Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn (Khóa luận tốt nghiệp đại học) - Nguyễn Thị Thanh Nguyên

KHOA KHXH & NV



 

 

Nguyễn Thị Thanh Nguyên
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Chính

 

 

 

 

ĐẶC ĐIỂM THƠ VĂN XUÔI

CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN

 

 

 

 

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

ĐỒNG THÁP, NĂM 2013










 

 

 

 

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề

3. Mục tiêu nghiên cứu

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

4.2. Phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

6. Cấu trúc khóa luận

Chương 1. NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ

1.1. Một cái nhìn chung về nền thơ Việt Nam sau đổi mới

1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội

1.1.2. Nền thơ Việt Nam sau đổi mới

1.2. Đôi nét về thể thức thơ văn xuôi

1.2.1. Khái niệm thơ văn xuôi

1.2.2. Một số đặc điểm của thơ văn xuôi

1.2.3. Sự phát triển của thơ văn xuôi ở Việt Nam sau đổi mới

1.3. Thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ

1.3.1. Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong thơ ca Việt Nam sau đổi mới

1.3.2. Hành trình thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn

Chương 2. NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN

2.1. Cảm hứng thế sự

2.1.1. Chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống

2.1.2. Khát khao về tình yêu và hạnh phúc

2.1.3. Yếu tố tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc

2.2. Cảm hứng chính luận

2.2.1. Cuộc sống đô thị công nghiệp với những bất an

2.2.2. Tiếng kêu cứu cho những đổ vỡ của truyền thống văn hóa

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN

3.1. Kết cấu văn bản thơ

3.1.1. Kết cấu bên ngoài

3.1.2. Kết cấu bên trong

3.2. Ngôn ngữ thơ

3.2.1. Dung nạp ngôn ngữ đời thường

3.2.2. Tính tạo hình và tính biểu hiện trong ngôn ngữ thơ

3.2.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí

3.3. Nhạc điệu

3.3.1. Thanh điệu

3.3.2. Nhịp điệu

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 

 

 

 

MỞ ĐẦU

 

1. Lý do chọn đề tài

 

Văn học Việt Nam trong tiến trình vận động đã không ngừng phát triển và đổi mới từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Việc cho ra đời một hình thức nghệ thuật mới là một nhu cầu tất yếu. Nền văn học hiện đại có nhiều cách tân như thế về mặt hình thức lẫn nội dung. Chúng ta biết đến lục bát đương đại một thể thơ được cách tân rất nhiều từ lục bát truyền thống, thì thơ văn xuôi được xem là một biến thể mới về sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi. Cũng giống như lục bát đương đại, việc xuất hiện thể thức thơ văn xuôi là nhu cầu tự thân của thời đại, nó giống như sự xuất hiện những hình thái nghệ thuật khác trong dòng chảy của lịch sử phát triển nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng.

 

Tuy thơ văn xuôi ở Việt Nam xuất hiện muộn so với thế giới hơn một trăm năm và chỉ thực sự nở rộ trong những thập niên gần đây nhưng vẫn khẳng định vị thế và hướng phát triển của riêng mình trong dòng chảy Văn học Việt Nam. Sự xuất hiện thơ văn xuôi là một đặc trưng khá tiêu biểu của thơ hiện đại. Nó là sự cách tân điển hình về nghệ thuật, những cảm xúc, tư tưởng, những dòng suy tư, trăn trở của chủ thể trữ tình không còn bị gò bó hạn hẹp như các thể thơ truyền thống. Nghiên cứu về thơ văn xuôi, không chỉ để hiểu đặc trưng về phương diện cấu trúc thơ mà còn gợi mở nhiều vấn đề về hình thức thơ và thời đại.

 

Trong số ít những tác giả thành công khi viết về thơ văn xuôi, bên cạnh những nhà thơ như Chế Lan Viên, Thanh Thảo,… Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn được xem là hai cây bút có những cống hiến đáng kể về nội dung và nghệ thuật góp phần định hình và phát triển vị thế của thơ văn xuôi trong nền văn học đương đại. Thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn, mang đậm hơi thở của thời đại, sắc thái đời thường, phản ánh triết lí lẫn những suy tư trước cuộc sống mới muôn màu muôn vẻ. Nội dung được chuyển tải qua ngôn ngữ bình dị, đậm chất đời thường cùng với sự bứt phá, tìm kiếm một hình thức thể hiện mới, ấn tượng, phong phú và đa dạng hơn.

 

Đến nay, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 7 tập thơ, 15 tập văn xuôi và 3 tập sách dịch. Tập thơ tuyển mới nhất của ông, “Châu thổ” - Nxb Hội Nhà văn 2010 đang thu hút sự chú của dư luận và giới phê bình. Ngoài giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1993, giải A cho tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, Nguyễn Quang Thiều còn nhận được hơn 20 giải thưởng văn học khác trong và ngoài nước. Về phía Mai Văn Phấn, nhà thơ cũng đã xuất bản 10 tập thơ, 1 tập trường ca và đạt nhiều giải thưởng giá trị như giải thưởng tuần báo Người Hà Nội (1994), tuần báo Văn nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) liên tiếp từ các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và gần đây là giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 cho tập thơ “Bầu trời không mái che”. Mai Văn Phấn còn được giới phê bình, nghiên cứu đánh giá cao qua “Hội thảo thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn” được tổ chức tại Hải Phòng năm 2011.

 

Với những thành công rất đáng được ghi nhận trên chúng tôi nhận thấy việc tìm hiểu và nghiên cứu về đặc điểm thơ của hai nhà thơ này là một việc làm có ý nghĩa và cần thiết. Khóa luận này hướng đến việc đề cao cũng như công nhận những đóng góp tiêu biểu của một lực lượng sáng tác góp phần hình thành, phát triển cũng như khẳng định vị thế của thơ văn xuôi trong nền Văn học Việt Nam từ trước đến nay.

 

Ngoài ra, đề tài nghiên cứu này còn giúp chúng tôi có thêm một tri thức thực tiễn về thể loại có thể áp dụng vào quá trình học tập và giảng dạy sau này. Bổ sung thêm một phần tài liệu học tập và nghiên cứu cho việc học tập của sinh viên. Cùng với ý nghĩ hết sức thiết thực trên, qua việc nghiên cứu về đề tài này còn giúp chúng tôi có thêm kinh nghiệm, có thêm một cách nhìn, một nếp nghĩ và làm việc khoa học hơn với những tác phẩm văn học đương đại.

 

2. Lịch sử vấn đề

 

2.1. Những ý kiến xoay quanh về thể thơ văn xuôi

 

Trên thực tế, thơ văn xuôi đã khẳng định vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài sau chặng đường gần một trăm năm cùng với lịch sử phát triển của dân tộc. Trải qua nhiều biến đổi thăng trầm của thời đại, từ khi mới manh nha vào đầu thế kỉ XX cho đến lúc phát triển đỉnh cao vào khoảng những năm 80 và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật như ngày hôm nay, nhưng vẫn còn có những nhận định phủ nhận vị trí và vai trò của thơ văn xuôi trong dòng chảy chung của nền văn học nước nhà. Thế nên, những công trình nghiên cứu chuyên sâu, khoa học và mang tình quy mô về thơ văn xuôi vẫn còn rất ít. Hầu hết chỉ dừng lại ở những bài cảm nhận, phê bình, giới thiệu chung về thơ văn xuôi hoặc một vài bài thơ văn xuôi cụ thể. Qua tìm hiểu, chúng tôi xin điểm qua một số công trình chuyên sâu nghiên cứu về thơ văn xuôi như sau:

 

Từ năm 1997, nhóm tác giả Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Ngọc Thiện cho ra đời công trình “Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài)”. Công trình này gồm ba phần. Phần một tuyển chọn 161 bài thơ văn xuôi Việt Nam, trong đó giai đoạn trước tháng Tám năm 1945 là 23 bài và giai đoạn sau tháng Tám năm 1945 đến nay gồm 138 bài (theo quan điểm của người soạn sách). Phần hai tuyển chọn 65 bài thơ văn xuôi nước ngoài. Phần ba là tập hợp 19 bài viết của các tác giả trong và ngoài nước bàn về thơ văn xuôi hoặc những vấn đề liên quan đến thể thơ này. Tuy đây chưa phải là một chuyên khảo nhưng nó được xem là công trình đầu tiên ở Việt Nam quan tâm tương đối toàn diện đến thơ văn xuôi.

 

Qua 19 bài nghiên cứu trong tuyển tập, chúng tôi thấy những ý kiến về thơ văn xuôi nhìn chung mới chỉ dừng lại ở nhận định, chưa có một đánh giá cụ thể mang tính khái quát. Có giá trị hơn cả là ba bài viết “Một vài ý kiến về thơ văn xuôi” của Xuân Diệu, “Thơ văn xuôi” của Hà Minh Đức và “Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi” của Nguyễn Ngọc Thiện.

 

Bài viết của Xuân Diệu đã đề cập đến khá nhiều vấn đề xung quanh thể thơ văn xuôi, đây là một công trình tìm tòi mang tính lí luận về sự hình thành và phát triển của thơ văn xuôi nói chung và thơ văn xuôi Việt Nam nói riêng. Theo tác giả “Có những bài “thơ” mà không chứa đựng một cảm xúc thơ, đó chỉ là những bài văn vần khô khan lạnh lẽo; trái lại có những bài văn xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm thơ, đọc vào như tưới thắm tâm hồn người, vừa có hình tượng đẹp, vừa có âm thanh hay, lại có tiết tấu nhanh chậm của câu văn nữa. Khi những bài “văn xuôi có chất thơ” ấy mang chất thơ rất nhiều, thì nảy ra một sự thay đổi về chất lượng, về tính chất thì hóa thành những bài thơ bằng văn xuôi” [12; 611]. Ý kiến này có thể xem là quan niệm của Xuân Diệu về thơ văn xuôi. Ông cũng chỉ ra một số đặc điểm của thơ văn xuôi như: về hình thức nó thường ngắn, không có vần, về nội dung nó cố gắng “rút lấy cái tinh chất của sự vật, chú ý đến sự phản ánh, sự tác động của sự vật vào tâm hồn, trí tuệ con người thành cảm xúc, tình cảm, tư tưởng” [12; 611]. So với các thể thơ cách luật và thơ tự do, thơ văn xuôi có thế mạnh là diễn đạt được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp, những hình ảnh, những ý thơ liên tiếp. Do đó, trong một câu thơ văn xuôi có thể diễn tả được nhiều sự kiện, hình ảnh, cảm xúc bộn bề đan xen nhau.

 

Hà Minh Đức với bài viết “Thơ văn xuôi”, tác giả đã đi vào tìm hiểu ranh giới về hình thức giữa thơ và thơ văn xuôi, văn xuôi và thơ văn xuôi trên các phương diện như: phương thức biểu hiện trữ tình, những hình ảnh so sánh và vận dụng ngôn ngữ, hình ảnh và tứ thơ, cấu trúc câu thơ…Điều này thể hiện qua nhiều khía cạnh như “Tổng số tiết tấu trong một nhịp thơ, số từ trong một câu và lối diễn đạt nội dung ý thơ” [12; 625]. Hay “Những câu thơ dài từ 11, 12 từ trở lên sẽ dần dần biến thành câu thơ văn xuôi và bài thơ bao gồm những câu thơ đó sẽ có xu hướng trở thành thơ văn xuôi” [12; 627]. Theo ông, “thơ văn xuôi buộc người viết phải tuân theo những qui luật nghiêm khắc bên trong của nó. Trước hết tác giả phải có cảm xúc của một thi nhân, nhà thơ phải tìm được sự hài hòa bên trong của ngôn ngữ và nhịp điệu, sự hàm xúc của hình ảnh và lời thơ. Một bài thơ văn xuôi không phải là một bài văn xuôi bình thường mà phải là một sáng tác giàu chất thơ. Ở đây cảm hứng thi ca tuy không biểu hiện ra ở những câu thơ, nhưng người viết phải biết chọn lọc những hình thức phù hợp” [12; 627]. Có thể nói, Hà Minh Đức đã có cái nhìn bao quát trên cả hai phương diện nội dung và hình thức của thể thơ văn xuôi cũng như các đặc điểm loại hình của thơ văn xuôi trong quá trình lập luận nhằm phân định ranh giới giữa thơ văn xuôi với văn xuôi, giữa thơ văn xuôi và thơ.

 

Trong bài viết “Tư duy và cấu trúc nghệ thuật thơ văn xuôi” của tác giả Nguyễn Ngọc Thiện cho rằng, thơ văn xuôi có những đặc điểm ưu việt hơn các thể thơ khác trong việc bộ lộ tình cảm vì thơ văn xuôi giúp người đọc tự do trong cách gieo vần “một khi khuôn khổ thể thơ thường, quen thuộc, không đủ giúp người ta thực hiện sự tự phơi bày mình như một bản thể tự do, khi đó người ta đi tìm một lối khác: đến với thơ tự do không vần hoặc thơ văn xuôi” [12; 648]. Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý nhất của bài viết là sự thể hiện quan niệm của hình thức thể loại, theo tác giả thì: “Thơ văn xuôi ra đời, tôi nghĩ trước hết là đòi hỏi của một tư duy nghệ thuật mới, đi tìm một độ căng thẩm mĩ mới dựa vào áp lực liên kết của các ý thơ, câu thơ xếp liền nhau theo một liên hệ cộng hưởng nước đôi: một mặt vẫn tuân thủ trục dọc liên tưởng của thơ, mặt khác thu nạp sự diễn tiến theo trục ngang của câu văn xuôi” [12; 649]

 

Mã Giang Lân (1990), với bài viết “Xu hướng tự do hóa hình thức thơ” đã cho rằng: “Cấu trúc câu thơ văn xuôi gần với cấu trúc câu văn xuôi. Cái khác là câu thơ mang đầy đủ những phẩm chất cơ bản của thơ: tính hình tượng, cách điệu hóa, rung động, liên tưởng và vận dụng ngôn ngữ đều nằm trong quá trình chọn lọc, sáng tạo” [12; 643]. Theo ông, sự “nới rộng”, “kéo dài” về hình thức câu thơ không phải là việc làm tùy tiện mà nhằm khái quát “những sự kiện thời sự nóng hổi, những suy nghĩ cảm xúc ào ạt vào thơ. Có khi phải mô tả, phải ghi nhanh, ghi nhiều hình ảnh, sự việc [12; 643]. Điểm hạn chế của Mã Giang Lân là ở chỗ ông vẫn chưa coi thơ văn xuôi là một thể thơ độc lập với các đặc điểm riêng mà chỉ là “một nẻo đường phát triển của thơ tự do”. Do vậy, phần lớn những đặc điểm của thơ văn xuôi mà ông bàn đến trong bài viết của mình cũng được ông coi là các “biến thể” của các đặc điểm thơ tự do chứ không hoàn toàn là các đặc điểm “tự thân” của thể thơ đó.

 

Nguyễn Văn Hoa với bài viết “Mấy ý kiến nhỏ về thơ văn xuôi Việt Nam”, đăng trên tạp chí Sông Hương số 132, tháng 2. Nhận định rằng “Thơ văn xuôi là phần giao nhau của hai vòng tròn Thơ và Văn xuôi. Phần giao nhau của hai vòng tròn thể hiện hai đặc điểm ngang nhau của Thơ và Văn xuôi. Nếu vượt ra khỏi vùng giao nhau thì sẽ thành Thơ có vần hoặc trở thành Văn xuôi” [11]. Nhìn chung, bài viết của Nguyễn Văn Hoa mới chỉ nêu lên một vài suy nghĩ, cảm nhận của một người làm công tác nghiên cứu về một thể loại “đang hình thành” chứ chưa thật sự có những kiến giải sâu sắc về đối tượng.

 

2.2. Những ý kiến đánh giá và nhận định về thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn.

 

Bên cạnh những bài viết, nghiên cứu và nhận định về thơ văn xuôi còn có những bài phê bình, phỏng vấn và giới thiệu về hai nhà thơ có những đóng góp tiêu biểu cho thể loại thơ văn xuôi bằng những sáng tác không ngừng cách tân về hình thức lẫn nội dung.

 

Với nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là một hiện tượng thơ khá đặc biệt, mặc dù có nhiều ý kiến khen chê trái chiều xung quanh hiện tượng thơ của ông, nhưng hầu hết những bài viết ấy chỉ dừng lại ở mức tản mạn, những bài bút chiến trên phương tiện Internet và một số tạp chí.

Công trình đầu tiên có đề cập đến thơ Nguyễn Quang Thiều mà chúng tôi xin phép được nói đến ở đây là bài viết “Thơ – phản thơ” của Trần Mạnh Hảo. Ở công trình này, nhà phê bình Trần Mạnh Hảo tiến hành điểm diện một số gương mặt có xu hướng cách tân thơ ca như: Lê Đạt, Hoàng Hưng, Đặng Đình Hưng… Riêng về Nguyễn Quang Thiều, trong bài viết “Sự mất ngủ của lửa hay là bệnh ngủ của thơ” theo tác giả thì những cách tân của Nguyễn Quang Thiều là “thứ thơ tây giả cầy”, “từ cách cảm, cách nghĩ, cách ví von, liên tưởng, cách hành văn, kết cấu…tất thảy đều như…tây cả, tịnh không có chút không khí Việt Nam nào” [13; 67]. Sau khi đưa ra một vài ví dụ để chứng minh, tác giả Trần Mạnh Hảo đi đến đúc kết “Bên cạnh cái non kém lồ lộ của nghệ thuật làm thơ, có ý mà thiếu tứ, có quả mà không có nhân, nhiều chữ mà ít nghĩa, ưu triết lí mà thiếu ly, muốn siêu mà bỏ thực, muốn cô mà không đọng, muốn tâm mà thiếu huyết…” [13; 81] Đương nhiên với một hiện tượng thơ mới, với những cách tân không ngừng lại được đặt trong sự thẩm định với những tiêu chí, lựa chọn riêng thì việc khen hay chê, khẳng định hay phủ định những đóng góp trong hành trình sáng tạo thơ ca của Nguyễn Quang Thiều là điều không thể tránh khỏi.

 

Ngoài những ý kiến phủ định còn có những ý kiến đánh giá về sự sáng tạo, cách tân của Nguyễn Quang Thiều được đặt trong bối cảnh không ngừng vận động và phát triển của văn học Việt Nam đương đại, thì có một ý nghĩa hoàn toàn khác. Công trình nghiên cứu “Thơ Việt Nam – Tìm tòi và cách tân (1975 – 2005)” của tác giả Nguyễn Việt Chiến là một trong những ví dụ điển hình. Theo tác giả, những cách tân trong thơ Nguyễn Quang Thiều là sự cần thiết cho thơ Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa và có tác dụng tạo ra một diện mạo mới cho thơ ca đương đại. Trong số 45 gương mặt được điểm diện thì Nguyễn Quang Thiều được xem là “xu hướng cách tân đích thực và tích cực” với những vần thơ được biết đến ở những năm 90 của thế kỉ XX, Nguyễn Quang Thiều đã góp phần làm cho “thơ đương đại Việt Nam khởi hành sang chặng đường mới” [1; 31]

 

Đồng quan điểm với nhận định của tác giả Nguyễn Việt Chiến vào ngày 28/2/2012 vừa rồi tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo khoa học học “Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều” nhằm nhìn nhận lại chặng đường sánh tạo thơ ca của Nguyễn Quang Thiều. Trong hội thảo này có 25 nhà nghiên cứu, phê bình trình bày tham luận của mình để đưa ra những ý kiến, nhận định về đóng góp của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan với tham luận “Cú pháp tạo dựng cổ tích trong thơ Nguyễn Quang Thiều” (Về bài tựa Châu thổ, thơ tuyển lần thứ nhất của Nguyễn Quang Thiều) ngay từ đầu bài viết Nguyễn Chí Hoan đã nhận định “Điều khiến ngay cả một vài cây bút bình luận với đầy thiện cảm vẫn phải nói rằng thơ Nguyễn Quang Thiều “khó hiểu” nằm hiển hiện trên mặt chữ trong phép dựng câu, dựng hình và đặt tên của các bài thơ. Tuy nhiên, ở tập tuyển này, tác giả lần đầu trực tiếp gợi ý bằng một bài tùy bút thay lời tựa mà cái tên bài hoàn toàn có thể xem như đầu đề một bài thơ nào đó của anh – Trong căn phòng của một người bại liệt” [6; 60]là cách nhìn nhận, đánh giá sự đổi mới của Nguyễn Quang Thiều trong tuyển tập thơ đầu tiên. Trong buổi hội thảo còn có bài viết của tác giả Đông La, “Sự mất ngủ của lửa hay sự thao thức của một tâm hồn”, tham luận tại tọa đàm thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều. Bài phê bình về sự bức phá trong thơ Nguyễn Quang Thiều từ tư duy đến nghệ thuật. Bài tham luận của tác giả Nguyễn Việt Chiến “Thơ Nguyễn Quang Thiều trong dòng chảy thi ca cách tân sau 1975” với nhận định “Theo tôi, trong số những nhà thơ đương đại từng làm chuyển động một chân-trời-thơ-mới, có Nguyễn Quang Thiều. Và, trong những gương mặt thời hậu chiến, Nguyễn Quang Thiều là một trong những giọng thơ nổi bật nhất” [6; 245] đã nhận định về một chặng đường phát triển thơ ca của Việt Nam sau năm 1975, trong đó có thơ của Nguyễn Quang Thiều.

 

Trong buổi hội thảo khoa học được nhắc đến ở trên, còn có những công trình nghiên cứu, nhận định riêng về thơ Nguyễn Quang Thiều được đối sánh, soi rọi ở nhiều góc độ khác. Nguyễn Đăng Điệp với bài phê bình “Thơ Việt Nam đương đại từ trường hợp Nguyễn Quang Thiều”, bàn về quan điểm đổi mới trong hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều từ tư duy đến hình thức nghệ thuật. Hay Mai Văn Phấn, “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”. Bài viết xoay quanh những nhận định về sự cách tân nghệ thuật độc đáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều được đánh dấu mốc từ tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”. Tác giả bài viết cho rằng: “Bóng dáng thời đại và thi pháp là hai vấn đề lớn, mang tính quyết định để định danh định tính thơ Nguyễn Quang Thiều trong lộ trình cách tân thi pháp. Thơ ông tỏa sáng và khuynh loát trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác nhau, với nhiều cung bậc cảm xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả siêu thực” [6; 272] và chính tác giả đã nhận định rằng “Lộ trình thơ Nguyễn Quang Thiều khởi đi từ tập thơ Sự mất ngủ của lửa đến những tập thơ về sau đã định hình một phong cách riêng biệt. Ông đã khẳng định tài năng, bản lĩnh thi sĩ và sự dũng cảm của mình bằng khả năng thiên bẩm, bằng kiến thức và trải nghiệm phong phú. Phổ thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều không giới hạn trong không gian hẹp, hay vùng miền mà nhân rộng, giàu sức khái quát và tính biểu tượng cao, có thể nhìn từ nhiều góc độ, nhiều hệ quy chiếu thẩm mỹ. Ông là một trong những thi sĩ tiên phong của dòng chảy thơ ca cách tân đương đại trong nước” [6; 285]

 

Bên cạnh những bài viết, bài phê bình, xung quanh hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều, nhằm nhận định về một tác giả thơ đương đại với những đóng góp và thành công. Trong đó, Mai Văn Phấn người được mệnh danh là  “cặp bài trùng” với Nguyễn Quang Thiều như nhận định của nhà phê bình Đỗ Quyên đã có những đóng góp không nhỏ trong nền thơ ca Việt Nam đương đại. Mai Văn Phấn là nhà thơ ging điu riêng bit, mt "hin tưng" đang đưc lp trẻ hưng ứng và yêu mến, nên nhng bài viết tìm hiểu về sáng tác thơ ca Mai Văn Phấn được đăng ti nhiu trên các phương tin truyền tng. S lượng bài viết di dào, sc thái, "cp đ" tình cảm khác nhau; người viết khi là nhà nghiên cu, nhà phê nh văn hc chuyên nghip. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có những công trình nghiên cứu, nhận định có giá trị sau:

 

Vào năm 2011, tại Hải Phòng đã diễn ra Hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” nhằm đánh giá và khẳng định hành trình sáng tạo thơ ca của hai nhà thơ nói riêng và những đóng góp của hai nhà thơ trong nền văn học đương đại Việt Nam nói chung. Cùng diễn ra với Hội thảo là việc xuất bản Kỷ yếu hội thảo “Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công” đây là tuyển tập, tập hợp 45 bài tham luận xoay quanh đề tài của hội thảo. Trong đó, gồm có 24 bài viết là những ý kiến đánh giá, nhận định riêng về thơ Mai Văn Phấn. Bên cạnh đó, có một số bài viết nhận định về thơ văn xuôi trong lộ trình sáng tạo, cách tân thơ ca của nhà thơ Mai Văn Phấn.

 

Trong s các bài viết v Mai Văn Phn, trước hết phải đến bài Mai Văn Phấn - nhng chặng đưng sáng tạo thơ ca tiến sĩ Đào Duy Hip là nhận định về những chặng đường sáng tạo thơ ca qua tập “Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn”. Trong đó ông phân tích giá trị những hình ảnh ẩn dụ, siêu thực, triết lí, biểu tượng nhằm nhận định “ý thức lao động chuyên nghiệp và sự tìm tòi cách thể hiện không ngưng nghỉ của nhà thơ” [16; 70]. Từ đó đi đến kết lun: Mai Văn Phấn đã cắm mt ct mc thơ đáng ghi nhận trên nh tnh chinh phc ngôi đn thơ hiện đại. Đến nay đã nt ba mươi m. Chặng đường thơ sp ti ca anh còn dài và xa trước mặt. Mà ct mốc m nay đã đánh du mt trưng tnh [16; 75]

 

Đỗ Quyên với bài viết “Thơ Mai Văn Phấn trong dòng thơ cần giải thích giá trị” là sự đánh giá những dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của Mai Văn Phấn trên chặng đường sáng tạo thơ ca. Xem thơ Mai Văn Phấn là đối tượng được phê bình dựa vào những cảm nhận, nhận định ban đầu của tác giả Đỗ Quyên và nhiều nhà phê bình, nghiên cứu khác như Dương Kiều Minh, Khánh Phương, Đặng Văn Sinh từ tập thơ đầu “Giọt nước” (1992) đến tập “Bầu trời không mái che” (2010). Ngoài ra bài viết còn giới thiệu những bài thơ tiêu biểu, cũng như đi vào khám phá giá trị nội dung, tư tưởng, thi pháp và thể loại thơ của Mai Văn Phấn. Trong đó, tác giả bài viết có đề cập đến thể thơ văn xuôi với nhận định: “Với thể thơ văn xuôi, Mai Văn Phấn đã tạo dấu ấn riêng ở những nơi nào có thể: hơn chục bài thơ độc lập trong giai đoạn truyền thống và nhiều bài thơ ở thời cách tân, nhiều trường đoạn trong một bài thơ dài, tất nhiên cả trong trường ca” [16; 183]

 

Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết “Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi” là sự thể hiện quan điểm về thơ văn xuôi qua việc tìm hiểu về đặc trưng  về chất liệu ngôn từ và cấu trúc văn bản thơ. Theo tác giả phân tích “Thuộc thế hệ các tác giả thơ xuất hiện trong thời kì Đổi mới vào thập kỷ cuối của thế kỷ trước, thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn đã có những nét khác biệt so với các bậc cha anh nửa đầu thế kỷ XX” [16; 363]. Cùng với việc khám phá nội dung thơ là “những cơn lốc xoáy của niềm cảm xúc ám ảnh, dòng tâm tư tranh biện, diễn giải về một ý tưởng đột khởi, hiện hữu trong ấn tượng mạnh mẽ nơi thi nhân” kết hợp với hình thức thể hiện “không viết hoa chữ đầu câu, đầu dòng, không có dấu chấm lúc cuối câu, cuối đoạn” điều này đã tạo nên một chỉnh thể thơ văn xuôi khác biệt khẳng định được ngay vị trí tồn tại vững chắc của một thể loại thơ còn đứng trước nhiều thách thức của quá trình tiếp nhận.

