và bừng lên khoảnh khắc cứu
vớt”(“Màu đen một”)
Cùng nằm trong mạch cảm
xúc này, nữ nhà thơ Dư Thị Hoàn cũng khắc họa khát vọng yêu thương đầy nhục cảm
trong bài “Tan vỡ” với những hình ảnh
hết sức táo bạo như:
“Mở ngăn kéo rồi
anh bỏ ngỏ
Bút viết xong không
đậy nắp bao giờ
Hỡi anh yêu lơ đãng
đến là
Con nai rừng của em
Mọi việc dễ qua đi,
dễ qua đi
Chúng mình sẽ thành
chồng vợ
Nếu không có một
lần, một lần như đêm nay
Sau phút giây êm
đềm trên ghế đá
Anh quên gài khuy
ngực của áo em”
Với thơ Mai Văn Phấn khi
vẽ nên những cảm xúc yêu thương mãnh liệt, cháy bỏng, tuy tác giả cũng đề cập
đến những xúc cảm cuồng nhiệt yêu thương nhưng ở đây không đồng nghĩa với sự
trần trụi, tầm thường mà chính là đường nét nghệ thuật:
“Lồng vào nhau từng khuôn mặt. Lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng. Đặt em
nơi khoảng trống, thổi vào những ngón chân làm cơ thể vụt căng xâm lấn không
gian. Hơi thở bắt đầu những chuyển động. Bàn chân em dính chặt vai anh. Giọt mồ
hôi sáng trong họng tối. Mặc lưỡi mềm vừa treo ta lên...
Miệng anh còn thơm trái cây và hương trà em uống. Chiếc
bánh ngọt pha kem lẫn với quế chi. Anh còn nhớ. Chiếc ghế rộng lắm. Khi bờ vai
trổ những bông hoa, môi anh thắp ngọn đèn linh thiêng góc tối. Bông hoa chỉ nói
được phần nhỏ nhoi lòng đất rộng. Lòng đất rung chuyển khi bông hoa đứng yên.
Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra
Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung.” (“Anh anh em em”)
Và dường như tình yêu,
khát vọng nhục cảm được xem là “Yêu nhau.
Là những nghi thức dâng tụng trời đất”, mượn cảm hứng vũ trụ “Kim, mộc, thủy, thổ, hỏa” để tô đẹp thêm tình yêu “Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung” Cũng chính cảm hứng này, Mai
Văn Phấn đã đa dạng hóa tình yêu
với nhiều hình ảnh mới lạ, so sánh độc đáo đôi tình nhân với đôi “rắn nước,
khủng long, thủy triều, đại bàng, gốc cây” là một duyên mệnh gắn chặt qua nhiều kiếp sinh tồn, là hiện tượng “thủy triều, sấm sét” đã tồn tại mặc
định trong tự nhiên. Như một sự khẳng định tình yêu bền chặt, hiện hữu, tồn tại
tự nhiên và yếu tố nhục cảm nếu có thì chỉ càng tô đẹp hơn tình cảm bình dị và
thân quen này:
“Kiếp trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ
xuống hồ, bơi sóng đôi mềm mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm
mới để lại vết hằn. Là đôi khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng
rơi tự do giao phối trên không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét
đánh xẹp đỉnh núi để lại vết bỏng hoàng hôn …”(“Gặp”)
Không chỉ dừng lại ở
niềm đam mê nhục cảm của những đôi lứa yêu nhau nồng nàn, cháy bỏng mà ở đó còn
là sự khát khao hạnh phúc của những người phụ nữ góa bụa, luôn sống trong sự
thiếu hụt tình cảm như bài “Những ví dụ” của nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều:
“Những người đàn bà góa bụa làng tôi - những ví dụ - chân
không giày không dép. Họ tránh con đường dẫn đến những đêm trăng. Bầu vú họ mệt
mỏi nằm ngoẹo đầu và trở lên ngễnh ngãng, không còn nghe được tiếng gọi đàn ông
nồng mùi thuốc lào và ruộng bùn ngai ngái, trong những đêm gió từng đôi quấn
nhau qua vườn hổn hển. Chỉ tiếng chuột nhắt cắn thóc trong những chiếc áo quan
gỗ gạo đóng sẵn làm họ thức giấc. Và họ nằm lo âu trong tiếng mọt cắn gỗ vọng
ra từ cỗ áo quan.” (“Những ví dụ”)
Họ, những người đàn bà
góa, “tránh con đường dẫn đến những đêm
trăng” như tránh đi bản năng kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc của chính mình,
tránh đi nhu cầu hết sức tự nhiên của một con người bình thường, sự trốn tránh
trong thao thức và lo âu ngay cả tiếng mọt cắn gỗ. Từ đây chúng ta có thể thấy
rằng, thơ văn xuôi hiện đại không dừng lại ở việc miêu tả cảm xúc tình cảm của
con người mà hơn hết là phơi bày, nhìn thẳng vào nhu cầu kiếm tìm tình yêu và
hạnh phúc của con người nhiều, quan tâm đến đời sống, đến khát vọng hạnh phúc
thật sự của mỗi con người cá nhân mà xa hơn đó chính là một cái nhìn chứa đựng
một tư tưởng nhân đạo, nhân văn hết sức sâu sắc.
Bên cạnh những vần thơ
đề cao khát khao kiếm tìm hạnh phúc của con người với những tình cảm mãnh liệt,
mong muốn yêu thương và được yêu thương trọn vẹn còn là những tình cảm nhẹ
nhàng, đầm thắm có sức gợi và sức lan tỏa vào tâm hồn con người hết sức sâu
sắc. Khao khát tình yêu đích thực cùng những hạnh phúc đời thường giản đơn và
bình dị với những dòng thơ nhẹ nhàng, trìu mến nhưng không hề làm mất đi sự da
diết, nồng nàn mà tình yêu lứa đôi vốn có như trong bài thơ “Viết cho cây sáo” của Mai Văn Phấn:
“Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu
mềm cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi”
Quả thật vậy, thơ viết
về tình yêu của Mai Văn Phấn luôn đầy ấp những yêu thương nhẹ nhàng, trìu mến
mà không hề có những trách móc giận hờn, vị kỉ như thơ của Thường Đoan “Em đã ngốc nghếch làm mái che cho loài chim
bạc bẽo. Chỉ biết ấm riêng mình nào hiểu nổi lạnh của ai đâu ! Em đã ngô
nghê sống trong tiếng hót của loài chim sâu mà ảo tưởng đến một thiên đường
hoàng yến. Em đã mê muội và vắt kiệt dòng máu mình đi hồi sinh cho một kẻ không
tim” (“Với loài chim di trú”- Thường Đoan) và cũng không quá mãnh liệt bày tỏ, thẳng thắng kêu gào, vồ vập
lên với tình yêu cháy bỏng như thơ của Phạm Thị Ngọc Liên “Em sẽ yêu anh như tháng giêng thương nhớ. Ôi tháng giêng, tháng giêng,
tháng giêng. Tháng lộng lẫy của cả mười hai tháng, tháng tiếng hát của các loài
chim, tháng vương miện của các loài hoa, tháng hạnh phúc trăm thứ quả...Tháng
giêng dài như sông, tháng giêng rộng như biển. Tháng giêng chỡ những lời tha
thiết – nói rằng Em yêu anh, yêu anh” (“Em yêu
anh như tháng giêng”) Hay như cách thú nhận hết sức thật thà của
những người đang yêu nhau về nỗi nhớ, nỗi nhớ ấy không thể hiện cường điệu như
ca dao “nhớ ai bổi hỏi bồi hồi/ như đứng
đống lửa, như ngồi đống than”. Ở đây, đơn giản nhớ là nói nhớ:
“Trăng mọc sớm, thơ ngây và thoảng mùi rơm rạ. Nhớ người
yêu vô cùng.”(“Anh tôi” - Mai Văn Phấn)
Và tình yêu cũng được
bày tỏ hết sức bình dị, gần gũi và rất chân thật, sống động như cách nói về
tình yêu trong bài thơ “Nhắm mắt”
“Nhắm mắt thấy em không rộn ràng như khi mở mắt. Nhưng sự
im lặng của em vang lên những âm thanh kỳ lạ, mách bảo tình yêu đã thấm vào cây
cối, đường xá, phố nhà, vào vườn tược, ruộng nương, sông suối... Từ nay ta
không cần nghi ngờ điều gì khi nhắm mắt” (Mai Văn Phấn)
Tình yêu “thắm” vào những đồ vật xung quanh và
gần như không thể thiếu của sinh hoạt hằng ngày từ “cây cối, đường xá, phố nhà, vào vườn tược, ruộng nương, sông suối...” đây
cũng chính là sự khẳng định tình yêu là một phần không thể thiếu của cuộc sống
con người.
“Ôm em nghe nhạc nước chảy qua triền núi rộng, những vỏ
sò vỏ hến hoá thạch đã thức dậy, tổ chim yến trên vách đá lơ phơ… Cây cỏ, con
đường, cả viên cuội quanh đây rất lạ. Hình như chúng đã cách xa ta, hôm qua, từ
nhiều thế kỷ trước. Hay bóng dáng, hồn vía ta tự kiếp nào chẳng biết, đang bồn
chồn chờ những nụ hôn” (“Những bông hoa mùa thu” – Mai Văn Phấn)
Cách so sánh ví von, ẩn dụ tượng trưng nhẹ
nhàng nhưng hết sức đặc sắc. Và chính sự nhẹ nhàng, đầm thắm đó luôn gợi lên
cho con người mong muốn về một mái ấm bình yên, giản dị. Nơi mà những người yêu
nhau thật sự muốn dừng chân để vun đắp thêm cho tình yêu của mình:
“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến
đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời
xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như
được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát,
chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn
phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời
gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ
thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh...” (“Em cho con bú” – Mai Văn Phấn)
Nhân vật trữ tình ở đây,
đã tìm được mái ấm của mình từ những điều hết sức bình dị “Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc
nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn” là
nơi “trú ngụ” bình yên sau những bôn
ba, tất bật của đời sống. Không giống như thơ ca thời đại trước, hạnh phúc của
anh nông dân mơ ước có một mái ấm “chồng
cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” (Ca dao). Như đã nói ở trên, thơ văn xuôi
hiện đại luôn phản ánh chân thực bình diện cuộc sống, nếu như thời đại trước
tình yêu gắn với lao động sản xuất, con người quan tâm nhiều hơn đến việc “ăn no mặc ấm”. Thì ở thời đại này cái
ăn đã được đảm bảo thì con người hướng đến việc “ăn ngon mặc đẹp”, chú trọng nhiều hơn đến yếu tố tinh thần. Chúng
ta dễ dàng cảm thông trước ước muốn nhỏ bé của con người hiện đại, họ chỉ cần
bên nhau thảnh thơi trong giây phút, không vướng bận bởi cuộc sống xô bồ hay
nỗi lo cơm áo, gạo, tiền vất vả:
“Mặt biển vừa yên lặng. Kéo mẻ lưới đầu tiên có
bóng ngôi nhà mình, anh thấy yên tâm về em và các con” (“Kí sự mùa thu” – Mai Văn Phấn)
Quả thật họ cần có một
chỗ dựa tinh thần vững chắc để ngày mai lại hòa mình vào cuộc sống với bao nỗi
lo toan. Nhưng dù có vất vả, thì khi nghĩ về mái ấm của mình, nơi mình tìm được
sự bình thản trong giây phút thì bổng dưng như có một sức mạnh vô hình thôi
thúc con người càng phải vun đắp cho cuộc sống gia đình nhiều hơn. Và người đàn
ông chỉ cần nghĩ về vợ, con mình cũng đang bình an và hạnh phúc thì họ cũng sẵn
sàng đứng nới đầu sóng, ngọn gió để nhận về mình mọi bão giông.
Với cách nhìn, cách nghĩ
và đặc biệt là cách nói về tình yêu vừa da diết, vừa sâu lắng, vừa mạnh mẽ
quyết liệt là những biểu hiện cụ thể về tình yêu trong thơ văn xuôi của hai tác
giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn. Ở đó, yếu tố tự sự và trữ tình, giải
bày và lý sự, biện minh... đã hòa vào nhau tạo nên một sắc thái, giọng điệu rất
riêng, vừa đắm thắm dịu dàng, vừa hiện thực sâu sắc. Đa dạng, phong phú và
nhiều cung bậc cảm xúc đan xen, lắm giọng điệu, nói khác hơn, với thơ văn xuôi
tình yêu thật sự đời hơn trở về với bản chất vốn có trước đó của mình, con
người trong tình yêu là con người luôn khát khao kiếm tìm và hiện thực hóa hạnh
phúc của mình bằng những gì dung dị và đời thường nhất.
2.1.3. Yếu tố tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc
Bên cạnh sự quan tâm, đề
cao cái tôi cá nhân cá thể và khát khao kiếm tìm, khẳng định tình yêu và hạnh
phúc lứa đôi, trong thơ văn xuôi còn có sự khám phá, thể nghiệm đi vào khai
thác yếu tố tâm linh, những phần sâu kín bên trong thuộc về thế giới nội tâm
của con người. Ở đó có sự hoài vọng về quá khứ, về tổ tiên một thời bừng sáng
khi đời sống thực tại có những thay đổi đột ngột, nhanh chóng theo chiều hướng
kinh tế thị trường khiến con người còn bàng hoàng chưa kịp thích nghi:
“Cánh cửa bật mở. Người người gắn chặt vào tổ tiên trong
những tảng băng trong suốt. Mọi chuyển động dừng lại tại thời điểm khởi hành.
Quá khứ bắt đầu gầm rít quanh đời sống đã chết. Tất cả bị ướp đông trong hơi
lạnh nhân tạo. Ướp đông tiếng nói vụng trộm. Ướp đông căn bệnh mãn tính. Ướp
đông giọt mực gắn chặt ngòi bút vào trang giấy, chén rượu đưa lên vĩnh viễn
cách môi. Nắm đất ném lên trời không bao giờ trở lại. Mặc người nói lắp đã
không qua nổi chữ “Và”...
Bóc dần từng
mảng thời gian. Quá khứ nhập vào đến đâu, những thân xác nóng lên đến đó. Và
kiêu hãnh từ từ. (“ Bến cuối” – Mai Văn
Phấn)
Dường như khi con người ta mất đi niềm tin
vào cuộc đời thực “Quá khứ bắt đầu gầm
rít quanh đời sống đã chết” chính mỗi con người như bị “ướp đông” bởi sự vô cảm, bởi nhịp sống hối hả và chỉ còn cách “Bóc dần từng mảng thời gian” tìm lại một
chỗ dựa tâm linh, một điểm tựa để con người có thể vững tin sống tiếp “Quá khứ nhập vào đến đâu, những thân xác
nóng lên đến đó. Và kiêu hãnh từ từ.” Sự nóng lên để phá tan cái “ướp đông trong hơi lạnh nhân tạo” để con
người trở về với con người thật sự. Và con người chỉ trở về với con người khi
kịp nhận ra:
“Tiếng thở
dài bay đi lớp bụi thời gian, ta sửng sốt thấy hồn vía tổ tiên trong nét hoa
văn đình làng, trống đồng, ngọn tháp... Những thân phận khóc cười đêm ngày làm
kén ở hồn ta.
Từ cách điệu
mặt người, bông huệ, bông sen... Thấy bất kỳ khoảng không nào đều linh thiêng,
bí ẩn.
Tỉnh dậy
trong sự nhận biết nhỏ nhoi, cô đơn, mềm yếu. Sự nhận biết làm ta can đảm và tự
tin hơn để lại ra đi từ khoảng không kia. Những khoảng không mang sức mạnh cơn
lũ ào qua hố thẳm nghi ngờ, con nước tỏa lung linh ánh sáng nhân từ hối thúc.
Tổ tiên hằng
dạy ta cởi mở, buộc ràng. Làm chiếc gáo úp lên vại nước. Chiếc đàn bầu một dây
ngân nga...”(“Trái tim giải thoát” – Mai Văn
Phấn)
Từ bao thế hệ con người Việt Nam, những hình
ảnh “đình làng, trống đồng, ngọn tháp,
bông huệ, bông sen” đã là một phần đời sống tâm linh của dân tộc như chính
tác giả đã khẳng định “Thấy bất kỳ khoảng
không nào đều linh thiêng, bí ẩn.”. Bài thơ “Đò lèn” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã từng nhắc đến những phong
tục tập quán mang nét văn hóa tâm linh tương tự theo dòng hồi ức tuổi thơ của
người đã đi qua nhiều những giông bão của cuộc đời:
“Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.
…
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.” (“Đò Lèn”)
Cho đến khi đói khổ thì
những hồi ức đẹp quá vãng lại càng làm cho con người có thêm niềm tin để sống.
Nên nhà thơ Mai Văn Phấn hoàn toàn có lí khi nhận ra mình “nhỏ nhoi, cô đơn, mềm
yếu” và nhận ra nơi ra đi, nơi để con người có
thể bắt đầu lại: “Những khoảng không mang sức mạnh cơn lũ ào qua hố thẳm nghi ngờ, con
nước tỏa lung linh ánh sáng nhân từ hối thúc”. Thật vậy chỉ có đời sống tâm
linh mới mang một sức mạnh vô hình như dân gian thường tương truyền rằng “Có tin có thiêng, có kiêng có lành”.
Đến khi đã tìm được một điểm tựa vững chắc cho tâm hồn, con người thôi khắc
khoải, trăn trở với những câu hỏi dường như chẳng có câu trả lời, dù câu hỏi ấy
được bắt nguồn từ hiện thực đời sống. Thơ mở ra nhiều vấn đề cần lưu ý, đáng quan tâm như
việc đi vào cái tôi cá nhân quá mức đã dẫn đến sự xuất hiện của xu hướng đi vào
vùng mờ tâm linh với những vần thơ vụt hiện:
“Thuở ấu thơ
tôi thường ra bờ sông. Tâm hồn bé nhỏ của tôi vang lên tiếng nước chảy. Tôi hỏi
sao đôi bờ không theo nước ra đi?. Tôi hỏi sao những cái cây cứ quẫy lên trong
gió muốn giã từ chùm rễ của mình?.
Tôi đứng bên
bờ sông như đứng bên bờ của thế gian. Những con thuyền trôi trước tôi như ở một
thế giới khác. Tôi nhìn thấy những đàn bà từ nước đi lên. Hai bàn tay họ giữ
chặt hai bầu vú và biến vào bãi dâu. Và từ ngút ngàn dâu xanh những người đàn
bà khốn khổ đi ra. Họ quảy những chiếc thùng và cất lên những tiếng nằng nặc
như giọng nói từ trong ngôi mộ.