 

Đặng Văn Sinh, “Mai Văn Phấn tìm về cội nguồn thi ca”, wedsite http://trannhung.com. Bài phê bình và giới thiệu về tập thơ “Bầu trời không mái che”, so sánh với các tập thơ trước đó của nhà văn Mai Văn Phấn để thấy được nét khác biệt và sự chuyển mình không ngừng đổi mới trong thơ của ông.

 

Văn Giá trong bài “ Thơ sinh ra để nói về niềm hy vọng của con người”  đã nhn định chung v thơ Mai Văn Phn: “Trong tính tn th nhất quán, thơ Mai n Phn đã ct lên nhng niềm hy vng mãnh liệt và cm động ca con ngưi. hy vng làm nên ssống, thăng hoa sự sống. tt hy vng nghĩa là s sống cũng li tàn. Và hy vng cũng chính là ssống. Biểu hin thì đa dng, nhưng đích đến quy chm. Mai n Phn đã thi trin tư tưởng này mt cách nhất quán, nng nhit, càng về sau càng ng t Toàn b thơ Mai Văn Phn đã dựng nên mt thế gii phồn sinh và hóa sinh bất định Với người ngh sĩ này, mt xác tín hiu hin lên tht nhất qn: còn s sng là còn phn sinh và a sinh bt định; và còn phn sinh hóa sinh bt đnh là còn khiến con người ta có quyn hy vọng vào nhng gì đp đ và nhân bản nht. Thơ Mai n Phn t ca niềm hy vng không bao gi ngơi ngh con người [16; 528] Tuy c bài viết chưa thể hiện bao quát hết các phương diện ni dung, nghthuật cũng như s nghiệp thơ Mai Văn Phn nhưng nhìn chung các bài viết đều tập trung thể hin thái đ yêu mến và trân trng thơ anh.

 

Nhìn chung, đa số các tài liệu trên chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, bình phẩm, phỏng vấn mang tính khái quát, đặc biệt, vấn đề nghiên cứu về “Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn” chưa có một công trình nào nghiên cứu. Tuy nhiên, tất cả những ý kiến, nhận định trên sẽ góp phần định hướng, gợi mở cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận này.

 

3. Mục tiêu nghiên cứu

 

Nghiên cứu đề tài về Đặc điểm thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn chúng tôi hướng đến những mục tiêu sau:

 

- Đưa ra cái nhìn khái quát về hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong nền thơ Việt Nam đương đại. Xác định vị trí của hai nhà thơ trong nền thơ dân tộc.

 

- Khảo sát, phân tích và xác định đặc điểm nội dung và một số hình thức biểu hiện của thơ văn xuôi ở hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn. Từ đó thấy được sự sáng tạo riêng của từng nhà thơ khi viết về thơ văn xuôi.

 

- Khẳng định sự đóng góp của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong sự phát triển thơ văn xuôi. Qua đó, thấy được sự vận động và những biến chuyển của thể thơ này trong thời kì hiện đại.

 

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

 

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài này chúng tôi tập trung nghiên cứu những nét đặc sắc về đặc điểm thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn ở hai phương diện chủ yếu là nội dung và hình thức thể hiện.

 

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn rất phong phú và đa dạng. Nhưng trong dung lượng cho phép của một đề tài khóa luận chúng tôi chỉ giới hạn khảo sát trong phạm vi hai tuyển tập thơ: “Châu thổ” của Nguyễn Quang Thiều (nhà xuất bản Hội nhà văn 2010) và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn” (nhà xuất bản Hội nhà văn 2011).

 

5. Phương pháp nghiên cứu

 

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

 

 - Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp đề tài luận văn có những nhìn nhận đánh giá chính xác dựa trên tương quan tỉ lệ cụ thể.

 

- Phương pháp phân tích, lí giải, chứng minh: Phương pháp này giúp đề tài luận văn đi vào cụ thể từng vấn đề giúp làm sáng rõ vấn đề cần nghiên cứu.

 

- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này giúp đề tài luận văn đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại nhằm làm nỗi bật đâu là những kế thừa, đâu là những cách tân sáng tạo độc đáo của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn.

 

- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng khi tổng hợp tài liệu, hệ thống hóa vấn đề giúp đề tài luận văn có cấu trúc rõ ràng và chặt chẽ.

 

6. Cấu trúc khóa luận

 

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của khóa luận gồm có ba chương sau:

 

Chương 1. NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ

 

Chương 2. NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN

 

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN

 

 

 

 

Chương 1

NGUYỄN QUANG THIỀU, MAI VĂN PHẤN TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM SAU ĐỔI MỚI VÀ THỂ THƠ VĂN XUÔI TRONG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HAI NHÀ THƠ

 

1.1. Một cái nhìn chung về nền thơ Việt Nam sau đổi mới

 

1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội

 

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con người sống vì lý tưởng mà những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần con người càng thêm rạng rỡ. Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới. Lúc này với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học vốn đã chuyển mình nay nhanh chóng đổi thay diện mạo. Đất nước hoàn toàn được giải phóng. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập đã hoàn thành. Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên hàng đầu. Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp.

 

Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay thế bởi cảm hứng đời tư thế sự. Trong bối cảnh những năm đầu sau ngày thống nhất đất nước, dân tộc ta hân hoan trong khúc ca khải hoàn bên cạnh những khó khăn phải khắc phục hậu quả chiến tranh đã tác động rất nhiều đến tâm lí, tư duy của người dân. Đến năm 1986, với chủ trương đổi mới của Đảng đã thổi một luồng gió mới vào đời sống xã hội Việt Nam. Tạo nên những bước khởi sắc đưa Việt Nam hòa nhập vào cộng đồng thế giới. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ về sự thật”, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm đã qua và đề ra đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển. Nhưng khi công cuộc đổi mới vừa thực hiện được mấy năm và chỉ mới thu được một số kết quả bước đầu, khó khăn còn nhiều thì trên thế giới đã xảy ra một số biến động lớn, với sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự tan rã ở Liên Xô, gây tác động nhiều mặt đến tình hình nước ta. Thêm vào đó, Mỹ vẫn kéo dài cấm vận về kinh tế chống Việt Nam (đến đầu 1994) gây khó khăn không nhỏ cho sự phát triển bình thường của đất nước.

 

Đặt Việt Nam vào bối cảnh với tình hình trong nước và quốc tế như trên, những xáo trộn trong đời sống xã hội, mặt trái của cơ chế quản lí thị trường và sự phức tạp của xu hướng toàn cầu đã khiến cho tâm lí con người bị phân hóa. Một mặt con người lạc quan tin tưởng vào tương lai, mặt khác không ít người tỏ ra bi quan và hoang mang trước sự đảo lộn các giá trị, sự tác động mạnh mẽ của đồng tiền, sự trượt dốc, băng hoại của các giá trị đạo đức, nhân cách của con người. Bức tranh xã hội mang một mảng màu sáng tối phức tạp chưa từng có, điều này đã tác động trực tiếp đến cách cảm, cách nghĩ của con người, trong đó có các nhà văn, nhà thơ nảy sinh nhu cầu nhận thức lại cuộc sống. Con người thoát khỏi vòng hòa quang của quá khứ, dũng cảm đối mặt với vấn đề phức tạp của đời sống đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Con người bộc lộ tất cả những gì tích cực cũng như tiêu cực, những khát khao và bất lực, bản lĩnh và những sự tuyệt vọng, sự bứt phá và kiếm tìm, lí giải sự cô đơn và cả nỗi hoài nghi. Ý thức dân chủ được trỗi dậy mạnh mẽ và sâu sắc, con người khát khao tìm về các giá trị nhân bản đích thực mang tính chất vĩnh hằng.

 

Như vậy sự chuyển biến xã hội đã dẫn đến sự thay đổi trạng thái tâm lí và ý thức con người sau quá trình đổi mới và phát triển. Và từ bối cảnh đó đã nảy sinh những tiền đề thẩm mỹ làm nên sự phát triển phong phú đa dạng của diện mạo văn học sau đổi mới nói chung và thơ văn xuôi nói riêng.

 

1.1.2. Nền thơ Việt Nam sau đổi mới

 

Từ sau năm 1986 với chủ trương đổi mới của Đảng, tạo nên một bước ngoặc đánh dấu sự thay đổi to lớn trong đời sống xã hội, mà tiêu biểu là sự thay đổi trong cách nhìn nhận các giá trị cuộc sống nói chung và của văn học nghệ thuật nói riêng.

 

Trước hết là là sự thức tỉnh ý thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn về con người cá thể, với những nhu cầu trong thời bình là bước chuyển biến tất yếu của ý thức xã hội. Con người cá nhân đã dần dần trở thành nhân tố trung tâm trong đời sống xã hội. Đó là con người được nhận diện trong mối quan hệ đa chiều và luôn khao khát được nhận thức, được khẳng định mình. Cùng với nhu cầu xã hội, thị hiếu công chúng không còn ưa lối nói một chiều, lí tưởng hóa cuộc sống mà họ đòi hỏi phải có sự lí giải, cắt nghĩa nhiều dữ kiện của đời sống, nhận thức lại nhiều vấn đề. Văn học thời kì này có xu hướng nhạt dần cảm hứng sử thi, chuyển hướng quan tâm nhiều hơn đến những số phận đời tư, đời thường, từ cộng đồng tổ quốc đến con người cá nhân, cá thể. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải phản ánh hiện thực đời sống hàng ngày, những quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, đa sự, chằng chịt được đan dệt bởi những mạch nỗi, mạch ngầm. Con người được phản ánh trong giai đoạn này là con người đa diện, đa trị, lưỡng phân, chen lẫn giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng, cao cả và tầm thường trong một thế giới tạp âm và đầy nghịch lí. Văn học bao giờ cũng phản ánh thực nhu cầu của thời đại “Qua nhà thơ, người ta thấy thời đại mà anh ta đang sống”, để phản ánh hết thực tế cuộc sống với nhiều gam màu sắc khác nhau, đòi hỏi nhà thơ phải có những tìm tòi, đổi mới từ nội dung đến hình thức trình bày. Nếu như các thể thơ truyền thống ràng buộc cảm xúc theo cách ngắt vần điệu theo một nguyên tắc nhất định, thì họ đòi hỏi một sự sáng tạo mới, không gò bó cảm xúc, thơ ca không chỉ đơn giản được sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, mượt mà mà ở đó còn có cái gay gốc, dứt khoát và mang đậm hơi thở cuộc sống nhưng không tầm thường, mà vẫn mang một màu sắc nghệ thuật độc đáo riêng.

 

So với trước, thơ sau đổi mới xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới: cảm hứng nghệ thuật bắt nguồn từ chính số phận và kinh nghiệm của chính cá nhân nhà thơ. Thơ đã có một cái nhìn mới. Các mặt, các khía cạnh khác nhau của hiện thực được soi rọi bằng một nhận thức mới. Nhận thức trong sự đa dạng, đa chiều cả về nội dung và nghệ thuật. Tất nhiên sự xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới có tính lịch sử, phụ thuộc vào yêu cầu của thời đại, của người đọc và cả chính bản thân chủ thể sáng tạo. Sự cảm nhận đó được thể hiện qua một số tập thơ của các tác giả tiêu biểu như: Tự hát (1984) của Xuân Quỳnh, Ánh trăng (1984) của Nguyễn Duy, Khối vuông Rubich (1985) của Thanh Thảo, Người đàn bà ngồi đan (1985) của Ý Nhi, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986) của Nguyễn Quang Thiều… Trong đó có nhiều bài thơ nói lên những suy nghĩ thấm thía về con người, về sự chiêm nghiệm, lí giải cuộc sống, bình luận, đánh giá và làm bật lên một triết lí sống sâu sắc của các nhà thơ.

 

Trước thời gian này, nhiều nhà thơ đã dồn sức cho thể loại trường ca và sự thể nghiệm thơ văn xuôi: Những người đi tới biển (1977), Những ngọn sóng mặt trời (1982) của Thanh Thảo, Ngọn giáo búp đa (1977) của Ngô Văn Phú, Đường tới thành phố (1979) của Hữu Thỉnh, Đất nước hình tia chớp (1981) của Trần Mạnh Hảo… được xem là những ngòi nổ khai hỏa cho cả một chặng đường thơ thực sự chuyển mình từ sau những năm đổi mới. Những vấn đề mà trong chiến tranh thơ không đụng đến, hoặc có gợi lên thì vẫn hướng tới mục đích cộng đồng, bây giờ được khơi gợi, nhấn mạnh, khẳng định: nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội tâm, vấn đề muôn thuở của con người…đều được soi rọi từ nhiều khía cạnh khác nhau. Thơ lúc này không phải chỉ là tả, là kể, trình bày mà là biểu hiện hiện thực bằng những tâm trạng, những cá tính sáng tạo độc đáo, nhờ vậy vừa phản ánh cuộc sống, thơ vừa đi vào tầng sâu của tình cảm con người. Trong sự phát triển của văn học từ sau 1975 đến nay, có thể khẳng định một điều rằng hình thức thơ văn xuôi đang có xu hướng nở rộ. Những nhà thơ từ thời chống Mỹ vẫn tiếp tục thể hiện sức sáng tạo của mình như Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Chế Lan Viên, Nguyễn Quang Thiều…

 

Từ sau đổi mới, nội dung thơ chuyển hướng nhanh chóng sang các chủ đề xã hội. Các cảm xúc cá nhân của nhà thơ thường ít gắn liền với những chấn động lớn lao của thời đại. Thơ chuyển hướng mạnh mẽ vào các chủ đề xã hội mang tính chất thế sự và đời tư. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng, tìm hiểu sự vận động của văn học từ sau 1975, nếu không thấy sự xuất hiện của cá nhân như một phạm trù xã hội phổ biến sẽ không thể lí giải cho sự biến động và phân hóa trong nội dung thể loại của nó. Nỗi buồn, sự cô đơn, tình yêu đôi lứa, những góc khuất của con người, cái chết thể chất và cái chết tinh thần, sự lật trở lại của các giá trị siêu cá nhân… trong thơ không thể không mang ý nghĩa xã hội. Khi chuyển hướng vào các chủ đề xã hội, các nhà thơ đặt lên hàng đầu những suy nghĩ cá nhân và bộc lộ chính kiến của riêng mình. Những bài thơ như “Đánh thức tiềm lực”, “Nhìn từ xa tổ quốc” của Nguyễn Duy, “Người đàn ông bốn mươi tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao… cho thấy sự khuấy động đời sống văn học. Trong sự nhập cuộc với đời sống bộn bề, phức tạp, thơ dẫu chưa có được những thành tựu rực rỡ, những đỉnh cao tiêu biểu, vẫn mang được hơi thở và khát vọng của thời đại, cố gắng vươn tới những cảm hứng phong phú và vĩnh cửu vốn có của thể loại trong tiến trình đổi mới.

 

Không còn nghi ngờ gì nữa, tính hiện đại trong thơ gắn liền với sự hiện diện mang tính áp đảo của thơ tự do và thơ văn xuôi so với các thể thơ khác. Điều này xuất phát từ ba lý do cơ bản: đây là những thứ thơ cho phép nhà thơ triển khai tự do hơn những phức hợp cảm xúc cá nhân, thể hiện sự giao thoa thể loại, trong đó đáng kể nhất là ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thi ca và việc tìm đến thơ tự do và thơ văn xuôi khiến cho giọng điệu thơ không còn êm ái, mượt mà như trước mà trở nên thô ráp hơn, nhịp điệu thơ mang nhiều tính bất ngờ hơn. Thơ tự do khiến cho các nhà thơ có khả năng tạo ra những cú vặn cấu trúc nhằm gây ấn tượng cho người đọc.

 

Thơ tự do và thơ văn xuôi không phải chỉ mới xuất hiện trong giai đoạn xã hội có nhiều chuyển biến phức tạp như thời kì sau đổi mới này. Trước đó nó đã được manh nha qua những tìm tòi thể nghiệm đổi mới hình thức thơ đầu thế kỉ XX, các nhà thơ luôn có xu hướng muốn phá vỡ khuôn khổ câu thơ xưa cũ, bó buộc để tự do hơn trong việc thể hiện cảm xúc. Thơ Tản Đà là một điển hình trong bài Hoa rụng:

 

“Đang ở trên cành bỗng chốc rơi

Nhị mềm cánh úa

Hương nhạt màu phai

Sống chửa bao lâu đã hết đời

Thế mà hoa rụng lại sướng hơn người”

 

Cùng với một số thi sĩ cùng thời như Phạm Công Thạch, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Rồi đến cuộc cách tân trong phong trào Thơ mới, giọng điệu là tiếng nói của đời sống hàng ngày phong phú, thoát khỏi những niêm luật của thơ cổ. Mở đầu là hiện tượng văn xuôi hóa, văn xuôi biền ngẫu, câu thơ cốt giữ cái nhịp nhàng, xóa đi những cái khô cứng, mòn cũ, ghi lại kịp thời những dòng cảm xúc, những cái gần gũi, cụ thể và mơ hồ, như bài “Tình già” của Phan Khôi:

 

“Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa

Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ,

Hai cái đầu xanh kề nhau than thở…”

 

Hay như bài thơ Trên đường của Lưu Trọng Lư, cùng với một số tác giả khác như Thế Lữ, Tế Hanh, Tố Hữu viết nhiều về hình thức thơ 7, 8 chữ (một thể thơ có nguồn góc thơ ca dân tộc) Điều này chứng tỏ các nhà thơ muốn phá vỡ cái cũ, giọng điệu cũ nhưng chưa kịp tạo ra cái mới cho nên còn dựa vào một số truyền thống trong thơ ca dân tộc. Song, đó lại là giọng điệu của tiềm thức, bất cứ lúc nào, chỉ cần một rung động nhỏ cũng có thể nổi bật lên, ngân nga. Chính cái giọng điệu này làm thay đổi các dòng thơ, câu thơ, cũng có nghĩa là các thể thơ trở nên bất ổn dù đó là những cách luật của dân tộc đã được ổn định.

 

Đến thời đại ngày nay, khi mà hình thức tự sự, nhất là tiểu thuyết đang hiện lên như nhân vật chính trên sân khấu văn học thì ảnh hưởng của chất văn xuôi vào thơ là điều dễ hiểu. Nhưng để không bị hòa tan, thơ vừa tìm cách níu giữ những yếu tố hạt nhân làm nên cấu trúc thể loại, vừa mở rộng chính nó để thích ứng với điều kiện và môi trường văn hóa mới. Trong thơ văn xuôi và thơ tự do, các nhà thơ vẫn kiên trì giữ vững tính ẩn dụ thể hiện rõ nhất ở các biểu tượng giàu sức gợi, đồng thời, tổ chức nhịp điệu thơ một cách linh hoạt. Nhiều độc giả khẳng định: thơ ngày nay khó nhớ, khó thuộc hơn so với thơ ca giai đoạn trước. Điều này là một thực tế. Nó cho thấy sự vận động khá rõ trong tư duy thơ. Trước đây, các nhà thơ chủ yếu tập trung xây dựng những câu thơ ám ảnh, cấu trúc thơ chủ yếu xoay quanh nghệ thuật lập tứ và nghệ thuật dùng từ, xây dựng tính nhạc nhằm tạo nên sức mê hoặc khiến cho thơ dễ ru người đọc. Hiện nay, các nhà thơ lại tập trung vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể, xây dựng hàng chuỗi biểu tượng và các biểu tượng ấy nhiều khi không dễ nhận ra bằng sự cảm nhận thông thường. Nó đòi hỏi người tiếp nhận vừa giàu trải nghiệm vừa phải có khả năng tiếp nhận cái siêu nghiệm trong thơ.

 

Thơ ca sau đổi mới vận động nhiều hướng nhưng chủ trương đào sâu vào bản thể tâm linh là một hướng đi được nhiều người tìm đến. Tại đây, nhiều khi nhà thơ không đứng ra làm nhiệm vụ giải thích, thuyết minh mà để cho người đọc tự khám phá những bí mật sau những cách nói ngỡ như không ăn nhập gì với nhau, cấu trúc thi phẩm nhìn qua hết sức lỏng lẻo nhưng thật ra lại hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, từ ý thức cách tân đến việc sáng tạo nên những tác phẩm mang ý nghĩa kết tinh cao độ là cả một chặng đường dài.

 

1.2. Đôi nét về thể thức thơ văn xuôi

 

1.2.1. Khái niệm thơ văn xuôi

 

Thực ra cho đến nay, thơ văn xuôi vẫn chưa có một khái niệm hoàn thiện và ổn định. Điều này có lẽ do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. Về mặt khách quan,  thơ văn xuôi là thể thơ ít được phổ biến và vẫn đang trong tiến trình tự hoàn thiện nên chưa tạo được sự chú ý đúng mức của các nhà nghiên cứu. Mặt khác, các đặc trưng của nó cũng chưa định hình rõ ràng, thậm chí còn không ngừng phát sinh, nên rất khó có thể qui chiếu nó vào một khái niệm hoàn chỉnh. Về phần chủ quan của các nhà nghiên cứu thì trong các tài liệu có đề cập đến thơ văn xuôi, mỗi tác giả có mỗi cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau nên cũng nêu các khái niệm không trùng nhau về thơ văn xuôi.

 

Theo sự khảo sát của chúng tôi, ở Việt Nam người nghiên cứu về thơ văn xuôi sớm nhất là Xuân Diệu. Theo ông. Thơ văn xuôi là “những bài văn xuôi mà đầy thi vị, đầy rung cảm thơ… vừa có hình tượng đẹp, vừa có âm thanh hay, lại có nhịp điệu và tiết tấu nhanh chậm của câu văn” [12; 661]. Nhưng theo chúng tôi, Xuân Diệu chỉ mới nêu ra các đặc trưng của thơ văn xuôi chứ chưa khái quát thành khái niệm cho thơ văn xuôi. Cũng như vậy, Hà Minh Đức và Bùi Văn Nguyên trong cuốn “Thơ ca Việt Nam – Hình thức và thể loại” dù có dành hẳn một chương để viết về thơ văn xuôi nhưng cũng chỉ đi sâu vào khía cạnh phân biệt thơ văn xuôi với thơ nói chung và thơ văn xuôi với văn xuôi dựa trên các phương diện nội dung và hình thức chứ không nhằm đưa ra một cách hiểu, một sự nhận định rõ ràng về thể thơ này. Sự nhận định này còn kéo dài đến các tác giả gần đây như Hữu Đạt (trong “Ngôn ngữ thơ Việt Nam”), Nguyễn Đăng Điệp (trong “Nghĩ về thơ văn xuôi”), Lê Thị Hồng Hạnh (trong “Một số đặc điểm của thơ văn xuôi”)…với khuynh hướng chung là lấy một hay một vài đặc điểm nổi bật nhất của thơ văn xuôi để gọi tên thay cho khái niệm của nó. Và rõ ràng, điều đó đã không mang lại một cách hiểu khái quát và đầy đủ cho thể thơ này.

 

Trong Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm “Thơ văn xuôi” được nêu là “Một hình thức cơ bản của thơ được viết bằng văn xuôi. Thơ văn xuôi khác thơ tự do ở chỗ không phân dòng, không dùng hình thức dòng thơ (cũng gọi là “câu thơ”) làm đơn vị nhịp điệu, không có vần” [319]. Theo chúng tôi, khái niệm này cũng không thật hoàn chỉnh và rõ ràng vì mới chỉ tập trung vào mặt hình thức của thơ văn xuôi và chưa nêu được đặc trưng của thể loại thơ văn xuôi.

 

Bên cạnh đó, nếu xét trên phương diện tổ chức ngôn ngữ, thì trước thơ văn xuôi, thơ Việt Nam được chia làm hai loại: thơ cách luật và thơ tự do. Trong đó, thơ cách luật bao gồm tất cả các thể thơ được “luật hóa” về số tiếng, số dòng, về âm thanh, nhịp điệu, vần điệu… của ngôn ngữ; thơ tự do thì không tuân theo qui tắc ràng buộc nào nhưng vẫn phân dòng, chia khổ và khuynh hướng gieo vần vẫn phổ biến. Có thể xem thơ văn xuôi là loại thứ ba: dùng hình hình thức câu văn xuôi để biểu hiện những nội dung tư tưởng, tình cảm đầy chất thơ. Tuy nhiên, thơ văn xuôi vẫn giữ lại yếu tố cốt lõi nhất của ngôn ngữ thơ là nhịp điệu. Điểm đáng chú ý là nhịp điệu trong thơ văn xuôi vừa là nhịp điệu của ngôn ngữ, vừa là nhịp điệu của cảm xúc.

 

Về phương diện nội dung, thơ văn xuôi, do sự mở rộng về dung lượng ngôn ngữ, nên cũng có khả năng bao chứa hiện thực rộng lớn hơn, hình ảnh và cấu tứ thơ đa dạng hơn, chất suy tưởng và triết lí đậm nét hơn.