Có một
chiều, một chiếc thuyền ghé bờ nơi tôi đứng. Từ trên thuyền người đàn bà kỳ dị
nhìn tôi và thở dài. Bà rủ tôi lên thuyền đi sang bến bờ bên kia. Tôi hỏi bà
sang đó làm gì? Và ở đó có gì? Người đàn bà không trả lời câu hỏi của tôi và
chèo thuyền đi khuất.
Người đàn bà
ấy không con và thường qua khúc sông làng tôi. Đến bây giờ, những năm cuối thế
kỷ, mẹ tôi vẫn nhớ rõ người đàn bà ấy. Đêm đêm mẹ tôi vẫn sợ hãi và vẫn nguyền
rủa người đàn bà ấy. Hình dáng bà trong tôi như câu chuyện cổ. Lúc nào nhớ đến
bà tôi lại tin chiều ấy chỉ có trong mơ” (“Nhân chứng của một cái chết” – Nguyễn Quang Thiều)
Người đàn bà ấy là thực hay là ảo và buổi
chiều nơi nhân vật “tôi” gặp được bà
có diễn ra hay đó là sự tưởng tượng trong cổ tích khi chính nhân vật tôi vẫn còn
ngờ ngợ về chính mình “Tôi đứng bên bờ
sông như đứng bên bờ của thế gian” . Chiều sâu tâm linh trong thơ Nguyễn
Quang Thiều được thể hiện qua những giấc mơ đầy nhân bản luôn khao khát kiếm
tìm một thế giới thanh khiết và bình an. Thơ Nguyễn Quang Thiều xuất hiện đậm
đặc những cụm từ “bên kia”. Đây là
một cách nói, một cách tư duy mới gọi sự mơ hồ, sự vô tận, vừa gần gũi vừa bí
ẩn, gợi lên cho người đọc những liên tưởng vô tận. Nó không phải là bờ bên kia
của một dòng sông hiện hữu trong giới hạn của đất trời. Nó chính là “bờ ta” nhưng lại tồn tại trong cõi mông
lung mà ta cần phải soi rọi, phải hướng đến trong tiếng gọi tha thiết từ cõi
lòng mình: “Dù thế nào tôi vẫn muốn hát
lên một bài ca. Bởi sự ra đi của chúng đẹp làm sao, như một cơn mơ, như một đêm
vũ hội” (“Chuyển động”)
Đã đến lúc con người cần bỏ lại phía những ưu
lo để gieo niềm tin vào một ngày mới, một tương lai còn dài rộng đang chờ họ
phía trước. Trong sự bước đến của tương lai luôn có sự tiếp nối, đúng như
truyền thống văn hóa của người Việt:
“Phía cha mơ
có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm
sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ
cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì
âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay
qua...
Con đã thức
dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang
duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên
thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi” (“Lúc mặt trời mọc” – Mai Văn Phấn)
Từ “ban
mai” được lập lại nhiều lần có lúc là “ban
mai đến sớm” có lúc lại là “hừng
đông” như gợi lên một tương lai mới, tươi đẹp là mong ước của người cha
dành cho đứa con bé bỏng của mình và người cha luôn nhắc nhở con mình dù thế
nào thì vẫn phải nhớ cội nguồn, gốc rễ: “Trên
hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau
tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay qua” Đó
là sự nhắc nhớ công ơn tổ tiên, nhắc con mình là con rồng cháu tiên, nồi giống
lạc hồng, đây chính là điểm tựa vững chắc “đỡ
con đi” trên hành trình nên người của con mình.
Từ những đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy
rằng, dòng cảm hứng thế sự được hình thành từ những trang viết về con người và
cuộc đời mà nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu thì “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. Nên những va đập giữa
con người và cuộc đời, của cuộc đời vào tâm hồn con người là vô cùng phong phú,
khó nắm bắt và khó thể hiện. Con người với cách hiểu đầy đủ và mang tính nhân văn thì phải chứa đựng
trong đó những tâm sự, tình cảm sâu lắng, những vui buồn đau khổ và ngay cả
những bi kịch cá nhân. Đứng trước cuộc sống mới đầy rối ren với nhiều so sánh
đối nghịch, những trải nghiệm trong đời sống, những mất mát đã qua và những
thiệt thòi không được bù đắp. Đứng trước sự tan vỡ của những giấc mơ, bất lực
trước những đòi hỏi tất yếu, những giá trị của cuộc sống đã và đang bị tha hóa.
Thì làm sao tránh khỏi những nỗi buồn xót xa.
Thơ văn xuôi, bằng những ưu thế về mặt thể
loại của mình, đã giúp cho người nghệ sĩ thể hiện một cách trọn vẹn nhất những
suy nghĩ nội tâm vốn hết sức phức tạp ấy. Chính vì thế, dòng cảm hứng thế sự
trở thành dòng cảm hứng chi phối đa số các tác phẩm thơ văn xuôi Việt Nam hiện
nay nói chung và những sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn
Phấn nói riêng.
2.2. Cảm hứng chính luận
Bên cạnh dòng cảm hứng thế sự, thơ văn xuôi
của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn cũng thể hiện khuynh hướng
chính luận khá sâu sắc. Chính luận ban đầu là một thuật ngữ chỉ một thể loại
văn học, một thể tài của báo chí, khi thâm nhập vào thơ ca, chính luận được
hiểu như là một khuynh hướng, một đặc điểm thuộc về nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Tác phẩm có tính chính luận bao giờ cũng bộc lộ một động cơ, một hành vi
tranh đấu vì lí tưởng của nhà thơ trên một lĩnh vực nào đó như chính trị, tôn
giáo, triết học, đạo đức, tư tưởng, nghệ thuật…và thường chứa đựng một ý nghĩa
luận đề nhất định. Tác phẩm mang tính chính luận cũng là nơi mà nhà thơ bộc lộ
thái độ và chính kiến về đối tượng phản ánh một cách rõ ràng.
Thơ ca trữ tình nói chung chủ yếu là nơi để
trí tưởng tượng và cảm xúc của người nghệ sĩ thăng hoa. Nhưng hình tượng thơ ca
không chỉ là hình tượng của cảm xúc mà còn là hình tượng của lí trí. Có như
thế, tác phẩm thơ ca mới có thể đạt đến chiều sâu của trí tuệ làm nên những
triết lí nghệ thuật để đời. Thơ ca là tiếng nói, là xúc cảm của cá nhân, nhưng
thơ ca bao giờ cũng khởi nguồn từ đời sống thực tiễn gắn với một bối cảnh lịch
sử xã hội cụ thể để cất lên tiếng nói của thời đại mình. Vậy nên bên cạnh yếu
tố tình cảm, cảm xúc thì các yếu tố tư tưởng, thái độ và chất lí trí cũng là
những phần không thể thiếu của tác phẩm thơ ca. Bảo đảm hai đặc điểm nói trên,
một tác phẩm thơ ca sẽ không chỉ bộc lộ cảm xúc, tâm trạng cá nhân mà còn là
thông điệp mang tính lịch sử - xã hội của thời đại. Những tác phẩm này đã góp
phần hình thành dòng cảm hứng chính luận, một trong những dòng cảm hứng chủ đạo
trong thơ hiện đại Việt Nam.
2.2.1. Cuộc sống đô thị công nghiệp
với những bất an
Như đã nói thơ sau
năm 1975, đặc biệt là sau đổi mới năm 1986 đến khi xu hướng dân chủ trong văn
học xuất hiện. Nó đã liên quan ảnh hưởng mật thiết đến phạm trù cái tôi. Và nó
trở thành tiền đề để cái tôi phát triển. Thơ xuất hiện cái tôi công dân trực
tiếp dấn thân với những vấn đề nhân tình thế thái, với sự thay đổi suy nghĩ, tư
tưởng của con người cùng sự xói mòn của những giá trị đạo đức. Trong thơ xuất
hiện những suy nghĩ nóng bỏng, những câu thơ thấm thía nỗi buồn, những suy tư
nặng trĩu lo âu. Có thể thấy, ý thức trách nhiệm công dân trong mỗi cá nhân giờ
đây lại được bộc phát mạnh mẽ. Không phải là tiếng ì đùng súng đạn, nên họ
không cầm súng ra chiến trận. Nhưng họ đã mạnh dạn dấn thân vào một chiến địa
mới không kém phần gây go, quyết liệt. Thơ là tiếng súng thức tỉnh ý thức công
dân của mỗi cá nhân đã và đang ngủ quên trên chiến thắng, trên những lời ca về
tiềm lực.
Sự văn minh đã đem lại cho con người nhiều
tiền đề vật chất và tinh thần để nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhờ khoa học kỹ
thuật, con người đã thực hiện được rất nhiều công việc phi thường, hiện thực
hóa được rất nhiều thế hệ cha ông đi trước chỉ biết gửi gắm vào những câu
chuyện cổ tích. Cùng với nó là tốc độ đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng,
nhiều thành phố và khu công nghiệp mọc lên như nấm dại sau cơn mưa rào, bộ mặt
nông thôn và thành thị đang thay đổi từng ngày. Con người có đủ điều kiện thoát
khỏi ý nghĩa ăn no mặc ấm để hướng tới ăn ngon mặc đẹp. Công bằng mà nói, công
nghiệp hóa hiện đại hóa đã mang đến cho chúng ta rất nhiều mặt tích cực, trong
xu thế hội nhập đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở cửa đón nhận những
làn gió mới từ các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng, mặt trái
của nó giống như một quá trình biện chứng của sự vật. Cái được luôn đi cùng với
cái mất. Bên cạnh những yếu tố tích cực luôn tồn tại song song trùng với mặt
tiêu cực. Khi xây dựng thêm một khu công nghiệp là đồng nghĩa với việc chấp nhận
tăng cường một luồn ám khói cho lá phổi xanh, chúng ta mong muốn được đón những
ngọn gió văn hóa trong lành nhưng những nguồn gió độc cũng tràn vào không ít.
Cuộc sống ở đô thị cũng đã mang lại nhiều tiện nghi vật chất nhưng nó chật
chội, bức bối, ngột ngạt và tiềm ẩn rất nhiều bất an:
“Thành phố
không chốn an toàn cho họ giấu đủ một ngón tay
Ngoài kia,
những cánh đồng đắng cay vì bệnh tật kéo dài. Hoàng hôn xấu xí
Ngũ cốc đang
ngập mình bởi con ho hóa chất sặc mùi”
(“Lời
cầu nguyện” – Nguyễn Quang Thiều)
Thành phố bây giờ là một nơi đầy rẫy sự nguy
hiểm, biên giới của sự sống và cái chết trở nên bé nhỏ mong manh, những mối
hiểm họa tiềm ẩn đang rình rập trong từng gang tấc. Con người đang phải gánh
lấy những hậu quả do mình tạo ra. Nó khiến con người có cảm giác bất an đến nỗi
một không giam rộng lớn nhưng không đủ khả năng để bảo bọc cho một thứ dù là
nhỏ nhất không đủ an toàn để “giấu một
ngón tay”. Sự phóng đại quá cỡ này dẫu làm cho người đọc có phần choáng
váng, mất thăng bằng nhưng những hình ảnh được gắn kết ngay sau đó khiến chúng
ta cảm nhận sự việc ấy dường như đang hiện hữu. Đây không phải là kiểu kết tội
vội vàng, chủ quan mà là sự đúc rút chính xác từ quan cảnh thực tế bởi trạng
huống của những cánh đồng đang héo quắt vì bệnh tật và ngũ cốc phải gánh chịu
những “cơn ho hóa chất sặc mùi”.
Những gì từng được đại diện cho môi trường sống, thực phẩm sống đang bị xâm hại
và trở nên phản tác dụng đối với con người. Thần chết đang hiện diện khắp nơi
đối với từng sinh thể. Tất cả cỏ cây, muôn thú đều đang chịu chung số phận:
“Ngước lên
bầy chim cánh chập choạng, rũ rượi bay, hát bài ca kiên nhẫn
Ngước lên
những đám mây trĩu ngực vì bụi cố bò qua cơn dị ứng của thời tiết vô luân” (“Lời cầu nguyện”
- Nguyễn Quang Thiều )
Không còn những bãi cỏ ngát xanh để con người
tha hồ đùa giỡn, trò chuyện; không còn tiếng chim hót líu lo, yên bình trên
những cành cây cao vút…Cánh đồng cỏ giờ đây đang héo quắt vì bệnh tật, đàn chim
đang bay chập choạng, rũ rượi cố công hát bài ca đánh dấu sự sinh tồn. Con
người trong môi trường ấy dường như bị giam cầm quanh bốn bức tường ngột ngạt,
đôi lúc chúng rối tung lên như cách ông miêu ta trong bài “Quay theo mái nhà”:
“Đêm
tỉnh dậy. Đồ gỗ trong phòng mọc tua tủa nấm nhĩ. Bức tượng chảy xệ xuống thành
nắm đất nhão. Chiếc quạt mở ra lần cuối rồi khép lại làm ống tre. Trong bóng
tối, tiếng những nghệ nhân đã khuất cùng đồng vọng:
-
Hãy quay theo mái nhà đánh thức các đồ vật!
Tôi quay
cùng chai lọ, con giống, bóng đèn… qua môi người thợ thổi thủy tinh, qua con
chữ rùng mình nhìn bột giấy chìm trong thuốc tẩy. Những giọt mực tụ lại rồi
loang xa như một vết dầu. Bộ quần áo trang nghiêm rũ xuống. Đấy là giờ mặc niệm
tơ tằm và những cây bông. Bóng tối nuốt sạch thực phẩm ôi thiu, không khái niệm
về văn hóa ẩm thực. Hương trà thơm về rừng. Nước gào thét trong chiếc ấm bục
đáy”
Họ thật sự bị cầm tù bởi những khối bê tông,
những tòa nhà cao tầng không ngừng mọc lên và đau đớn hơn là bị cầm tù bởi
chính những guồng máy khổng lồ do họ tạo ra, với những kiểu suy nghĩ, những
cách hành động như máy móc. Mặt trái của quá trình đô thị hóa không chỉ biểu
hiện ở bình diện nổi (vật chất) mà nguy hại hơn là nó đang xâm nhập vào tâm lí
của con người (tinh thần). Dần dần, cuộc sống vật chất đầy đủ đã khiến những
con người ở đô thị bước vào địa hạt của sự hưởng lạc với nhiều thú vui tiềm ẩn
và những nỗi bất an.
Vấn đề công nghiệp hóa luôn song hành cùng
với tiếng kêu cứu từ môi trường, là một vấn nạn của xã hội hiện nay, những thảm
họa thiên nhiên như động đất, bão, lũ lụt không còn xa lạ. Những tiếng kêu
thống thiết từ thiên nhiên đang réo rắc từng ngày từng giờ và bất kì lúc nào
con người cũng có thể chịu sự trừng phạt từ thiên nhiên:
“Nhưng đêm nay mưa như
sông trời đổ xuống thị xã. Những ngọn đèn lần lượt tắt và những ô cửa lần lượt
mất hút” (“Nhân chứng của một cái chết” – Nguyễn
Quang Thiều)
Và từ những cơn mưa bất chợt ấy có thể biến ngay thành
cơn lũ ấm ào, cuốn trôi mọi thứ trên đường nó đi qua, và trơ trụi, tan tóc hay
là một cái chết trắng xóa chẳng để lại dấu vết gì:
“Mưa vẫn xối như máu
không sao cầm được. Nước đã dâng lên ngập đôi giày của cô. Cô vẫn đứng lặng im
như không có ai đứng đó. Hơi nước từ người cô bốc lên ngùn ngụt. Cô là một đám
cháy trong mưa. Cô đứng đó, cây khô đứng đó. Một sự sống lặng câm dưới những
đám mây mang theo cái chết, bên cạnh một cái chết thét gào đòi được phục sinh”
(“Nhân chứng của một cái chết” – Nguyễn
Quang Thiều)
Đó là sản phẩm tất yếu
của sự cảm nhận đời sống công nghiệp hiện đại, của văn minh “remote - nút bấm”, của lai giống, nhân
bản, vi mạch, tốc độ… Hiện thực khắc nghiệt của đời sống và hiện thực tiên tri,
tưởng tượng… được khúc xạ, thăng hoa, hắt sáng từ cảm quan, tư biện đặc biệt
của thi sĩ. Tất cả được hiện hữu trong thơ Nguyễn Quang Thiều vừa đau đớn vừa
da diết, vừa chằm bặp vừa lạnh lùng. Ông luôn thổn thức và hân hoan, đau đớn và
thất vọng… trong tư thế một công dân đầy trách nhiệm: “Không nhìn thấy nhà tù nào mà mỗi ngày tôi mất đi một cỏ/ Không nghe
tiếng súng nào mà ngực cỏ vỡ đêm đêm” (Gọi
hồn). Nhiều lúc Nguyễn Quang Thiều đã nhìn thấy cả những vẻ đẹp lộng
lẫy, gần gũi tưởng như có thể chạm được tay vào, nhưng như bao người cùng thế
hệ, có lúc ông thấy, cũng như ai đó đã kiệt sức không thể bước thêm được nữa: “Kìa
những cái cây lộng lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm/ Và một kẻ đang
gắng sức tìm lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên” (Những công việc của tháng Mười Một).