 

Trên cơ sở kế thừa ý kiến các nhà nghiên cứu trên đây, đồng thời xuất phát từ đặc trưng cơ bản về nội dung và hình thức của thơ văn xuôi như đã trình bày, chúng tôi đồng tình với quan điểm: thơ văn xuôi là tác phẩm thơ dùng hình thức câu văn xuôi có nhịp điệu để biểu hiện những nội dung tư tưởng, tình cảm giàu chất thơ. Thơ văn xuôi thường tập chung khai thác và xây dựng hình ảnh, cấu tứ mới lạ, giàu chất triết lí và suy tưởng. Trong chừng mực nào đó, khái niệm trên có thể chưa thực sự hoàn thiện, nhưng nó cũng giúp chúng tôi có thể hình dung được khá đầy đủ diện mạo của thể thơ này, đồng thời có thể dựa vào đó để bước đầu phân biệt được thơ văn xuôi với các thể thơ khác.

 

1.2.2. Một số đặc điểm của thơ văn xuôi

 

Thơ văn xuôi là một thể loại đang trong quá trình vận động, chưa hoàn thiện, cho nên còn quá sớm để có thể đóng khung nó vào trong vài đặc điểm nhất định. Thế nên, trong quá trình nghiên cứu của mình, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số đặc điểm cơ bản làm nên sức hấp dẫn của thể thơ này.

 

Về cơ bản, thơ văn xuôi có ý thức bứt phá khỏi những qui phạm cứng nhắc của thơ cách luật, trong thơ văn xuôi không có một kiểu tổ chức hình thức nào, dù là tự do nhất cũng không được người làm thơ chấp nhận. Qua quá trình tìm hiểu và khảo sát, chúng tôi nhận thấy thơ văn xuôi có ba đặc điểm cơ bản là sự tự do trong trong mô hình tổ chức câu thơ, khước từ các dấu câu trong văn bản được trình bày, có những biểu hiện nội dung thi tứ bất ngờ, độc đáo, mang chiều sâu triết lí và giàu hình ảnh.

 

Thứ nhất, biểu hiện của thơ văn xuôi sự tự do trong mô hình tổ chức câu thơ, các nhà làm thơ văn xuôi không phải chịu một qui định nào về niêm luật. Họ không bị giới hạn về số lượng âm tiết trong một câu thơ, số lượng câu thơ trong một khổ thơ, thậm chí bài thơ không cần phân dòng, chia khổ. Đặc biệt, cấu trúc văn phạm của câu thơ văn xuôi cũng ngã về phía văn xuôi, với nhiều lớp lang, nhiều thành phần mở rộng hoặc đôi khi dung nạp cả những liên từ, kết từ, điều mà thơ thông thường rất kị. Sự tung phá này còn thể hiện ở sự linh hoạt trong cách thức tổ chức kết cấu văn bản. Bài thơ có thể được trình bày như một văn bản văn xuôi tự do hoặc có dạng thức như một truyện ngắn như: “Cái đêm Thánh Giống về trời” của Phạm Hổ, “Cánh rừng nhiều đom đóm bay” của Nguyễn Đức Mậu… Đôi khi như một màn kịch nhỏ với những lời đối thoại như “Đối thoại biển” của Hữu Thỉnh, một số phần trong “Khối vuông rubic” của Thanh Thảo. Cũng có đôi lúc nó được tạo nên từ sự phối hợp giữa truyện ngắn và thơ như “Trăng hoàng cung” của Phùng Quán, “Lời Mị Châu” của Đỗ Trung Lai…

 

Thứ hai, một hướng đổi mới nữa trong thơ văn xuôi là viêc khước từ dấu câu trong các văn bản được trình bày dưới hình thức văn xuôi. Đây chưa phải là xu hướng phổ biến nhưng cũng nên được ghi nhận như một nổ lực nhằm làm mới thơ ca của các nhà thơ hiện đại. Nếu như thơ cách luật không sử dụng dấu câu, nhưng nó lại được khuôn vào một mô hình âm luật chịu sự ràng buộc về cách tổ chức nội dung và cách ngắt nhịp của mô hình đó. Thơ tự do cũng có thể không cần dấu câu nhưng nhờ cách ngắt nhịp dòng thơ, nhà thơ có thể hướng bạn đọc theo chủ ý ngắt nhịp của mình. Các bài thơ văn xuôi thì khác. Khi nó được tổ chức như một văn bản văn xuôi, thông thường nhà thơ phải đưa vào trong đó các dấu câu để biểu hiện sự phân đoạn ngữ nghĩa, ít nhiều định hướng cách ngắt nhịp cho người đọc. Với việc loại bỏ các dấu câu khỏi văn bản, tác giả dường như chỉ cung cấp cho chúng ta một chuỗi ngữ lưu để ngỏ, buộc người đọc phải căn cứ vào cách hiểu của mình mà phân ý, ngắt câu. Nhịp điệu của bài thơ vì thế cũng chịu sự chi phối từ cách hiểu, cách cảm riêng của mỗi người. Lối viết với những dòng chữ miên man không nghĩ còn gợi cho người đọc cảm giác về một cuộc chạy đua của ngôn từ với dòng ý thức ào ạt của cái tôi trữ tình. Dường như khi bỏ qua yêu cầu suy nghĩ cho rạch ròi về ngắt câu, ngắt ý hay chuẩn chính tả, tác giả sẽ có điều kiện bắt kịp dòng chảy của tâm tư. Hình thức tuyệt đối tự do của văn bản cũng thể hiện một cách sống động tính chất liên tục, hỗn độn của dòng ý thức.

 

Thứ ba, thể thơ văn xuôi còn biểu hiện một nội dung thi tứ bất ngờ, độc đáo, mang chiều sâu triết lí. Bằng khả năng đặt vấn đề, thơ văn xuôi làm thay đổi thói quen cố hữu của đọc giả trong cách đọc thơ. Đến với thơ văn xuôi không phải chúng ta chỉ cần đọc bằng mắt, bằng tai mà phải đọc bằng trí tuệ, bắng ý thức đối thoại triệt để với những đều mà người viết đặt ra trong tác phẩm. Cũng chính vì thế, thơ văn xuôi đòi hỏi chiều sâu triết lí nên đây là thể thơ rất kén đọc giả và khó thành công đối với những nhà thơ. Bên cạnh vẻ đẹp của chiều sâu triết lí, sức mạnh của thơ văn xuôi còn bắt nguồn ở khả năng liên tưởng dồi dào, tinh tế, độc đáo chính là những bài được kết cấu theo dòng cảm xúc tự nhiên, sống động của nhân vật trữ tình.

 

Thứ tư, ngôn ngữ của thơ văn xuôi là ngôn ngữ giàu hình ảnh. Sẽ là thiếu sót nếu không kể đến một đặc trưng khác của thơ văn xuôi đó là giàu hình ảnh. Giàu hình ảnh là đặc trưng của ngôn ngữ thơ, trong đó có thơ văn xuôi. Do đó, ngôn ngữ thơ văn xuôi chủ yếu cũng được sử dụng theo phương thức biểu hiện nhằm thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc của con người về cuộc sống. Mặt khác, do diễn đạt bằng hình thức câu văn xuôi và cũng do yêu cầu phản ánh ngày càng cao, nên thơ văn xuôi ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng bởi phương thức tạo hình – trực tiếp miêu tả, vẽ nên những bức tranh về hiện thực, vốn là một thế mạnh của ngôn ngữ văn xuôi. Vì thế, tính tạo hình trong thơ văn xuôi được thể hiện đậm nét hơn. Tuy nhiên, cần hiểu tính tạo hình ở đây là một đặc điểm chứ không hẳn là một ưu điểm. Nét đặc sắc trong việc xây dựng hình ảnh của thơ văn xuôi là bên cạnh xu hướng mĩ lệ hóa truyền thống các hình ảnh còn được khắc họ bằng những kết hợp có tính chất “nghịch dị”. Hướng đi này có thể thấy rõ ở các nhà thơ Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều…dưới cái nhìn của các tác giả này, sự vật thường được miêu tả như là một kết hợp của những đối cực: cái đẹp và cái xấu, cái chết chóc và cái sinh thành, hiện thực và siêu thực… Ví dụ như tác giả Nguyễn Quang Thiều là một điển hình. Nét đặc sắc ở tác giả này là phép lạ hóa hình ảnh thông qua cách kết hợp độc đáo giữa các danh từ chỉ hình ảnh với các hình tượng từ đi kèm hoặc qua những so sánh, liên tưởng có phần kì dị. Khảo sát 18 khúc ca trong bài “Nhân chứng của một cái chết” (trừ Khúc mười chín) chúng tôi thấy những cách kết hợp từ hết sức lạ lùng như: “bình minh máu rực rỡ/ da thịt tối tăm/ sự im lặng khổng lồ/ những chiếc thuyền phờ phạc/ những tháng năm bóng tối nham nhở/ nóng nhão óc/ lạnh vỡ xương/ những nấm mộ hoan hỉ/ những nấm mộ tươi sáng…”. Những kết hợp từ bất thường này không đơn thuần nhằm tạo ra sự tân kì mà là khúc xạ của một cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống.

 

Từ việc xây dựng nên những đối cực như vậy đã thể hiện một nhãn quan mới về cuộc sống của con người hiện đại so với cái nhìn mĩ lệ hóa trong gia đoạn trước, đồng thời thể hiện sự thay đổi trong quan niệm sáng tác. Thơ không chỉ gắn với cảm hứng về cái đẹp mà còn có thể được khơi nguồn từ chính thực tại đầy những bất cập, tan vỡ, thậm chí đầy rẫy cái xấu và cái ác.

 

1.2.3. Sự phát triển của thơ văn xuôi ở Việt Nam sau đổi mới

 

Ở Việt Nam, thơ văn xuôi bắt đầu xuất hiện ở nước ta qua sáng tác của các nhà Thơ mới giai đoạn 1932-1942. Trong công trình hợp tuyển Thi nhân Việt Nam in năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết: “Phong trào thơ mới lúc bột phát có thể xem như một cuộc xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành.”  Đấy là nói đến ảnh hưởng của văn xuôi nói chung, một dấu hiệu của công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam, khi mà trước đây, trong thời trung đại, văn chương Việt Nam chủ yếu phát triển ở lĩnh vực thơ ca. Trong bối cảnh đó, thơ văn xuôi của phương Tây được coi là một trong những con đường giải phóng cho thơ ca Việt Nam thoát khỏi sự ràng buộc của các quy tắc thơ cũ. 

 

Từ sau năm 1975 đến nay, thơ văn xuôi đã khẳng định được chỗ đứng trong thơ ca Việt Nam. Đặc biệt, thơ văn xuôi dường như đã tìm được mảnh đất thích hợp trong trường ca. Sau khoảnh khắc được thử nghiệm ngắn ngủi trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, thơ văn xuôi tự tin thâm nhập vào trường ca với “Khối vuông rubíc” của Thanh Thảo (1985). Thanh Thảo đã dành trọn vẹn trường ca này cho thơ văn xuôi. Tiếp đến, thơ văn xuôi xuất hiện ở một số chương trong “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn (1999), trong “Trên đường” (2004) và “Ngày đang mở sáng” (2007) của Trần Anh Thái, “Hành trình của con kiến” của Lê Minh Quốc (năm 2006), và lại có mặt trong suốt bản trường ca “Phồn sinh” dài 200 trang của Nguyễn Linh Khiếu (2007).

 

Như cùng một ước hẹn, thơ văn xuôi trong trường ca Việt Nam hiện đại được các nhà thơ vận dụng để bày tỏ những dòng trăn trở, suy tư, cả những dòng suy tư triết lý và những cảm xúc sôi trào, những điều mà có lẽ cái khuôn khổ gò bó của các thể thơ truyền thống không cho phép họ bộc bạch hết được: “Tôi xoay những ô vuông. Những sắc màu chưa đồng nhất. Rubíc một trò chơi kỳ lạ. Chúng ta phải vất vả bao nhiêu để sắp xếp lại những ý nghĩ. Có hàng tỷ cách sắp xếp. Rubic – đó là cấu trúc của thơ.” (Thanh Thảo, “Khối vuông rubíc”) Hay “Không có ai đốt lửa trước con đường, chỉ có niềm hy vọng cháy lên. Sức mạnh bàn chân ở nơi thẳm sâu niềm trắc ẩn, ngân nga nơi dấu chân tổ tiên, nơi những câu chuyện buồn không dứt. Đi! Dừng lại là đắm chìm, là hoang mang cay đắng, là tiếng vọng xa xăm lạnh buốt cõi người. Không có bờ sóng vỗ vào đâu?” (Trần Anh Thái, Trên đường).

 

Đến đây, chúng ta có thể thấy thơ văn xuôi xuất hiện như là một thể thức lưỡng tính, có nghĩa nó phải trước hết là thơ, sau phải mang hình thức của văn xuôi, đến độ nếu nhìn bề ngoài rất khó phân biệt rằng đó là một bài thơ theo quan niệm truyền thống. Hai yếu tố này phải là một, hợp nhất, hòa quyện trong một thể thống nhất mang tính lý tưởng mới tạo ra thơ văn xuôi. Tác phẩm thơ văn xuôi được hình thành bắt đầu từ việc cảm xúc và ý tưởng cùng khởi lên một lúc trong một cảm quan rộng lớn. Nhịp điệu của thơ văn xuôi được hình thành bởi những sợi cực mảnh nhưng với độ rung vang cực nhạy, nó được chìm lẫn trong ngôn ngữ với những cảm xúc và ý tưởng hòa quyện. Cái nhịp điệu với độ rung đặc biệt này, nó làm cho thơ văn xuôi không thể lẫn với văn xuôi và đương nhiên nó khác biệt hẳn các thể thơ ra đời trước nó.

 

Đời sống trải nghiệm của nhà thơ là một cái gì đó như một yếu tố không thể thiếu, chúng được ngấm vào từng mao mạch li ti trong toàn bộ cơ thể của bài thơ. Đời sống trải nghiệm chính là cái tinh chất của thời đại được giữ lại từ hàng ngàn những tia xạ của thời đại xuyên thấu nhà thơ qua thời gian năm tháng đời người. Nếu không có sự tỏa ra từ đời sống trải nghiệm của nhà thơ, bài thơ văn xuôi sẽ thiếu vắng cái phong vị ý vị nhất mà thể thơ này có được.

 

Thơ văn xuôi là bước phát triển cao nhất của thơ tự do. Ngoài đặc trưng chung của thơ ca là nhịp điệu, thơ văn xuôi còn giống thơ tự do ở cùng một điểm chung là không bị ràng buộc vào các quy tắc về số câu, số chữ, niêm luật... Nhưng, nó khác với thơ tự do ở chỗ là trong khi thơ tự do vẫn lấy câu thơ làm đơn vị nhịp điệu và có thể vẫn có vần, thì thơ văn xuôi không phân dòng, không dùng hình thức câu thơ làm đơn vị nhịp điệu, và thứ hai là thơ văn xuôi không có vần.

 

Cùng trong xu hướng của thơ tự do, thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp với việc diễn đạt những trăn trở, suy tư triết lý và suy tưởng về nhân tình, thế sự. Đây là một lối thoát cho các nhà thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn luận tự do về số phận của con người và xã hội, khi mà các thể thơ có niêm luật gò bó không đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề của thời đại.

 

Thật vậy, thơ văn xuôi thể hiện nhu cầu xã hội của thời đại, một nhu cầu đa dạng, phức tạp, lắm biến đổi. Cũng như thơ nói chung, thơ văn xuôi thuộc phương thức biểu hiện trữ tình nhưng nó mượn yếu tố hình thức của văn xuôi để biểu đạt. Thơ xưa lấy ý tại ngôn ngoại làm trọng nên đề cao sự tinh lọc đến mức ước lệ, sáo mòn. Cuộc sống hiện đại không phải không cần tinh lọc nhưng sự tinh chọn phải luôn đi kèm với mới lạ. Do đó, một thể loại như văn xuôi mới có thể tiếp cận được mô hình nguyên chất của đời thường, cập nhập được thông tin nhiều bề, gai góc để rồi từ đó nâng lên thành tầm khái quát, thành tư tưởng. Sự mở rộng, phóng khoáng, sẵn sàng dung nạp nhiều hàm lượng thông tin, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển nhânh chóng, vượt bậc của xã hội hiện đại so với những thời đại trước nó.

 

1.3. Thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ

 

1.3.1. Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong thơ ca Việt Nam sau đổi mới

 

Ngay sau năm 1986, đã xuất hiện một số ít nhà thơ có ý thức sâu sắc về cách tân thơ Việt. Họ có chủ thuyết chắc chắn và riêng biệt trên con đường đã chọn. Họ có đủ kiến thức thi ca, có nền tảng văn hóa và xã hội sâu rộng, có bản lĩnh khám phá và cả lòng dũng cảm, bình tĩnh trước sức ép công luận, dám chấp nhận đơn độc trên con đường mới, mở ra một không gian thơ khác. Họ khác hẳn số đông từ nền tảng, lí tưởng thơ ca đến cách biểu đạt ý tưởng, lập ngôn, cách tạo những chuyển động thi ảnh…Thời kì đầu đa số bạn đọc phản ánh quyết liệt trước một số hiện tượng thơ cách tân, thậm chí là chóng lại những quan niệm thẩm mỹ mới lạ.

Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống và nghệ thuật thay đổi khiến cho những cây bút nhạy cảm nhất cũng phải thay đổi theo hướng hiện đại, cho dù mức độ đổi mới của từng cây bút là hết sức khác nhau. Điều đó có thể nhận thấy trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khoa Điềm,… Nhưng nhìn đại thể, sự đổi mới của các cây bút này vẫn chủ yếu nằm ở phương diện cái nhìn và cảm hứng chứ chưa có sự cách tân mạnh mẽ về thi pháp. Nhưng thời gian khách quan đã minh chứng một số thành công nhất định của các tác phẩm dù chưa nhiều nhưng cũng là những ví dụ điển hình cho những chuyển động mới. Ở đây không thể không nhắc đến những gương mặt trẻ hào hứng đi tìm những tiếng nói mới cho thơ như Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư... Và mỗi người, theo cách nói của riêng mình đã ít nhiều tạo cho thơ những diện mạo mới lạ hơn.

 

Cùng hòa mình vào dòng chảy chung của thơ ca Việt Nam sau đổi mới, hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn đều thể hiện những chuyển biến đổi mới trong thơ ca của mình từ phương diện nội dung đến hình thức thể hiện. Những vấn đề xã hội lớn lao, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, xa rời thực tế cuộc sống đã dần rơi vào quên lãng. Thay vào đó là cách nhìn nhận, đánh giá lại các giá trị sống, những chuẩn mực xã hội, khám phá thế giới bên trong của con người thông qua nguồn cảm hứng chủ đạo là chính luận, thế sự và đời tư đi vào thơ ca của hai nhà thơ như một niềm khắc khoải, trăn trở với cuộc đời. Ở đó có sự mạnh mẽ, dứt khoát nhưng cũng day dứt không nguôi.

 

Thơ với mạch chảy là hiện thân của những hình ảnh đứt đoạn, nhảy cóc, mở ra những trường liên tưởng xa nhất định là khó nhớ nhưng như thế chưa hẳn là không hay. Có rất nhiều khía cạnh khác nhau, như thơ Phạm Thiên Thư ẩn mình trong thần thái phiêu lãng giữa đạo và đời, thơ Nguyễn Quang Thiều mang một nỗi nhớ khắc khoải về ngôi làng nơi chôn rau cắt rốn của mình. Thơ Mai Văn Phấn lại là những trăn trở trước sự đổi thay của cuộc sống muôn hình muôn vẻ. Nỗ lực đi sâu vào thế giới cảm giác, vào cái vô thức, tiềm thức, đánh thức những mối liên hệ ẩn tàng trong lòng tạo vật tồn tại bình đẳng và thống nhất cũng là nỗ lực tra vấn các kinh nghiệm mới mẻ của ngôn ngữ trong việc thăm dò tiềm thức và tái hiện những kinh nghiệm đột khởi tươi ròng.

 

Từ những năm 1990, thơ Việt Nam đương đại bắt đầu có sự chuyển đổi lớn về mặt thi pháp và có thể nói, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ đầu tiên, bằng những nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình, đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt. Thập kỷ tám mươi đã xuất hiện “những tín hiệu mới” trong văn học nước nhà, cả thơ và văn xuôi. Về thơ, trước Nguyễn Quang Thiều đã có sự “vỡ giọng” trong thơ Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Bình Phương,… và trước nữa là Dương Kiều Minh. Hai tập “Củi lửa” (1989) và “Dâng mẹ” (1990) của Dương Kiều Minh đã hiển thị những đổi khác về thi pháp và giọng điệu. Sau “Củi lửa” vài ba năm, khi “Sự mất ngủ của lửa” ra đời, thi đàn mới bắt đầu thực sự dậy sóng với những tranh cãi gay gắt. Giữa lúc đội ngũ đông đảo các nhà thơ trong nước còn mơ hồ, nghi ngờ hoặc về yêu cầu cách tân thơ, thì tập thơ “Sự mất ngủ của lửa” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (1992) đã cất tiếng nói khẳng định, đặt dấu mốc quan trọng khai mở dòng chảy thi ca cách tân trở về sau. Tập thơ đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993, và, nhanh chóng làm xáo trộn tư duy đời sống thơ ca đương đại. Ánh sáng của tập thơ đã lan tỏa, tác động tích cực, sâu rộng trong đời sống thơ ca Việt, gây hiệu ứng dây chuyền. Bắt đầu xuất hiện nhiều tác giả trẻ với những cách viết mới lạ, nhiều khuynh hướng mới được hình thành. Hiện tượng tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”, ở chừng mực nào đó gợi chúng ta liên tưởng tới hiện tượng thơ V.V.Mayakovsky của văn học Nga đầu thế kỷ XX; trường ca Đất hoang (The Waste Land) của Thomas Stearns Eliot trong văn học Mỹ những năm 50 thế kỷ XX… Không ai có thể phủ nhận vai trò cột mốc văn học mà những tên tuổi kể trên đã đánh dấu. Với những bứt phá mạnh mẽ của Nguyễn Quang Thiều, ý thức cách tân về lối viết trở nên thường trực và riết róng. Từ đây, đội ngũ làm mới thơ ngày càng đông đảo với sự hiện diện của Trần Quang Quý, Nguyễn Quyến, Mai Văn Phấn, Inrasara, Trần Tiến Dũng, Trần Anh Thái, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh,… Không cần cường điệu, có thể khẳng định dứt khoát: tính đến thời điểm này, những cách tân nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều vào những năm đầu 90 của thế kỷ XX là những cách tân tạo được hiệu ứng nghệ thuật sâu đậm nhất trong thơ Việt sau 1975.

 

Sự cách tân trong thơ Nguyễn Quang Thiều, cả mặt thành công và cả những điều chưa tới đã tạo nên sự khác lạ về cái nhìn nghệ thuật, hệ thống biểu tượng, cách tổ chức cấu trúc văn bản….Tất cả xuất phát từ những cơn mơ hoang tưởng Nguyễn Quang Thiều. Rõ ràng, kể từ “Sự mất ngủ của lửa”, Nguyễn Quang Thiều đã đẩy nhịp điệu đổi mới thơ lên một tầm mức mới, cú hích nghệ thuật của anh có khả năng gây chấn động mạnh.

 

Bên cạnh đó, trong số những nhà thơ sung sức hiện nay đang có những cách tân được dư luận chú ý phải kể tới Mai Văn Phấn. Thơ của ông biết cách giữ được đặc thù của ngôn ngữ thơ trong chuyển động đổi mới của những con chữ. Đây chính là sự khác biệt giữa một số cây bút cách tân đã nhân danh cái mới để "lạ hóa" thơ đến mức phản-thơ với những tác giả có xu hướng tìm tòi nhằm nâng cao vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ bằng những ý tưởng mới. Điển hình như cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn, không phải là cái tôi công dân, cái tôi sử thi, hay cái tôi riêng tư, mà là cái tôi nhân sinh. Nhà thơ chuyển từ quan niệm thơ là nỗi lòng mình, mục đích khiến cảm động lòng người đến thái độ coi thơ là cách lập ngôn, làm thơ là thực hiện đạo sống. Hai đối tượng chính lập trình nên dòng thơ này là con người và thiên nhiên, đến mức tác giả không nén được, phải tuyên bố bằng câu kết của trường ca “Người cùng thời”: “Khắp nẻo không gian đã giãn ra cho tiếng trẻ con đồng thanh trong lớp/ Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!” Ở đó sẽ thể hiện tầm vốc của thi sĩ chính là khả năng khái quát, biến những hình ảnh thân thuộc thành biểu tượng của thi ca.

 

Nhìn chung, tuy bước đầu có sự lúng túng giữa các các trường phái, có cả những vấp ngã, lạc đường dung tục, có những khuynh hướng phi thơ. Bên cạnh đó, cũng có những những tác giả trẻ có kiến thức tổng hợp và phong phú, có biểu hiện khao khát muốn mang đến một diện mạo mới, một tâm thế mới để hòa bước vào hành trình thi ca của dân tộc. Với tâm thức của thời đại, họ biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà không đánh mất bản chất tâm hồn Việt, vốn trong sáng, chân thành, bao dung mà rất hiện sinh, tinh tế trong cảm nhận, nhân bản và hồn hậu trong cách nhìn, cách nghĩ về số phận con người.

 

1.3.2. Hành trình thơ văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn

 

Thơ Nguyễn Quang Thiều có điểm khác biệt rõ nét với phần đông các nhà thơ đi trước khi thơ ông không có sự mô phỏng, sao chụp rồi đặt vào đó những ẩn ý, chủ ý. Nguyễn Quang Thiều thường bày tỏ thái độ thẳng thắn, quyết liệt, trực diện nhằm lý giải một cách chính xác nhất bản chất, chân tướng của đời sống: “Tôi là con chim sinh đầu hoàng hôn, cuối bình minh chưa biết hót. Cặp mỏ tấy sưng mổ những thì thầm” (“Bài hát”). Đó đồng thời cũng là nỗi khắc khoải, khao khát tự do, công bằng, là chân lý của mọi thế hệ, nhất là thế hệ ông. Những vẻ đẹp lộng lẫy, rộng lớn nhiều khi hiện hữu trong những điều hết sức bình dị của đời sống, trong hơi thở, trong cử chỉ hành động và lối cảm nghĩ của mỗi chúng ta.

 

Tập thơ “Châu thổ” (2010) gồm 144 bài được Nguyễn Quang Thiều tuyển chủ yếu trong 6 tập của ông từ năm 1990 đến năm 2010, trong đó có khoảng 58/144 bài là thơ văn xuôi (theo quan điểm của tác giả bài viết này). Từ tập “Ngôi nhà tuổi 17” (1990) - làm trong những năm 80 của thế kỉ 20 - đến “Cây Ánh sáng” (2009) - thập niên đầu của thế kỉ 21. Và năm sau, năm 2010, tuyển thơ lần thứ nhất của ông ra đời. Gối đầu qua 2 thế kỉ, với gần ba mươi năm hành trình lao động sáng tạo, Nguyễn Quang Thiều đã tạo thành một hiện tượng thơ với nhiều ý kiến khác nhau, trái chiều.

 

Từ tập thơ đầu tay “Ngôi nhà tuổi 17” (1990) đến tập thơ thứ hai “Sự mất ngủ của lửa” xuất hiện hai năm sau đã cất tiếng nói khẳng định, đặt dấu mốc quan trọng khai mở dòng chảy thi ca cách tân trở về sau. Ở những tập thơ nối tiếp phía sau, từ “Những người đàn bà gánh nước sông” (1995) đến tập thơ “Châu thổ” (2010) đã cho thấy thơ ông tỏa sáng trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác nhau, với nhiều cung bậc cảm xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả siêu thực trong đó có thơ văn xuôi. Thơ văn xuôi của ông, dù viết về đời thường dung dị vẫn ẩn chứa tài năng, tài hoa và sự tinh tế. Những bài thơ “Chuyển động”, “Bài hát”, “Lời cầu nguyện”,”Chuyển dịch màu đen”, “Những ví dụ”,… là những ví dụ tiêu biểu. Bên cạnh những bài thơ về xã hội, triết lý, nhân sinh, tiên tri,… nhiều bài thơ mang tầm vóc thời đại với tầm tư tưởng lớn được Nguyễn Quang Thiều khắc hoạ thành công, với tính khát quát và biểu tượng cao. Các bài như “Bầy kiến qua bàn tiệc”, “Dưới trăng và một bậc cửa”, “Con bống đen đẻ trứng”, “Nhịp điệu châu thổ mới”, “Bài ca những con chim đêm”, “Nhân chứng của một cái chết”, “Cây ánh sáng”,… là những bức tranh minh họa đặc sắc cho mảng thơ này. Hiện thực trong thơ văn xuôi Nguyễn Quang Thiều thường được tái hiện như giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải trong những cơn dư chấn; là giấc mơ của người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến hiểm nghèo, hoặc như người vừa chợp mắt đã nhìn thấy những trải nghiệm trong đời thực nhưng được phóng chiếu theo những cách thức khác lạ, có thể cảm nhận được cả hơi thở nóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh hoàng của đời sống trên da thịt.

 

Có thể nhìn ngắm hiện thực thơ văn xuôi trong tập “Châu thổ” của Nguyễn Quang Thiều với nhiều gam màu dị biệt, lạnh lùng u tối nhưng không bi lụy, tuyệt vọng,… mà ngược lại, luôn thấy ánh sáng hy vọng, niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tốt đẹp. Đó cũng chính là vẻ đẹp vĩnh cửu và quyền năng tái tạo thế giới của thi ca: “Nhìn xa chân trời nơi bình minh hé môi cười là bóng/ Những gót chân đích thực, những gót chân đang khuất/ Như những vệt nước lớn bay hơi nhẹ nhõm không rên rỉ điều gì…/ Cho đến khi từ vòm miệng nồng hôi, nhớp nháp/ Những cái lưỡi của người tìm được lối ra” (“Bình minh đang lên”). Bằng linh cảm nhạy bén và khả năng tiên tri của thi sĩ, Nguyễn Quang Thiều đã nhìn thấy khoảng cách từ bóng tối tới ánh sáng  đó là cách nghĩ, cách gợi, một gọi mời của thi sĩ khi ranh giới giữa xấu tốt thị phi là… vô cùng mỏng manh.

 

Những cuộc lên đường cũng là điểm đến trong chuyển động thơ Nguyễn Quang Thiều. Đó là con tằm chui ra từ vỏ kén, là mầm cây bật lên từ khe đá, là cơn mưa xuống ngọn đồi trơ trọc, đích đến phía chân mây mù mịt sương mù, là sự dũng cảm nhích lên nửa bước chân, những mất mát thua thiệt trong đời sống được đền bù: Và giờ đây trong bóng tối của tháng Chạp đông cứng như một chiếc hàm thiếc/ Tỏa rừng rực hơi nóng những bao hạt giống/ trong tiếng nghiến kiên trì khủng khiếp của bánh xe/ đi đến cánh đồng đang chờ quyền phép của tháng Giêng ban tặng” (“Quyền phép của thời gian”). Ở đó, thường mở ra không gian bất tận để bạn đọc nhận ra mình đang đứng trong áp lực của những cơn gió lớn và ông đã thấy “Con đường và số phận dân tộc chúng ta từ một đỉnh đồi” (“Bài ca những con chim đêm”).

 

Cùng với Nguyễn Quang Thiều và nhiều tác giả khác góp phần định hình nên thể thức thơ văn xuôi ở Việt Nam thì chúng ta không thể không kể đến Mai Văn Phấn. Nhà thơ ngay từ những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước bằng sự giản dị bình thường của cuộc sống thường nhật mà nói được vấn đề lớn đang thu hút sự quan tâm của nhiều người, như công cuộc đổi mới hồi bấy giờ. Thơ Mai Văn Phấn chỉ nói đến cái riêng mình, từ cái có thật của riêng mình, nhà thơ đề cập tới những mối quan tâm chung của xã hội, hay nói cách khác là chỉ bằng sự giản dị, ngay từ bấy giờ, không gian thơ Mai Văn Phấn đã được đặt trong khung cảnh nhất định. Đến sau những năm đầu thập niên 90 thế kỷ 20, có thể nói thơ ông liên tiếp gặt hái những mùa bội thu, thì từ năm 1995 trở đi, với vốn kiến thức phong phú tích lũy hàng chục năm và sự cập nhật thông tin văn chương gần như hàng ngày, nhất là thơ, cả trong nước và ngoài nước, Mai Văn Phấn tự mình làm cuộc “lột xác” bằng việc thử sức vào một số khuynh hướng thơ trên thế giới. Nhưng công bằng mà nói, giai đoạn từ năm 1995 đến 2000, bên cạnh những bài thơ kết hợp được truyền thống với tâm thức, thì cũng không ít bài thơ của ông sa vào rắc rối, bí hiểm, khó hiểu, một số bài như thách đố người đọc.

 

Cho đến năm nay, ngoài hai tập thơ công bố trên website riêng là Anhanhemem, Quay theo mái nhà ra, Mai Văn Phấn đã cho in 10 tập thơ và 1 tập trường ca, gồm: Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997), Người cùng thời (1999), Nghi lễ nhận tên (1999), Vách nước (2003), Hôm sau (2009), Và đột nhiên gió thổi (2009), gần đây là Bầu trời không mái che (2010) và Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn” (2011). Trong đó, đặc biệt tập thơ tuyển năm 2011 có ý nghĩa như sự đánh dấu hành trình sáng tạo thơ ca của thơ Mai Văn Phấn. Trong tập thơ có 197 bài thơ và một trường ca, trong đó có đến 43/198 bài thơ là tác phẩm thơ văn xuôi cho thấy  tập thơ này mang một phẩm chất khác hẳn, cả hồn lẫn xác, đánh dấu bước chuyển rõ rệt trong thơ Mai Văn Phấn từ lãnh địa thân thuộc của thơ ca truyền thống bước hẳn sang khoảng không diệu vợi của thơ ca hiện đại.

 

Mai Văn Phấn cũng đã tạo dấu ấn riêng về thơ văn xuôi ở những nơi nào có thể: hơn chục bài thơ độc lập trong giai đoạn truyền thống (“Lúc mặt trời mọc”, “Hoa bằng lăng”…) và nhiều bài ở thời cách tân; nhiều trường đoạn trong một bài thơ dài (các đoạn 6, 8, 16, 23… của “Những bông hoa mùa thu”); tất nhiên cả trong trường ca (Chương VI, Cộng hưởng II, Chương VII, “Mail cho em”… trong “Người cùng thời”). Cũng như trường ca, thứ “văn bản nặng” và thâm niên này của lịch sử thơ ca thế giới và Việt Nam luôn là bến đỗ của các tranh luận, khiến nhiều người vẫn khoan khoái khi đánh đồng việc sáng tác thơ văn xuôi (điều bình thường) với sự thay đổi thi pháp, làm mới lạ thơ (điều bất thường). Mai Văn Phấn tự đánh giá: “Khuynh hướng cách tân của tôi, là xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thi ca. Tôi đã từng thử nghiệm thành công, viết nhiều bài có hình thức văn xuôi xuôi, nhưng quyến rũ bạn đọc vào một không gian thơ rộng lớn và thậm phồn.” [25; 6]

 

Có thể dễ nhận ra những phẩm chất thi ca mới mẻ từ tinh thần tới ngoại hiện ở hầu hết các bài trong những tập thơ sau của Mai Văn Phấn: “Hôm sau” (2009), “Và đột nhiên gió thổi” (2009), “Bầu trời không mái che” (2010). Cố nhiên đôi lúc ông vẫn có ý định trở về với những vần thơ chân chất buổi đầu, nhưng hầu như với những biểu hiện không còn như cũ nữa. Thơ Mai Văn Phấn thời này có thể nói luôn gắn với đời sống theo yêu cầu nghiêm nhặt của thứ mỹ học hiện thực cổ điển: “Đất miên man tìm đến chân trời/ Hơi thở đằm của bờ xôi ruộng mật; Trong mơ thấy ban mai thành lúa vàng ươm/ Và dấu chân người gieo thành hạt thóc; Những hạt mưa đang thầm thĩ trên đầu/ Đất vạm vỡ dưới bầu trời tươi tốt/ Qua vỏ trấu của mùa gặt trước/ Đã nảy những đọt mầm tia nắng tinh khôi” (“Tiếng gọi từ những cánh đồng” ). Không lấy làm lạ khi vào thời ấy thấy Mai Văn Phấn thi thoảng cũng ưa đánh đu cùng thể lục bát truyền thống “Vẫn nghe tiếng gọi ê a/ Chồn chân tóc lại mở ra làm buồm” (“Du ca”)Rồi “Bàn tay đã đẫm hương thơm/ Dìu em về lại con đường rung cây” (“Du ca”). Như đã thấy, ông nào có kém cạnh gì với những bậc thầy lục bát thời hiện đại “Gọi tìm tôi thuở dại khờ/ Về thương tôi của bây giờ tinh khôn” (“Không đề 1”). Hay “Đem thời gian bắc cầu vồng/ Gieo cơn mưa xuống cánh đồng tuổi thơ” (“Mưa cuối hạ”). Vậy là ông vẫn nhất quán với lối viết quen thuộc như từng được thổ lộ trong bài “Một lần thi pháp”:Chọn màu áo em/ Làm bìa tập thơ/ Những đốm bóng/ Theo tay người dệt lụa/ Miệng tằm/ Bờ bãi/  Bóng dâu”... 

 

Sau bước đột phá của một thể loại mới là thơ văn xuôi với những khám phá mới mẽ theo xu hướng hiện đại và rất kén độc giả. Hơn thế, ở thể loại mới này, dường như ông đã thoát ly hoàn toàn với những vấn đề “nhạy cảm” xã hội, bỏ ngoài tai mọi cám dỗ chính trị, loại khỏi bộ nhớ đủ thứ màu sắc chủ nghĩa cùng những hệ lụy của nó để tìm đến ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo, cho dù đó là cảm hứng cô đơn trên miền đất hoang vu như cánh rừng tiền sử vừa trải qua cơn đại hồng thủy. Cảm hứng chủ đạo của trong thơ văn xuôi của ông thường là nhân sinh, những vấn đề về đời sống đa dạng nhiều chiều và những dạng thức khác nhau của tình yêu được phát triển trên cái nền cổ điển thông qua ngôn ngữ đời thường giản dị. Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trưng của bút pháp Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ văn xuôi thường là không vần, không nhịp điệu, không đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc ngữ pháp. Đúng như phát hiện của nhà thơ Lê Đạt, “chữ bầu nên thơ”, hiệu ứng của những dòng thơ cấu trúc ngôn ngữ bị thay đổi hay chuyển dịch vị trí cú pháp dẫn đến thay đổi cả về nội dung ngữ nghĩa lẫn giá trị biểu cảm. Tuy nhiên, đó là thế giới khách quan, vì thế, nó luôn song hành với hiện thực cuộc sống nhưng thường đưa ra những cách giải thích của riêng mình.

 

Có thể nói, thể thức thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn dường như đã thoát khỏi ràng buộc có tính quy phạm của những định chế xã hội. Những đối tượng mà chủ thể “trần thuật” hoặc hồi ức trong đời sống tự nhiên đều vận hành theo tinh thần tự do, an nhiên trong một thế giới không có bạo lực, không chiến tranh. Chẳng những thế, nó còn thoát ly ngay cả thứ đạo đức giả được núp dưới đủ thứ danh xưng mỹ miều mà xác lập cho mình một thang giá trị mới. Thi pháp này không xa lạ mà chỉ là sự tiếp nối một cách sáng tạo truyền thống thi ca của cha ông ta từ cả ngàn năm trước. Từ cách nhìn của tác giả, người đọc nhận thức thêm được một điều, thiên nhiên thật hào phóng, tình yêu thật diệu kỳ một khi con người hiểu được tiếng nói của nó bằng trái tim mình. Đúng như phương châm thẩm mỹ mà trong một lần đã được Mai Văn Phấn điềm tĩnh thốt lên: “Quá trình sáng tạo chính là những cuộc cách mạng liên tiếp xẩy ra trong mỗi nhà thơ” [26; 398]. Hành trình thơ văn xuôi cho đến giờ của Mai Văn Phấn nhìn đại thể là vậy. Phía trước vẫn còn đó: Một khoảng không rộng mở… cùng một khát vọng da diết… có lẽ vì thế mà Mai Văn Phấn từng tâm niệm: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [26; 411]

 

Thiết nghĩ đó không chỉ là tâm niệm của nhà thơ Mai Văn Phấn mà còn là tâm niệm và suy nghĩ chung của nhiều nhà thơ khác đang trên hành trình cách tân, tìm tòi sáng tạo những hiệu ứng mới trong nền thơ ca dân tộc đang trên nền hội nhập và không ngừng phát triển như hiện nay. Sự cách biệt giữa khát vọng sáng tạo của người nghệ sỹ đích thực và thực tế cảm thụ của công chúng nghệ thuật rộng rãi là có thật. Bởi vậy, với những ai luôn mong muốn sự tiến bộ thật sự trong nghệ thuật không thể không có nhu cầu xóa bỏ sự cách biệt vô lối và vô lý ấy. Nhất là giữa lúc này, khi nền nghệ thuật dân tộc ta đang đứng trước những thách thức cùng những đòi hỏi ngày một cao và lớn hơn nhiều.

 

 

 

 

Chương 2

 NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ VĂN XUÔI

CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN

 

Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, cảm hứng chủ đạo được hiểu là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên xuốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Bê-lin-xki xem cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [29; 45]. Có thể thấy rằng, cảm hứng chủ đạo mang lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm. Như vậy, cảm hứng chủ đạo ban đầu là cái thuộc về chủ thể sáng tạo, nhưng mỗi chủ thể sáng tạo lại thường chọn cho mình một hình thức sáng tạo phù hợp với từng nội dung phản ánh nhất định. Trong thực tế, cảm hứng chủ đạo của tác giả đã chuyển hóa thành cảm hứng chủ đạo của tác phẩm, thể loại tác phẩm.

 

Thơ văn xuôi Việt Nam nói chung và hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng, viết về nhiều đề tài, bộc lộ nhiều trạng thái tâm lý của nhân vật trữ tình. Nhưng nhìn chung, cái nhìn của các tác giả thơ văn xuôi phần lớn đều xuất phát từ mối quan hệ giữa con người cá nhân với đời sống xã hội và lịch sử. Cảm xúc, tình cảm thơ cũng hình thành từ mối quan hệ này. Nổi bật hơn hết là dòng cảm hứng thế sự và dòng cảm hứng chính luận.

 

2.1. Cảm hứng thế sự

 

Tác giả Nguyễn Ngọc Thiện đã rất có lý khi cho rằng sở dĩ thơ văn xuôi phát triển mạnh trong thời gian gần đây là vì nó “đáp ứng được nhu cầu hướng nội, giải bày khá thoải mái sự tuôn chảy của thi tứ, sự ưu thích luận bàn từ gốc độ cá nhân và nỗi khát khao tự bạch chủ kiến độc đáo của chủ thể trữ tình” [12; 649] Đặc biệt là trong thời đại mà cái tôi người nghệ sĩ, cái tôi con người cá thể luôn khao khát được bộc lộ và khẳng định. Trong những điều kiện như thế, thơ văn xuôi trở thành vùng đất màu mỡ để các nhà thơ ươm mầm cảm xúc và tâm trạng. Chính nhờ vào những ưu thế của thể loại, thơ văn xuôi cũng giúp nhà thơ đi vào khám phá những nỗi niềm sâu thẳm của tâm linh, của bản thể con người.

 

Có thể nói thơ văn xuôi là nơi chứa đựng những mảng tâm trạng, những cảm xúc suy tư của nhà thơ về hiện thực cuộc đời, về cá nhân và xã hội. Những tác phẩm thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn, đã tạo thành một cảm hứng xuyên suốt như thế, đó là cảm hứng thế sự. Dòng cảm hứng này chiếm một vị trí đáng kể trong sự nghiệp sáng tác thơ văn xuôi của hai nhà thơ này nhất là trong hai tuyển tập thơ gần đây nhất là tập thơ tuyển “Châu thổ” của Nguyễn Quang Thiều và “Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn” của Mai Văn Phấn.

 

2.1.1. Chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống

 

Vào đầu thập niên 80 của thế kỉ XX, đời sống văn học nước ta có nhiều sự chuyển biến rõ rệt. Bên cạnh sự đổi mới về nội dung, đề tài, hình thức văn học còn có sự xuất hiện những gương mặt nhà thơ mới, điều này đã tạo nên một diện mạo mới cho thơ thời hậu chiến. Sự mới lạ được thể hiện trong cách nhìn cuộc sống, cách thể hiện những lo âu, trăn trở và ngay cả cách bày tỏ cảm xúc, tiếng nói trữ tình trong thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Điều này cho thấy rằng, ở chiều sâu của một quá trình chuyển động, thơ đã có những kiếm tìm thay đổi ngay từ trong ý thức sáng tạo của nhà thơ. Sự thay đổi từ cảm hứng sử thi, hướng đến lí tưởng anh hùng cao cả, thơ đã dần dần hướng về con người cá nhân, chiêm nghiệm, suy tư đối thoại với chính mình, với cuộc sống. Như cách nói cụ thể của nhà thơ Chế Lan Viên “Thơ không phải chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh/ Không phải chỉ ơ hờ mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan” (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…)

 

Thế nên thơ bớt dần lối viết ngợi ca, miêu tả mà đi sâu vào thể hiện những tâm trạng cá nhân, cái tôi trở thành trung tâm của cảm hứng sáng tạo với những dằn vặt, suy tư, tự vấn…Đến đây, một tư duy nghệ thuật mới được hình thành. Một mặt phản ánh về hiện thực cuộc sống, mặt khác cảm hứng sáng tạo lại bắt nguồn từ chính số phận và kinh nghiệm của cá nhân nhà thơ. Nhận thức trong thơ trở nên đa dạng, đa chiều về cả nội dung và nghệ thuật. Chính điều này đã khỏa lấp dần khoảng cách giữa thơ với nhà thơ. Những vấn đề mà trong chiến tranh thơ không nói đến, hoặc có gợi lên thì vẫn hướng đến lợi ích chung của cộng đồng, bây giờ lại được khơi sâu, nhấn mạnh và khẳng định. Nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội tâm…đều được thể hiện bằng những tâm trạng, cá tính sáng tạo độc đáo.

 

Xu hướng cái tôi trong thơ trở về được thể hiện rõ ở sự tìm kiếm, nhận diện chính mình hay nói cách khác đi tìm và khẳng định mình trở thành một khát vọng âm thầm nhưng mãnh liệt trong mỗi cá nhân, bài “Thơ về thơ” của Chế Lan Viên là một ví dụ:

 

“Người diễn viên ấy đóng trăm vai, vai nào cũng giỏi

Chỉ một vai không đóng nỗi

Vai mình

Lỗi ở ai nào? Chính lỗi ở anh

Cuộc đời anh quan liêu, anh trả thù

Anh nghĩ nó là đời anh, nhớ hay quên lúc nào chả được

Anh đóng giỏi trăm vai, lại đánh mất vai mình”

 

Chiến tranh kết thúc, đã qua rồi cái thời người ta dám đứng lên, dám ra đi vì quê hương của mình. Trong thời kì đất nước đang dần chuyển mình, sự mất đi phương hướng của một số cá nhân chưa thích ứng kịp thời là điều dễ hiểu. Mượn hình tượng con ốc sên chậm chạp, không định hướng được tương lai của mình nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã tài tình đặt ra câu hỏi đầy trăn trở:

 

“Bầy ốc sên đã giấu mình trong những gốc chuối, những bụi gai. Giờ thức dậy dưới trăng và ra đi lặng lẽ. Khu vườn này là quê hương chúng, hay là khu vườn bên, hay còn… xa nữa. Chúng đang rời bỏ quê hương mình hay đi tìm lại quê hương.” (“Chuyển động”)

 

Trước kia họ đã từng đồng nhất hạnh phúc với chiến thằng kẻ thù xâm lược mà quên rằng đó chỉ mới là điều kiện cần, còn đường để xây dựng được cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người thì vẫn còn ở phía trước. Vì thế trong tâm hồn họ đã có sự hụt hẫng. Buồn thương khi nghĩ lại cuộc đời mình là điều có thật. Nỗi buồn thời cuộc đã tạo ra những nỗi buồn nhân thế của cả đời người… Như sự đối diện của nhà thơ với chính mình trong câu hỏi mà chẳng cần lời đáp trả:

 

Giấc mơ chúng ta đầy sự xếp đặt và không dám bay lên những đỉnh cây. Và đêm nay trong tiếng sông và tiếng bầy cá. Chúng ta bỏ những ngôi nhà và đứng dọc hai bờ. Một con cá vàng nổi lên hỏi chúng ta cần gì không?

 

Phải chăng chúng ta cần một đôi mắt không biết chớp của bầy cá. Hay chúng ta cần một đôi vây lớn của tâm hồn.

 

Lời của chúng ta từng bất lực trong chính cái lưỡi của mình.” (“Nhân chứng của một cái chết” -  Nguyễn Quang Thiều)

 

Đến đây, chúng ta chợt nhớ đến những dòng thơ của nhà thơ Chế Lan Viên cũng đầy nỗi niềm trăn trở suy tư ngay trong những giấc ngủ chập chờn:

 

“Lũ chúng con đêm ngủ giường chiếu hẹp

Giấc mơ con đè nát cuộc đời con

Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp

Một mái nhà tranh rũ bóng xuống tâm hồn

Trăm cơn mơ không chống nổi một đêm dài

Lòng ta thành con rối

Cho cuộc đời giật dây” (“Người đi tìm hình của nước”)

 

Điểm giống nhau của hai bài thơ là đều thể hiện một cái tôi cá thể đầy suy tư và gần như lệ thuộc vào chính cuộc sống mà không hề có bất kì sự phản kháng nào “Lòng ta thành con rối/ Cho cuộc đời giật dây” và “Giấc mơ chúng ta đầy sự xếp đặt và không dám bay lên những đỉnh cây” Cái bản ngã yếu ớt, nhỏ bé của con người được nhìn nhận, từ bề rộng đến bề sâu, chính sự nhìn nhận nên họ biết mình đang cần gì “Hay chúng ta cần một đôi vây lớn của tâm hồn” . Khi cuộc sống hiện tại làm cho người ta trở nên thực dụng thì những giá trị tâm hồn luôn như một sự cứu cánh, giúp cho con người sống ý nghĩa hơn chăng.

 

Ở đó, ngoài những suy tư, dằn vặt riêng, chung chúng ta còn thấy trong thơ Nguyễn Quang Thiều là sự hoang mang, bế tắc, tưởng chừng như vô vọng trong bài “Nhân chứng của một cái chết” :

 

Đã có những tháng năm tôi trốn chạy. Nhưng ở đâu ngôi sao cũng mọc trước mặt tôi. Tôi đã từng giá lạnh, đã từng hoang vu, đã từng không trả lời được câu hỏi về số phận. Trong những đêm của năm tháng đó, tôi đứng một mình trên cánh đồng xứ sở sau những mùa gặt hái. Sương mù giăng như khói và mây mù che lớp lớp bầu trời. Tôi cất tiếng hỏi những ngôi mộ nhiều tuổi tác. Nhưng không một ngôi mộ nào cất tiếng trả lời tôi. Những ngôi mộ ngồi lặng im và suy nghĩ triền miên về sự sống và cái chết. Và tôi thấy tỏa về xa xăm ánh sáng ngôi sao. Tôi nghe thì thầm một giọng nói. Và thời gian năm tháng ấy đi qua tôi náo nức, và bí ẩn, và câm lặng một niềm tin”

 

Nhưng ngay trong lúc tưởng chừng tuyệt vọng ấy vẫn có ánh sáng của một tia hy vọng bừng lên:

 

Rồi tôi nghe tiếng ông vang lên: “Hãy đừng khóc con trai ta, nước vô tận ở bình không và chữ vô tận trong sách trắng”.

Tôi nín khóc và thấy ánh mắt ông xuyên thủng lớp mây mù. Và dọi sáng bến bờ của đại dương đã chết.”

 

Có lẽ, “nước vô tận ở bình không và chữ vô tận trong sách trắng” chỉ thật sự dành cho ai cần đến, biết quí trọng, nâng niu nó thì lúc đó nước sẽ là vô tận cũng như những trang sách chẳng còn là sách trắng. Một triết lí rất gần gũi từ đời sống, cái gì con người khi cần đến đều trở nên vô giá, những thứ gì con người không cần đến tất yếu sẽ chẳng có giá trị gì như chiếc “bình không”“sách trắng” đều trở nên vô nghĩa. Cũng giống như khi đối diện với cái chết đã được đoán định trước, mọi đồ vật mà thường ngày người ta thường hay trân quí phút chốc cũng trở nên vô nghĩa, nhân vật trữ tình nhìn những đồ vật ấy bằng ánh mắt hết sức bình thản và xem chúng như một nhân chứng hiện hữu trong bài “Nhân chứng của một cái chết”:

 

“Tất cả hồn hoa, thư tình, bồ câu và những cuốn sách gặp nhau trên con đường cắt qua cánh đồng ngoại ô. Cuốn sách già nhất vuốt nước mưa trên mặt và nói: “Chúng ta phải ra đi, nhưng hãy nhớ đường về”

 

Lúc đó trong ngôi nhà nước chiếm ngụ mọi lối đi. Những thỏi vàng ôm nhau chờ chết. Chúng không thể ra đi vì mọi lối đi của chúng đều bị khoá chặt. Thân xác chúng nặng nề không thể nhấc nổi chân.”