2.2.2. Tiếng kêu cứu cho những đổ vỡ của truyền thống văn hóa
Từ những cảm nhận tàn
phai của giai đoạn trước, đến bây giờ nó đang thực sự giẩy chết trong những
sáng tác của Nguyễn Quang Thiều trong “Nhịp
điệu châu thổ mới”, “Bài ca những con chim đêm”, “Cây ánh sáng”…là tiếng
than khóc cho sự đổ vỡ sâu sắc đời sống văn hóa tâm linh của thời kì đô thị
hóa. Trong xã hội hiện đại, khi vật chất đang nắm giữ vị thế tối ưu và nghiễm
nhiên trở thành thước đo của mọi thứ, con người dường như thờ ơ với các giá trị
văn hóa thâm chí còn cố tình xâm hại nó vì lợi ích của cá nhân mình. Con rồng
vảy vàng hơn nào giờ đang ngập ngụa trong trùng trùng nguy hiểm:
“…con thuyền rồng trong hải lưu không gian cuồn cuộn
Những hồ nước mắt dâng đầy, những dòng sông nước mắt giàn
giụa, không bờ bến” (“Nhịp điệu châu thổ mới”)
Những giọt nước tiếc
thương đã tuôn trào không một chút xấu hổ giấu diếm, nó tràn ngập và dâng đầy
khắp nơi. Giá trị truyền thống tốt đẹp đang bị đảo lộn, đánh tráo bởi chính bàn
tay và hoạt động có chủ đích, có toan tính được diễn ra một cách vô cùng tinh
vi của con người: “Nhận ra cuốn sách trên
tay bị đánh tráo bằng cuốn sách khác” (“Bài ca những con chim đêm”) Hay là
một sự thay đổi đến đau đáu trong bài “Đêm ở Thụy Khuê” của Mai Văn Phấn: “Vạt cỏ xưa hai đứa mình ngồi, giờ là
nền ngôi nhà cao tầng, để anh làm con bướm chập chờn giữa phố, tìm lối
ngày nào lạc cánh bay. Khuôn mặt em vừa hiện trong vòm cây sót lại,
tán lá đung đưa như bát nước đầy”
và ở đó còn có nỗi lòng đầy khắc khoải khi những ngôi nhà cao tầng dần dần thay
thế cho những mái ngói của ngôi nhà cổ phủ đầy rêu phong “Mùa thu trong đông kết những công trình, đem tổ chim gài vào những
hiên nhà cổ. Hoa cúc đăm đắm vàng đi thu xếp những ngổn ngang phiền muộn”
(“Kí sự mùa thu”). Khi người ta đặt nền móng cho những ngôi nhà cao tầng,
đâu biết nơi đó chứa đựng biết bao kí ức xa xăm của ngày cũ, “ngôi nhà xưa” cũng có thể là chứng nhân
của lịch sử của một thời đại đạn bom, là nơi trú ẩn của bao kiếp người lầm
lũi…là một sự phát triển, thay đổi đến vô tình mà ta quên đi có những giá trị
thiêng liêng cần lưu giữ.
“Trên nền cũ ngôi nhà xưa, một liên doanh mới làm lễ
động thổ. Ký ức hiện về tựa ngôi đền, dâng trong tóc mình dĩ vãng tôn
nghiêm.
Đặt tay lên những khung sắt, cần trục, pa-nen... Khoảng
không ấy xưa là hố bom, những hốc mắt của kiếp người lầm lũi. Tôi ngậm ngùi
lạc vào đám khói. Ai đốt chiếc lá vàng mùa đông hôm qua.
Đám khói mơ màng vẽ lên phần hồn của mặt bằng, chân
móng. Gió cất lên âm thanh siêu thị, luồn qua kẽ tay miên man hát khẽ. Tôi
gom câu ca xưa đúc thành bệ cho các thánh nhân ngồi, những câu ca thơm
hương trong ngôi đền ký ức” (“Hải Phòng trước năm 2000” – Mai Văn Phấn)
Chính những đều này dễ
dàng gây cho giới trẻ, những thế hệ sau này dễ dàng bị lai căng, mất gốc. Chúng
có biết gì đến những giá trị truyền thống tinh thần thiêng liêng của dân tộc,
là “cây đa – bến nước – sân đình” mà
thay vào đó là những tòa nhà, cao ốc, những trung tâm thương mại, những khu
công nghiệp, và sẽ lấy gì để tưới tắm tâm hồn thơ dại, là những miền kí ức
trong trẻo để mỗi đứa con khi đi xa có cái đặc trưng để thương nhớ về quê nhà.
Thế hệ trẻ ngày sau sẽ nhớ gì khi những khu đô thị mới, những thành phố đều
giông giống nhau và đi đến đâu cũng tìm được.
Mặt khác, những giá trị
đạo đức chuẩn mực một thời đã bị ngụy trang dưới nhiều hình thức, những cuộc
mua thần bán thánh diễn ra nhan nhản hằng ngày. Tín ngưỡng không còn là nơi
nương náo tâm hồn để cầu sinh sự bình an, không còn là cứu cánh tinh thần những
khi vấp váp, sợ hãi. Một số người đã dùng nó để làm chiếc cần câu cơm không hơn
không kém. Họ không còn chân chất, không còn lương thiện mà đã dày dạn những
tráo trở, họ lừa nhau và lừa cả thánh thần:
“Hái vài đốm nắng, nhấm nháp theo văn hóa ẩm thực cộng
đồng. Bù lại những ngày đói khát. Cố trấn tĩnh và từ tốn trước bình minh. Tất cả là của bạn, khái niệm ấy vang lên
mơ hồ trong mỗi cử động xương hàm. Thấm nhuần tinh thần tận gót chân, cuống
họng truyền ngay mật khẩu xuống dạ dày, chờ đầu gối run lên nhắc lại. Những mắt
cá chân mở to, e ngại bàn chân giẫm phải chiều tàn... Trên
cỏ xanh kia ta được sinh ra và ủ ấm bằng nhiều quan niệm. Từng xả thân, từng
lắt léo, từng kính trọng, từng bợ đỡ, từng hãnh hỗ, từng nịnh nọt, từng mạo
nhận, từng thủ dâm, từng thánh thiện, từng vu oan, từng thiêng liêng... Cỏ lừng
lững dựng lên trước ta uy hiếp” (“Di chứng” – Mai Văn Phấn)
Thật đau xót khi những
giá trị văn hóa của dân tộc lại được đem ra “nhấm
nháp”, bị “giẫm” lên hằng ngày. Ở
đó, sự đổ vỡ sâu sắc những giá trị của cuộc sống được bộc lộ rõ nét qua những
mối quan hệ giữa con người với con người, tính hai mặt trong cung cách ứng xử
là điều dễ nhận thấy. Sau một quá trình dài sống chiêm nghiệm, những mặt trái
của cuộc đời được tác giả nhận diện và khai thách triệt để: “Từng xả thân, từng lắt léo, từng kính trọng,
từng bợ đỡ, từng hãnh hỗ, từng nịnh nọt, từng mạo nhận, từng thủ dâm, từng
thánh thiện, từng vu oan, từng thiêng liêng” (“Di chứng” – Mai Văn Phấn)
Tác giả phơi bày ra ánh
sáng những ý nghĩ và hành động đen tối của con người. Chúng ta luôn luôn chuẩn
bị cho mình thứ công cụ đắc lực để làm hại kẻ khác, chúng ta chúc tụng nhau
nhưng sẳn sàng hạ bệ nhau lúc nào có thể, chúng ta bí mật phóng “ngọn giáo” đến một mục tiêu khác nhưng
không thể ngờ được rằng những “ngọn giáo”
nơi khác cũng đang hướng về phía chúng ta.
Thành tựu văn minh vật
chất với: xa lông, ti vi, khách sạn, điện thoại, kế hoạch công việc... hiện lên
trong Châu thổ gắn đầy những dự cảm về việc đánh mất
những giá trị đời sống tinh thần thiêng liêng của con người trong thế giới hiện
đại. Thế giới ấy nhiều khi chính nhà thơ cũng phải thốt lên những lời tự vấn “Đời sống chúng ta đang sống có thực
là đời sống không?”, “Đời sống này đôi lúc buồn hơn cái chết”:
“Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi
thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ
Cờ sẽ rực rỡ biết nhường nào, âm
nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào
Giống cậu bé ham chơi trốn cha mẹ ra
khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo hoang
Và cúi xuống bên em đang thiếp ngủ,
thì thầm anh nói:
Đời sống này đôi lúc
buồn hơn cái chết” (“Buồn hơn cái chết”)
Trở về với đời sống tâm
linh, trở về cội nguồn là sự trở về với những giá trị vĩnh cửu để xa rời cuộc
sống ồn ào, vội vã của nền văn minh hiện đại, là sự kiếm tìm trạng thái bình
yên, đối lập trạng thái bất an, khiếp sợ trước cái hỗn loạn của xã hội công
nghiệp.
Thật vậy, cảm hứng chính
luận đã chi phối những sáng tác thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
và Mai Văn Phấn khi viết về các vấn đề mang tính thời sự, những vấn đề có tác
động to lớn vào đời sống dân tộc, cộng đồng cũng như tác động vào nhận thức,
lối sống, tư tưởng con người. Đưa những
vấn đề trên vào thơ ca bằng chính quan điểm, lập trường của cộng đồng,
dân tộc chứ không phải là quan điểm cá nhân là việc không hề dễ dàng với người
làm thơ. Hai nhà thơ, Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn đã làm được điều này,
đưa cái logic của lí trí vào lĩnh vực của cảm xúc hình tượng đã khéo léo tạo
nên phong cách chính luận trong những sáng tác thơ văn xuôi của mình. Những bài
thơ không chỉ có sự bay bổng của cảm xúc mà còn có cái lắng sâu của trí tuệ,
song song với những hình tượng đẹp là một tầng sâu ý nghĩa hết sức sâu sắc.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI
CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN
Khái niệm kết cấu theo Từ điển thuật ngữ văn học, còn “bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật
kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm” [29; 156]. Đây là kết cấu bên trong của tác
phẩm văn học. Nhìn từ gốc độ kết cấu bên trong tức là nói đến “mối liên kết bên trong” của các đơn vị
hình tượng và cảm xúc, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai
Văn Phấn thường được tổ chức một hình thức văn bản hoàn chỉnh với kết cấu bên
trong và kết cấu bên ngoài bổ trợ cho nhau làm cho văn bản thơ thêm phần mạch
lạc. Chúng ta có thể hiểu, kết cấu là hình thức của văn bản được kết hợp theo
kiểu kết cấu bên trong hay kết cấu bên ngoài. Kết cấu bên trong là hình thức kết
cấu theo mạch cảm xúc, liên tưởng của tác giả, còn kết cấu bên ngoài chính là
hình thức trình bày, thể hiện của tác phẩm đó.
Khảo sát các mô hình kết
cấu văn bản tác phẩm thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai
Văn Phấn có cả hình thức kết cấu bên trong và kết cấu bên ngoài. Hình thức văn
bản được tổ chức khá linh hoạt, góp phần biểu hiện những nội dung đời sống
phong phú, phản ánh nhu cầu tiếp nhận và khám phá một cách linh hoạt và sáng
tạo của tác giả.
3.1.1. Kết cấu bên ngoài
Như chúng tôi đã trình
bày ở phần trên, thơ văn xuôi thể hiện sự linh hoạt trong cách thức tổ chức văn
bản thơ, một bài thơ văn xuôi như một văn bản văn xuôi tự do, hoặc có một dạng
thức như truyện ngắn, một màn kịch nhỏ với những lời đối thoại hay sự phối hợp
giữa truyện ngắn và thơ... Khảo sát các mô hình kết cấu văn bản tác phẩm thơ
văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn có hình thức chia
khổ, tách đoạn lẫn nguyên khối. Trong đó, thơ Nguyễn Quang Thiều hình thức
trình bày nguyên khối như một tác phẩm văn xuối chiếm khoảng 50% (“Những ví dụ”, “Một màu đen”...)
còn lại là được trình bày bằng hình thức của thơ tự do khoảng 35%(“Sau bậc cửa”, “Ngôi nhà vô hình”, “Hoa
tiêu”, “0h17 phút”...), đối thoại hay cách phối hợp giữa truyện ngắn và thơ
khoảng 15%(“Cây ánh sáng”...); thơ
Mai Văn Phấn hình thức trình bày nguyên khối như một tác phẩm thơ văn xuôi
chiếm khoảng hơn 70% (“Lúc mặt trời mọc”,
“Em cho con bú”, “Đêm ở Thụy Khuê”...) còn lại là trình bày phối hợp giữa
truyện ngắn và thơ chiếm khoảng 20%(trường ca “Người cùng thời”, “Mưa trong đất”, “Những bông hoa mùa thu”, “Cửa
mẫu”, “Hình đám cỏ”...) các hình thức trình bày khác như đối thoại hay tự
do chiếm khoảng 10% (“Hắn”, “Anh anh em
em”, “Đến trong ý nghĩ”, “Quay theo mái nhà”...). Chúng ta có thể thấy,
hình thức trình bày nguyên khối như một văn bản văn xuôi là phổ biến nhất. Hình
thức văn bản được tổ chức khá linh hoạt, góp phần biểu hiện những nội dung đời
sống phong phú, phản ánh nhu cầu tiếp nhận và khám phá một cách linh hoạt và
sáng tạo của tác giả.
Với hình thức nguyên
khối như một tác phẩm văn xuôi chúng ta có thể thấy trong bài “Dạy trẻ con” của Mai Văn Phấn:
“Lũ trẻ xóm
tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì
thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm,
chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc
hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng
cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… Ít thấy chúng gào khóc ăn vạ. Có
đứa nghẹn ngào: “Trẻ con nước mắt chảy
vào trong!”. Tôi và những người khác bàn nhau diễn trò cho chúng xem,
xếp đồ hàng, xây cung điện, kéo thuyền giấy trên sân gạch... Đánh trận giả, vờ
lăn ra chết. Bọn trẻ bẻ lá đặt lên mũi những người giả chết. Những chiếc lá bất
chợt héo rũ, úa vàng. Một đứa tự tin, sảng khoái: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Chúng cười vang lúc chúng
tôi đứng dậy. Tôi mụ mị rồi ngất ngư về chỗ của mình. Bàn chân chập chững đặt
lên mặt đất từng bước dại”
Ở bài này, tác giả như kể lại một câu chuyện
bắt gặp trong đời sống, giống như hình thức truyện ngắn mini đang phát triển
hiện nay, cô động, ngắn gọn song những suy tư, trăn trở về cuộc sống hiện tại
thì vô cùng sâu sắc và đáng được quan tâm. Hay đó là cách trình bày hình thức
theo dạng thơ tự do như bài “0h17 phút”
của Nguyễn Quang Thiều:
“1. nhớ con chuột tri kỷ
của những đêm hoang tàn và trống rỗng
chạy men theo hè phố lúc
một giờ sáng
kẻ lạ mặt dùng ánh mắt
thích dòng chữ vô hình lên trán
và tôi trở thành kẻ bị
lưu đày trong giấc mộng chính mình
2. đứa trẻ đái ướt sũng
tóc tôi rồi bỏ đi
vẽ vào bóng tối một vệt
trắng nguệch ngoạc
3. Phấn ngồi bất động
dưới bóng của một cái cây ngôn từ
một đám mây những con
bướm lấp lánh bay quanh
Như một cậu học sinh
trốn lại lớp sau giờ tan học
Phấn đang xoá hết những
chữ quen thuộc trên tấm bảng đen
để tìm một từ vựng
Có khả năng làm trống
rỗng tất cả”
Hình thức kết cấu theo kiểu đối thoại trong
bài “Cây ánh sáng” của Nguyễn Quang
Thiều:
“Cả hai không còn con đường nào để
lẩn trốn nhau , giờ đối mặt nhau, và đấy là con đường cứu rỗi :
- Mi không còn đường chạy thoát khỏi
ta được nữa. Mi là ta bóng tối và ta là mi ánh sáng
- Ta không hề chạy trốn ngươi. Ta chỉ
chạy trốn ta và hơn thế ta truy lùng ta theo tiếng gọi hồn ta.
- Mi có biết ta yêu mi đến tan vỡ trái
tim và cũng căm thù mi đến vỡ trái tim. Mi là niềm kiêu hãnh của ta và nỗi
thống khổ của ta. Ta đã từng nguyền rủa mi và cũng từng ngắm nhìn mi và ta hạnh
phúc khóc âm thầm và kiêu hãnh cất lời ca ngợi.
Ôi vì ngươi mà ta phải dày vò, phải đớn đau và mơ ước hơn
tất cả những kẻ sống quanh ta. Nhưng ta phải sống. Kìa hãy nhìn những cái cây
vòm lá hát cả khi gục đổ”
Chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp hình thức này
được sử dụng trong thơ Mai Văn Phấn, bài thơ “Anh anh em em” là một ví dụ điển hình:
“Lượn lờ như cá, em bảo:
- Phòng anh quá chật.
- ...
- Chật mà ấm áp”
Ngoài ra, thơ văn
xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn còn sử dụng hình thức
trình bày không sử dụng các dấu câu như bài: “Mail cho em” của Mai Văn Phấn, “Ám
ảnh”, “Tôi khóc những cánh đồng rau khúc” của Nguyễn Quang Thiều:
“Tôi khóc
ngang triền bãi trong cơn mưa hoàng hôn ngạt thở
Tôi khóc
những bà già đang rửa chân trước những ngôi nhà ẩm ướt ven đê
Tôi khóc con
đường phù sa tôi đi tìm thế giới của miền kiệt sức
Tôi khóc
những sợi tóc nàng dâu rụng xuống đất đai lại mọc lên những sợi tóc
Những ngọn
bí đen không lá bò kín vầng trán hói của cơn mê
Tôi khóc
những người đàn bà quảy hai chiếc sọt vừa đi vừa mơ nấm mộ của mình
Tôi khóc
những ngón tay bại liệt của bà tôi không bao giờ chịu tự sát
Tôi khóc
những miếng bánh nóng như một cái lưỡi rơi vào bếp tro bụi bặm
Tôi khóc
những mùa rau khúc thiêng liêng phủ đầy mưa xuân như phủ đầy cám nếp”
Với kết cấu này, văn bản thơ văn xuôi có thể
đi liền mạch cảm xúc mà không bị ngắt quãng hay đứt quãng cảm xúc nữa chừng,
chuyển tải đầy đủ sự chiêm nghiệm, bày tỏ sự việc của chủ thể trữ tình đúng như
một trong những đặc điểm của thơ văn xuôi.
Hơn nữa, kết cấu bên ngoài bên cạnh sự biểu
hiện bằng hình thức kết cấu văn bản còn được biểu hiện bằng hình thức trùng
điệp lời thơ. Trùng điệp là một hình thức thường gặp trong sáng tạo văn chương,
nhất là trong thơ. Về thực chất trùng điệp là cách tổ chức lời thơ theo nguyên tắc lặp lại, láy lại
các đơn vị khác nhau của văn bản, nhằm tạo ra những ý nghĩa mới cho văn bản, mà
khi tách riêng các đơn vị đó không hề có được. Hiệu quả của thủ pháp nghệ thuật
này là rất lớn. Chính vì vậy, nó được dùng khá phổ biến trong thơ, ngay cả thơ
cách luật – một thể loại mà mọi tìm tòi sáng tạo luôn bị hạn chế bởi những
nguyên tắc, luật lệ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, trên thực tế không phải nhà thơ nào
cũng có ý thức sử dụng trùng điệp như một thủ pháp nghệ thuật để tổ chức lời
thơ. Việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật trong thơ hoàn toàn mang tính chủ quan,
gắn liền với ý đồ nghệ thuật, tài năng, cá tính sáng tạo của nhà thơ.