 

Mọi đồ vật đều được nhân hóa cho một sự sống, chúng trở nên có tư duy, có linh hồn, có xúc cảm…Từ những “hồn hoa”, lá thư hay cuốn sách đến thỏi vàng, những lá thư, hoa và sách có thể ra đi, riêng thỏi vàng bị khóa trong tủ thì chỉ biết “ôm nhau chờ chết”. Những đồ vật quí giá như vàng, trong giờ phút cuối cùng thì vẫn còn đấy, nhưng cũng chẳng còn giá trị gì, ngược lại những đồ vật như thuyền giấy trong cơn lũ, nước tràn về như thế này lại trở thành vô giá:

 

“Bỗng lúc đó từ một ngõ phố nhỏ tối đen như cửa địa ngục của trí tưởng tượng túa ra những chiếc thuyền giấy. Những chiếc thuyền quá thờ ơ ngày ngày đối với chúng ta... Những chiếc thuyền vẫn tràn ra từ ngõ phố tối đen. Như ánh sáng phun trào từ bóng tối.”  (“Nhân chứng của một cái chết”)

 

Ranh giới giữa những giá trị thực và ảo gần như chỉ trong tít tắc mơ hồ, khó mà phân định. Cuộc sống con người cũng vậy, cần bao nhiêu niềm tin để con người có thể sống tiếp, vượt qua những khó khăn, sóng gió. Đâu là giá trị thực cần thiết, đâu là những giá trị ảo mà con người vẫn mù quáng đánh đổi ngày ngày, câu hỏi như trở nên bứt bách hơn bao giờ hết, nhưng câu trả lời thì mãi chỉ là một ẩn số vô hình.

 

Bên cạnh những suy tư, trăn trở về hiện thực cuộc sống trong thơ Nguyễn Quang Thiều còn được nói đến bởi cách phản ánh hiện thực cuộc sống qua số phận của những người phụ nữ. Vấn đề đó không mới nhưng lại là sự nhức buốt đã xuất hiện trong văn học trung đại và nó vẫn có sức ảnh hưởng cho đến ngày nay. Đó là vấn đề về người phụ nữ. Vấn đề này đã được phản ánh qua những tác phẩm đi cùng với thời đại như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Khuê oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, đến kiệt tác của văn học Việt Nam là Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đến thời kì văn học đương đại, sau khi chiến tranh kết thúc, một cuộc sống mới được xây dựng những tưởng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho những người phụ nữ ngàn đời vất vả “bẩy nổi ba chìm” nhưng không, cuộc đời của họ dường như bước từ một nổi khổ đau này sang khổ đau khác. Nếu thời kì chiến tranh họ vò vỏ ở nhà nuôi mẹ già, nuôi con thơ cho chồng yên tâm đi đánh giặc ngoại xâm, khi hòa bình họ lại trở thành những góa phụ với cuộc sống lặng thầm trong bài “Những ví dụ” của Nguyễn Quang Thiều như:

 

“Những người đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai, trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất vả. Họ mộng du qua những cơn gió hồng hoang nổi lên lúc mặt trời lăn vòng cuối cùng vào bóng tối.”(“Những ví dụ”)

 

Đề tài về người phụ nữ là đề tài không hề mới, nhưng đến giai đoạn văn học này, cái nhìn về người phụ nữ lại càng sâu sắc hơn. Họ là nạn nhân của những cuộc chiến phi nghĩa, chính chiến tranh đã cướp đi hạnh phúc gia đình giản dị mà những người phụ nữ luôn ao ước. Nếu như Hữu

 

Thỉnh khắc họa hình ảnh người phụ nữ cô độc, lẻ loi ngay chính ngôi nhà, tổ ấm của mình với những vần thơ khiến người độc không khỏi xót lòng trong trường ca “Đường tới thành phố”:

 

“Những đêm trở trời trái gió

Tay nọ ấp tay kia

Súng thon thót ngoài đồn dân vệ

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”

 

Thì hình ảnh người phụ nữ góa trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng cô độc, lặng lẽ không kém. Họ lặng lẽ đếm thời gian đi qua tuổi xuân thì, lặng lẽ ngay sau những ngọn cỏ dại trên đồng, như mình chưa từng tồn tại:

 

“Thời gian cứ lặng lẽ…lặng lẽ chảy ào vào chiếc bình gốm cổ khổng lồ. Những người đàn bà góa bụa làng tôi như những con cào cào áo nâu cứ khuất dần… khuất dần sau cỏ.”(“Những ví dụ”)

 

Và đằng sau sự cô độc, lặng lẽ đó gần như là sự cam chịu, câm lặng ngàn đời của người phụ nữ truyền thống. Họ chỉ tồn tại như một bản thể không tên tuổi, không danh phận, họ chỉ được nhắc nhớ qua những hình ảnh bình thường như ngọn cỏ, cái cây:

 

“Mưa chảy trên mặt cô đan thành tấm mạng. Nước quấn chặt thân thể cô. Và cô trở thành con đường của nước. Cô là sự dâng tràn, sự bền bỉ và sự lặng câm của nước. Cô như bức tượng dựng lên của thị xã này từ thuở chưa có những cái cây.

Chớp lóe lên soi mặt cô tái nhợt. Hai bàn tay cô ấp chặt vào nhau. Trong ánh chớp cô trắng lên như một quả đồi. Sấm càng rền vang càng làm sự im lặng của cô lặng im hơn. Đôi mắt cô như hai hồ nước lớn. Chớp không rọi tới được đáy hồ. Sấm không vọng tới được đáy hồ. Nỗi cô đơn và sự chờ đợi chiếm ngự hoàn toàn nơi đó (“Nhân chứng của một cái chết”)

 

Những người phụ nữ giữa nỗi cô đơn của sự chờ đợi vây trùm lấy họ, chênh vênh, chính họ phải đi qua nỗi cô độc trong sự bình thản như “Sấm không vọng tới được đáy hồ”. Hay là nỗi đau khắc khoải, âm ỉ, cồn cào trong bài “Nước mắt” của Mai Văn Phấn:

 

“Nước mắt những người đàn bà góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có bao nhiêu hòn Vọng-Phu. Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày tàn héo xuân xanh, rồi bay về trời tụ thành mây hồng hoang. Đám mây hình những người đàn ông mơ màng... mà không, họ đang thao thức trên đầu ta từng mảng rêu phong. Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hoá. Các anh về rồi lại ra đi. Bởi sấm đã rung và chớp đã giật, mây chồng lên mây, người chất lên người.

Thương các chị mòn mỏi khóc bao đêm mà trời chỉ trả cho nước mắt đôi lần. Nước mắt bay ngang trời bầm tím! Từng mái gianh nghèo như mi mắt ai đẫm ướt. Các chị hứng mưa, giọt từng giọt như lần tràng hạt: Mưa! Mưa! Mưa!

Nụ hôn nào trong veo tan loãng thế. Các chị cầm tan nát đóa hoa mưa...” 

 

Đó là “Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hoá”  vì họ không thể ngã gục trước nỗi đau nên chỉ còn cách vươn lên mà sống, sống kiên cường và sống mạnh mẽ hơn. Nhưng sự bình thản đến kì lạ của họ không làm cho chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn, mà ngược lại sự bình thản ấy làm cho chúng ta càng đao đáo về những số phận, những con người nhỏ bé giữa cuộc sống mênh mông, vô cùng. Chính cảm hứng này, thơ Mai Văn Phấn cũng làm cho người đọc không khỏi khắc khoải lo âu cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh:

 

“Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.

Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi vừa nãy!” (“Bừng tỉnh trên tàu”)

 

Câu hỏi cuối bài thơ đầy khắc khoải, đó là cái ga nào, có hay không có, để đón nhận một số phận bé nhỏ, mong manh. Tại sao nhân vật trữ tình không thắc mắc người phụ nữ kia sẽ đi đâu, đã đi đâu, số phận chị ra sao, mà chỉ hốt hoảng, lo lắng chị đã xuống ga nào hay bị trượt chân ngã xuống đường tàu. Như một sự dự đoán trước hay sự cảm nhận về sự yếu đuối, mong manh của chị , nhân vật trữ tình đã nhường chỗ cho chị ngồi, chị từ chối nhưng vẫn có điều gì như thôi thúc khiến anh bừng tỉnh giữa giấc ngủ hay đó còn chính là sự bừng tỉnh của nhận thức, cần phải chở che cho những phận người đặc biệt là người phụ nữ.

 

Những thế hệ nhà thơ tính từ sau Nguyễn Quang Thiều không còn mang mặc cảm của người dân mất nước, nhưng từ cuộc sống hòa bình, tấp nập, nhôn nhịp, nỗi cô đơn vẫn hiện hữu. Tuy đó không còn là nỗi buồn trước trời nước bao la kiểu như “Sông dài trời rộng bến cô liêu” (Huy Cận), con người của thời đại mới không còn đủ thời gian cho những điều ấy, mà nỗi buồn, nỗi cô đơn của học xuất phát từ thực tế cuộc sống. Giống như thơ Nguyễn Quang Thiều, thơ Mai Văn Phấn cũng chất chứa nhiều những trăn trở, suy tư và cả sự khao khát kiếm tìm một thế giới mới để giải tỏ đi nỗi cô đơn, một thể nghiệm mới lạ hơn:

 

“Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si.

Từng âm giai vỗ cánh bay đi, chao nghiêng trong ánh sáng bảy màu lung linh huyền ảo, để những bóng tối kia cũng mang hình ống sáo, cho tôi lại ghé môi khắc khoải thổi vào.”(“Viết cho cây sáo” )

 

Mà sự mới lạ ở đây chính là sự thay đổi những thang bậc giá trị to lớn trong đời sống xã hội, cùng với cuộc sống đời thường con người luôn phải đối mặt với những lo toan thường nhật. Nhà thơ cũng ở tư thế ấy để nhìn nhận, chiêm nghiệm, nhìn thẳng vào hiện thực. Sự xuất hiện những bài thơ thế sự từ chiều sâu rung động chính là tiếng nói muốn thức tỉnh những tâm hồn đã và sắp rơi vào vô cảm. Mượn hình ảnh con quạ, trong bài thơ “Biến tấu con quạ”, Mai Văn Phấn đã làm được điều này

 

“Những đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi vào.

Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.

Con quạ khật khừ xuyên đêm

Thảng thốt kêu

Lần đầu tiên tiếng động ra đi không vọng lại”

 

Con quạ như lẽ loi, cô đơn đối diện với chính mình trong bóng tối, sự thảng thốt, tiếng kêu thất thanh không được đáp trả, hụt hẫng, âm thầm. Ở đó có đôi lúc, tưởng chừng như chính con người rơi vào vực sâu bế tắc. Sự bế tắc do chính mình tìm được nguyên nhân, nhưng không thể giải quyết được dẫn đến sự hoang mang cực độ:

 

“Sau giấc ngủ dài mới hay cả quá khứ bị đánh cắp. Trên cỏ xanh kia, những đỉnh núi đã bị san phẳng, hàng rào được đan bện cẩn thận đang co lên lơ lửng trên đầu. Mắt ngọn đèn soi trong đêm lầy lội cùng vẻ mặt quan trọng của người hàng xóm giờ mủn bục. Trên cỏ xanh kia ta được sinh ra và ủ ấm bằng nhiều quan niệm. Từng xả thân, từng lắt léo, từng kính trọng, từng bợ đỡ, từng hãnh hỗ, từng nịnh nọt, từng mạo nhận, từng thủ dâm, từng thánh thiện, từng vu oan, từng thiêng liêng... Cỏ lừng lững dựng lên trước ta uy hiếp”(“Di chứng”)

 

Thật đau xót khi ngay những đứa trẻ, những tâm hồn trong trẻo cũng bị ảnh hưởng, không khác gì người lớn, thậm chí còn đầy ngờ vực và hoang mang cực độ hơn:

 

“Lũ trẻ xóm tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh  tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm, chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… Ít thấy chúng gào khóc ăn vạ. Có đứa nghẹn ngào: “Trẻ con nước mắt chảy vào trong!”(“Dạy trẻ con”)

 

Cái mà tác giả gọi là “bệnh tuổi già”, tạo cho người đọc một cảm giác vừa bất ngờ, thú vị vừa xen lẫn sự chua xót, ngậm ngùi. Đáng lẽ ở lứa tuổi các em, các em còn đang hồn nhiên cười đùa, chơi và học, vậy mà chúng đã sớm ý thức nhận ra Trẻ con nước mắt chảy vào trong!, có những nỗi lo sợ không khác gì những ông bà cụ tuổi tám mươi. Hay đó còn là sự đối diện với con người bản thể, sự đấu tranh giữa phần con và phần người để sinh tồn mặc cho bản năng hành hạ, nhưng khi đã chấp nhận từ bỏ phần con thì con người như sống tích cực hơn, khoang dung và độ lượng nhiều hơn

 

“Bàn tay săn bắn và hái lượm giờ tìm đường lên vì sao và xuống các đại dương. Ta bỏ lại phần Con để đến với phần Người không phải không có lúc bị bản năng hành hạ... Trái tim là khoảng sáng tầm nhìn, vin một nhành hoa, nhặt vài chiếc lá... Một viên cuội vô tình an ủi trái tim ta.” (“Trái tim giải thoát”)

 

Cho đến sự đấu tranh giữa cuộc sống bình dị không đua chen và quyền lực, tham vọng, của cải vật chất và tâm hồn thánh thiện, thanh cao dường như là cuộc chiến không có hồi kết bên trong một con người:

 

“Tôi đi xe hết ga hết số. Răng nghiến chặt. Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt trên mặt đất. Những hàng cây, bức tường mới cũ, cùng những bóng người trôi vụt lại sau. Đích đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng... Hắn kéo căng mọi giác quan tôi, ninh nhừ ý nghĩ, đóng đinh dây thần kinh giữa hai đầu phố.” (“Đến trong ý nghĩ”)

 

Ý nghĩ muốn rủ bỏ những đều lớn lao, những sứ mệnh của phận người để tìm đến những đều bình dị, không đua chen giữa cuộc sống xô bồ, tự tìm đến sự nhẹ nhàng đơn giản cho cuộc sống của mình từ tinh thần đến vật chất khi người ta quá mệt mõi giữa đời sống kinh tế thị trường tất bật. Không riêng gì tác giả Mai Văn Phấn tìm đến đều này, nhà thơ Thu Bồn cũng có cùng chung ý nghĩ “Tôi lột hết ngôn ngữ bóng bẩy, những áo xống triệu thần trong những tụng ca, những bài thơ trẻ trung cởi áo dưới mặt trời làm nghĩa vụ công dân”. Việc đấu tranh giữa tâm hồn và bản ngã, giữa phần con xác thịt và phần người tâm hồn không phải là một đề tài mới, song với cách nhìn dám đối diện với chính bản chất thật của mình cho thấy sự đào sâu đi vào khám phá thế giới nội tâm của con người, dám nhìn nhận bản chất thật bên trong của mình chính là nét mới của thơ Mai Văn Phấn nói riêng và thơ Việt Nam đương đại nói chung. Khi mà tâm hồn con người được vun tưới, sự u mê của thể xác được đẩy lùi con người mới đủ can đảm để xua đi mọi nỗi sợ hãi mà cảm nhận cuộc sống vẫn còn có những cái đẹp đáng để được ngợi ca, trân trọng như một mầm cây mới nhú, một ngọn cỏ, cành hoa quanh mình:

 

“Vội ve vuốt một mầm cây vừa mọc dưới chân và tưởng tượng ra mùi hoa trái dâng lên trong một khung cảnh mới. Đứng lên, ta hiểu mình vừa xua đi một nỗi kinh hoàng.”(“Giải pháp”)

 

Cách suy nghĩ, chiêm nghiệm, họ như hiểu mình, hiểu người, hiểu đời hơn. Chính vì vậy họ cảm thấy đau đớn, xót xa… và giọng điệu trong thơ lúc này cũng buồn hơn, lắng hơn và cô đơn hơn. Con người với cách hiểu đầy đủ và mang tính nhân văn thì phải chứa đựng trong đó những tâm sự, tình cảm sâu lắng, những vui buồn đau khổ và ngay cả những bi kịch cá nhân. Đứng trước cuộc sống mới đầy rối ren với nhiều so sánh đối nghịch, những trải nghiệm trong đời sống, những mất mát đã qua và những thiệt thòi không được bù đắp. Đứng trước sự tan vỡ của những giấc mơ, bất lực trước những đòi hỏi tất yếu, những giá trị của cuộc sống đã và đang bị tha hóa. Thì làm sao tránh khỏi những nỗi buồn xót xa.

 

Chúng ta có thể thấy, mọi vấn đề của đời sống được gửi gắm nhiều hơn, mạnh dạn dưới nhiều khía cạnh khác nhau, ở đó là những nỗi niềm băn khoăn, sự day dứt, trăn trở về cuộc sống mưu sinh, sự sinh tồn được mất, sự đấu tranh giữa tâm hồn và bản thể, sự cảm thương cho thân phận luôn chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ…tất cả đã phản ánh nên một cuộc sống sinh động, đa chiều trong đời sống hiện thực được phản ánh qua nghệ thuật ngôn từ là thơ ca gần gũi, chân thực và hết sức đa dạng. Góp phần tạo nên một diện mạo mới cho nền thơ ca hiện đại.

 

2.1.2. Khát khao về tình yêu và hạnh phúc

 

Trong sự phát triển đa dạng, phong phú và sinh động của thơ, có một nguồn cảm hứng kì diệu đó là cảm hứng về tình yêu và hạnh phúc. Tình yêu là đề tài muôn thuở, là đối tượng khai thác không bao giờ vơi cạn trong cảm hứng thi ca. Sự xuất hiện hàng loạt tập thơ tình ở giai đoạn này đã nói lên những đòi hỏi bức thiết của ý thức cá nhân con người trong hoàn cảnh lịch sử mới. Nếu như trước đó cả dân tộc gồng mình lên chiến đấu, cảm hứng thơ thường ít đề cập đến tình cảm riêng tư, bởi tất cả đã thấm nhuần một điều giản dị mà rất đổi thiêng liêng “Khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau” (Nguyễn Mỹ). Nếu có viết về tình yêu, thì đó cũng là tình yêu lí tưởng, tan hòa cùng tình yêu tổ quốc. Tình yêu, hạnh phúc riêng tư đã trở nên tầm thường bé nhỏ. Khi chiến tranh kết thúc, trở về với cuộc sống thường nhật, tất cả những gì chất chứa, dồn nén giờ đây đều được gửi hết vào thơ. Hạnh phúc, khổ đau, hi vọng, tuyệt vọng, khát khao yêu thương, sự trỗi dậy của bản năng bên trong con người đều tự nhiên đi vào thơ văn xuôi một cách giản dị nhất, như nó vốn có.

 

Trở về với cái tôi cá nhân, tình yêu trở thành một chủ đề, đề tài lớn trong thơ. Thơ lúc này không ngần ngại đề cập đến sự chung đụng thể xác, từ những ẩn dụ kín đáo cho đến sự phơi bày phóng đãng. Nó trở nên phức tạp và trần tục hơn. Thể hiện khát khao yêu và được yêu mãnh liệt hơn bao giờ hết. Cảm hứng về tình yêu trong thơ văn xuôi đều được nhìn nhận như một nhu cầu nội tại, tự nhiên. Đó là những tình cảm riêng tư, mang nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc, có êm ái thơ ộng nhưng nhiều hơn là những éo le, nghịch lí cùng những đam mê cuồng nhiệt. Tình yêu ấy say đắm mà tỉnh táo, đau đớn nhưng không bi lụy, tin cậy nhưng cũng đầy hoài nghi…Nó bộc lộ được chân dung tâm hồn con người của thời đại bấy giờ.

 

Những nhà thơ trẻ thế hệ ngày hôm nay thường phản ánh tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình, những buồn vui và cả những mất mát với nhiều cung bậc cảm xúc, sắc thái riêng. Tình yêu được phản ánh bằng thơ văn xuôi lúc này thực hơn, đời hơn, phức tạp và cũng đau đớn hơn. Thơ không ồn ào mà bình dị thâm trầm, không có chuẩn mực hay một khuôn mẫu nào nhất định…những vần thơ như bật ra từ chính cuộc sống con người. Từ chính cuộc đời trần trụi, thô ráp, đầy mạnh mẽ và tự tin, đam mê và chấp nhận. Cùng với khát khao yêu thương là niềm đam mê nhục cảm được phơi bày và phản ánh, bài thơ “Màu đen một” của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ:

 

“Hai màu đen đã sát nhau như hai cái cây trong đêm và thì thào như khóc. Thì thào, thì thào dẫn lên thành tiếng gào gọi. Ngôn ngữ trắng không giết được những u oa của chúng. Chỉ còn lại thì thào như lá khua, dội lên trong tiếng răng rắc của cây đang đổ.

Chúng, hai mảng đen, đã trộn vào nhau. Những cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá. Và máu của cô đơn, khát vọng rỉ ra chảy trên hai bi kịch đen. Hai bi kịch rã rượi, soãi dài và bừng lên khoảnh khắc cứu vớt”(“Màu đen một”)

 

Cùng nằm trong mạch cảm xúc này, nữ nhà thơ Dư Thị Hoàn cũng khắc họa khát vọng yêu thương đầy nhục cảm trong bài “Tan vỡ” với những hình ảnh hết sức táo bạo như:

 

Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ

Bút viết xong không đậy nắp bao giờ 

Hỡi anh yêu lơ đãng đến là

Con nai rừng của em

Mọi việc dễ qua đi, dễ qua đi

Chúng mình sẽ thành chồng vợ

Nếu không có một lần, một lần như đêm nay

Sau phút giây êm đềm trên ghế đá

Anh quên gài khuy ngực của áo em”

 

Với thơ Mai Văn Phấn khi vẽ nên những cảm xúc yêu thương mãnh liệt, cháy bỏng, tuy tác giả cũng đề cập đến những xúc cảm cuồng nhiệt yêu thương nhưng ở đây không đồng nghĩa với sự trần trụi, tầm thường mà chính là đường nét nghệ thuật:

 

Lồng vào nhau từng khuôn mặt. Lời vô nghĩa mở ra tưởng tượng. Đặt em nơi khoảng trống, thổi vào những ngón chân làm cơ thể vụt căng xâm lấn không gian. Hơi thở bắt đầu những chuyển động. Bàn chân em dính chặt vai anh. Giọt mồ hôi sáng trong họng tối. Mặc lưỡi mềm vừa treo ta lên...

Miệng anh còn thơm trái cây và hương trà em uống. Chiếc bánh ngọt pha kem lẫn với quế chi. Anh còn nhớ. Chiếc ghế rộng lắm. Khi bờ vai trổ những bông hoa, môi anh thắp ngọn đèn linh thiêng góc tối. Bông hoa chỉ nói được phần nhỏ nhoi lòng đất rộng. Lòng đất rung chuyển khi bông hoa đứng yên.

Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung.” (“Anh anh em em”)

 

Và dường như tình yêu, khát vọng nhục cảm được xem là “Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất”, mượn cảm hứng vũ trụ “Kim, mộc, thủy, thổ, hỏa để tô đẹp thêm tình yêu “Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung  Cũng chính cảm hứng này, Mai Văn Phấn đã đa dạng hóa tình yêu với nhiều hình ảnh mới lạ, so sánh độc đáo đôi tình nhân với đôi “rắn nước, khủng long, thủy triều, đại bàng, gốc cây” là một duyên mệnh gắn chặt qua nhiều kiếp sinh tồn, là hiện tượng “thủy triều, sấm sét” đã tồn tại mặc định trong tự nhiên. Như một sự khẳng định tình yêu bền chặt, hiện hữu, tồn tại tự nhiên và yếu tố nhục cảm nếu có thì chỉ càng tô đẹp hơn tình cảm bình dị và thân quen này:

 

“Kiếp trước em và anh là đôi rắn nước trườn qua bụi cỏ xuống hồ, bơi sóng đôi mềm mại. Là thủy triều cuốn vào chân núi, qua ngàn năm mới để lại vết hằn. Là đôi khủng long lồng lộn trong sa mạc nóng. Đôi đại bàng rơi tự do giao phối trên không. Hai gốc cây bện chặt khi giông bão. Sấm sét đánh xẹp đỉnh núi để lại vết bỏng hoàng hôn …”(“Gặp”)

 

Không chỉ dừng lại ở niềm đam mê nhục cảm của những đôi lứa yêu nhau nồng nàn, cháy bỏng mà ở đó còn là sự khát khao hạnh phúc của những người phụ nữ góa bụa, luôn sống trong sự thiếu hụt tình cảm như bài Những ví dụ” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều:

 

“Những người đàn bà góa bụa làng tôi - những ví dụ - chân không giày không dép. Họ tránh con đường dẫn đến những đêm trăng. Bầu vú họ mệt mỏi nằm ngoẹo đầu và trở lên ngễnh ngãng, không còn nghe được tiếng gọi đàn ông nồng mùi thuốc lào và ruộng bùn ngai ngái, trong những đêm gió từng đôi quấn nhau qua vườn hổn hển. Chỉ tiếng chuột nhắt cắn thóc trong những chiếc áo quan gỗ gạo đóng sẵn làm họ thức giấc. Và họ nằm lo âu trong tiếng mọt cắn gỗ vọng ra từ cỗ áo quan.” (“Những ví dụ”)

 

Họ, những người đàn bà góa, “tránh con đường dẫn đến những đêm trăng” như tránh đi bản năng kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc của chính mình, tránh đi nhu cầu hết sức tự nhiên của một con người bình thường, sự trốn tránh trong thao thức và lo âu ngay cả tiếng mọt cắn gỗ. Từ đây chúng ta có thể thấy rằng, thơ văn xuôi hiện đại không dừng lại ở việc miêu tả cảm xúc tình cảm của con người mà hơn hết là phơi bày, nhìn thẳng vào nhu cầu kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc của con người nhiều, quan tâm đến đời sống, đến khát vọng hạnh phúc thật sự của mỗi con người cá nhân mà xa hơn đó chính là một cái nhìn chứa đựng một tư tưởng nhân đạo, nhân văn hết sức sâu sắc.