Trong thơ văn xuôi trùng
điệp cũng là một thủ pháp được sử dụng nhiều, góp phần tạo nên dấu ấn một phong
cách thơ. Thủ pháp trùng điệp bao gồm: điệp câu, điệp ngữ, điệp từ, điệp cú
pháp. Vị trí xuất hiện của các yếu tố trùng điệp cũng rất khác nhau: có khi
điệp liên tục trong một đoạn thơ, có khi điệp cách quảng tương ứng đầu, cuối
mỗi đoạn, có khi yếu tố trùng điệp lại ở vào vị trí nối tiếp nhau giữa hai câu
thơ – đoạn thơ. Không ít trường hợp, trong một bài thơ cùng xuất hiện nhiều
hình thức trùng điệp khác nhau. Chẳng hạn như bài “Chuyển động” của Nguyễn Quang Thiều:
“Như một thành phố vùi trong lòng đất tự xa xưa giờ thức
dậy. Bầy ốc sên bò qua vườn trong ánh trăng chói gắt như nắng trời mùa hạ.
Những chóp vỏ chói sáng như hạt kim cương đính trên vương miện nữ hoàng đêm dạ
hội. Những tấm thân mềm và ướt lướt đi trong êm ái rợn người. Đôi râu ăng - ten
phóng lên bắt những âm thanh xa lạ. Ngôn ngữ bí ẩn nào đang hạnh phúc hay đau
khổ gọi bầy sên.
Ánh trăng im phắc, những vòm cây im phắc. Bầy ốc sên bò
qua giấc ngủ của cỏ và của những chiếc lá vàng rụng trên mặt đất. Chúng miết
những tấm thân mềm qua những mảnh chai vỡ sắc lạnh. Tôi không nghe thấy tiếng
chúng kêu than hay nguyền rủa điều gì. Chỉ cảm thấy có tiếng nước dâng lên,
dâng lên mãi tràn ngập cả đêm trăng.
Bầy ốc sên đã giấu mình trong những gốc chuối, những bụi
gai. Giờ thức dậy dưới trăng và ra đi lặng lẽ. Khu vườn này là quê hương chúng,
hay là khu vườn bên, hay còn… xa nữa. Chúng đang rời bỏ quê hương mình hay đi
tìm lại quê hương. Dù thế nào tôi vẫn muốn hát lên một bài ca. Bởi sự ra đi của
chúng đẹp làm sao, như một cơn mơ, như một đêm vũ hội”
Ngoài điệp từ “bầy ốc sên”, bài thơ còn có hiện tượng
điệp cú pháp, thể hiện độc căng cảm xúc của nhân vật trữ tình, nhấn mạnh được ý
nghĩa biểu đạt của lời thơ, tạo tính nhạc chứa đựng một cảm xúc ngập tràn, tinh
tế. Hay như tác phẩm “Bài học” của
Mai Văn Phấn cũng thể hiện rõ hiện tượng trùng điệp này:
“Đạo mạo múa
tay trong bị
...
Đạo mạo giết
một con muỗi
Đạo mạo phát
biểu chung chung
Đạo mạo
nghiêng mình trống rỗng
Đạo mạo lấy
trộm áo mưa
Đạo mạo thở
mùi hôi vào miệng người khác
Đạo mạo bọc
nhầm một chiếc răng sâu
Đạo mạo tiểu
tiện nơi công cộng
Đạo mạo xụt
xịt trong khăn mùi xoa
Đạo mạo
chỉnh lại con c... trong túi quần nơi hội họp
Đạo mạo xỉ
mũi vào cửa kính
Đạo mạo moi
tiền của gã ăn mày
Đạo mạo nghe
trộm điện thoại
Đạo mạo nhìn
ngực chị em trong đám tang
Đạo mạo ký
tên vào công trình khoa học
Đạo mạo làm
thơ tình khi đã liệt dương...”
Quán tính đó, ẩn dụ đó, nhưng bằng thứ ngôn
ngữ gần và sát thực hơn, Mai Văn Phấn đã thoải mái phô bày con người thời đại
với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa một
thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Ở đó, con người hết còn mơ
mộng đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ, hết còn niềm tin vào tương lai tươi
sáng. Mỗi người là một thế giới kín bưng bít, âm u hơn, vô vọng hơn. Nếu hình
dung bài thơ là một bản nhạc không lời, thì chủ đề âm nhạc đã được hé mở ngay
từ giai điệu đầu tiên, một giai điệu khắc khoải, sâu lắng. Sau giai điệu mở
đầu, hình tượng âm nhạc đã phát triển mở rộng với những hình thức mới, tiếp đó
lại trở về với giai điệu chủ âm bằng việc lập lại một kiểu cú pháp.
Ở một hình thức nghệ thuật khác, các yếu tố
trùng điệp trong bài thơ lại được bài trí theo kiểu đan xen, vừa điệp cú pháp,
vừa điệp câu theo hình thức lập lại ở đầu cuối mỗi đoạn thơ một cách đều đặn,
mang đến cho bài thơ một âm điệu du dương, trầm bổng. Mỗi đoạn thơ là một biến
tấu, vừa là yếu tố trong chỉnh thể hình tượng, vừa có tính độc lập tương đối
chuyển tải một ý tưởng của nhà thơ:
“Cha muốn
con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo
trước cửa. Những bông hoa cuống quýt sắc màu, mở từng cánh khẽ khàng,
khuôn mặt đêm dần sáng. Mặt trời còn run rẩy trong vạt áo nồng nàn của
đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong
óng mặt ao nhà.
Con là nơi
dòng sông từ giã những ngôi sao, nơi con thú hoang gọi rừng thay lá, nơi
khoảng trống hóa thành thời gian. Khoảnh khắc ấy là minh mẫn và ngái ngủ,
là bột nhão sắp đông thành bánh, là những gì cha làm chưa kịp phía cha
mơ...
... Phía cha
mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm
sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ
cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì
âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay
qua...
Con đã thức
dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang
duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên
thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi” (“Lúc mặt trời
mọc” – Mai Văn Phấn)
Đọc bài thơ ta dễ dàng nhận ra sự trùng điệp
trong mỗi đoạn thơ. Chính sự trùng điệp tạo nên sự liên kết, vận động cảm xúc
của thơ, tạo nên tính thống nhất, chỉnh thể cho hình tượng thơ. Những tình cảm
mà nhân vật trữ tình dành cho đứa con của mình được diễn tả tinh tế qua lời thơ
trang nhã và một giai điệu tha thiết, nồng ấm. Những tư tưởng triết lí thâm
trầm, những tình cảm tha thiết, mãnh liệt đã được thể hiện không phải chỉ bằng
những hình ảnh, những biểu tượng nên thơ mà còn bằng cả nhạc tính của câu thơ,
bài thơ, một thứ nhạc tính được tạo nên không dựa trên nguyên tắc láy âm (phối
âm, hiệp vần và hài thanh) như trong thơ cách luật cổ điển, mà dựa vào sự trùng
điệp.
3.1.2.
Kết cấu bên trong
Trong sáng tạo thơ ca, liên tưởng so sánh là
thủ pháp nghệ thuật quen thuộc, đặc biệt là trong sáng tác thơ văn xuôi, một
hình thức được xem là tự do nhất trong mọi thể loại thơ ca. Dưới áp luật dồn
nén của một dòng cảm xúc và niềm khao khát được bộc lộ, giãi bày của chủ thể
trữ tình, tác phẩm thơ văn xuôi vừa phát triển tự nhiên theo trục dọc như một
bài thơ tự do, vừa mở rộng liên tưởng theo hình thể tuyến tính của thơ văn
xuôi. Sự cộng hưởng của hai chiều liên tưởng ấy đã giúp cho tác phẩm neo đậu
được trên ranh giới mong manh giữa thơ và văn xuôi. Việc đãi chữ, lọc từ đã
không còn là quan trọng với các nhà thơ khi ngôn ngữ thơ văn xuôi luôn có xu
hướng được văn xuôi hóa, dung nạp nhiều hình thức tổ chức lời thơ nhằm giải
phóng đến mức tối đa sự dạt dào của tư tưởng cảm xúc. Câu thơ văn xuôi có sự
kết hợp hài hòa giữa tư duy logic và tư duy hình tượng, với lối kiến trúc bề
thế, nhiều tầng bậc, hình ảnh, đã trở thành đơn vị cơ bản, là tế bào làm nên
sức sống, vẻ đẹp riêng cho bài thơ. Với những đặc điểm đó, liên tưởng so sánh
đã chứng tỏ được khả năng, ưu thế của mình và trở thành một thủ pháp nghệ thuật
quen thuộc trong việc kiến tạo câu thơ văn xuôi. Bài thơ “Chuyển động” của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ:
“Như một
thành phố vùi trong lòng đất tự xa xưa giờ thức dậy. Bầy ốc sên bò qua vườn
trong ánh trăng chói gắt như nắng trời mùa hạ. Những chóp vỏ chói sáng như hạt kim cương đính trên vương miện
nữ hoàng đêm dạ hội.”
Hiện thực cuộc sống đi vào thơ ca nhưng không
khô cằn cứng nhắc, chính những mạch liên tưởng theo cảm xúc đã làm nên chất thơ
trên cái nền văn xuôi, tạo nên một ranh giới rạch ròi giữa thơ văn xuôi và văn
xuôi đúng như đặc trưng thể loại. So với dung lượng các thể thơ khác, rõ ràng
thơ văn xuôi tỏ ra có ưu thế hơn trong việc ôm chứa hiện thực và cách liên kết
hình ảnh, ngôn ngữ, cảm xúc, Mai Văn Phấn với bài “Nước mắt” là một minh chứng tiêu biểu:
“Nước mắt
những người đàn bà góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có
bao nhiêu hòn Vọng-Phu. Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày
tàn héo xuân xanh, rồi bay về trời tụ thành mây hồng hoang. Đám mây hình
những người đàn ông mơ màng... mà không, họ đang thao thức trên đầu ta
từng mảng rêu phong. Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hoá. Các anh về
rồi lại ra đi. Bởi sấm đã rung và chớp đã giật, mây chồng lên mây, người
chất lên người.
Thương các
chị mòn mỏi khóc bao đêm mà trời chỉ trả cho nước mắt đôi lần. Nước mắt
bay ngang trời bầm tím! Từng mái gianh nghèo như mi mắt ai đẫm ướt. Các
chị hứng mưa, giọt từng giọt như lần tràng hạt: Mưa! Mưa! Mưa!
Nụ hôn nào
trong veo tan loãng thế. Các chị cầm tan nát đóa hoa mưa...”
Có thể nhận định rằng, nếu thơ lục bát, thơ
năm chữ hay các thể thơ cách luật khác, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ đi vào lòng
người thì thơ văn xuôi hoàn toàn ngược lại. Tuy vậy, một ưu thế của thơ văn
xuôi mà các thể loại thơ khác khó có thể đạt được đó là cách phóng túng trong
câu chữ, giúp nhà thơ dễ dàng diễn đạt nội dung xã hội, trạng thái tình cảm đa
dạng và phá cách trong gieo vần, ngắt nhịp, xen cài các thể thơ một cách linh
hoạt. Hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn đã vận dụng đặc điểm này
thành phương tiện nghệ thuật hữu hiệu của mình qua một loạt các bài thơ như: Những ví dụ, Màu đen một, Nhân chứng của một
cái chết, Hoa tiêu, Cây ánh sáng… của Nguyễn Quang Thiều và Cộng hưởng, Anh anh em em, Biến tấu con quạ,
Hắn, Nghe em qua điện thoại, Những bông hoa mùa thu… của Mai Văn Phấn.
“Người đàn
bà sắp đến giờ sinh nở ngồi lặng lẽ thở. Chị đang hồi tưởng tháng năm chị đã đi
qua. Vượt lên cả sự xác nhận là sứ mệnh bí ẩn của sự sinh ra. Tất cả bảo chứng
cho sứ mệnh này; đồi núi, sông suối, biển cả, đất đai và bầu trời. Chị đã đi
qua những mùa màng kì vĩ trên xứ sở. Xứ sở chị đã cười, đã khóc, đã lặng câm và
lên tiếng.
Đốt thêm một
cây nến.
Rồi cơn đau
hạnh phúc sẽ lên tận trời xanh.
Rồi máu hạnh
phúc sẽ tuôn chảy trên những miền da thịt.
Đứa bé sẽ ra
đời và cất tiếng khóc.
Tiếng khóc
là tuyên ngôn sự sống,
đứa bé đọc
cho mình mẹ nó nghe,
Và nó chỉ
cần một mình mẹ nó xác nhận
Sự xác nhận
lặng im của tạo hoá trao quyền cho người đàn bà.
Đốt thêm một
cây nến.
Bên ngoài
cửa sổ những cái cây chụm đầu nhau nhìn vào một ngôi nhà. Những cái cây đã che
cho mẹ nó và hộ tống mẹ nó dọc con đường xuyên thủng thành phố. Những cái cây
nghe thấy tim nó đập vang trong máu thịt mẹ nó. Và đứa bé trở thành sự thách
thức lớn nhất với những gì đe doạ người đàn bà.” (“Cộng hưởng” –
Nguyễn Quang Thiều)
Nhìn chung, hầu như các bài thơ văn xuôi của
hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn luôn thể hiện một sự tự do, vượt
qua mọi rào cản của vần nhịp. Dòng cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ chảy tràn qua
câu thơ một cách tự nhiên như không gì ngăn cản nổi. Độ dài ngắn của câu thơ,
đoạn thơ luôn luôn thay đổi với nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Khái niệm
dòng thơ đã không còn ý nghĩa trong kết cấu bài thơ. Chính vì vậy, sự xuất hiện
những câu thơ, đoạn thơ đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong thơ văn
xuôi, trong đó thủ pháp liên tưởng so sánh giữ một vai trò quan trọng trong
việc liên kết các từ ngữ, mở rộng biên độ câu thơ với nhiều sắc thái biểu cảm
hòa quyện vào nhau. Hình thức câu thơ rất gần với câu văn xuôi, bộn bề chi
tiết, hình ảnh. Bên cạnh đó, có trường hợp bài thơ là cả một khối, không hề sử
dụng bất kì dấu chấm câu nào và đặc biệt từ ngữ trong toàn bài thơ đều được
viết in hoa như bài “Mail cho em” của
Mai Văn Phấn có một kết cấu vô cùng độc đáo như sau:
“HAI GIỌT
SỐNG GẶP NHAU VÔ ĐỊNH EM KHỎA ANH LÊN TỪNG ĐỢT SÓNG CHÌM DẦN VÀO DA MỊN TÓC TƠ
TRUYỀN BẰNG MÃ RIÊNG ĐƯỜNG CONG THƠM THOẢNG BÍ ẨN TẦN SỐ RUNG MỞ VÒM THANH ĐỚI
ÂM TRỢ DƯƠNG PHÙ HÀM RĂNG ĐỦ SỐ MẶC CHO KIỀN KHÔN BIẾN ĐỔI ANH THƠM THÀNH HẠT
SEN GIÃ BIỆT BÙN NÂU MÔI EM NGẬM NGÔI SAO HƯ VÔ CHIẾU MỆNH MÀ ANH CHẲNG BIẾT
CHẠY QUANH TUỔI THƠ CHÂN ĐẤT LẤM LÁP ÁNH SÁNG CHÓI CHANG MÊ MẢI TÌM NGÔI SAO
NẰM TRONG ĐÁY NƯỚC BÌNH ĐÊM KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU BỖNG GIỌT NÀY THẤY GIỌT KIA
LÀ MẸ TRÊN VẦNG TRÁN LONG LANH HIỆN RA VÔ SỐ NHÃN CẦU HỘI TỤ MỘT QUANG NĂNG MÁU
ỨA ƯỚC TÍNH NHỮNG ĐƯỜNG CHÂN TRỜI ĐỂ TRÔI QUA THẾ KỶ CHÚNG KHÚC XẠ TRONG TA
NHIỀU KHOẢNG CÁCH KHÁC THƯỜNG CHẠY VỘI VÃ TỪ NHỤY HOA ĐẾN CHÂN ONG VỪA RÚT GỌN
KHÔNG GIAN RỜI TỔ XIN NGỌN KHÓI NHU NHƯỢC CẢ TIN ĐỪNG RỜI NGỌN LỬA MÀ THỜ PHỤNG
NHỮNG ĐÁM MÂY PHÙ PHIẾM LẠC LOÀI ĐÃ CHẬM HƠN NHỮNG LƯNG ĐỒI QUÈ CỤT TAY CÀNH
CHÂN RỄ XÓI LỞ NGÃ GỤC DƯỚI CHÂN CƠN LŨ NGÔNG CUỒNG NHỮNG ĐÁM RƯỚC RÃ MỀM CƠN
KHÁT QUẰN QUẠI VÀ BẮT ĐẦU MÊ SẢNG TRONG XOAY VẦN MỘNG MỊ MÌNH LẠI NGỌT LÀNH VÀ
ĐƯỢC TẮM MÁT LÙA TỪNG HẠT LI TI VÀO CAO HOANG PHỦ TẠNG RỒI BỐC HƠI TRONG TẤM
CHĂN MỀM ẤM ÁP BAN MAI ĐỌNG TRÊN MẶT BÊ TÔNG CHẤT DẺO ANH CỐ VỌNG VÀO HỔN HỂN THIÊN NHIÊN NGÔI NHÀ
KHỔNG LỒ VÔ CẢM CHẶN ĐƯỜNG BAY NHỮNG CÁNH CHUỒN CHUỒN BÊN CÁNH DIỀU ĐỘT TỬ TRÊN
MẠNG DÂY CAO THẾ NHỮNG CHÂN TRỜI CUỒNG CHÂN BỊ THƯƠNG LÊ ĐẾN KÊU CẦU GẶP CÁNH
CHIM HOANG GIÓ VỘI VÃ NỐI VÀO LÁ PHỔI ĐÃ XẸP GIỜ LẠI PHỒNG LÊN PHẢI LỢP NHANH
MÁI LỀU CHE KỶ NIỆM RÃ RỜI CHÚNG LANG BẠT VỀ TƯƠNG LAI VÀ HỐT HOẢNG GẶP LẠI ANH
TƯỞNG ĐƯỢC SINH RA BẰNG PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIEN NHÂN BẢN ANH THẤY MÌNH LẠC CUỐI
CON ĐƯỜNG RA NGOÀI BẢN NGÃ GIỌNG NÓI VỠ TAN HAY TIẾNG THÉT VÔ THANH CỌC NHỌN
LÚT SÂU VÀO HUYẾT QUẢN MÁI LỀU CHE CƠN MƯA A-XÍT LÀ NHỮNG DANH TỪ GIỐNG CÁI
TRUYỀN TINH ANH TỪ HOA THẬT SANG CHO HOA NHỰA TIẾNG CHIM RỪNG KHAI MỞ KHẨU HÌNH
CHO BĂNG GHI ÂM LÀM MỌNG THÊM NHỮNG GIỌT SƯƠNG MAI MÂY HOÀNG HÔN DÌU CÁNH CHIM
VỀ MÀN HÌNH KHÔNG GIAN BA CHIỀU ẢO ẢNH NHỮNG BÀO THAI NHÂN TÍNH NHÂN SINH KHAI
NHỤY TỤ HÌNH HÀI CẠNH NÉT CONG ĐOẠN THẲNG CHƯA THÀNH CON ĐƯỜNG ĐÃ GẶP BÀN CHÂN
TA GỌI NHAU ĐỂ MÁU HỒNG THÔNG VỀ TỪNG KINH MẠCH XUÔI CHIỀU TRONG THỜI GIAN LỘN
NGƯỢC CẦU NGUYỆN BAN MAI CHO TÌNH YÊU THUẦN PHỤC ĐƯỢC VẬT CHẤT LẪN PHẢN VẬT
CHẤT THEO MÃ SỐ ĐÃ CHỌN CẢ DIỆP LỤC MÁU HỒNG CÙNG LINH CẢM ĐANG LIÊN HỒI TRUYỀN
TỚI NƠI EM”
Ví dụ này cho thấy, biên độ câu thơ giãn nở
một cách tự nhiên nhờ sự liên tưởng so sánh, kết hợp với việc mở rộng định ngữ
bằng một chuỗi hình ảnh chứa đầy cảm xúc. Khái niệm dòng thơ chỉ còn có ý nghĩa
tương đối, sự gắn kết trong câu thơ là hết sức tự nhiên, không hề có một dấu
hiệu kĩ thuật, mà “chất keo” của nó chính là dòng cảm xúc, suy tưởng của nhà
thơ. Giọng điệu câu thơ là giọng điệu giải bày, bộc bạch, chứa đựng một tình
cảm nồng nàn tha thiết của tác giả. Bên cạnh hình thức liên tưởng so sánh để
gắn kết dòng cảm xúc trong những bài thơ có kết cấu tự do, hoàn toàn ngẫu hứng,
không nằm trong bất kì một khuôn khổ nào như ví dụ vừa đề cập ở trên. Thì có
một hình thức liên tưởng so sánh thường được phổ biến trong thơ văn xuôi là sự
dụng các liên từ so sánh: như, cũng như,
hình như. Đây là hình thức so sánh trực tiếp, rất quen thuộc trong giao
tiếp ngôn ngữ cũng như trong sáng tạo thơ ca.