 

Bên cạnh những vần thơ đề cao khát khao kiếm tìm hạnh phúc của con người với những tình cảm mãnh liệt, mong muốn yêu thương và được yêu thương trọn vẹn còn là những tình cảm nhẹ nhàng, đầm thắm có sức gợi và sức lan tỏa vào tâm hồn con người hết sức sâu sắc. Khao khát tình yêu đích thực cùng những hạnh phúc đời thường giản đơn và bình dị với những dòng thơ nhẹ nhàng, trìu mến nhưng không hề làm mất đi sự da diết, nồng nàn mà tình yêu lứa đôi vốn có như trong bài thơ “Viết cho cây sáo” của Mai Văn Phấn:

 

“Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi”

 

Quả thật vậy, thơ viết về tình yêu của Mai Văn Phấn luôn đầy ấp những yêu thương nhẹ nhàng, trìu mến mà không hề có những trách móc giận hờn, vị kỉ như thơ của Thường Đoan “Em đã ngốc nghếch làm mái che cho loài chim bạc bẽo. Chỉ biết ấm riêng mình nào hiểu nổi lạnh của ai đâu ! Em đã ngô nghê sống trong tiếng hót của loài chim sâu mà ảo tưởng đến một thiên đường hoàng yến. Em đã mê muội và vắt kiệt dòng máu mình đi hồi sinh cho một kẻ không tim” (“Với loài chim di trú”- Thường Đoan) và cũng không quá mãnh liệt bày tỏ, thẳng thắng kêu gào, vồ vập lên với tình yêu cháy bỏng như thơ của Phạm Thị Ngọc Liên “Em sẽ yêu anh như tháng giêng thương nhớ. Ôi tháng giêng, tháng giêng, tháng giêng. Tháng lộng lẫy của cả mười hai tháng, tháng tiếng hát của các loài chim, tháng vương miện của các loài hoa, tháng hạnh phúc trăm thứ quả...Tháng giêng dài như sông, tháng giêng rộng như biển. Tháng giêng chỡ những lời tha thiết – nói rằng Em yêu anh, yêu anh” (“Em yêu anh như tháng giêng”) Hay như cách thú nhận hết sức thật thà của những người đang yêu nhau về nỗi nhớ, nỗi nhớ ấy không thể hiện cường điệu như ca dao “nhớ ai bổi hỏi bồi hồi/ như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. Ở đây, đơn giản nhớ là nói nhớ:

 

“Trăng mọc sớm, thơ ngây và thoảng mùi rơm rạ. Nhớ người yêu vô cùng.”(“Anh tôi” - Mai Văn Phấn)

 

Và tình yêu cũng được bày tỏ hết sức bình dị, gần gũi và rất chân thật, sống động như cách nói về tình yêu trong bài thơ “Nhắm mắt”

 

“Nhắm mắt thấy em không rộn ràng như khi mở mắt. Nhưng sự im lặng của em vang lên những âm thanh kỳ lạ, mách bảo tình yêu đã thấm vào cây cối, đường xá, phố nhà, vào vườn tược, ruộng nương, sông suối... Từ nay ta không cần nghi ngờ điều gì khi nhắm mắt” (Mai Văn Phấn)

 

Tình yêu “thắm” vào những đồ vật xung quanh và gần như không thể thiếu của sinh hoạt hằng ngày từ “cây cối, đường xá, phố nhà, vào vườn tược, ruộng nương, sông suối...” đây cũng chính là sự khẳng định tình yêu là một phần không thể thiếu của cuộc sống con người.

 

“Ôm em nghe nhạc nước chảy qua triền núi rộng, những vỏ sò vỏ hến hoá thạch đã thức dậy, tổ chim yến trên vách đá lơ phơ… Cây cỏ, con đường, cả viên cuội quanh đây rất lạ. Hình như chúng đã cách xa ta, hôm qua, từ nhiều thế kỷ trước. Hay bóng dáng, hồn vía ta tự kiếp nào chẳng biết, đang bồn chồn chờ những nụ hôn” (“Những bông hoa mùa thu” – Mai Văn Phấn)

 Cách so sánh ví von, ẩn dụ tượng trưng nhẹ nhàng nhưng hết sức đặc sắc. Và chính sự nhẹ nhàng, đầm thắm đó luôn gợi lên cho con người mong muốn về một mái ấm bình yên, giản dị. Nơi mà những người yêu nhau thật sự muốn dừng chân để vun đắp thêm cho tình yêu của mình:

 

“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh...” (“Em cho con bú” – Mai Văn Phấn)

 

Nhân vật trữ tình ở đây, đã tìm được mái ấm của mình từ những điều hết sức bình dị “Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn” là nơi “trú ngụ” bình yên sau những bôn ba, tất bật của đời sống. Không giống như thơ ca thời đại trước, hạnh phúc của anh nông dân mơ ước có một mái ấm “chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” (Ca dao). Như đã nói ở trên, thơ văn xuôi hiện đại luôn phản ánh chân thực bình diện cuộc sống, nếu như thời đại trước tình yêu gắn với lao động sản xuất, con người quan tâm nhiều hơn đến việc “ăn no mặc ấm”. Thì ở thời đại này cái ăn đã được đảm bảo thì con người hướng đến việc “ăn ngon mặc đẹp”, chú trọng nhiều hơn đến yếu tố tinh thần. Chúng ta dễ dàng cảm thông trước ước muốn nhỏ bé của con người hiện đại, họ chỉ cần bên nhau thảnh thơi trong giây phút, không vướng bận bởi cuộc sống xô bồ hay nỗi lo cơm áo, gạo, tiền vất vả:

 

“Mặt biển vừa yên lặng. Kéo mẻ lưới đầu tiên có bóng ngôi nhà mình, anh thấy yên tâm về em và các con” (“Kí sự mùa thu” – Mai Văn Phấn)

 

Quả thật họ cần có một chỗ dựa tinh thần vững chắc để ngày mai lại hòa mình vào cuộc sống với bao nỗi lo toan. Nhưng dù có vất vả, thì khi nghĩ về mái ấm của mình, nơi mình tìm được sự bình thản trong giây phút thì bổng dưng như có một sức mạnh vô hình thôi thúc con người càng phải vun đắp cho cuộc sống gia đình nhiều hơn. Và người đàn ông chỉ cần nghĩ về vợ, con mình cũng đang bình an và hạnh phúc thì họ cũng sẵn sàng đứng nới đầu sóng, ngọn gió để nhận về mình mọi bão giông.

 

Với cách nhìn, cách nghĩ và đặc biệt là cách nói về tình yêu vừa da diết, vừa sâu lắng, vừa mạnh mẽ quyết liệt là những biểu hiện cụ thể về tình yêu trong thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn. Ở đó, yếu tố tự sự và trữ tình, giải bày và lý sự, biện minh... đã hòa vào nhau tạo nên một sắc thái, giọng điệu rất riêng, vừa đắm thắm dịu dàng, vừa hiện thực sâu sắc. Đa dạng, phong phú và nhiều cung bậc cảm xúc đan xen, lắm giọng điệu, nói khác hơn, với thơ văn xuôi tình yêu thật sự đời hơn trở về với bản chất vốn có trước đó của mình, con người trong tình yêu là con người luôn khát khao kiếm tìm và hiện thực hóa hạnh phúc của mình bằng những gì dung dị và đời thường nhất.

 

2.1.3. Yếu tố tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc

 

Bên cạnh sự quan tâm, đề cao cái tôi cá nhân cá thể và khát khao kiếm tìm, khẳng định tình yêu và hạnh phúc lứa đôi, trong thơ văn xuôi còn có sự khám phá, thể nghiệm đi vào khai thác yếu tố tâm linh, những phần sâu kín bên trong thuộc về thế giới nội tâm của con người. Ở đó có sự hoài vọng về quá khứ, về tổ tiên một thời bừng sáng khi đời sống thực tại có những thay đổi đột ngột, nhanh chóng theo chiều hướng kinh tế thị trường khiến con người còn bàng hoàng chưa kịp thích nghi:

 

“Cánh cửa bật mở. Người người gắn chặt vào tổ tiên trong những tảng băng trong suốt. Mọi chuyển động dừng lại tại thời điểm khởi hành. Quá khứ bắt đầu gầm rít quanh đời sống đã chết. Tất cả bị ướp đông trong hơi lạnh nhân tạo. Ướp đông tiếng nói vụng trộm. Ướp đông căn bệnh mãn tính. Ướp đông giọt mực gắn chặt ngòi bút vào trang giấy, chén rượu đưa lên vĩnh viễn cách môi. Nắm đất ném lên trời không bao giờ trở lại. Mặc người nói lắp đã không qua nổi chữ “Và”...

Bóc dần từng mảng thời gian. Quá khứ nhập vào đến đâu, những thân xác nóng lên đến đó. Và kiêu hãnh từ từ. (“ Bến cuối” – Mai Văn Phấn)

 

Dường như khi con người ta mất đi niềm tin vào cuộc đời thực “Quá khứ bắt đầu gầm rít quanh đời sống đã chết” chính mỗi con người như bị “ướp đông” bởi sự vô cảm, bởi nhịp sống hối hả và chỉ còn cách “Bóc dần từng mảng thời gian” tìm lại một chỗ dựa tâm linh, một điểm tựa để con người có thể vững tin sống tiếp “Quá khứ nhập vào đến đâu, những thân xác nóng lên đến đó. Và kiêu hãnh từ từ.” Sự nóng lên để phá tan cái “ướp đông trong hơi lạnh nhân tạo” để con người trở về với con người thật sự. Và con người chỉ trở về với con người khi kịp nhận ra:

 

“Tiếng thở dài bay đi lớp bụi thời gian, ta sửng sốt thấy hồn vía tổ tiên trong nét hoa văn đình làng, trống đồng, ngọn tháp... Những thân phận khóc cười đêm ngày làm kén ở hồn ta.

Từ cách điệu mặt người, bông huệ, bông sen... Thấy bất kỳ khoảng không nào đều linh thiêng, bí ẩn.

Tỉnh dậy trong sự nhận biết nhỏ nhoi, cô đơn, mềm yếu. Sự nhận biết làm ta can đảm và tự tin hơn để lại ra đi từ khoảng không kia. Những khoảng không mang sức mạnh cơn lũ ào qua hố thẳm nghi ngờ, con nước tỏa lung linh ánh sáng nhân từ hối thúc.

Tổ tiên hằng dạy ta cởi mở, buộc ràng. Làm chiếc gáo úp lên vại nước. Chiếc đàn bầu một dây ngân nga...”(“Trái tim giải thoát” – Mai Văn Phấn)

 

Từ bao thế hệ con người Việt Nam, những hình ảnh “đình làng, trống đồng, ngọn tháp, bông huệ, bông sen” đã là một phần đời sống tâm linh của dân tộc như chính tác giả đã khẳng định “Thấy bất kỳ khoảng không nào đều linh thiêng, bí ẩn.”. Bài thơ “Đò lèn” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã từng nhắc đến những phong tục tập quán mang nét văn hóa tâm linh tương tự theo dòng hồi ức tuổi thơ của người đã đi qua nhiều những giông bão của cuộc đời:

 

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị

chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng

mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng

cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.” (“Đò Lèn”)

 

Cho đến khi đói khổ thì những hồi ức đẹp quá vãng lại càng làm cho con người có thêm niềm tin để sống. Nên nhà thơ Mai Văn Phấn hoàn toàn có lí khi nhận ra mình “nhỏ nhoi, cô đơn, mềm yếu” và nhận ra nơi ra đi, nơi để con người có thể bắt đầu lại: “Những khoảng không mang sức mạnh cơn lũ ào qua hố thẳm nghi ngờ, con nước tỏa lung linh ánh sáng nhân từ hối thúc”. Thật vậy chỉ có đời sống tâm linh mới mang một sức mạnh vô hình như dân gian thường tương truyền rằng “Có tin có thiêng, có kiêng có lành”. Đến khi đã tìm được một điểm tựa vững chắc cho tâm hồn, con người thôi khắc khoải, trăn trở với những câu hỏi dường như chẳng có câu trả lời, dù câu hỏi ấy được bắt nguồn từ hiện thực đời sống. Thơ mở ra nhiều vấn đề cần lưu ý, đáng quan tâm như việc đi vào cái tôi cá nhân quá mức đã dẫn đến sự xuất hiện của xu hướng đi vào vùng mờ tâm linh với những vần thơ vụt hiện:

 

“Thuở ấu thơ tôi thường ra bờ sông. Tâm hồn bé nhỏ của tôi vang lên tiếng nước chảy. Tôi hỏi sao đôi bờ không theo nước ra đi?. Tôi hỏi sao những cái cây cứ quẫy lên trong gió muốn giã từ chùm rễ của mình?.

Tôi đứng bên bờ sông như đứng bên bờ của thế gian. Những con thuyền trôi trước tôi như ở một thế giới khác. Tôi nhìn thấy những đàn bà từ nước đi lên. Hai bàn tay họ giữ chặt hai bầu vú và biến vào bãi dâu. Và từ ngút ngàn dâu xanh những người đàn bà khốn khổ đi ra. Họ quảy những chiếc thùng và cất lên những tiếng nằng nặc như giọng nói từ trong ngôi mộ.

Có một chiều, một chiếc thuyền ghé bờ nơi tôi đứng. Từ trên thuyền người đàn bà kỳ dị nhìn tôi và thở dài. Bà rủ tôi lên thuyền đi sang bến bờ bên kia. Tôi hỏi bà sang đó làm gì? Và ở đó có gì? Người đàn bà không trả lời câu hỏi của tôi và chèo thuyền đi khuất.

Người đàn bà ấy không con và thường qua khúc sông làng tôi. Đến bây giờ, những năm cuối thế kỷ, mẹ tôi vẫn nhớ rõ người đàn bà ấy. Đêm đêm mẹ tôi vẫn sợ hãi và vẫn nguyền rủa người đàn bà ấy. Hình dáng bà trong tôi như câu chuyện cổ. Lúc nào nhớ đến bà tôi lại tin chiều ấy chỉ có trong mơ” (“Nhân chứng của một cái chết” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Người đàn bà ấy là thực hay là ảo và buổi chiều nơi nhân vật “tôi” gặp được bà có diễn ra hay đó là sự tưởng tượng trong cổ tích khi chính nhân vật tôi vẫn còn ngờ ngợ về chính mình “Tôi đứng bên bờ sông như đứng bên bờ của thế gian” . Chiều sâu tâm linh trong thơ Nguyễn Quang Thiều được thể hiện qua những giấc mơ đầy nhân bản luôn khao khát kiếm tìm một thế giới thanh khiết và bình an. Thơ Nguyễn Quang Thiều xuất hiện đậm đặc những cụm từ “bên kia”. Đây là một cách nói, một cách tư duy mới gọi sự mơ hồ, sự vô tận, vừa gần gũi vừa bí ẩn, gợi lên cho người đọc những liên tưởng vô tận. Nó không phải là bờ bên kia của một dòng sông hiện hữu trong giới hạn của đất trời. Nó chính là “bờ ta” nhưng lại tồn tại trong cõi mông lung mà ta cần phải soi rọi, phải hướng đến trong tiếng gọi tha thiết từ cõi lòng mình: “Dù thế nào tôi vẫn muốn hát lên một bài ca. Bởi sự ra đi của chúng đẹp làm sao, như một cơn mơ, như một đêm vũ hội” (“Chuyển động”)

 

Đã đến lúc con người cần bỏ lại phía những ưu lo để gieo niềm tin vào một ngày mới, một tương lai còn dài rộng đang chờ họ phía trước. Trong sự bước đến của tương lai luôn có sự tiếp nối, đúng như truyền thống văn hóa của người Việt:

 

“Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay qua...

Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi” (“Lúc mặt trời mọc” – Mai Văn Phấn)

 

Từ “ban mai” được lập lại nhiều lần có lúc là “ban mai đến sớm” có lúc lại là “hừng đông” như gợi lên một tương lai mới, tươi đẹp là mong ước của người cha dành cho đứa con bé bỏng của mình và người cha luôn nhắc nhở con mình dù thế nào thì vẫn phải nhớ cội nguồn, gốc rễ: “Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay qua” Đó là sự nhắc nhớ công ơn tổ tiên, nhắc con mình là con rồng cháu tiên, nồi giống lạc hồng, đây chính là điểm tựa vững chắc “đỡ con đi” trên hành trình nên người của con mình.

 

Từ những đặc điểm trên, chúng ta có thể thấy rằng, dòng cảm hứng thế sự được hình thành từ những trang viết về con người và cuộc đời mà nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu thì “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. Nên những va đập giữa con người và cuộc đời, của cuộc đời vào tâm hồn con người là vô cùng phong phú, khó nắm bắt và khó thể hiện. Con người với cách hiểu đầy đủ và mang tính nhân văn thì phải chứa đựng trong đó những tâm sự, tình cảm sâu lắng, những vui buồn đau khổ và ngay cả những bi kịch cá nhân. Đứng trước cuộc sống mới đầy rối ren với nhiều so sánh đối nghịch, những trải nghiệm trong đời sống, những mất mát đã qua và những thiệt thòi không được bù đắp. Đứng trước sự tan vỡ của những giấc mơ, bất lực trước những đòi hỏi tất yếu, những giá trị của cuộc sống đã và đang bị tha hóa. Thì làm sao tránh khỏi những nỗi buồn xót xa.

 

Thơ văn xuôi, bằng những ưu thế về mặt thể loại của mình, đã giúp cho người nghệ sĩ thể hiện một cách trọn vẹn nhất những suy nghĩ nội tâm vốn hết sức phức tạp ấy. Chính vì thế, dòng cảm hứng thế sự trở thành dòng cảm hứng chi phối đa số các tác phẩm thơ văn xuôi Việt Nam hiện nay nói chung và những sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng.

 

2.2. Cảm hứng chính luận

 

Bên cạnh dòng cảm hứng thế sự, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn cũng thể hiện khuynh hướng chính luận khá sâu sắc. Chính luận ban đầu là một thuật ngữ chỉ một thể loại văn học, một thể tài của báo chí, khi thâm nhập vào thơ ca, chính luận được hiểu như là một khuynh hướng, một đặc điểm thuộc về nội dung tư tưởng của tác phẩm. Tác phẩm có tính chính luận bao giờ cũng bộc lộ một động cơ, một hành vi tranh đấu vì lí tưởng của nhà thơ trên một lĩnh vực nào đó như chính trị, tôn giáo, triết học, đạo đức, tư tưởng, nghệ thuật…và thường chứa đựng một ý nghĩa luận đề nhất định. Tác phẩm mang tính chính luận cũng là nơi mà nhà thơ bộc lộ thái độ và chính kiến về đối tượng phản ánh một cách rõ ràng.

 

Thơ ca trữ tình nói chung chủ yếu là nơi để trí tưởng tượng và cảm xúc của người nghệ sĩ thăng hoa. Nhưng hình tượng thơ ca không chỉ là hình tượng của cảm xúc mà còn là hình tượng của lí trí. Có như thế, tác phẩm thơ ca mới có thể đạt đến chiều sâu của trí tuệ làm nên những triết lí nghệ thuật để đời. Thơ ca là tiếng nói, là xúc cảm của cá nhân, nhưng thơ ca bao giờ cũng khởi nguồn từ đời sống thực tiễn gắn với một bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể để cất lên tiếng nói của thời đại mình. Vậy nên bên cạnh yếu tố tình cảm, cảm xúc thì các yếu tố tư tưởng, thái độ và chất lí trí cũng là những phần không thể thiếu của tác phẩm thơ ca. Bảo đảm hai đặc điểm nói trên, một tác phẩm thơ ca sẽ không chỉ bộc lộ cảm xúc, tâm trạng cá nhân mà còn là thông điệp mang tính lịch sử - xã hội của thời đại. Những tác phẩm này đã góp phần hình thành dòng cảm hứng chính luận, một trong những dòng cảm hứng chủ đạo trong thơ hiện đại Việt Nam.

 

2.2.1. Cuộc sống đô thị công nghiệp với những bất an

 

Như đã nói thơ sau năm 1975, đặc biệt là sau đổi mới năm 1986 đến khi xu hướng dân chủ trong văn học xuất hiện. Nó đã liên quan ảnh hưởng mật thiết đến phạm trù cái tôi. Và nó trở thành tiền đề để cái tôi phát triển. Thơ xuất hiện cái tôi công dân trực tiếp dấn thân với những vấn đề nhân tình thế thái, với sự thay đổi suy nghĩ, tư tưởng của con người cùng sự xói mòn của những giá trị đạo đức. Trong thơ xuất hiện những suy nghĩ nóng bỏng, những câu thơ thấm thía nỗi buồn, những suy tư nặng trĩu lo âu. Có thể thấy, ý thức trách nhiệm công dân trong mỗi cá nhân giờ đây lại được bộc phát mạnh mẽ. Không phải là tiếng ì đùng súng đạn, nên họ không cầm súng ra chiến trận. Nhưng họ đã mạnh dạn dấn thân vào một chiến địa mới không kém phần gây go, quyết liệt. Thơ là tiếng súng thức tỉnh ý thức công dân của mỗi cá nhân đã và đang ngủ quên trên chiến thắng, trên những lời ca về tiềm lực.

 

Sự văn minh đã đem lại cho con người nhiều tiền đề vật chất và tinh thần để nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhờ khoa học kỹ thuật, con người đã thực hiện được rất nhiều công việc phi thường, hiện thực hóa được rất nhiều thế hệ cha ông đi trước chỉ biết gửi gắm vào những câu chuyện cổ tích. Cùng với nó là tốc độ đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng, nhiều thành phố và khu công nghiệp mọc lên như nấm dại sau cơn mưa rào, bộ mặt nông thôn và thành thị đang thay đổi từng ngày. Con người có đủ điều kiện thoát khỏi ý nghĩa ăn no mặc ấm để hướng tới ăn ngon mặc đẹp. Công bằng mà nói, công nghiệp hóa hiện đại hóa đã mang đến cho chúng ta rất nhiều mặt tích cực, trong xu thế hội nhập đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở cửa đón nhận những làn gió mới từ các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.

 

Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng, mặt trái của nó giống như một quá trình biện chứng của sự vật. Cái được luôn đi cùng với cái mất. Bên cạnh những yếu tố tích cực luôn tồn tại song song trùng với mặt tiêu cực. Khi xây dựng thêm một khu công nghiệp là đồng nghĩa với việc chấp nhận tăng cường một luồn ám khói cho lá phổi xanh, chúng ta mong muốn được đón những ngọn gió văn hóa trong lành nhưng những nguồn gió độc cũng tràn vào không ít. Cuộc sống ở đô thị cũng đã mang lại nhiều tiện nghi vật chất nhưng nó chật chội, bức bối, ngột ngạt và tiềm ẩn rất nhiều bất an:

 

“Thành phố không chốn an toàn cho họ giấu đủ một ngón tay

Ngoài kia, những cánh đồng đắng cay vì bệnh tật kéo dài. Hoàng hôn xấu xí

Ngũ cốc đang ngập mình bởi con ho hóa chất sặc mùi”

(“Lời cầu nguyện” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Thành phố bây giờ là một nơi đầy rẫy sự nguy hiểm, biên giới của sự sống và cái chết trở nên bé nhỏ mong manh, những mối hiểm họa tiềm ẩn đang rình rập trong từng gang tấc. Con người đang phải gánh lấy những hậu quả do mình tạo ra. Nó khiến con người có cảm giác bất an đến nỗi một không giam rộng lớn nhưng không đủ khả năng để bảo bọc cho một thứ dù là nhỏ nhất không đủ an toàn để “giấu một ngón tay”. Sự phóng đại quá cỡ này dẫu làm cho người đọc có phần choáng váng, mất thăng bằng nhưng những hình ảnh được gắn kết ngay sau đó khiến chúng ta cảm nhận sự việc ấy dường như đang hiện hữu. Đây không phải là kiểu kết tội vội vàng, chủ quan mà là sự đúc rút chính xác từ quan cảnh thực tế bởi trạng huống của những cánh đồng đang héo quắt vì bệnh tật và ngũ cốc phải gánh chịu những “cơn ho hóa chất sặc mùi”. Những gì từng được đại diện cho môi trường sống, thực phẩm sống đang bị xâm hại và trở nên phản tác dụng đối với con người. Thần chết đang hiện diện khắp nơi đối với từng sinh thể. Tất cả cỏ cây, muôn thú đều đang chịu chung số phận:

 

“Ngước lên bầy chim cánh chập choạng, rũ rượi bay, hát bài ca kiên nhẫn

Ngước lên những đám mây trĩu ngực vì bụi cố bò qua cơn dị ứng của thời tiết vô luân” (“Lời cầu nguyện” - Nguyễn Quang Thiều )

 

Không còn những bãi cỏ ngát xanh để con người tha hồ đùa giỡn, trò chuyện; không còn tiếng chim hót líu lo, yên bình trên những cành cây cao vút…Cánh đồng cỏ giờ đây đang héo quắt vì bệnh tật, đàn chim đang bay chập choạng, rũ rượi cố công hát bài ca đánh dấu sự sinh tồn. Con người trong môi trường ấy dường như bị giam cầm quanh bốn bức tường ngột ngạt, đôi lúc chúng rối tung lên như cách ông miêu ta trong bài “Quay theo mái nhà”:

 

Đêm tỉnh dậy. Đồ gỗ trong phòng mọc tua tủa nấm nhĩ. Bức tượng chảy xệ xuống thành nắm đất nhão. Chiếc quạt mở ra lần cuối rồi khép lại làm ống tre. Trong bóng tối, tiếng những nghệ nhân đã khuất cùng đồng vọng:

- Hãy quay theo mái nhà đánh thức các đồ vật!

Tôi quay cùng chai lọ, con giống, bóng đèn… qua môi người thợ thổi thủy tinh, qua con chữ rùng mình nhìn bột giấy chìm trong thuốc tẩy. Những giọt mực tụ lại rồi loang xa như một vết dầu. Bộ quần áo trang nghiêm rũ xuống. Đấy là giờ mặc niệm tơ tằm và những cây bông. Bóng tối nuốt sạch thực phẩm ôi thiu, không khái niệm về văn hóa ẩm thực. Hương trà thơm về rừng. Nước gào thét trong chiếc ấm bục đáy”

 

Họ thật sự bị cầm tù bởi những khối bê tông, những tòa nhà cao tầng không ngừng mọc lên và đau đớn hơn là bị cầm tù bởi chính những guồng máy khổng lồ do họ tạo ra, với những kiểu suy nghĩ, những cách hành động như máy móc. Mặt trái của quá trình đô thị hóa không chỉ biểu hiện ở bình diện nổi (vật chất) mà nguy hại hơn là nó đang xâm nhập vào tâm lí của con người (tinh thần). Dần dần, cuộc sống vật chất đầy đủ đã khiến những con người ở đô thị bước vào địa hạt của sự hưởng lạc với nhiều thú vui tiềm ẩn và những nỗi bất an.