“Những người
đàn bà góa bụa làng tôi như những
con cào cào áo nâu khuất dần sau cỏ. Từ chân trời xa chạy về những ngọn gió
loang lổ màu đỏ. Những ngón tay của gió như điên cuồng, như kiệt sức bới rối tung từng đám lá cỏ gai.
....
Những người
đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai, trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất
vả.” (Những ví dụ - Nguyễn Quang Thiều)
Đến đây, hiệu ứng thẩm mỹ của phép liên tưởng
so sánh này là hết sức rõ ràng, nó không chỉ mang đến cho câu thơ một khả năng
truyền cảm, mà còn có khả năng gợi cảm, khơi dậy trí tưởng tượng của người đọc,
tìm đến những liên tưởng vừa mơ màng hư ảo, vừa gần gũi và chân thực. Sức ám
ảnh gợi của câu thơ, bài thơ nhờ vậy cũng trở nên mạnh mẽ, sâu sắc hơn, có khả năng
tác động trực tiếp vào lí trí của người đọc. Những liên tưởng so sánh không có
gì mới về cấu trúc, nhưng lại luôn có khả năng mang đến một cảm giác bất ngờ,
tạo nên hứng thú thẩm mỹ cho người tiếp nhận.
3.2. Ngôn ngữ thơ
Chất liệu của văn học là ngôn từ. Đặc biệt
trong thơ cách tổ chức, sắp xếp ngôn từ có một vai trò rất quan trọng, ngôn ngữ
trong thơ mang tính biểu hiện đến với thơ là đến với những tình cảm, cảm xúc
của tác giả. Thông qua ngôn ngữ sử dụng ta thấy được tài năng của nhà thơ và
quan trọng hơn thì việc nhà thơ tái tạo ngôn ngữ là để cống hiến thêm vào cho
biểu tượng của người đọc một sự thật của hiện thực hoàn cảnh mà mỗi nhà thơ chọn cho mình một hệ
thống ngôn ngữ đặc trưng riêng.
Nói đến đặc điểm của ngôn ngữ thơ là nói đến
toàn bộ các yếu tố chi phối việc hình thành ngôn ngữ nghệ thuật cũng như nghệ
thuật sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ của người làm thơ. Mỗi thời đại đều đưa ra
những tiêu chí, những yêu cầu nhất định trong việc sử dụng ngôn ngữ trong thơ
ca dựa trên quan niệm về chức năng của nó. Thơ hiện đại đề cao chức năng phản
ánh hiện thực, biểu hiện đời sống nội tâm nên ngôn ngữ thơ cần chân thực, giản
dị, giàu tính biểu cảm và gần với đời sống mới có thể chuyển tải hết cái rộng
lớn của hiện thực cũng như cái đa dạng, phức tạp trong nội tâm con người.
3.2.1. Dung nạp ngôn
ngữ đời thường
Như chúng ta đã biết, một trong những đặc
điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ là sự tinh tế, giàu cảm xúc. Nó là sản phẩm của
quá trình chất lọc, đãi chữ lọc từ của nhà thơ, thậm chí là sản phẩm của một
khoảnh khắc thăng hoa trong tâm hồn nhà thơ. Bên cạnh đó, tài năng và cá tính
sáng tạo, phong cách của nhà thơ được thể hiện qua ngôn ngữ thơ. Song có một
thực tế, trong thơ ca đương đại, dường như ngôn từ không còn là yếu tố thứ nhất
làm nên vẻ đẹp của bài thơ. Thế nên, xu hướng dung nạp ngôn ngữ đời thường vào
thơ đang ngày càng phổ biến, đặc biệt là trong thơ văn xuôi.
Nói đến ngôn ngữ đời thường là nói đến một
thứ ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, tự nhiên, thậm chí là thô ráp. Nó tỏ ra phù hợp
với văn xuôi hơn là thơ, một thể loại luôn lấy sự tinh tế gợi cảm là tiêu chí
hàng đầu. Loại ngôn ngữ này dường như vắng bóng trong thơ Đường luật và cũng ít
gặp trong thơ tự do trong thời kì thơ mới. Bởi thế, trong thơ ca kháng chiến
chống Pháp khi ngôn ngữ đời thường xuất hiện trong một số sáng tác của Hồng
Nguyên (Nhớ), Trần Hữu Thung (Thăm lúa), Tố Hữu (Phá đường), Hữu Loan (Màu tím
hoa sim)… đã làm ngỡ ngàng người đọc. Thói quen tiếp nhận một thứ ngôn ngữ
thơ bóng bẩy, tinh tế được chắt lọc kỹ càng trong thơ mới (1932 – 1945) đã
khiến cho không ít người có thái độ nghi ngờ chất thơ ở những bài thơ sử dụng
ngôn ngữ đời thường. Dè dặt hơn, nhiều người xem đó là sự tìm kiếm, thể nghiệm
trong quá trình đưa thơ đến gần với hiện thực đời sống. Sau năm 1975, việc sử
dụng ngôn ngữ đời thường trong thơ đã không còn là cá biệt, riêng lẻ, mà đã trở
thành một xu hướng phổ biến nhất trong thơ nói chung và thơ văn xuôi nói riêng.
Nhà thơ đứng giữa cuộc đời, đối mặt với cuộc đời và không ngần ngại đưa vào thơ
tất cả những gì thực nhất, thậm chí là dung tục, bụi bậm của cuộc đời:
“Gã sinh ra
và lớn lên từ rơm rạ, tro trấu, từ những giọng buồn. Gã, tóc bùng màu đen, râu
dựng màu đen. Những mái rạ đen mục tiếng thạch sùng, bầy chó mực mê man bóng
tối. Bánh xe trâu khắc hai nét đen dài suốt con đường qua cánh đồng từ tinh
sương đến đổ tối. Không có dấu hiệu gì từ những chữ trắng trên bảng đen. Và gã
ra đi từ những ô chữ nhật đen, khi bóng tối lùa kín từng cái miệng. Những con
muỗi trộn màu đen của chúng và màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ. Và trăng,
màu đen của ánh sáng ngày dứt mình ra khỏi những đám mây bẩn thỉu.” (“Một màu đen” –
Nguyễn Quang Thiều)
Bằng một loạt các từ ngữ “Gã, rơm rạ, tro trấu, tóc bùng, tiếng thạch sùng, bầy chó mực, bánh xe
trâu, đổ tối, con muỗi...” là lời ăn tiếng nói ngày thường, mà từ trước đến
nay người làm thơ rất kén chọn khi đưa vào thơ nhưng đến Nguyễn Quang Thiều,
nhà thơ không dùng từ ngữ ấy để bộc lộ mà là dùng để tả, kể với một ngôn ngữ
giản dị đến mức suồng sã, gần với ngôn ngữ văn xuôi. Hay nói chính xác hơn, cảm
xúc của nhà thơ được ẩn kín đằng sau lớp hình ảnh, ngôn từ:
“Những ngôi
nhà mang theo những đàn ông, đàn bà cùng những con chó hay sủa gió của họ. Đêm
tháng Mười đi từ phía cánh đồng và biến mất trong những giấc ngủ người lớn
tưởng không bao giờ tỉnh dậy. Chỉ còn lại ngọn đèn tháng Mười câm lặng. Và
chúng tôi - những đứa trẻ - ngồi nhìn em mình thở. Và chúng tôi không thuộc
được một lời cầu nguyện nào.” (“Hồi tưởng tháng mười” – Nguyễn Quang
Thiều)
Hay như bài “Em cho con bú” của Mai Văn Phấn cũng là một ví dụ:
“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến
đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời
xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như
được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát,
chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn
phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời
gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ
thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh... (“Em
cho con bú” – Mai Văn Phấn)
Từ đây chúng ta có thể
thấy rằng, việc sử dụng ngôn ngữ đời thường trong thơ biểu hiện một sự thay đổi
cách nhìn của nhà thơ về cuộc sống, về quan niệm thẩm mĩ. Đã một thời thơ hướng
về thiên nhiên thanh sạch, thế giới bồng lai mê hoặc để chuyển tải những cảm
xúc tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên của cuộc sống con người. Nhưng giờ
đây, thơ nhìn xuống, nhìn xung quanh mình, cuộc sống hiện ra chân thực như nó
vốn có: hạnh phúc và đau khổ, vinh quang và cay đắng, giàu sang và cơ cực, cao
cả và thấp hèn... Con người cũng hiện hữu với những giá trị thật nhất, cả những
khoảng tối bị khuất lấp trong tâm hồn. Thứ ngôn ngữ cao sang bóng bẩy dường như
không còn thích hợp cho việc thể hiện dòng cảm xúc bộn bề, phức tạp ấy. Với một
cách nhìn như vậy, nhà thơ đã tìm đến một thứ ngôn ngữ đời thường hơn, giản dị
hơn. Trong tác phẩm “Những ví dụ” của
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã thành công với một ngôn ngữ như thế:
“Những người đàn bà góa bụa làng tôi - những ví dụ - chân
không giày không dép. Họ tránh con đường dẫn đến những đêm trăng. Bầu vú họ mệt
mỏi nằm ngoẹo đầu và trở lên ngễnh ngãng, không còn nghe được tiếng gọi đàn ông
nồng mùi thuốc lào và ruộng bùn ngai ngái, trong những đêm gió từng đôi quấn
nhau qua vườn hổn hển. Chỉ tiếng chuột nhắt cắn thóc trong những chiếc áo quan
gỗ gạo đóng sẵn làm họ thức giấc. Và họ nằm lo âu trong tiếng mọt cắn gỗ vọng
ra từ cỗ áo quan”
Những hình ảnh “người đàn bà góa bụa”, “lũ trẻ cởi truồng”, “những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen,
tõe ra như móng gà mái, cào cào áo nâu, mọt cắn gỗ gạo, chuột nhắc cắn thóc,
thuốc lào, rơm rạ…” xuất hiện một cách tự nhiên trong bài thơ như dòng chảy
tự nhiên trong cảm xúc suy tư của nhà thơ về cuộc sống. Đó là một thứ ngôn ngữ
không cần trang sức, không được dụng công chắc lọc. Từ cuộc sống đời thường ùa
chảy vào thơ. Bài thơ “Bừng tỉnh trên
tàu” của Mai Văn Phấn là một ví dụ:
“Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng
gần bậc cửa. Chị vội vã lắc đầu và cảm ơn chiếu lệ. Về ghế của mình, tôi lơ
đãng nhìn qua cửa sổ con tàu và ngủ thiu thiu.
Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến
những nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.
Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh
giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia
liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu”
Từ ngữ của bài thơ gần
như là từ ngữ của một bài văn xuôi kể về câu chuyện của nhân vật tôi vừa xảy ra
trên tàu, là nỗi niềm băn khoăn từ một sự việc của đời sống. Nếu cũng tứ thơ
này, về câu chuyện của một người thiếu phụ không có chỗ ngồi trên một chuyến
tàu, sự lo sợ của nhân vật tôi về một rủi ro có thể xảy ra bất kì lúc nào theo
trí tưởng tượng của anh. Thì ở các thể thơ khác như thơ cách luật hay thơ tự do
bằng những khuôn mẫu về ngôn từ, vần, nhịp thì khó có thể chuyển tải hết ý
nghĩa nội dung của bài thơ bằng việc chỉ kể về một câu chuyện tưởng chừng như
rất bâng quơ này. Điều này cũng giống với bài thơ “Chuyển dịch màu đen” là đỉnh cao trong lộ trình cách tân
của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, là câu chuyện thơ mang kịch tính, xung đột, gây
ấn tượng mạnh, tạo đa nghĩa... Ngôn ngữ thơ trong bài thơ gần với ngôn ngữ đời
sống, súc tích, từng chi tiết diễn tiến nhanh... Những mảng màu sáng tối tương
phản rõ rệt ngay trong từng mạch thơ. Mỗi câu thơ như nhát bay miết mạnh, dứt
khoát trên tấm toan rộng tạo ấn tượng, nhiều đoạn như nhát búa giáng mạnh vào
tâm não người đọc: “Những con muỗi trộn
màu đen của chúng vào màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ…/ Những cặp môi xiết
vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá”. Nhà thơ dồn nén cảm xúc vào những
trạng thái đặc biệt, chú trọng tạo hiệu ứng xung đột cao để bạn đọc cảm nhận được
vẻ đẹp thơ ca trong những không gian lạ thường: “Ngôi nhà gỗ cắn môi, ổ khoá hóc chết chẹt một khoảng tối”
Bên cạnh những mảng “màu lạnh”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
có chủ ý khá tỉnh táo đặt những hình ảnh tương phản, lúc giàu tính trữ tình
như: “Cầu thang gỗ đã ngủ, những răng sâu
đã ngủ/ Dìu dịu trên đệm ấm, cơn ngứa thay lông”. Nhiều lúc ta bắt gặp
những câu thơ như ngọn đèn bất ngờ bật sáng trong góc tối: “Trong góc phòng, bầy cá vàng giấu mình vào vùng nước tối…/ Những vòm
cây đã trộn vào nhau/ Rễ trộn vào thân và lá trộn vào quả…/ Tỉnh giấc trong
khuya bởi màu trắng cơn mê/ Cố hương xoã tóc đen đi trong gió trắng/ Cố hương
vật lên như sóng/ Cố hương vùi mình như muối triệu năm”. Bài thơ trộn lẫn giữa giấc mơ với ngổn ngang
hiện thực, giữa khát vọng tự do, hòa đồng và hóa giải những định kiến về sắc
tộc, văn hóa,… với cách biểu hiện chưa từng có trong lộ trình thơ ca của ông.
Với bài “Cây ánh sáng” cũng là một sự miêu tả,
kể sự việc bằng những từ ngữ dung dị, đời thường “Và lúc này chàng nghe thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển
bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà chàng/ Và lúc này những cái cây trên
thế gian, những ngọn nến xanh khổng lồ thắp lên trên tất cả con đường…/Trong
một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ ấy, trong một bầu trời ấy/ Và Người đã biến chàng trở thành một
chiếc lá nhỏ không bao giờ tàn úa/trên cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ
trụ ngập tràn” (“Cây ánh sáng”). Nếu ánh sáng trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa là ngọn đuốc, đèn pha, thì ánh sáng
trong tập thơ “Cây ánh
sáng” được hắt lên từ đường
chân trời rạng đông, cho ta nhìn thấy hết vẻ đẹp trinh nguyên, bất tận của một
sớm mai tuyệt đẹp. Cho ta biết được một ngày mới đang đến với bao khác biệt,
nhiều bí ẩn, bất ngờ... Bằng những chuyển động tất yếu tuân theo quy luật tự nhiên, cho chúng ta được quyền tin yêu và hy
vọng vào những điều tốt đẹp trên thế gian này.
Trên xu hướng ấy, thơ
của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn phấn cũng xuất hiện lần lượt
những hình ảnh hết sức đời thường như: “con
cào cào, con chuột nhắc, con chó, con cá đực, con cá cái, ...” Cho thấy một
sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Thơ không còn là một lãnh địa
riêng, khép kín mà luôn có sự giao thoa với nhiều thể loại khác. Chất thơ không
phải ở bề mặt ngôn từ mà thu vào bên trong gắn với những chiêm nghiệm suy tư
của nhà thơ về cuộc sống.
Thơ văn xuôi trong sáng
tác của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn không chỉ xuất hiện
những từ ngữ đời thường mà còn có cả những suy tư, lo âu rất đời thường của một
cái tôi - thế sự - đời tư. Ngôn ngữ đời thường đi vào thơ không chỉ giúp nhà
thơ chuyển tải được tình cảm nhiều cung bậc, lắm nỗi niềm, mà còn là cách định
hướng tình cảm và nhận thức của người đọc bằng việc để họ trực tiếp va chạm với
các hiện tượng đời sống chứ không làm lây lan tình cảm. Cách tiếp cận này giúp
người đọc đến với cuộc sống một cách trực tiếp, thơ trở nên gần gũi với cuộc
đời.
3.2.2. Tính tạo hình và tính biểu hiện trong ngôn ngữ thơ
Về cơ bản, ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ tạo
hình còn ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ biểu hiện. Ngôn ngữ tạo hình thiên về khả
năng miêu tả, phản ánh hiện thực và xây dưng hình ảnh. Ngôn ngữ biểu hiện thiên
về khả năng khơi gợi liên tưởng, thể hiện tư tưởng, tình cảm và thái độ của chủ
thể sáng tạo. Trong thực tế sáng tác, hai loại hình ngôn ngữ này thường xuyên
có sự chuyển hóa, hòa trộn vào nhau và các nhà thơ từ cổ điển đến hiện đại đều
coi trọng tính tạo hình của ngôn ngữ thơ. Từ thơ Nguyễn Trãi:
“Cỏ xuân như
khói, bến xuân tươi
Lại có mưa
xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ
đường đồng trưa vắng khách
Con đò gối
bãi suốt ngày ngơi” (“Bến
đò xuân đầu trại”)
Hay như Nguyễn Du với “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” (“Truyện Kiều”) đến thơ Xuân Diệu với “Quả đất – ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt
lệ giữa không trung” (“Lệ”)… đã
vẽ lên những bức tranh thơ đẹp và rất giàu hình ảnh chính là nhơ khả năng tạo
hình của ngôn ngữ thơ. Tất nhiên những bức tranh thơ đó đều chứa đựng cách
nhìn, tâm trạng và cảm xúc nhà thơ. Khả năng biểu hiện của ngôn ngữ thơ giúp
người đọc cảm nhận được những mặt này. Có điều, đối với thơ trữ tình, điều quan
trọng không phải là tái hiện hiện thực khách quan mà là bộc lộ thế giới chủ
quan của con người trước hiện thực khách quan đó. Do vậy, tính biểu hiện bao
giờ cũng được ưu tiên trong ngôn ngữ thơ.
Đến thơ văn xuôi, việc miêu tả, khắc họa hình
ảnh của sự vật hiện tượng nhiều khi cũng quan trọng không kém việc thổ lộ tình
cảm, cảm xúc. Điều này giúp cho hình ảnh của sự vật, hiện tượng trong thơ văn
xuôi trở nên rõ nét và sự tác động của hình ảnh đối với người đọc cũng mạnh mẽ
hơn.
Trong những sáng tác thơ văn
xuôi của Mai Văn Phấn, chúng tôi nhận thấy nhà
thơ sử dụng dày đặc hình ảnh, các hình ảnh được
nhà thơ sử dụng một cách tự do, thoải mái, tạo ra được một giọng thơ độc
đáo, góp phần thể hiện những ý tưởng, chiêm nghiệm, cũng như bộc lộ được quan niệm thẩm mỹ mới mẻ. Tác
giả đã có nhiều dụng công trong việc tạo ra được những hình ảnh
mới
lạ, những liên tưởng, so sánh đầy bất ngờ:
“Mình đã ngủ sâu hai chiếc
chai đóng kín
hai que diêm chen lấn giữa bao diêm
hai bức tranh lồng vào khung tranh
hai kỷ vật cất trong rương tối
hai chiếc đinh đóng ngập trên tường” (“Hình đám cỏ”)
Hay:
“Chiếc áo vừa giặt nhàu nhĩ, nước lặng lẽ bốc hơi tôi đâu có biết. Rồi những sợi vải mỏng manh lại phẳng phiu dưới bàn là nóng bỏng. Giặt - là,
giặt - là... Đời sống đôi khi giống quả lắc chiếc đồng hồ quá cũ. Tôi tập nghĩ vẩn vơ để có thể nghĩ tiếp” (“Anh tôi”)
Có thể nói, khả năng sử dụng những hình ảnh liên tưởng, so sánh táo
bạo là một trong những thế mạnh của Mai Văn Phấn. Chính nó đã tạo nên sự cuốn hút, sự độc đáo trong những tác phẩm của ông. Nhà thơ bằng một loạt
những hình ảnh được sử dụng với tần suất cao, khiến cho người đọc phải huy động tư duy và liên tưởng tích cực trong quá trình tiếp nhận các ý tưởng thơ. Thơ Mai Văn Phấn ở tất cả các giai đoạn đều tận dụng khai thác tối đa ưu thế
của
các hình ảnh được
bộc lộ cảm xúc và ý tưởng thẩm mỹ. Ở
phương diện này,
Mai Văn Phấn và Nguyễn Quang Thiều mặc dù có sự tương đồng ở việc sử
dụng các hình ảnh với tần suất cao, nhưng cũng có sự khác biệt khá cơ bản. Nguyễn Quang Thiều thường sử dụng các hình ảnh hừng hực mạnh mẽ, và thường đẩy chúng tới tận cùng giới hạn của chính nó “Con nhện cỏ giật mình
chạy hút cuối đường tơ” hoặc cũng có thể là những hình ảnh thể hiện sự đổ
vỡ, chia cắt... nhà thơ buộc sự vật phải nói đến cái mạnh mẽ nhất của đời sống tự nhiên.
“Sông đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi” (“Sông đáy”)
Nguyễn Quang Thiều thường phát huy hiệu quả thẩm mỹ của
các hình ảnh đối lập, tương phản. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, sự
trần tục luôn được đặt cạnh sự linh thiêng, cái bình thường luôn được đặt cạnh cái phi thường... chúng vừa đối lập nhau, vừa dung hòa nhau. Tả người đàn bà gánh nước sông, nhà
thơ
viết:
“Một tay họ bám vào đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bấu vào mây trắng” (“Người đàn bà gánh nước
sông”)
Sự tương phản ấy làm nổi bật vẻ đẹp vừa yếu đuối, giản dị, lãng mạn. Hình ảnh ấy chất chứa cảm hứng nhân văn sâu sắc của nhà thơ.
Cũng như cách thể hiện tình yêu không phô trương, gân guốc nhưng lại nhẹ nhàng,
thắm thiết và đầy ý nghĩ của Mai Văn Phấn trong bài “Viết cho cây sáo”: “Vũ trụ
lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn
đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi” tác giả mượn hình ảnh biểu tượng “bên lở - bên bồi” một sự đối lập gần
như không hề dung hòa nhau, nhưng ở đây “bên
lở” gần như cảm thấy hạnh phúc và hoàn toàn tự nguyện khi “biết mình còn đó, để ban mai thúc dậy gặp
bên bồi” để dành sự bồi đắp cho “bên
bồi” các từ ngữ “dịu mềm”, “ban mai”
tạo nên một không gian bình yên và tĩnh lặng ở đó chỉ có tình yêu và sự hi
sinh, tấm lòng bao dung rộng lớn khi sự sống của mình chính là niềm tin, sức
mạnh và động lực cho một sự sống khác. Thật sự khi yêu nhau người ta dường như
không còn sống vị kỉ cho riêng bản thân mình nữa, mà lúc nào họ cũng gắn kết sự
sống của mình với một sự sống khác, đan dệt nên những cung bậc yêu thương đa
màu sắc cho cuộc đời.
Bên cạnh đó, hình tượng của thơ văn xuôi còn thể hiện
tính đa nghĩa của nó ở chỗ có khả năng tạo ra những nhận thức, cảm nhận và liên
tưởng khác nhau ở mỗi người. Hình tượng văn học nói chung, hình tượng thơ nói
riêng càng được miêu tả cụ thể thì càng ít gợi liên tưởng. Do đó, so với ngôn
ngữ thơ cách luật thì ngôn ngữ thơ văn xuôi có sự gia tăng về khả năng tạo hình
nhưng phần nào hạn chế về khả năng biểu hiện. Hệ quả là hình tượng, cảm xúc
trong thơ văn xuôi tuy phong phú, đa dạng và không dễ nắm bắt như cách miêu tả “Những người đàn bà gánh nước sông”
trong thơ Nguyễn Quang Thiều như: “Những
ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái” qua việc
so sánh hình ảnh những người đàn bà với những con gà mái chúng ta thấy ở đây
hoàn toàn khập khiễng nhưng đều này không có nghĩa là nó không có lí. Cuộc sống
mưu sinh đã đè nặng lên đôi vai của những người phụ nữ, lao động vất vã làm
xuất hiện những dị tật nhưng đó không chỉ là dị tật ở bên ngoài mà xa hơn đó
còn là một vết sẹo thẳm sâu trong tâm hồn khi họ phải gồng gánh trên vai cuộc sống
ngàn đời vất vã. Nhưng không dừng lại ở đó khi tác giả còn nhấn mạnh: “Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống
bến/ Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ” như báo
hiện một vòng tuần hoàn sẽ được lập lại và những cô gái kia cũng phải đến lúc
thấy những dị tật ngay trong người mình “Những
ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái” . Hình
ảnh này càng làm người đọc không khỏi đau đáu khôn nguôi trước bao phận người,
bao cuộc đời với trăm ngàn ngã rẽ khác nhau. Cùng viết về hình tượng người phụ
nữ nhưng Mai Văn Phấn lại khắc họa nỗi đau của họ ở một khía cạnh khác, đó
chính là hình ảnh của những giọt “nước
mắt”:
“Nước mắt những người
đàn bà góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có bao nhiêu hòn Vọng-Phu.
Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày tàn héo xuân xanh, rồi
bay về trời tụ thành mây hồng hoang” (“Nước mắt”)
Không gân guốc, không mãnh liệt mà rất nhẹ nhàng nhưng
lại làm cho người đọc xót xa khi nước mắt có thể làm nên những “hòn Vọng – Phu” nếu chúng được đông
thành tinh thể. Đây có thể được xem là một trong những thành công tiêu biểu của
hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong việc tạo dựng hình ảnh và
biểu hiện những hình ảnh ấy với phong cách riêng độc đáo của mình. Cùng xây
dựng hình tượng về người phụ nữ, nhưng với cách nhìn cách cảm khác nhau mỗi tác
giả lại mang đến cho người đọc một cảm nhận khác nhau về thân phận của người
phụ nữ nhưng tụ chung lại đích đến cuối cùng vẫn là sự đồng cảm dành cho những
thân phận “ba chìm bảy nổi” trong xã
hội từ ngàn đời nay.
Đối với Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn việc sử dụng hình ảnh trong thơ cũng được coi như là một phương tiện truyền tải những ý tưởng, những cảm hứng nhân văn
của
mình. Tuy nhiên, trong việc xây dựng và sử dụng hình ảnh trong thế giới thơ mình Mai Văn Phấn thường có xu hướng vươn tới một thế giới trầm lắng, dịu dàng và thanh bình khác với thơ Nguyễn Quang Thiều hình ảnh được
thể hiện như một sự bức phá mạnh mẽ và dữ dội. Song, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
và Mai Văn Phấn cùng chất chồng hình ảnh nhưng đó thường là những hình ảnh vừa hiện đại vừa mang âm hưởng bản sắc riêng của dân
tộc,
thể hiện một tâm hồn thi sĩ nặng tình với cội nguồn, với quê hương, đất nước. Như vậy có thể
dễ dàng nhận thấy hệ thống hình ảnh trong thơ văn xuôi của hai nhà thơ này đều thể hiện
quan niệm hướng thơ tới một giá trị thuần khiết, gần gũi với đời
sống, tâm thức người Việt, mang âm hưởng riêng của thơ Việt đương đại.
3.2.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí
Chất triết lí trong thơ
là vấn đề thiên về nội dung, tư tưởng. Đó có thể là những suy ngẫm, chiêm
nghiệm, lí giải, thậm chí là những phát hiện của tác giả về cuộc sống, về con
người mà tác giả muốn gửi gắm đến độc giả thông qua bài thơ. Ở thể loại thơ văn
xuôi, tính triết lí có những biểu hiện khá rõ nét vì thơ không còn giọng điệu
êm ái, du dương, mượt mà với những dòng cảm xúc êm đềm. Thay vào đó là một dòng
cảm xúc đa dạng, nhiều khi dữ dội, lắm thác ghềnh. Thơ chứa đựng nhiều suy tư,
trăn trở, nhiều lí sự với các lập luận, biện minh, giải bày, tranh luận để thể
hiện một chiều sâu triết lí nhân sinh:
“Những con kiến chữ khổng lồ bu lấy tôi, ngang nhiên đi
lại qua những lỗ hổng cơ thể. Rối loạn, chồng chất, đè nặng... khiến tôi nhận
thức loài kiến cũng là lũ giết người. Phải tìm cách đuổi chúng đi hay xếp thành
hàng lối. Giờ chỉ còn ngữ nghĩa mới điều khiển được, nhưng mọi khái niệm đã bị
lu mờ. Tôi thử phát âm từ “đen” để gọi lũ kiến đen. Lập tức các
loài kiến đủ sắc màu tụ lại, làm nên nghĩa của từ “bu đen”.
Người ta nói, dòng sông kia đã được tiệt trùng. Tôi thận
trọng tắm rửa bằng những hương liệu quý. Lội xuống, nước đến đâu cơ thể tôi bầm
đen đến đó, rồi mọc ra những sợi lông vũ. Thế là nửa người trong nước hóa thành
chim. Nhưng tiếng hót phải thoát qua vòm họng và lưỡi. Từ đấy, miệng tôi luôn
chống lại quán tính của phần bầm đen trong nước đã ngập chìm” (“Di chứng” – Mai Văn Phấn)
Con người như cố vẫy vùng ra khỏi “phần bầm đen” đã “ngập chìm” như cố vương lên giữa một đời sống khắc nghiệt mà có
thể nhấn chìm con người bất cứ lúc nào nếu họ không vận động cho kịp với sự
phát triển của thời đại khi mà “mọi khái
niệm đã bị lưu mờ”. Ở đó còn bao hàm những phát hiện bất ngờ, thú vị về
triết lí đời sống như bài “Hồi tưởng”
của tác giả Nguyễn Quang Thiều:
“Có một
người mù ngày ngày vẫn đi qua thành phố
Dừng lại nói
cho chúng ta về những con đường”
Hay “Tất
cả những con người ở ngoài cửa hiệu này mới thực sự là ma-nơ-canh” (“Thư gửi những ma-nơ-canh trong một hiệu áo
cưới ở Hà Đông” – Nguyễn Quang Thiều)
Ở hai câu thơ trên, chúng ta có thể thấy
chính sự ngịch lí tưởng chừng như phi lí lại mang đến một hiện thực hết sức bất
ngờ và đầy thú vị, người mù thì làm sao có thể chỉ đường cho người sáng, nhưng
xét lại nó vẫn có yếu tố hợp lí vì không phải tất cả người mù đều không ra
đường (vì không thấy), họ vẫn đi ra phố trên những con đường của tâm tưởng và
của cảm giác. Tương tự vậy, những con người thực đang chuyển động bên ngoài kia
thì có lẽ nào lại là những ma-nơ-canh, nhưng ở đây, họ “những con người ngoài cửa hiệu” thật sự là ma-nơ-canh bởi vì họ
luôn ngụy tạo cho mình một gương mặt hoàn hảo khi ra đường, họ luôn đóng khung
mình vào những khuôn mẫu của đời sống tầm thường mà nói như Mai Văn Phấn thì
“Đích
đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao
một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng” (“Đến trong ý nghĩ”)
Bên cạnh triết lí nhân sinh, trong thơ văn
xuôi ta còn bắt gặp một triết lí mang màu sắc tôn giáo, đó là qui luật nhân-quả
của con người trong kiếp vô thường:
“Và như
thế, cội nguồn trong gang tấc, lúc quay về là đi hết đời mình, hay chờ
luân hồi trở lại kiếp sau.
Những linh
hồn kia chưa kịp đầu thai, đang ngưng lại nơi không gian thờ phụng, bay lửng
lơ rồi nấp vào bái vật giáo bất động” (“Bức ảnh, trái cây và giấc mơ” – Mai Văn
Phấn)
“kiếp” là một khái niệm của đạo phật nói về
sự luân hồi, mà qui luật chi phối nó là luật nhân-quả, tức là kiếp trước gieo
nhân nào kiếp sau sẽ nhận được quả ấy. Đó là sự báo ứng cho những việc mình đã
làm trong quá khứ. Sự nghi ngờ của tác giả “lúc
quay về là đi hết đời mình, hay chờ luân hồi trở lại kiếp sau” là hoàn
toàn có lí vì dường như con người của thời đại ngày nay ít có niềm tin vào cái
thiện, họ sống như vô cảm hơn, lạnh lùng hơn và chính điều này dường như làm
cho con người trở nến khép kín và e dè hơn:
“Sự e dè
thường được bọc kín thành nhân trong hạt. Dẫu mang nhiều hứa hẹn mùa
xanh, những hiệu quả bội thu tiếp nối, nó vẫn không tự thoát ra khỏi lớp
vỏ dày” (“Giải
pháp” – Mai Văn Phấn)
Hay đó là sự tự ý thức của Nguyễn Quang Thiều
về hiện thực cuộc sống trong bài “Với
chiếc xe một bánh”:
“Tôi đã chết
một cái chết khoảnh khắc
Trong tuyệt
vọng cuối cùng, hi vọng đầu tiên”
“cái chết
khoảnh khắc” không phải là cái chết kết thúc tất cả, mà
chính là cái chết để bắt đầu lại, để con người thêm tin yêu vào cuộc sống, cái
chết ấy chỉ là tạm thời cho những “tuyệt
vọng cuối cùng”, để những tuyệt vọng, khổ đau, mất mát… ở lại với quá khứ,
để chúng “chết” đi và đã đến lúc con
người cần bắt đầu lại để sống bằng niềm “hi
vọng đầu tiên”. Nhưng không phải lúc nào con người cũng đều nhận ra đều
này, nhận ra đôi lúc chúng ta cần có một “cái
chết khoảnh khắc” để có thể biết mình cần thêm hi vọng để sống, rằng cuộc
đời này sự sống mới quí giá biết bao. Họ tự giết đi sự sống của mình dần dần mà
không hề có sự hồi sinh qua những đố kị, đua chen, nghi ngờ đến ám ảnh:
“Nhưng đời
tôi phải chăng đã gặp những lọc lừa
Nên tôi sợ
và tôi nghi ngờ
…
Sự nghi ngờ
đã lây lan, sự căm thù đã lây lan
Nhưng mãi
mãi tấm mạng nhện kia không có mưu mô độc ác gì”
(“Ám
ảnh” – Nguyễn Quang Thiều)
Thậm chí, chỉ một tấm mạng nhện giăng mỏng
manh ngoài của sổ “mỏng như hơi thở con tôi phả vào mặt kính” cũng làm con
người nghi ngờ về mức độ sẽ ảnh hưởng của nó sẽ gây hại đến mình. Thử hỏi, con
người làm sao có thể sống an nhiên, vui vẻ, lấy gì làm điểm tựa để tiếp tục
sống giữa cuộc đời luôn tất bật này, khi mà họ không ngừng tạo cho mình những
bức tường vô hình vị kỉ, cá nhân.