 

Vấn đề công nghiệp hóa luôn song hành cùng với tiếng kêu cứu từ môi trường, là một vấn nạn của xã hội hiện nay, những thảm họa thiên nhiên như động đất, bão, lũ lụt không còn xa lạ. Những tiếng kêu thống thiết từ thiên nhiên đang réo rắc từng ngày từng giờ và bất kì lúc nào con người cũng có thể chịu sự trừng phạt từ thiên nhiên:

 

“Nhưng đêm nay mưa như sông trời đổ xuống thị xã. Những ngọn đèn lần lượt tắt và những ô cửa lần lượt mất hút” (“Nhân chứng của một cái chết” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Và từ những cơn mưa bất chợt ấy có thể biến ngay thành cơn lũ ấm ào, cuốn trôi mọi thứ trên đường nó đi qua, và trơ trụi, tan tóc hay là một cái chết trắng xóa chẳng để lại dấu vết gì:

 

“Mưa vẫn xối như máu không sao cầm được. Nước đã dâng lên ngập đôi giày của cô. Cô vẫn đứng lặng im như không có ai đứng đó. Hơi nước từ người cô bốc lên ngùn ngụt. Cô là một đám cháy trong mưa. Cô đứng đó, cây khô đứng đó. Một sự sống lặng câm dưới những đám mây mang theo cái chết, bên cạnh một cái chết thét gào đòi được phục sinh” (“Nhân chứng của một cái chết” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Đó là sản phẩm tất yếu của sự cảm nhận đời sống công nghiệp hiện đại, của văn minh “remote - nút bấm”, của lai giống, nhân bản, vi mạch, tốc độ… Hiện thực khắc nghiệt của đời sống và hiện thực tiên tri, tưởng tượng… được khúc xạ, thăng hoa, hắt sáng từ cảm quan, tư biện đặc biệt của thi sĩ. Tất cả được hiện hữu trong thơ Nguyễn Quang Thiều vừa đau đớn vừa da diết, vừa chằm bặp vừa lạnh lùng. Ông luôn thổn thức và hân hoan, đau đớn và thất vọng… trong tư thế một công dân đầy trách nhiệm: “Không nhìn thấy nhà tù nào mà mỗi ngày tôi mất đi một cỏ/ Không nghe tiếng súng nào mà ngực cỏ vỡ đêm đêm” (Gọi hồn). Nhiều lúc Nguyễn Quang Thiều đã nhìn thấy cả những vẻ đẹp lộng lẫy, gần gũi tưởng như có thể chạm được tay vào, nhưng như bao người cùng thế hệ, có lúc ông thấy, cũng như ai đó đã kiệt sức không thể bước thêm được nữa: Kìa những cái cây lộng lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm/ Và một kẻ đang gắng sức tìm lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên” (Những công việc của tháng Mười Một).

 

2.2.2. Tiếng kêu cứu cho những đổ vỡ của truyền thống văn hóa

 

Từ những cảm nhận tàn phai của giai đoạn trước, đến bây giờ nó đang thực sự giẩy chết trong những sáng tác của Nguyễn Quang Thiều trong “Nhịp điệu châu thổ mới”, “Bài ca những con chim đêm”, “Cây ánh sáng”…là tiếng than khóc cho sự đổ vỡ sâu sắc đời sống văn hóa tâm linh của thời kì đô thị hóa. Trong xã hội hiện đại, khi vật chất đang nắm giữ vị thế tối ưu và nghiễm nhiên trở thành thước đo của mọi thứ, con người dường như thờ ơ với các giá trị văn hóa thâm chí còn cố tình xâm hại nó vì lợi ích của cá nhân mình. Con rồng vảy vàng hơn nào giờ đang ngập ngụa trong trùng trùng nguy hiểm:

 

“…con thuyền rồng trong hải lưu không gian cuồn cuộn

Những hồ nước mắt dâng đầy, những dòng sông nước mắt giàn giụa, không bờ bến” (“Nhịp điệu châu thổ mới”)

 

Những giọt nước tiếc thương đã tuôn trào không một chút xấu hổ giấu diếm, nó tràn ngập và dâng đầy khắp nơi. Giá trị truyền thống tốt đẹp đang bị đảo lộn, đánh tráo bởi chính bàn tay và hoạt động có chủ đích, có toan tính được diễn ra một cách vô cùng tinh vi của con người: “Nhận ra cuốn sách trên tay bị đánh tráo bằng cuốn sách khác” (“Bài ca những con chim đêm”) Hay là một sự thay đổi đến đau đáu trong bài “Đêm ở Thụy Khuê” của Mai Văn Phấn: “Vạt cỏ xưa hai đứa mình ngồi, giờ là nền ngôi nhà cao tầng, để anh làm con bướm chập chờn giữa phố, tìm lối ngày nào lạc cánh bay. Khuôn mặt em vừa hiện trong vòm cây sót lại, tán lá đung đưa  như bát nước đầy” và ở đó còn có nỗi lòng đầy khắc khoải khi những ngôi nhà cao tầng dần dần thay thế cho những mái ngói của ngôi nhà cổ phủ đầy rêu phong “Mùa thu trong đông kết những công trình, đem tổ chim gài vào những hiên nhà cổ. Hoa cúc đăm đắm vàng đi thu xếp những ngổn ngang phiền muộn” (“Kí sự mùa thu”). Khi người ta đặt nền móng cho những ngôi nhà cao tầng, đâu biết nơi đó chứa đựng biết bao kí ức xa xăm của ngày cũ, “ngôi nhà xưa” cũng có thể là chứng nhân của lịch sử của một thời đại đạn bom, là nơi trú ẩn của bao kiếp người lầm lũi…là một sự phát triển, thay đổi đến vô tình mà ta quên đi có những giá trị thiêng liêng cần lưu giữ.

 

“Trên nền cũ ngôi nhà xưa, một liên doanh mới làm lễ động thổ. Ký ức hiện về tựa ngôi đền, dâng trong tóc mình dĩ vãng tôn nghiêm.

 

Đặt tay lên những khung sắt, cần trục, pa-nen... Khoảng không ấy xưa là hố bom, những hốc mắt của kiếp người lầm lũi. Tôi ngậm ngùi lạc vào đám khói. Ai đốt chiếc lá vàng mùa đông hôm qua.

Đám khói mơ màng vẽ lên phần hồn của mặt bằng, chân móng. Gió cất lên âm thanh siêu thị, luồn qua kẽ tay miên man hát khẽ. Tôi gom câu ca xưa đúc thành bệ cho các thánh nhân ngồi, những câu ca thơm hương trong ngôi đền ký ức” (“Hải Phòng trước năm 2000” – Mai Văn Phấn)

 

Chính những đều này dễ dàng gây cho giới trẻ, những thế hệ sau này dễ dàng bị lai căng, mất gốc. Chúng có biết gì đến những giá trị truyền thống tinh thần thiêng liêng của dân tộc, là “cây đa – bến nước – sân đình” mà thay vào đó là những tòa nhà, cao ốc, những trung tâm thương mại, những khu công nghiệp, và sẽ lấy gì để tưới tắm tâm hồn thơ dại, là những miền kí ức trong trẻo để mỗi đứa con khi đi xa có cái đặc trưng để thương nhớ về quê nhà. Thế hệ trẻ ngày sau sẽ nhớ gì khi những khu đô thị mới, những thành phố đều giông giống nhau và đi đến đâu cũng tìm được.

 

Mặt khác, những giá trị đạo đức chuẩn mực một thời đã bị ngụy trang dưới nhiều hình thức, những cuộc mua thần bán thánh diễn ra nhan nhản hằng ngày. Tín ngưỡng không còn là nơi nương náo tâm hồn để cầu sinh sự bình an, không còn là cứu cánh tinh thần những khi vấp váp, sợ hãi. Một số người đã dùng nó để làm chiếc cần câu cơm không hơn không kém. Họ không còn chân chất, không còn lương thiện mà đã dày dạn những tráo trở, họ lừa nhau và lừa cả thánh thần:

 

“Hái vài đốm nắng, nhấm nháp theo văn hóa ẩm thực cộng đồng. Bù lại những ngày đói khát. Cố trấn tĩnh và từ tốn trước bình minh. Tất cả là của bạn, khái niệm ấy vang lên mơ hồ trong mỗi cử động xương hàm. Thấm nhuần tinh thần tận gót chân, cuống họng truyền ngay mật khẩu xuống dạ dày, chờ đầu gối run lên nhắc lại. Những mắt cá chân mở to, e ngại bàn chân giẫm phải chiều tàn... Trên cỏ xanh kia ta được sinh ra và ủ ấm bằng nhiều quan niệm. Từng xả thân, từng lắt léo, từng kính trọng, từng bợ đỡ, từng hãnh hỗ, từng nịnh nọt, từng mạo nhận, từng thủ dâm, từng thánh thiện, từng vu oan, từng thiêng liêng... Cỏ lừng lững dựng lên trước ta uy hiếp” (“Di chứng” – Mai Văn Phấn)

 

Thật đau xót khi những giá trị văn hóa của dân tộc lại được đem ra “nhấm nháp”, bị “giẫm” lên hằng ngày. Ở đó, sự đổ vỡ sâu sắc những giá trị của cuộc sống được bộc lộ rõ nét qua những mối quan hệ giữa con người với con người, tính hai mặt trong cung cách ứng xử là điều dễ nhận thấy. Sau một quá trình dài sống chiêm nghiệm, những mặt trái của cuộc đời được tác giả nhận diện và khai thách triệt để: “Từng xả thân, từng lắt léo, từng kính trọng, từng bợ đỡ, từng hãnh hỗ, từng nịnh nọt, từng mạo nhận, từng thủ dâm, từng thánh thiện, từng vu oan, từng thiêng liêng” (“Di chứng” – Mai Văn Phấn)

 

Tác giả phơi bày ra ánh sáng những ý nghĩ và hành động đen tối của con người. Chúng ta luôn luôn chuẩn bị cho mình thứ công cụ đắc lực để làm hại kẻ khác, chúng ta chúc tụng nhau nhưng sẳn sàng hạ bệ nhau lúc nào có thể, chúng ta bí mật phóng “ngọn giáo” đến một mục tiêu khác nhưng không thể ngờ được rằng những “ngọn giáo” nơi khác cũng đang hướng về phía chúng ta.

 

Thành tựu văn minh vật chất với: xa lông, ti vi, khách sạn, điện thoại, kế hoạch công việc... hiện lên trong Châu thổ gắn đầy những dự cảm về việc đánh mất những giá trị đời sống tinh thần thiêng liêng của con người trong thế giới hiện đại. Thế giới ấy nhiều khi chính nhà thơ cũng phải thốt lên những lời tự vấn “Đời sống chúng ta đang sống có thực là đời sống không?”, “Đời sống này đôi lúc buồn hơn cái chết”: 

 

“Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ 

Cờ sẽ rực rỡ biết nhường nào, âm nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào 

Giống cậu bé ham chơi trốn cha mẹ ra khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo hoang 

Và cúi xuống bên em đang thiếp ngủ, thì thầm anh nói: 

Đời sống này đôi lúc buồn hơn cái chết” (“Buồn hơn cái chết”)

 

Trở về với đời sống tâm linh, trở về cội nguồn là sự trở về với những giá trị vĩnh cửu để xa rời cuộc sống ồn ào, vội vã của nền văn minh hiện đại, là sự kiếm tìm trạng thái bình yên, đối lập trạng thái bất an, khiếp sợ trước cái hỗn loạn của xã hội công nghiệp.

 

Thật vậy, cảm hứng chính luận đã chi phối những sáng tác thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn khi viết về các vấn đề mang tính thời sự, những vấn đề có tác động to lớn vào đời sống dân tộc, cộng đồng cũng như tác động vào nhận thức, lối sống, tư tưởng con người. Đưa những  vấn đề trên vào thơ ca bằng chính quan điểm, lập trường của cộng đồng, dân tộc chứ không phải là quan điểm cá nhân là việc không hề dễ dàng với người làm thơ. Hai nhà thơ, Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn đã làm được điều này, đưa cái logic của lí trí vào lĩnh vực của cảm xúc hình tượng đã khéo léo tạo nên phong cách chính luận trong những sáng tác thơ văn xuôi của mình. Những bài thơ không chỉ có sự bay bổng của cảm xúc mà còn có cái lắng sâu của trí tuệ, song song với những hình tượng đẹp là một tầng sâu ý nghĩa hết sức sâu sắc.

 

 

 

 

Chương 3

 ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ VĂN XUÔI

CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ MAI VĂN PHẤN

 

3.1. Kết cấu văn bản thơ

 

Khái niệm kết cấu theo Từ điển thuật ngữ văn học, còn “bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm” [29; 156]. Đây là kết cấu bên trong của tác phẩm văn học. Nhìn từ gốc độ kết cấu bên trong tức là nói đến “mối liên kết bên trong” của các đơn vị hình tượng và cảm xúc, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn thường được tổ chức một hình thức văn bản hoàn chỉnh với kết cấu bên trong và kết cấu bên ngoài bổ trợ cho nhau làm cho văn bản thơ thêm phần mạch lạc. Chúng ta có thể hiểu, kết cấu là hình thức của văn bản được kết hợp theo kiểu kết cấu bên trong hay kết cấu bên ngoài. Kết cấu bên trong là hình thức kết cấu theo mạch cảm xúc, liên tưởng của tác giả, còn kết cấu bên ngoài chính là hình thức trình bày, thể hiện của tác phẩm đó.

 

Khảo sát các mô hình kết cấu văn bản tác phẩm thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn có cả hình thức kết cấu bên trong và kết cấu bên ngoài. Hình thức văn bản được tổ chức khá linh hoạt, góp phần biểu hiện những nội dung đời sống phong phú, phản ánh nhu cầu tiếp nhận và khám phá một cách linh hoạt và sáng tạo của tác giả.

 

3.1.1. Kết cấu bên ngoài

 

Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, thơ văn xuôi thể hiện sự linh hoạt trong cách thức tổ chức văn bản thơ, một bài thơ văn xuôi như một văn bản văn xuôi tự do, hoặc có một dạng thức như truyện ngắn, một màn kịch nhỏ với những lời đối thoại hay sự phối hợp giữa truyện ngắn và thơ... Khảo sát các mô hình kết cấu văn bản tác phẩm thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn có hình thức chia khổ, tách đoạn lẫn nguyên khối. Trong đó, thơ Nguyễn Quang Thiều hình thức trình bày nguyên khối như một tác phẩm văn xuối chiếm khoảng 50% (“Những ví dụ”, “Một màu đen”...) còn lại là được trình bày bằng hình thức của thơ tự do khoảng 35%(“Sau bậc cửa”, “Ngôi nhà vô hình”, “Hoa tiêu”, “0h17 phút”...), đối thoại hay cách phối hợp giữa truyện ngắn và thơ khoảng 15%(“Cây ánh sáng”...); thơ Mai Văn Phấn hình thức trình bày nguyên khối như một tác phẩm thơ văn xuôi chiếm khoảng hơn 70% (“Lúc mặt trời mọc”, “Em cho con bú”, “Đêm ở Thụy Khuê”...) còn lại là trình bày phối hợp giữa truyện ngắn và thơ chiếm khoảng 20%(trường ca “Người cùng thời”, “Mưa trong đất”, “Những bông hoa mùa thu”, “Cửa mẫu”, “Hình đám cỏ”...) các hình thức trình bày khác như đối thoại hay tự do chiếm khoảng 10% (“Hắn”, “Anh anh em em”, “Đến trong ý nghĩ”, “Quay theo mái nhà”...). Chúng ta có thể thấy, hình thức trình bày nguyên khối như một văn bản văn xuôi là phổ biến nhất. Hình thức văn bản được tổ chức khá linh hoạt, góp phần biểu hiện những nội dung đời sống phong phú, phản ánh nhu cầu tiếp nhận và khám phá một cách linh hoạt và sáng tạo của tác giả.

 

Với hình thức nguyên khối như một tác phẩm văn xuôi chúng ta có thể thấy trong bài “Dạy trẻ con” của Mai Văn Phấn:

 

“Lũ trẻ xóm tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh  tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm, chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… Ít thấy chúng gào khóc ăn vạ. Có đứa nghẹn ngào: “Trẻ con nước mắt chảy vào trong!”. Tôi và những người khác bàn nhau diễn trò cho chúng xem, xếp đồ hàng, xây cung điện, kéo thuyền giấy trên sân gạch... Đánh trận giả, vờ lăn ra chết. Bọn trẻ bẻ lá đặt lên mũi những người giả chết. Những chiếc lá bất chợt héo rũ, úa vàng. Một đứa tự tin, sảng khoái: Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Chúng cười vang lúc chúng tôi đứng dậy. Tôi mụ mị rồi ngất ngư về chỗ của mình. Bàn chân chập chững đặt lên mặt đất từng bước dại”

 

Ở bài này, tác giả như kể lại một câu chuyện bắt gặp trong đời sống, giống như hình thức truyện ngắn mini đang phát triển hiện nay, cô động, ngắn gọn song những suy tư, trăn trở về cuộc sống hiện tại thì vô cùng sâu sắc và đáng được quan tâm. Hay đó là cách trình bày hình thức theo dạng thơ tự do như bài “0h17 phút” của Nguyễn Quang Thiều:

 

“1. nhớ con chuột tri kỷ của những đêm hoang tàn và trống rỗng

chạy men theo hè phố lúc một giờ sáng

kẻ lạ mặt dùng ánh mắt thích dòng chữ vô hình lên trán

và tôi trở thành kẻ bị lưu đày trong giấc mộng chính mình

 

2. đứa trẻ đái ướt sũng tóc tôi rồi bỏ đi

vẽ vào bóng tối một vệt trắng nguệch ngoạc

 

3. Phấn ngồi bất động dưới bóng của một cái cây ngôn từ

một đám mây những con bướm lấp lánh bay quanh

Như một cậu học sinh trốn lại lớp sau giờ tan học

Phấn đang xoá hết những chữ quen thuộc trên tấm bảng đen

để tìm một từ vựng

Có khả năng làm trống rỗng tất cả”

 

Hình thức kết cấu theo kiểu đối thoại trong bài “Cây ánh sáng” của Nguyễn Quang Thiều:

 

Cả hai không còn con đường nào để lẩn trốn nhau , giờ đối mặt nhau, và đấy là con đường cứu rỗi :

- Mi không còn đường chạy thoát khỏi ta được nữa. Mi là ta bóng tối và ta là mi ánh sáng

- Ta không hề chạy trốn ngươi. Ta chỉ chạy trốn ta và hơn thế ta truy lùng ta theo tiếng gọi hồn ta.

- Mi có biết ta yêu mi đến tan vỡ trái tim và cũng căm thù mi đến vỡ trái tim. Mi là niềm kiêu hãnh của ta và nỗi thống khổ của ta. Ta đã từng nguyền rủa mi và cũng từng ngắm nhìn mi và ta hạnh phúc khóc âm thầm và kiêu hãnh cất lời ca ngợi.

Ôi vì ngươi mà ta phải dày vò, phải đớn đau và mơ ước hơn tất cả những kẻ sống quanh ta. Nhưng ta phải sống. Kìa hãy nhìn những cái cây vòm lá hát cả khi gục đổ”

 

Chúng ta cũng dễ dàng bắt gặp hình thức này được sử dụng trong thơ Mai Văn Phấn, bài thơ “Anh anh em em” là một ví dụ điển hình:

 

“Lượn lờ như cá, em bảo:

- Phòng anh quá chật.

-  ...

- Chật mà ấm áp”

 

Ngoài ra, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn còn sử dụng hình thức trình bày không sử dụng các dấu câu như bài: “Mail cho em” của Mai Văn Phấn, “Ám ảnh”, “Tôi khóc những cánh đồng rau khúc” của Nguyễn Quang Thiều:

 

“Tôi khóc ngang triền bãi trong cơn mưa hoàng hôn ngạt thở

Tôi khóc những bà già đang rửa chân trước những ngôi nhà ẩm ướt ven đê

Tôi khóc con đường phù sa tôi đi tìm thế giới của miền kiệt sức

Tôi khóc những sợi tóc nàng dâu rụng xuống đất đai lại mọc lên những sợi tóc

Những ngọn bí đen không lá bò kín vầng trán hói của cơn mê

Tôi khóc những người đàn bà quảy hai chiếc sọt vừa đi vừa mơ nấm mộ của mình

Tôi khóc những ngón tay bại liệt của bà tôi không bao giờ chịu tự sát

Tôi khóc những miếng bánh nóng như một cái lưỡi rơi vào bếp tro bụi bặm

Tôi khóc những mùa rau khúc thiêng liêng phủ đầy mưa xuân như phủ đầy cám nếp”

 

Với kết cấu này, văn bản thơ văn xuôi có thể đi liền mạch cảm xúc mà không bị ngắt quãng hay đứt quãng cảm xúc nữa chừng, chuyển tải đầy đủ sự chiêm nghiệm, bày tỏ sự việc của chủ thể trữ tình đúng như một trong những đặc điểm của thơ văn xuôi.

 

Hơn nữa, kết cấu bên ngoài bên cạnh sự biểu hiện bằng hình thức kết cấu văn bản còn được biểu hiện bằng hình thức trùng điệp lời thơ. Trùng điệp là một hình thức thường gặp trong sáng tạo văn chương, nhất là trong thơ. Về thực chất trùng điệp là cách tổ chức lời thơ theo nguyên tắc lặp lại, láy lại các đơn vị khác nhau của văn bản, nhằm tạo ra những ý nghĩa mới cho văn bản, mà khi tách riêng các đơn vị đó không hề có được. Hiệu quả của thủ pháp nghệ thuật này là rất lớn. Chính vì vậy, nó được dùng khá phổ biến trong thơ, ngay cả thơ cách luật – một thể loại mà mọi tìm tòi sáng tạo luôn bị hạn chế bởi những nguyên tắc, luật lệ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, trên thực tế không phải nhà thơ nào cũng có ý thức sử dụng trùng điệp như một thủ pháp nghệ thuật để tổ chức lời thơ. Việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật trong thơ hoàn toàn mang tính chủ quan, gắn liền với ý đồ nghệ thuật, tài năng, cá tính sáng tạo của nhà thơ.

 

Trong thơ văn xuôi trùng điệp cũng là một thủ pháp được sử dụng nhiều, góp phần tạo nên dấu ấn một phong cách thơ. Thủ pháp trùng điệp bao gồm: điệp câu, điệp ngữ, điệp từ, điệp cú pháp. Vị trí xuất hiện của các yếu tố trùng điệp cũng rất khác nhau: có khi điệp liên tục trong một đoạn thơ, có khi điệp cách quảng tương ứng đầu, cuối mỗi đoạn, có khi yếu tố trùng điệp lại ở vào vị trí nối tiếp nhau giữa hai câu thơ – đoạn thơ. Không ít trường hợp, trong một bài thơ cùng xuất hiện nhiều hình thức trùng điệp khác nhau. Chẳng hạn như bài “Chuyển động” của Nguyễn Quang Thiều:

 

“Như một thành phố vùi trong lòng đất tự xa xưa giờ thức dậy. Bầy ốc sên bò qua vườn trong ánh trăng chói gắt như nắng trời mùa hạ. Những chóp vỏ chói sáng như hạt kim cương đính trên vương miện nữ hoàng đêm dạ hội. Những tấm thân mềm và ướt lướt đi trong êm ái rợn người. Đôi râu ăng - ten phóng lên bắt những âm thanh xa lạ. Ngôn ngữ bí ẩn nào đang hạnh phúc hay đau khổ gọi bầy sên.

Ánh trăng im phắc, những vòm cây im phắc. Bầy ốc sên bò qua giấc ngủ của cỏ và của những chiếc lá vàng rụng trên mặt đất. Chúng miết những tấm thân mềm qua những mảnh chai vỡ sắc lạnh. Tôi không nghe thấy tiếng chúng kêu than hay nguyền rủa điều gì. Chỉ cảm thấy có tiếng nước dâng lên, dâng lên mãi tràn ngập cả đêm trăng.

Bầy ốc sên đã giấu mình trong những gốc chuối, những bụi gai. Giờ thức dậy dưới trăng và ra đi lặng lẽ. Khu vườn này là quê hương chúng, hay là khu vườn bên, hay còn… xa nữa. Chúng đang rời bỏ quê hương mình hay đi tìm lại quê hương. Dù thế nào tôi vẫn muốn hát lên một bài ca. Bởi sự ra đi của chúng đẹp làm sao, như một cơn mơ, như một đêm vũ hội”

 

Ngoài điệp từ “bầy ốc sên”, bài thơ còn có hiện tượng điệp cú pháp, thể hiện độc căng cảm xúc của nhân vật trữ tình, nhấn mạnh được ý nghĩa biểu đạt của lời thơ, tạo tính nhạc chứa đựng một cảm xúc ngập tràn, tinh tế. Hay như tác phẩm “Bài học” của Mai Văn Phấn cũng thể hiện rõ hiện tượng trùng điệp này:

 

“Đạo mạo múa tay trong bị

...

Đạo mạo giết một con muỗi

Đạo mạo phát biểu chung chung

Đạo mạo nghiêng mình trống rỗng

Đạo mạo lấy trộm áo mưa

Đạo mạo thở mùi hôi vào miệng người khác

Đạo mạo bọc nhầm một chiếc răng sâu

Đạo mạo tiểu tiện nơi công cộng

Đạo mạo xụt xịt trong khăn mùi xoa

Đạo mạo chỉnh lại con c... trong túi quần nơi hội họp

Đạo mạo xỉ mũi vào cửa kính

Đạo mạo moi tiền của gã ăn mày

Đạo mạo nghe trộm điện thoại

Đạo mạo nhìn ngực chị em trong đám tang

Đạo mạo ký tên vào công trình khoa học

Đạo mạo làm thơ tình khi đã liệt dương...”

 

Quán tính đó, ẩn dụ đó, nhưng bằng thứ ngôn ngữ gần và sát thực hơn, Mai Văn Phấn đã thoải mái phô bày con người thời đại với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa một thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Ở đó, con người hết còn mơ mộng đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ, hết còn niềm tin vào tương lai tươi sáng. Mỗi người là một thế giới kín bưng bít, âm u hơn, vô vọng hơn. Nếu hình dung bài thơ là một bản nhạc không lời, thì chủ đề âm nhạc đã được hé mở ngay từ giai điệu đầu tiên, một giai điệu khắc khoải, sâu lắng. Sau giai điệu mở đầu, hình tượng âm nhạc đã phát triển mở rộng với những hình thức mới, tiếp đó lại trở về với giai điệu chủ âm bằng việc lập lại một kiểu cú pháp.