Từ cách thức sử dụng
ngôn ngữ giàu tính triết lí, suy tưởng của thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều và Mai Văn Phấn chúng ta có thể thấy thơ văn xuôi của hai tác giả
này ngày càng tiếp cận với đời thường và ứng với nó là việc sử dụng hệ thống
ngôn ngữ mang một hàm nghĩa riêng gần với ngôn ngữ văn xuôi. Bên cạnh đó, thơ
văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng và thơ
văn xuôi Việt Nam nói chung cũng không ngừng kiếm tìm, thể nghiệm những nội
dung mới, những cách cảm nhận mới trong cuộc sống đương đại, ứng với nó là việc
sử dụng những lớp từ ngữ, những tổ hợp ngôn ngữ có khả năng tạo ra những ý
nghĩa rất riêng, mang chiều sâu triết lí sâu sắc.
3.3. Nhạc điệu
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” nhạc điệu là
“cấu tạo ngữ âm của lời văn nghệ thuật
hình thành bởi vật liệu âm thanh của ngôn từ thể hiện đặc sắc của văn học”
[29; 224]. Mà yếu tố hình thái cấu tạo nên nhạc điệu là các phép điệp âm, điệp
vần phối hợp bằng nhiều hình thức đa dạng như luật bằng, trắc, niêm, đối, vần,
nhịp điệu cùng với các yếu tố tượng thanh, ngữ điệu. Đặc biệt là “cái làm nên cái hồn của nhạc điệu là sự
liên tưởng của tổ chức âm thanh với cảm giác âm nhạc trong lòng người” [29;
225] Sự liên tưởng này không phải bao giờ cũng cụ thể, trực tiếp nhưng bao giờ
cũng có một mối liên hệ nhất định giữa âm hưởng, nhịp điệu với điệu tâm hồn. Từ
đó, có thể thấy nhạc điệu là yếu tố không thể thiếu của ngôn ngữ thơ và trong
thực tế sáng tác, hầu như mọi tác giả thơ đều chú trọng điều này. Vì chỉ có nhờ
vào nhạc điệu được tạo ra ở ngôn ngữ mà người đọc thơ cảm nhận được cái nhịp
nhàng, bay bổng, cái réo rắt ngân vang trong mỗi câu thơ, bài thơ. Những qui
tắc cách luật trong thơ như ngắt nhịp, phối thanh, hiệp vần, niêm, đối...trong
các thể thơ Đường luật, lục bát, xét cho cùng cũng không ngoài mục đích tạo ra
nhạc điệu trong thơ. Trong thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và
Mai Văn Phấn tính nhạc có những biểu hiện khá phong phú và được tạo dựng bằng
những cách thức riêng.
Nếu như thơ trung đại,
nhất là thể Đường luật thất ngôn bát cú, sử dụng năm yếu tố để tạo nhạc điệu
trong thơ là nhịp điệu, thanh điệu, vần điệu, niêm và đối. Trong đó, ba yếu tố
đầu thuộc về ngôn ngữ, hai yếu tố sau thuộc về cấu trúc văn bản thơ. Thơ văn
xuôi tuy đã phá vỡ mọi trật tự cấu trúc thơ cách luật và làm thay đổi diện mạo
văn bản thơ nhưng vẫn tôn trọng các yếu tố thuộc về ngôn ngữ. Chỉ khác ở chỗ là
nó không ràng buộc các yếu tố đó vào một qui tắc nhất định. Thơ văn xuôi coi
trong nhịp điệu vì nếu không có nhịp điệu, nó dễ biến thành văn xuôi. Nhưng
nhịp điệu thơ văn xuôi không phải là những cấu trúc cố định theo mô hình chẳn,
lẻ, thơ văn xuôi vẫn coi việc phối thanh là cần thiết để tạo sự hài hòa nhưng
không tuân theo luật bằng – trắc, thơ cũng có thể bắt vần nhưng không coi đó là
tiêu chí để phân biệt, đánh giá. Tóm lại, trong năm yếu tố góp phần tạo ra nhạc
điệu nói trên, thơ văn xuôi giữ lại cho mình hai yếu tố then chốt nhất là nhịp điệu và thanh điệu. Nhạc điệu
trong thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn chủ yếu
được tạo ra từ hai yếu tố này, trong đó, yếu tố nhịp điệu đóng vai trò chủ đạo.
3.3.1. Thanh điệu
Tiếng Việt là ngôn ngữ
có thanh điệu. Hệ thống ngôn ngữ trong tiếng Việt gồm sáu thanh chia thành hai
nhóm bằng và trắc, thanh bằng gồm thanh huyền và thanh ngang (hay còn gọi là
thanh không – không thể hiện bằng kí hiệu trên âm tiết), thanh trắc gồm các
thanh sắc, hỏi, ngã, nặng. Việc tổ chức, sắp xếp các âm tiết mang thanh điệu
đứng gần nhau gọi là phối thanh. Trong thơ cách luật, mỗi thể thơ đều định ra
một quy tắc phối thanh nhất định. Riêng trong thơ tự do và thơ văn xuôi, việc
phối thanh không theo quy tắc nhất định mà được coi là hoạt động “tự giác” của mỗi nhà thơ.
Trong thực tiển sáng tạo
thơ ca, phối thanh không chỉ mang lại sự hài hòa trầm bổng cho một tổ hợp ngôn
ngữ về mặt hình thức mà còn hướng đến mục đích cao hơn là thông qua hình thức
để biểu hiện một nội dung nào đó trong tư tưởng, tình cảm của tác giả. Những
câu thơ được coi là tài hoa trong nền thơ Việt Nam của các tác giả thơ Tản Đà (“Tài cao phận thấp chí khí uất/ Giang hồ mê
chơi quên quê hương”), Bích Khuê (“Ô
hay! Buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”), Xuân
Diệu (“Sương nương theo trăng ngừng lưng
trời/ Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”), Tố Hữu (“Em ơi! Ba Lan mùa tuyết tan/ Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”)
hay Quang Dũng (“Ngàn thước lên cao ngàn
thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”)… đều có dấu ấn của nghệ thuật
phối thanh, phối âm. Ngay cả trong văn xuôi, Nguyễn Tuân cũng phải dụng công
lắm mới viết lên hai câu văn được nhiều người xếp vào hàng “tuyệt bút” trong văn xuôi: “Mặt
sông xuất hiện những cái hút nước xoáy tít đáy” và “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái hay của chúng không chỉ ở nội
dung miêu tả mà còn ở việc chúng được đặt đúng chỗ. Câu đầu với rất nhiều thanh
trắc mở đầu cho đoạn văn miêu tả về con sông Đà “hung bạo, hiểm ác”, câu còn lại toàn thanh bằng mở đầu cho phần
khắc họa con sông Đà “trữ tình, thơ mộng”
như “một nỗi niềm cổ tích”… Những ví
dụ trên đây, đều cho thấy phối thanh là cả một nghệ thuật mà không phải bất kì
nhà thơ, nhà văn nào cũng có thể đạt đến.
Thơ văn xuôi không buộc
mình vào các khuôn hình bằng – trắc cố định là một điểm thuận lợi để người viết
thể hiện năng lực ngôn ngữ và sự nhạy cảm riêng của mình. Mai Văn Phấn chọn các
thanh bằng làm chủ đạo, tạo nên những cung trầm nhẹ nhàng, êm ái về một hạnh
phúc đời thường bình dị trong bài: “Em
cho con bú”
“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến
đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời
xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như
được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát,
chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn
phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời
gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ
thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh...
Nghe đâu đây có tiếng thạch sùng điểm nhịp, hay những
giọt nước xa xưa đang rơi vào vại nước nhà mình” (Mai Văn Phấn)
Với Nguyễn Quang Thiều
lại chọn những thanh trắc làm chủ âm, tạo nên một khúc trầm buồn, sâu lắng, đau
đáo một nỗi niềm trăn trở về thân phận của những người phụ nữ bất hạnh, làm cho
người đọc không khỏi thổn thức, bâng khuâng trong bài “Những ví dụ”:
“Thời gian cứ lặng lẽ chảy vào chiếc bình gốm cổ khổng
lồ. Những người đàn bà góa bụa làng tôi như những con cào cào áo nâu khuất dần
sau cỏ. Từ chân trời xa chạy về những ngọn gió loang lổ màu đỏ. Những ngón tay
của gió như điên cuồng, như kiệt sức bới rối tung từng đám lá cỏ gai. Tôi đứng
trên con đường cuối làng khóc run lên như đứa trẻ mất mẹ. Tôi làm sao lật hết
từng lá cỏ trên đất đai rộng lớn nhường kia, để tìm lại những người đàn bà góa
bụa…
Những người đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai,
trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất vả. Họ mộng du
qua những cơn gió hồng hoang nổi lên lúc mặt trời lăn vòng cuối cùng vào bóng
tối. Họ mộng du trong những cơn mưa tiền sử lúc bình minh vừa vực dậy sau một
cơn sốt đêm. Và tôi như kẻ mắc bệnh tâm thần đứng đếm họ. Tôi đếm từng ví dụ”
Đến đây chúng ta có thể
thấy rằng, nghệ thuật phối thanh không chỉ đơn giản là tạo ra những kết cấu âm
thanh bên ngoài của ngôn ngữ nhằm tạo ra nhạc điệu trong thơ, nó còn nhằm biểu
hiện những trạng thái cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật trữ tình, của chính tác
giả. Mai Văn Phấn với bài thơ “Bừng tỉnh
trên tàu” có thể nói đều đã thể hiện được hai phương diện này:
“Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng
gần bậc cửa. Chị vội vã lắc đầu và cảm ơn chiếu lệ. Về ghế của mình, tôi lơ
đãng nhìn qua cửa sổ con tàu và ngủ thiu thiu.
Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến
những nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.
Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh
giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia
liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.
Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái
ga ấy không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi
vừa nãy!”
Bài thơ có 9 câu thì đã
có đến 5 câu kết thúc bằng thanh trắc. Một mật độ hơi dày khiến câu thơ có phần
trúc trắc. Nhưng chính cái trúc trắc đó lại có giá trị trong việc biểu hiện một
tâm hồn, một cuộc đời nhọc nhằn, cơ cực và sự hoang mang lo sợ đến cực độ của
nhân vật trữ tình trước những phận người nhỏ nhoi.
Từ những ví dụ trên về
vai trò và chức năng của thanh điệu trong thơ văn xuôi chúng ta có thể nhận
định rằng, thanh điệu là một yếu tố tạo ra tính nhạc trong thơ văn xuôi nhưng
việc phối thanh là tùy thuộc vào cá nhân, cảm hứng chủ đạo của tác giả chứ
không hề phụ thuộc vào các mô hình sẵn có như trong thơ cách luật. Bên cạnh đó,
thanh điệu trong thơ văn xuôi còn là một yếu tố góp phần tạo nên ý nghĩa về nội
dung, nghệ thuật phối thanh còn có tác dụng giúp cho nhà thơ bộc lộ một khía
cạnh nào đó trong tư tưởng và tình cảm của mình. Như vậy, chúng ta thấy rằng,
thanh điệu là một yếu tố hình thức của ngôn ngữ nhưng nó có chức năng của một
siêu ngôn ngữ trong việc biểu hiện nội dung tác phẩm văn học nói chung và thơ
văn xuôi nói riêng.
3.3.2. Nhịp điệu
Trên cơ sở khảo sát nhịp
điệu dựa trên cứ liệu thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai
Văn Phấn, chúng ta có thể nhận thấy nó thể hiện chủ yếu trên hai mặt ngôn ngữ
và cảm xúc. Hai mặt này thường xuyên có sự tác động chuyển hóa lẫn nhau khiến
cho nhịp điệu trong tác phẩm thơ văn xuôi có những biểu hiện hết sức phong phú.
Có thể thấy, hai đặc điểm nhịp điệu được thể hiện rõ nét nhất trong thơ văn
xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn là nhịp ý và nhịp lời.
Tất cả các cấp độ trong
cấu trúc của một tác phẩm văn học đều có thể có những yếu tố lập lại, luân
phiên tạo thành nhịp điệu nghệ thuật, do đó có thể tạm nhận diện nhịp điệu trên
hai phương diện: nhịp lời và nhịp ý. Nhịp lời được tạo nên chủ yếu từ cách phối
vần, phối thanh, ngắt nhịp. Nhịp ý được tạo nên chủ yếu bằng nhịp điệu cảm xúc
là nhịp điệu bên trong, không nhìn thấy được mà chỉ cảm nhận qua những biểu
hiện tình cảm của nó.
Nhịp lời của ngôn ngữ là
nhịp điệu được thể hiện ở sự ngắt quãng về mặt ngữ âm, cú pháp ở sự ngừng nghĩ
giữa các âm tiết khi đọc. Dấu hiệu nhận biết của nó là dựa trên hình thức dấu
chấm câu, sự phân chia dòng thơ hay cụ thể hơn nữa là những quy tắc định sẵn.
Đây là cách ngắt nhịp được sử dụng phổ biến trong các thể thơ cách luật và thơ
tự do. Sự khác biệt về đơn vị nhịp điệu gắn liền với sự khác biệt trong cách
thức tạo dựng đơn vị nhịp điệu cơ sở đó. Trong thơ tự do và thơ cách luật, nhịp
điệu “được tạo ra do sự phân chia dòng
ngôn từ tác phẩm thành những ngữ đoạn vốn không trùng hợp với sự phân chia dòng
ngôn từ theo qui tắc cú pháp” [12; 314] mà tùy thuộc vào nhịp đi của cảm
xúc và hình tượng, trong đó có hình tượng âm thanh, do đó lệ thuộc rất nhiều
vào vần, ngữ điệu.
Tương tự như trên, nhịp
ngắt của các thể thơ Đường luật theo nguyên tắc chẳn trước lẻ sau (2/3, 2/2/3
hoặc 4/3), đối với cặp câu thất trong thể song thất lục bát thì ngược lại, lẻ
trước chẳn sau. Nhịp thơ lục bát có phần phong phú hơn nhưng phổ biến nhất vẫn
là nhịp chẳn (2/2/2, 4/4, 2/2/4, 4/2/2...) còn nhịp lẻ (3/3) nhìn chung xuất
hiện với tần số thấp. Cũng như vậy, các thể thơ từ bốn đến tám tiếng trong
phong trào Thơ mới cơ bản cũng được chia cách ngắt nhịp theo đơn vị chẵn lẻ.
Nhìn chung dù là thể thơ nào thì cách ngắt nhịp chia theo đơn vị ngôn ngữ cũng
ít tạo ra những biến động. Thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và
Mai Văn Phấn thường không tuân thủ cách ngắt theo đơn vị chẳn lẻ này vì thơ gần
giống với hình thức văn xuôi và lời thơ tự nhiên mang đậm những suy tư, trăn
trở như những tâm sự thường nhật của cuộc sống thông qua việc miêu tả, kể hơn
là biểu hiện những cảm xúc, rung động từ tâm hồn. Đặc điểm này được thể hiện đa
phần những sáng tác của hai nhà thơ này như: “Chuyển động” (Nguyễn Quang Thiều), “Lúc mặt trời mọc” (Mai Văn Phấn), “Một màu đen” (Nguyễn Quang Thiều), “Nhân chứng của một cái chết” (Nguyễn Quang Thiều), “Nước mắt” (Mai Văn Phấn), “Bừng tỉnh trên tàu” (Mai Văn Phấn)... Ví
dụ như:
“Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng
gần bậc cửa. Chị vội vã lắc đầu và cảm ơn chiếu lệ. Về ghế của mình, tôi lơ
đãng nhìn qua cửa sổ con tàu và ngủ thiu thiu.
Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến
những nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.
Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh
giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia
liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.
Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái
ga ấy không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi
vừa nãy!” (“Bừng tỉnh trên tàu” – Mai Văn Phấn)
Có thể thấy, dù không
tuân theo một khuôn nhịp cố định, song nhịp điệu bài thơ vẫn có sự luân phiên
chẵn lẻ một cách tự nhiên, tạo nên một nhịp điệu gần giống với thơ nhưng không
đều đều như cách kể, cách tả trong văn xuôi. Đây cũng chính là một đặc điểm để
phân biệt thơ và thơ văn xuôi, cũng như thơ văn xuôi và văn xuôi.
Hay như cách trùng điệp
lời thơ trong tác phẩm “Bài học” của
Mai Văn Phấn cũng thể hiện rõ hiện tượng trùng điệp này:
“Đạo mạo
phát biểu chung chung
Đạo mạo
nghiêng mình trống rỗng
Đạo mạo lấy
trộm áo mưa
Đạo mạo thở
mùi hôi vào miệng người khác
Đạo mạo bọc
nhầm một chiếc răng sâu
Đạo mạo tiểu
tiện nơi công cộng
Đạo mạo xụt
xịt trong khăn mùi xoa”
Mai Văn Phấn đã thoải mái phô bày con người
thời đại với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực
giữa một thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Ở đó, con người hết
còn mơ mộng đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ, hết còn niềm tin vào tương
lai tươi sáng. Mỗi người là một thế giới kín bưng bít, âm u hơn, vô vọng hơn.
Nếu hình dung bài thơ là một bản nhạc không lời, thì chủ đề âm nhạc đã được hé
mở ngay từ giai điệu đầu tiên, một giai điệu khắc khoải, sâu lắng. Sau giai
điệu mở đầu, hình tượng âm nhạc đã phát triển mở rộng với những hình thức mới,
tiếp đó lại trở về với giai điệu chủ âm bằng việc lập lại một kiểu cú pháp.
Ngoài ra, hình thức nhịp lời của ngôn ngữ còn
được thể hiện qua một phương thức khác, đó là ngắt nhịp dựa vào sự ngăn cách
bằng các dấu chấm câu và hình thức phân dòng của câu thơ. Cách ngắt nhịp này
phần lớn được sử dụng trong thơ tự do. So với thơ văn xuôi, thơ tự do có nhiều
điểm tương đồng nhưng về mặt hình thức văn bản, thơ tự do vẫn sử dụng hình thức
phân dòng. Câu thơ tự do có độ dài ngắn khác nhau, mỗi câu thơ thường đặt trên
một dòng nhưng cũng có trường hợp nhà thơ tách một câu thơ thành nhiều dòng khác
nhau, lúc đó, nhịp điệu câu thơ thường trùng với đơn vị chữ trên mỗi dòng thơ.
Bài thơ “Ngọn đèn đứng gác” của Chính
Hữu là một ví dụ:
“Trên đường
ta đi đánh giặc
Ta về Nam
hay ta lên Bắc
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn
đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu...
.............
Đi nhanh đi
nhanh
Chiến trường
đã giục
Đầy núi đầy
sông
Đèn ta đã
mọc...”
Nếu ta xét đơn vị câu thơ theo cấu tạo ngữ
pháp thì rõ ràng mỗi dòng thơ không phải là một câu nhưng cách phân dòng đó đã
ngầm chỉ ra cơ chế ngắt nhịp cho người đọc, một cơ chế ngắt nhịp hết sức phóng
túng, lúc nhịp khoan thai, lúc thúc giục, gấp gáp. Nhạc điệu bài thơ cũng theo
đó mà có những trạng thái vừa sâu lắng da diết, vừa âm vang dồn dập như một
khúc quân hành.
Khác với thơ văn xuôi phần lớn không phân
dòng, nhịp ngắt câu thơ có lúc phải dựa vào các dấu chấm câu, dễ thấy nhất là ở
bài “Màu đen một” (Nguyễn Quang
Thiều)
“Đứa bé gái
rời cái làng trồng bắp cải ra đi trên lưng mẹ nó mười tám năm về trước. Trong
địu nó ngủ, thức, khóc, chảy dãi và đái ướt một vòm đen vĩ đại khốn khó, hay
rên khóc, nhưng không nguyền rủa. Ra đi như thiên thần qua bầu trời trắng. Đến
xứ sở trắng, nó khóc như thổ huyết trên tuyết. Màu đen vĩ đại của nó cắt bánh
mì đứt tay mở ra một cái miệng. Và cái miệng bé xíu chảy dãi đỏ thấm ướt ruột
bánh mì. Nó lớn lên trên tuyết và nẩy hai bầu vú. Hai bầu vú lấp lánh như hai
cây kim bọc trong vải tối màu”
Từ ví dụ trên chúng ta có thể thấy, với thơ
văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều, vai trò của nhịp ý càng được gia tăng. Trong
nhiều bài thơ, chất nhạc trên phương diện hình thức gần như bị xóa mờ. Sự tự do
hóa hình thức khiến cho thơ ông mất đi tính du dương, mềm mại, trở nên trúc
trắc, không xuôi tai. Nhạc không lấy làm điểm tựa chính ở bình diện ngữ âm mà
chủ yếu trông cậy vào sự phát triển trong hình tượng, cụ thể là từ sự láy đi
láy lại của các hình tượng kì ảo, các mô tip Kinh thánh, hoặc những biểu tượng
về sự rạn nứt, đổ vỡ của một thế giới. Kiểu nhịp điệu này được tác giả sử dụng
không phải chỉ với mục đích tạo nên chất nhạc của âm thanh mà chủ yếu để tạo nên
sự chồng chất, trùng điệp về hình ảnh. Nhìn nhận đời sống thông qua những đối
cực là một nét đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều.
Bên cạnh đó, ở một phương diện khác, cũng có
những bài thơ rất ít hoặc không sử dụng dấm chấm câu. Lúc đó nhịp điệu là dòng
thơ, bài thơ không đơn thuần chỉ nhận biết qua nhịp điệu ngôn ngữ mà còn qua
nhịp điệu cảm xúc hay đây chính là nhịp ý. Trong trường hợp này, Nguyễn Quang
Thiều đã thành công khi chuyển hóa lòng cảm thương tha thiết những “người đàn bà góa bụa” bằng “Những ví dụ” mong manh thành những lời
thơ hồn hậu:
“Những người
đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai, trên những con đường mòn như cột
sống dị tật của ngàn đời vất vả. Họ mộng du qua những cơn gió hồng hoang nổi
lên lúc mặt trời lăn vòng cuối cùng vào bóng tối. Họ mộng du trong những cơn
mưa tiền sử lúc bình minh vừa vực dậy sau một cơn sốt đêm. Và tôi như kẻ mắc
bệnh tâm thần đứng đếm họ. Tôi đếm từng ví dụ”
Hoặc Mai Văn Phấn với bài “Mail cho em” (bằng cách thể hiện tất cả
từ ngữ trong bài thơ đều là chữ in hoa) “Mười
bài tập mùa xuân” , “Những bông hoa mùa thu” (13/17 đoạn) ... xuyên suốt
những dòng thơ không bất kì một dấu chấm hay dấu hỏi nào.
“... vết bùn
vách liếp phiên chợ Tết cổ xưa gom hình ảnh đất ông bà từ sàn sân rêu lầy lội
con đường cổ lỗ chôn nông khuôn mặt hạn hán bới nhẹ ra đã bốn mươi năm ký ức
tối sẫm hút dài có vết bùn làm chiếc đó đơm ở miệng cống trôi qua thời gian làm
con tôm con cá lẫy vào biển chiều kinh động...” (“Mười bài tập mùa
xuân”)
Từ những ví dụ trên, chúng ta thấy rằng, ngôn
ngữ thơ là ngôn ngữ âm vang. Cái âm vang đó một mặt được tạo ra nhờ các yếu tố
âm và thanh của ngôn ngữ, mặt khác nó cũng được tạo ra bởi những rung động nội
tâm của nhà thơ. Rõ ràng nếu lấy dòng thơ làm đơn vị nhịp điệu cơ bản thì sau
mỗi chỗ gieo vần, tác giả hoàn toàn có quyền ngắt nhịp để xuống dòng. Nhưng thế
mạnh của thơ văn xuôi không phải ở từng câu, từng chữ đơn lẻ mà ở sự phối hợp
tổng thể các phương tiện tạo nhịp trong đoạn cho nên nhà thơ chỉ xuống dòng sau
khi đã tạo ra một triết đoạn về ý nghĩa. Nói cách khác, nếu như thơ tự do, thơ
cách luật nhiều khi nhờ vào vẻ đẹp của nhãn tự, thì thơ văn xuôi lại đòi hỏi
chúng ta tri giác văn bản theo mạch cảm xúc của nó.
Nếu như ở trên chúng tôi đã nhận định thơ văn
xuôi của Nguyễn Quang Thiều đã là một bước giải phóng đáng kể cho hình thức thơ
thì thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn còn là một cú huých mạnh hơn cho sự tự do hóa
hình thức thơ ca đó. Nhịp lời trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn hầu như khước
từ mọi phương tiện tạo nhịp của thơ truyền thống, cả vần lẫn mô hình đối xứng,
mô hình trùng điệp được sử dụng với một tần số vô cùng thấp. Hơn thế, lối viết
tự động phá tung những chuẩn mực ngữ pháp, triệt tiêu mọi dấu chấm phẩy khiến
nhịp điệu thơ anh trở nên bất định. Quan hệ giữa các từ, các câu, hình ảnh,
đoạn thơ bị khoét rỗng, tất cả được tung ra từ những mảnh, những mảng rời rạc,
những ý nghĩ không được sắp đặt.
Nhịp điệu ý cũng là một thứ nhịp điệu của cảm
xúc, là sự biểu hiện ra bên ngoài những rung động của hồn thơ. Sự phân biệt
nhịp điệu cảm xúc (nhịp ý) và nhịp điệu ngôn ngữ (nhịp lời) chính là ở chỗ nhịp
điệu ngôn ngữ thể hiện ngay trên cấu tạo vật chất của lớp vỏ âm thanh của ngôn
ngữ và ở các dấu hiệu hình thức của sự ngắt nhịp. Còn nhịp điệu cảm xúc là nhịp
điệu bên trong, không nhìn thấy được mà chỉ cảm nhận qua những biểu hiện tình
cảm của nó. Nhịp điệu cảm xúc có sự cộng hưởng của những rung cảm bên trong tâm
hồn nhà thơ với các thuộc tính của hệ thống ngôn ngữ mà nhà thơ sử dụng để cấu
tạo lời thơ.
Về cơ bản, điểm làm nên nét đặc trưng của
nhịp điệu thơ văn xuôi là ở đơn vị nhịp điệu cơ sở, sự tiêu giảm của nhịp lời
và sự gia tăng của nhịp ý, mối quan hệ giữa tính linh hoạt của nhịp điệu với
việc thể hiện nội dung. Cụ thể là nếu như thơ cách luật và thơ tự do lấy câu thơ,
đúng hơn là dòng thơ làm đơn vị cơ sở thì thơ văn xuôi lại lấy đoạn thơ làm đơn
vị nhịp điệu cơ sở. Nếu trong thơ cách luật, nhịp lời đóng vai trò chủ yếu
trong việc kiến tạo nhịp điệu, thì ở thơ văn xuôi, nhịp ý lại thu hút được sự
chú ý nhiều hơn của người sáng tác.
Tóm lại, xét trên phương diện nhịp điệu, thơ
văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng và thơ
văn xuôi Việt Nam nói chung đang đi theo xu hướng ngày càng rời xa những ràng
buộc của vần luật, hướng đến một lối viết tự do, tung phá. Sự ra đời của thể
thơ này chính là một hướng đi tích cực đáp ứng khát vọng tìm tòi đổi mới thơ
ca, trên cơ sở thoát ra những khuôn khổ sáo mòn của thơ cách luật, đồng thời
tiếp nhận những ảnh hưởng mạnh mẽ của nhịp điệu câu văn xuôi tiểu thuyết.
Tìm hiểu về đặc điểm thơ văn xuôi của hai nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nhằm góp phần đem đến một cách nhìn đầy
đủ hơn về thơ văn xuôi của hai nhà thơ này trên các phương diện nội dung và
hình thức thể hiện. Qua đó, chúng ta có một cái nhìn xác đáng hơn về vai trò,
vị trí cũng như những đóng góp của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn
Phấn trong tiến trình phát triển của thơ văn xuôi nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung.
1. Thập kỉ tám mươi của thế kỉ XX, là giai
đoạn chứng kiến nhiều đổi thay to lớn trong đời sống dân tộc, trong đó có văn
học nghệ thuật. Sự bùng phát mạnh mẽ của thể loại thơ văn xuôi đã góp phần làm
thay đổi diện mạo thơ ca dân tộc. So với các hình thức thơ khác (thơ cách luật
và thơ tự do) ở thời kì này hình thức thơ văn xuôi đã dần định hình và khẳng
định vị trí của mình trong dòng chảy văn học dân tộc. Nó được thể hiện trước
hết ở sự xuất hiện đông đảo một đội ngũ nhà thơ sáng tác thơ văn xuôi. Trong
đó, có những nhà thơ thuộc thế hệ chống Mĩ, chống Pháp, có thế hệ nhà thơ vừa
trưởng thành sau chiến tranh. Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn là hai nhà thơ
thuộc về thế hệ thứ ba, tức là trưởng thành sau chiến tranh với sự vỡ giọng mới
lạ thể hiện một cách nhìn, cách nghĩ mới mẽ bằng quá trình lao động miệt mài,
không ngừng khám phá để có những đóng góp đáng kể cho thể loại thơ văn xuôi.
2. Trên phương diện nội dung, thơ văn xuôi là
thể thơ có thế mạnh trong việc đi sâu, khám phá mọi mặt đời sống xã hội cũng
như những biểu hiện tinh tế nhất trong thế giới nội tâm của con người. Thơ văn
xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn cũng thể hiện thế mạnh
này khi đi vào khám phá những chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống, khát khao
tình yêu hạnh phúc và thể hiện cả đời sống tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc
của con người. Cùng với sự thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, sự phát
triển đô thị công nghiêp với những bất an trước cái nhìn đau đáu về tiếng kêu
cứu của những giá trị văn hóa truyền thống đang ngày càng mai một. Chính điều
này đã giúp cho thơ văn xuôi phản ánh hết nét tâm lí khá tiêu biểu của con
người hiện đại trong một xã hội hoàn toàn mới, đó là con người rất nhạy cảm và
dễ rung động trước mọi biến đổi của đời sống nhưng cũng luôn có khuynh hướng
nhìn nhận, đánh giá và triết lí về đời sống. Nhờ vậy cảm hứng thế sự và cảm
hứng chính luận được hình thành như là hai nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ văn
xuôi Việt Nam.
3. Trên phương diện hình thức nghệ thuật, thơ
văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn có sự phát triển về
dung lượng câu thơ, sự đa dạng về kết cấu văn bản…đây chính là một trong những
điều kiện thuận lợi giúp cho nhà thơ có thể diễn đạt dễ dàng và trôi chảy tư
tưởng, tình cảm của mình. Bên cạnh đó, thơ văn xuôi còn được thể hiện đặc sắc qua
việc dung nạp ngôn ngữ đời thường vào thơ và ngôn ngữ thơ mang tính chất tạo
hình và biểu hiện cao, cùng với việc thể hiện ngôn ngữ giàu tính triết lí nhằm
bộc lộ một cách tự nhiên nhất những lo âu, trăn trở của con người trước đời
sống thường nhật đầy phức tạp và đa diện, đa chiều. Nhạc điệu thơ văn xuôi từ
đó cũng được “giải phóng” khỏi những
mô hình định sẵn. Sự cân đối, hài hòa, âm điệu du dương, trầm bổng không còn là
tiêu chí để bình giá, nhận định về nhạc điệu. Mà thay vào đó là hơi thở của
thời đại, nhịp điệu của đời sống, sự rung động của cảm xúc, các sắc thái tình
cảm của tác giả…mới chính là yếu tố chủ yếu chi phối nhịp điệu và tạo ra nhạc
điệu trong thơ văn xuôi. Có thể nói, nhạc điệu trong thơ văn xuôi chính là
thước đo về nghệ thuật phối thanh, hòa âm cũng như độ căng của cảm xúc thẩm mĩ
ở mỗi nhà thơ.
Để hoàn thành khóa
luận này, chúng tôi đã làm việc bằng tất cả sự say mê của mình với một thái độ
hết sức nghiêm túc. Tuy nhiên, với nâng lực và lượng kiến thức hữu hạn, chắc
hẳn khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì thế chúng tôi tất
mong có được những đóng góp, những ý kiến chân thành từ quí thầy cô và các bạn
đọc nhằm giúp cho đề tài có thể hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hy
vọng rằng sẽ có nhiều hơn nữa những công trình nghiên cứu về thơ văn xuôi nói
riêng và văn học sau thời kì đổi mới nói chung. Cũng như những công trình tiếp
sau sẽ phát huy được những ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của khóa
luận này, nhằm đem lại kết quả cao nhất. Đồng thời cũng đem lại cách nhìn toàn
diện, sâu sắc hơn về văn học giai đoạn sau 1975 nói chung và thơ văn xuôi nói
riêng.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Nguyễn Việt Chiến
(2007), Thơ Việt Nam – Tìm tòi và cách tân (1975 – 2005), Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
2. Văn Chinh, Thơ Mai Văn Phấn – cuống nhau và chùm rễ, wedsite http://www.van.vn.net
3.Nguyễn Văn Dân, Thơ văn xuôi tiềm năng và triển vọng, trên wedsite http://www.huudat.vn.
4.Bùi Hải Đăng, Thơ văn xuôi đôi đều cảm nhận, đăng trên http://blog.tamtay.vn.
5.Phan Cự Đệ (2009), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo dục Việt
Nam.
6.Nguyễn Đăng Điệp (2012), Thơ Việt Nam hiện đại & Nguyễn Quang Thiều, Nxb
Hội nhà văn.
7.Nhiều tác giả (2010), Tuyển tập thơ Kể - thơ tân hình thức, Nxb Lao
động.
8.Nhiều tác giả (2006) Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1887-2000, tập II,
quyển 4, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
9.Đặng Huy Giang, Mai Văn Phấn “giấu mặt” trong “hoa”, wedsite http://www.van.vn.net
10. Đặng Hiển, Tình yêu cuộc sống trong thơ Nguyễn Quang Thiều, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
11. Nguyễn Văn Hoa, Mấy ý kiến nhỏ
về thơ văn xuôi Việt Nam, Tạp chí Sông Hương số 132, tháng 2.
12. Nguyễn Văn Hoa (1997), Tuyển tập
thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), Nxb Văn học.
13.
Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ – phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Phan Hoàng, Nguyễn Quang Thiều
mãi mãi là ẩn số, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
15. Hoàng Hưng, Thơ – văn xuôi của
ngày thường trong “Gửi VB”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội số
tháng 10.2007.
16. Trần Ngọc Hưởng (2006), Thơ và
nguồn thơ, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
17. Đình Kính (2011), Thơ Mai Văn
Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải
Phòng, 15/5/2011), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
18. Đông La, Sự mất ngủ của lửa hay
sự thao thức của một tâm hồn, tham luận tại tọa đàm thơ Việt Nam hiện đại
và Nguyễn Quang Thiều, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
19. Phong Lan, Nhà thơ Mai Văn Phấn
đã băng qua “sa mạc” các khuynh hướng, wedsite http://www.van.vn.net
20. Phương Lựu (Chủ biên) (2008), Lí
luận văn học, tập 1 (Văn học, nhà văn, bạn đọc), Nxb Đại học Sư phạm.
21. GS.Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Tinh
tuyển Văn học Việt Nam (tập 7, quyển 1), Nxb Khoa học Xã hội.
22. Dương Kiều Minh, Thơ văn xuôi và
nhu cầu tự thân của thời đại, wedsite http://vnca.cand.com.vn
23. Hoài Nam, Thơ văn xuôi và những
kết hợp nghệ thuật, đăng trên trang http://phongdiep.net.
24. Cao Năm, Nhà thơ Mai Văn Phấn
hiện thân của sự sáng tạo, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
25. Mai Văn Phấn, Hiện tượng thơ
Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
26. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời
phỏng vấn, Nxb Hội nhà văn.
27. Hoàng Phê (2009), Từ điển tiếng
Việt, Nxb Đà Nẵng.
28. Khánh Phương, Nguyễn Quang Thiều
và hành trình tới một quan niệm thẩm mĩ mới, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
29. Đặng Văn Sinh, Mai Văn Phấn tìm
về cội nguồn thi ca, wedsite http://trannhung.com
30. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn
Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.
31. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Lí
luận văn học tập 2, Nxb Giáo dục.
32. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
33. Nguyễn Trọng Tạo, Thơ văn xuôi
hay là thơ không vần, đăng trên http://nguyentrongtao.info
34. Hoài Thanh – Hoài Chân (2010), Thi
nhân Việt Nam, Nxb Thời Đại.
35. Nguyễn Quang Thiều (2010), Châu
thổ tuyển tập thơ, Nxb Hội nhà văn.
36. Hồ Tôn Trinh (2003), Tác phẩm
được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội.
37. Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Quang Thiều
kẻ khóc thương những ngôi làng, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
38. Lê Vũ, Châu thổ - cơm mê sảng
những ý nghĩa, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.