 

Ở một hình thức nghệ thuật khác, các yếu tố trùng điệp trong bài thơ lại được bài trí theo kiểu đan xen, vừa điệp cú pháp, vừa điệp câu theo hình thức lập lại ở đầu cuối mỗi đoạn thơ một cách đều đặn, mang đến cho bài thơ một âm điệu du dương, trầm bổng. Mỗi đoạn thơ là một biến tấu, vừa là yếu tố trong chỉnh thể hình tượng, vừa có tính độc lập tương đối chuyển tải một ý tưởng của nhà thơ:

 

“Cha muốn con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước cửa. Những bông hoa cuống quýt sắc màu, mở từng cánh khẽ khàng, khuôn mặt đêm dần sáng. Mặt trời còn run rẩy trong vạt áo nồng nàn của đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà.

Con là nơi dòng sông từ giã những ngôi sao, nơi con thú hoang gọi rừng thay lá, nơi khoảng trống hóa thành thời gian. Khoảnh khắc ấy là minh mẫn và ngái ngủ, là bột nhão sắp đông thành bánh, là những gì cha làm chưa kịp phía cha mơ...

... Phía cha mơ có ban mai đến sớm, ban mai ấy giống như con dẫu khóc hay cười đều làm sáng lên lớp bụi trần gian, sáng lên những đường kỷ hà trên nền thổ cẩm. Trên hương án tổ tiên những bài vị nhang đèn đang tư lự một điều gì âm ỉ. Sau tiếng đàn đá trống đồng, cha đứng ngây nhìn đàn chim Lạc bay qua...

Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. Vài tia sáng đầu tiên giãi bày niềm hân hoan trên thềm cửa, rồi đưa những ngón tay mềm âu yếm đỡ con đi” (“Lúc mặt trời mọc” – Mai Văn Phấn)

 

Đọc bài thơ ta dễ dàng nhận ra sự trùng điệp trong mỗi đoạn thơ. Chính sự trùng điệp tạo nên sự liên kết, vận động cảm xúc của thơ, tạo nên tính thống nhất, chỉnh thể cho hình tượng thơ. Những tình cảm mà nhân vật trữ tình dành cho đứa con của mình được diễn tả tinh tế qua lời thơ trang nhã và một giai điệu tha thiết, nồng ấm. Những tư tưởng triết lí thâm trầm, những tình cảm tha thiết, mãnh liệt đã được thể hiện không phải chỉ bằng những hình ảnh, những biểu tượng nên thơ mà còn bằng cả nhạc tính của câu thơ, bài thơ, một thứ nhạc tính được tạo nên không dựa trên nguyên tắc láy âm (phối âm, hiệp vần và hài thanh) như trong thơ cách luật cổ điển, mà dựa vào sự trùng điệp.

 

3.1.2. Kết cấu bên trong

 

Trong sáng tạo thơ ca, liên tưởng so sánh là thủ pháp nghệ thuật quen thuộc, đặc biệt là trong sáng tác thơ văn xuôi, một hình thức được xem là tự do nhất trong mọi thể loại thơ ca. Dưới áp luật dồn nén của một dòng cảm xúc và niềm khao khát được bộc lộ, giãi bày của chủ thể trữ tình, tác phẩm thơ văn xuôi vừa phát triển tự nhiên theo trục dọc như một bài thơ tự do, vừa mở rộng liên tưởng theo hình thể tuyến tính của thơ văn xuôi. Sự cộng hưởng của hai chiều liên tưởng ấy đã giúp cho tác phẩm neo đậu được trên ranh giới mong manh giữa thơ và văn xuôi. Việc đãi chữ, lọc từ đã không còn là quan trọng với các nhà thơ khi ngôn ngữ thơ văn xuôi luôn có xu hướng được văn xuôi hóa, dung nạp nhiều hình thức tổ chức lời thơ nhằm giải phóng đến mức tối đa sự dạt dào của tư tưởng cảm xúc. Câu thơ văn xuôi có sự kết hợp hài hòa giữa tư duy logic và tư duy hình tượng, với lối kiến trúc bề thế, nhiều tầng bậc, hình ảnh, đã trở thành đơn vị cơ bản, là tế bào làm nên sức sống, vẻ đẹp riêng cho bài thơ. Với những đặc điểm đó, liên tưởng so sánh đã chứng tỏ được khả năng, ưu thế của mình và trở thành một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong việc kiến tạo câu thơ văn xuôi. Bài thơ “Chuyển động” của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ:

 

“Như một thành phố vùi trong lòng đất tự xa xưa giờ thức dậy. Bầy ốc sên bò qua vườn trong ánh trăng chói gắt như nắng trời mùa hạ. Những chóp vỏ chói sáng như hạt kim cương đính trên vương miện nữ hoàng đêm dạ hội.”

 

Hiện thực cuộc sống đi vào thơ ca nhưng không khô cằn cứng nhắc, chính những mạch liên tưởng theo cảm xúc đã làm nên chất thơ trên cái nền văn xuôi, tạo nên một ranh giới rạch ròi giữa thơ văn xuôi và văn xuôi đúng như đặc trưng thể loại. So với dung lượng các thể thơ khác, rõ ràng thơ văn xuôi tỏ ra có ưu thế hơn trong việc ôm chứa hiện thực và cách liên kết hình ảnh, ngôn ngữ, cảm xúc, Mai Văn Phấn với bài “Nước mắt” là một minh chứng tiêu biểu:

 

“Nước mắt những người đàn bà góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có bao nhiêu hòn Vọng-Phu. Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày tàn héo xuân xanh, rồi bay về trời tụ thành mây hồng hoang. Đám mây hình những người đàn ông mơ màng... mà không, họ đang thao thức trên đầu ta từng mảng rêu phong. Nỗi đau tận cùng bỗng nhiên thánh hoá. Các anh về rồi lại ra đi. Bởi sấm đã rung và chớp đã giật, mây chồng lên mây, người chất lên người.

Thương các chị mòn mỏi khóc bao đêm mà trời chỉ trả cho nước mắt đôi lần. Nước mắt bay ngang trời bầm tím! Từng mái gianh nghèo như mi mắt ai đẫm ướt. Các chị hứng mưa, giọt từng giọt như lần tràng hạt: Mưa! Mưa! Mưa!

Nụ hôn nào trong veo tan loãng thế. Các chị cầm tan nát đóa hoa mưa...”

 

Có thể nhận định rằng, nếu thơ lục bát, thơ năm chữ hay các thể thơ cách luật khác, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ đi vào lòng người thì thơ văn xuôi hoàn toàn ngược lại. Tuy vậy, một ưu thế của thơ văn xuôi mà các thể loại thơ khác khó có thể đạt được đó là cách phóng túng trong câu chữ, giúp nhà thơ dễ dàng diễn đạt nội dung xã hội, trạng thái tình cảm đa dạng và phá cách trong gieo vần, ngắt nhịp, xen cài các thể thơ một cách linh hoạt. Hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn đã vận dụng đặc điểm này thành phương tiện nghệ thuật hữu hiệu của mình qua một loạt các bài thơ như: Những ví dụ, Màu đen một, Nhân chứng của một cái chết, Hoa tiêu, Cây ánh sáng… của Nguyễn Quang Thiều và Cộng hưởng, Anh anh em em, Biến tấu con quạ, Hắn, Nghe em qua điện thoại, Những bông hoa mùa thu… của Mai Văn Phấn.

 

“Người đàn bà sắp đến giờ sinh nở ngồi lặng lẽ thở. Chị đang hồi tưởng tháng năm chị đã đi qua. Vượt lên cả sự xác nhận là sứ mệnh bí ẩn của sự sinh ra. Tất cả bảo chứng cho sứ mệnh này; đồi núi, sông suối, biển cả, đất đai và bầu trời. Chị đã đi qua những mùa màng kì vĩ trên xứ sở. Xứ sở chị đã cười, đã khóc, đã lặng câm và lên tiếng.

 

Đốt thêm một cây nến.

 

Rồi cơn đau hạnh phúc sẽ lên tận trời xanh.

Rồi máu hạnh phúc sẽ tuôn chảy trên những miền da thịt.

Đứa bé sẽ ra đời và cất tiếng khóc.

Tiếng khóc là tuyên ngôn sự sống,

đứa bé đọc cho mình mẹ nó nghe,

Và nó chỉ cần một mình mẹ nó xác nhận

Sự xác nhận lặng im của tạo hoá trao quyền cho người đàn bà.

 

Đốt thêm một cây nến.

 

Bên ngoài cửa sổ những cái cây chụm đầu nhau nhìn vào một ngôi nhà. Những cái cây đã che cho mẹ nó và hộ tống mẹ nó dọc con đường xuyên thủng thành phố. Những cái cây nghe thấy tim nó đập vang trong máu thịt mẹ nó. Và đứa bé trở thành sự thách thức lớn nhất với những gì đe doạ người đàn bà.” (“Cộng hưởng” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Nhìn chung, hầu như các bài thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn luôn thể hiện một sự tự do, vượt qua mọi rào cản của vần nhịp. Dòng cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ chảy tràn qua câu thơ một cách tự nhiên như không gì ngăn cản nổi. Độ dài ngắn của câu thơ, đoạn thơ luôn luôn thay đổi với nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Khái niệm dòng thơ đã không còn ý nghĩa trong kết cấu bài thơ. Chính vì vậy, sự xuất hiện những câu thơ, đoạn thơ đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong thơ văn xuôi, trong đó thủ pháp liên tưởng so sánh giữ một vai trò quan trọng trong việc liên kết các từ ngữ, mở rộng biên độ câu thơ với nhiều sắc thái biểu cảm hòa quyện vào nhau. Hình thức câu thơ rất gần với câu văn xuôi, bộn bề chi tiết, hình ảnh. Bên cạnh đó, có trường hợp bài thơ là cả một khối, không hề sử dụng bất kì dấu chấm câu nào và đặc biệt từ ngữ trong toàn bài thơ đều được viết in hoa như bài “Mail cho em” của Mai Văn Phấn có một kết cấu vô cùng độc đáo như sau:

 

“HAI GIỌT SỐNG GẶP NHAU VÔ ĐỊNH EM KHỎA ANH LÊN TỪNG ĐỢT SÓNG CHÌM DẦN VÀO DA MỊN TÓC TƠ TRUYỀN BẰNG MÃ RIÊNG ĐƯỜNG CONG THƠM THOẢNG BÍ ẨN TẦN SỐ RUNG MỞ VÒM THANH ĐỚI ÂM TRỢ DƯƠNG PHÙ HÀM RĂNG ĐỦ SỐ MẶC CHO KIỀN KHÔN BIẾN ĐỔI ANH THƠM THÀNH HẠT SEN GIÃ BIỆT BÙN NÂU MÔI EM NGẬM NGÔI SAO HƯ VÔ CHIẾU MỆNH MÀ ANH CHẲNG BIẾT CHẠY QUANH TUỔI THƠ CHÂN ĐẤT LẤM LÁP ÁNH SÁNG CHÓI CHANG MÊ MẢI TÌM NGÔI SAO NẰM TRONG ĐÁY NƯỚC BÌNH ĐÊM KHI ĐÔI MÔI TA GẶP NHAU BỖNG GIỌT NÀY THẤY GIỌT KIA LÀ MẸ TRÊN VẦNG TRÁN LONG LANH HIỆN RA VÔ SỐ NHÃN CẦU HỘI TỤ MỘT QUANG NĂNG MÁU ỨA ƯỚC TÍNH NHỮNG ĐƯỜNG CHÂN TRỜI ĐỂ TRÔI QUA THẾ KỶ CHÚNG KHÚC XẠ TRONG TA NHIỀU KHOẢNG CÁCH KHÁC THƯỜNG CHẠY VỘI VÃ TỪ NHỤY HOA ĐẾN CHÂN ONG VỪA RÚT GỌN KHÔNG GIAN RỜI TỔ XIN NGỌN KHÓI NHU NHƯỢC CẢ TIN ĐỪNG RỜI NGỌN LỬA MÀ THỜ PHỤNG NHỮNG ĐÁM MÂY PHÙ PHIẾM LẠC LOÀI ĐÃ CHẬM HƠN NHỮNG LƯNG ĐỒI QUÈ CỤT TAY CÀNH CHÂN RỄ XÓI LỞ NGÃ GỤC DƯỚI CHÂN CƠN LŨ NGÔNG CUỒNG NHỮNG ĐÁM RƯỚC RÃ MỀM CƠN KHÁT QUẰN QUẠI VÀ BẮT ĐẦU MÊ SẢNG TRONG XOAY VẦN MỘNG MỊ MÌNH LẠI NGỌT LÀNH VÀ ĐƯỢC TẮM MÁT LÙA TỪNG HẠT LI TI VÀO CAO HOANG PHỦ TẠNG RỒI BỐC HƠI TRONG TẤM CHĂN MỀM ẤM ÁP BAN MAI ĐỌNG TRÊN MẶT BÊ TÔNG CHẤT DẺO  ANH CỐ VỌNG VÀO HỔN HỂN THIÊN NHIÊN NGÔI NHÀ KHỔNG LỒ VÔ CẢM CHẶN ĐƯỜNG BAY NHỮNG CÁNH CHUỒN CHUỒN BÊN CÁNH DIỀU ĐỘT TỬ TRÊN MẠNG DÂY CAO THẾ NHỮNG CHÂN TRỜI CUỒNG CHÂN BỊ THƯƠNG LÊ ĐẾN KÊU CẦU GẶP CÁNH CHIM HOANG GIÓ VỘI VÃ NỐI VÀO LÁ PHỔI ĐÃ XẸP GIỜ LẠI PHỒNG LÊN PHẢI LỢP NHANH MÁI LỀU CHE KỶ NIỆM RÃ RỜI CHÚNG LANG BẠT VỀ TƯƠNG LAI VÀ HỐT HOẢNG GẶP LẠI ANH TƯỞNG ĐƯỢC SINH RA BẰNG PHƯƠNG PHÁP NHÂN GIEN NHÂN BẢN ANH THẤY MÌNH LẠC CUỐI CON ĐƯỜNG RA NGOÀI BẢN NGÃ GIỌNG NÓI VỠ TAN HAY TIẾNG THÉT VÔ THANH CỌC NHỌN LÚT SÂU VÀO HUYẾT QUẢN MÁI LỀU CHE CƠN MƯA A-XÍT LÀ NHỮNG DANH TỪ GIỐNG CÁI TRUYỀN TINH ANH TỪ HOA THẬT SANG CHO HOA NHỰA TIẾNG CHIM RỪNG KHAI MỞ KHẨU HÌNH CHO BĂNG GHI ÂM LÀM MỌNG THÊM NHỮNG GIỌT SƯƠNG MAI MÂY HOÀNG HÔN DÌU CÁNH CHIM VỀ MÀN HÌNH KHÔNG GIAN BA CHIỀU ẢO ẢNH NHỮNG BÀO THAI NHÂN TÍNH NHÂN SINH KHAI NHỤY TỤ HÌNH HÀI CẠNH NÉT CONG ĐOẠN THẲNG CHƯA THÀNH CON ĐƯỜNG ĐÃ GẶP BÀN CHÂN TA GỌI NHAU ĐỂ MÁU HỒNG THÔNG VỀ TỪNG KINH MẠCH XUÔI CHIỀU TRONG THỜI GIAN LỘN NGƯỢC CẦU NGUYỆN BAN MAI CHO TÌNH YÊU THUẦN PHỤC ĐƯỢC VẬT CHẤT LẪN PHẢN VẬT CHẤT THEO MÃ SỐ ĐÃ CHỌN CẢ DIỆP LỤC MÁU HỒNG CÙNG LINH CẢM ĐANG LIÊN HỒI TRUYỀN TỚI NƠI EM”

 

Ví dụ này cho thấy, biên độ câu thơ giãn nở một cách tự nhiên nhờ sự liên tưởng so sánh, kết hợp với việc mở rộng định ngữ bằng một chuỗi hình ảnh chứa đầy cảm xúc. Khái niệm dòng thơ chỉ còn có ý nghĩa tương đối, sự gắn kết trong câu thơ là hết sức tự nhiên, không hề có một dấu hiệu kĩ thuật, mà “chất keo” của nó chính là dòng cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ. Giọng điệu câu thơ là giọng điệu giải bày, bộc bạch, chứa đựng một tình cảm nồng nàn tha thiết của tác giả. Bên cạnh hình thức liên tưởng so sánh để gắn kết dòng cảm xúc trong những bài thơ có kết cấu tự do, hoàn toàn ngẫu hứng, không nằm trong bất kì một khuôn khổ nào như ví dụ vừa đề cập ở trên. Thì có một hình thức liên tưởng so sánh thường được phổ biến trong thơ văn xuôi là sự dụng các liên từ so sánh: như, cũng như, hình như. Đây là hình thức so sánh trực tiếp, rất quen thuộc trong giao tiếp ngôn ngữ cũng như trong sáng tạo thơ ca.

 

“Những người đàn bà góa bụa làng tôi như những con cào cào áo nâu khuất dần sau cỏ. Từ chân trời xa chạy về những ngọn gió loang lổ màu đỏ. Những ngón tay của gió như điên cuồng, như kiệt sức bới rối tung từng đám lá cỏ gai.

....

Những người đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai, trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất vả.” (Những ví dụ - Nguyễn Quang Thiều)

 

Đến đây, hiệu ứng thẩm mỹ của phép liên tưởng so sánh này là hết sức rõ ràng, nó không chỉ mang đến cho câu thơ một khả năng truyền cảm, mà còn có khả năng gợi cảm, khơi dậy trí tưởng tượng của người đọc, tìm đến những liên tưởng vừa mơ màng hư ảo, vừa gần gũi và chân thực. Sức ám ảnh gợi của câu thơ, bài thơ nhờ vậy cũng trở nên mạnh mẽ, sâu sắc hơn, có khả năng tác động trực tiếp vào lí trí của người đọc. Những liên tưởng so sánh không có gì mới về cấu trúc, nhưng lại luôn có khả năng mang đến một cảm giác bất ngờ, tạo nên hứng thú thẩm mỹ cho người tiếp nhận.

 

3.2. Ngôn ngữ thơ

 

Chất liệu của văn học là ngôn từ. Đặc biệt trong thơ cách tổ chức, sắp xếp ngôn từ có một vai trò rất quan trọng, ngôn ngữ trong thơ mang tính biểu hiện đến với thơ là đến với những tình cảm, cảm xúc của tác giả. Thông qua ngôn ngữ sử dụng ta thấy được tài năng của nhà thơ và quan trọng hơn thì việc nhà thơ tái tạo ngôn ngữ là để cống hiến thêm vào cho biểu tượng của người đọc một sự thật của hiện thực  hoàn cảnh mà mỗi nhà thơ chọn cho mình một hệ thống ngôn ngữ đặc trưng riêng.

 

Nói đến đặc điểm của ngôn ngữ thơ là nói đến toàn bộ các yếu tố chi phối việc hình thành ngôn ngữ nghệ thuật cũng như nghệ thuật sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ của người làm thơ. Mỗi thời đại đều đưa ra những tiêu chí, những yêu cầu nhất định trong việc sử dụng ngôn ngữ trong thơ ca dựa trên quan niệm về chức năng của nó. Thơ hiện đại đề cao chức năng phản ánh hiện thực, biểu hiện đời sống nội tâm nên ngôn ngữ thơ cần chân thực, giản dị, giàu tính biểu cảm và gần với đời sống mới có thể chuyển tải hết cái rộng lớn của hiện thực cũng như cái đa dạng, phức tạp trong nội tâm con người.

 

3.2.1. Dung nạp ngôn ngữ đời thường

 

Như chúng ta đã biết, một trong những đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ là sự tinh tế, giàu cảm xúc. Nó là sản phẩm của quá trình chất lọc, đãi chữ lọc từ của nhà thơ, thậm chí là sản phẩm của một khoảnh khắc thăng hoa trong tâm hồn nhà thơ. Bên cạnh đó, tài năng và cá tính sáng tạo, phong cách của nhà thơ được thể hiện qua ngôn ngữ thơ. Song có một thực tế, trong thơ ca đương đại, dường như ngôn từ không còn là yếu tố thứ nhất làm nên vẻ đẹp của bài thơ. Thế nên, xu hướng dung nạp ngôn ngữ đời thường vào thơ đang ngày càng phổ biến, đặc biệt là trong thơ văn xuôi.

 

Nói đến ngôn ngữ đời thường là nói đến một thứ ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, tự nhiên, thậm chí là thô ráp. Nó tỏ ra phù hợp với văn xuôi hơn là thơ, một thể loại luôn lấy sự tinh tế gợi cảm là tiêu chí hàng đầu. Loại ngôn ngữ này dường như vắng bóng trong thơ Đường luật và cũng ít gặp trong thơ tự do trong thời kì thơ mới. Bởi thế, trong thơ ca kháng chiến chống Pháp khi ngôn ngữ đời thường xuất hiện trong một số sáng tác của Hồng Nguyên (Nhớ), Trần Hữu Thung (Thăm lúa), Tố Hữu (Phá đường), Hữu Loan (Màu tím hoa sim)… đã làm ngỡ ngàng người đọc. Thói quen tiếp nhận một thứ ngôn ngữ thơ bóng bẩy, tinh tế được chắt lọc kỹ càng trong thơ mới (1932 – 1945) đã khiến cho không ít người có thái độ nghi ngờ chất thơ ở những bài thơ sử dụng ngôn ngữ đời thường. Dè dặt hơn, nhiều người xem đó là sự tìm kiếm, thể nghiệm trong quá trình đưa thơ đến gần với hiện thực đời sống. Sau năm 1975, việc sử dụng ngôn ngữ đời thường trong thơ đã không còn là cá biệt, riêng lẻ, mà đã trở thành một xu hướng phổ biến nhất trong thơ nói chung và thơ văn xuôi nói riêng. Nhà thơ đứng giữa cuộc đời, đối mặt với cuộc đời và không ngần ngại đưa vào thơ tất cả những gì thực nhất, thậm chí là dung tục, bụi bậm của cuộc đời:

 

“Gã sinh ra và lớn lên từ rơm rạ, tro trấu, từ những giọng buồn. Gã, tóc bùng màu đen, râu dựng màu đen. Những mái rạ đen mục tiếng thạch sùng, bầy chó mực mê man bóng tối. Bánh xe trâu khắc hai nét đen dài suốt con đường qua cánh đồng từ tinh sương đến đổ tối. Không có dấu hiệu gì từ những chữ trắng trên bảng đen. Và gã ra đi từ những ô chữ nhật đen, khi bóng tối lùa kín từng cái miệng. Những con muỗi trộn màu đen của chúng và màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ. Và trăng, màu đen của ánh sáng ngày dứt mình ra khỏi những đám mây bẩn thỉu.” (“Một màu đen” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Bằng một loạt các từ ngữ “Gã, rơm rạ, tro trấu, tóc bùng, tiếng thạch sùng, bầy chó mực, bánh xe trâu, đổ tối, con muỗi...” là lời ăn tiếng nói ngày thường, mà từ trước đến nay người làm thơ rất kén chọn khi đưa vào thơ nhưng đến Nguyễn Quang Thiều, nhà thơ không dùng từ ngữ ấy để bộc lộ mà là dùng để tả, kể với một ngôn ngữ giản dị đến mức suồng sã, gần với ngôn ngữ văn xuôi. Hay nói chính xác hơn, cảm xúc của nhà thơ được ẩn kín đằng sau lớp hình ảnh, ngôn từ:

 

“Những ngôi nhà mang theo những đàn ông, đàn bà cùng những con chó hay sủa gió của họ. Đêm tháng Mười đi từ phía cánh đồng và biến mất trong những giấc ngủ người lớn tưởng không bao giờ tỉnh dậy. Chỉ còn lại ngọn đèn tháng Mười câm lặng. Và chúng tôi - những đứa trẻ - ngồi nhìn em mình thở. Và chúng tôi không thuộc được một lời cầu nguyện nào.” (“Hồi tưởng tháng mười” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Hay như bài “Em cho con bú” của Mai Văn Phấn cũng là một ví dụ:

 

“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh... (“Em cho con bú” – Mai Văn Phấn)

 

Từ đây chúng ta có thể thấy rằng, việc sử dụng ngôn ngữ đời thường trong thơ biểu hiện một sự thay đổi cách nhìn của nhà thơ về cuộc sống, về quan niệm thẩm mĩ. Đã một thời thơ hướng về thiên nhiên thanh sạch, thế giới bồng lai mê hoặc để chuyển tải những cảm xúc tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên của cuộc sống con người. Nhưng giờ đây, thơ nhìn xuống, nhìn xung quanh mình, cuộc sống hiện ra chân thực như nó vốn có: hạnh phúc và đau khổ, vinh quang và cay đắng, giàu sang và cơ cực, cao cả và thấp hèn... Con người cũng hiện hữu với những giá trị thật nhất, cả những khoảng tối bị khuất lấp trong tâm hồn. Thứ ngôn ngữ cao sang bóng bẩy dường như không còn thích hợp cho việc thể hiện dòng cảm xúc bộn bề, phức tạp ấy. Với một cách nhìn như vậy, nhà thơ đã tìm đến một thứ ngôn ngữ đời thường hơn, giản dị hơn. Trong tác phẩm “Những ví dụ” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã thành công với một ngôn ngữ như thế:

 

“Những người đàn bà góa bụa làng tôi - những ví dụ - chân không giày không dép. Họ tránh con đường dẫn đến những đêm trăng. Bầu vú họ mệt mỏi nằm ngoẹo đầu và trở lên ngễnh ngãng, không còn nghe được tiếng gọi đàn ông nồng mùi thuốc lào và ruộng bùn ngai ngái, trong những đêm gió từng đôi quấn nhau qua vườn hổn hển. Chỉ tiếng chuột nhắt cắn thóc trong những chiếc áo quan gỗ gạo đóng sẵn làm họ thức giấc. Và họ nằm lo âu trong tiếng mọt cắn gỗ vọng ra từ cỗ áo quan”

 

Những hình ảnh “người đàn bà góa bụa”, “lũ trẻ cởi truồng”, “những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen, tõe ra như móng gà mái, cào cào áo nâu, mọt cắn gỗ gạo, chuột nhắc cắn thóc, thuốc lào, rơm rạ…” xuất hiện một cách tự nhiên trong bài thơ như dòng chảy tự nhiên trong cảm xúc suy tư của nhà thơ về cuộc sống. Đó là một thứ ngôn ngữ không cần trang sức, không được dụng công chắc lọc. Từ cuộc sống đời thường ùa chảy vào thơ. Bài thơ “Bừng tỉnh trên tàu” của Mai Văn Phấn là một ví dụ:

 

“Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng gần bậc cửa. Chị vội vã lắc đầu và cảm ơn chiếu lệ. Về ghế của mình, tôi lơ đãng nhìn qua cửa sổ con tàu và ngủ thiu thiu.

Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến những nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.

Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu”

 

Từ ngữ của bài thơ gần như là từ ngữ của một bài văn xuôi kể về câu chuyện của nhân vật tôi vừa xảy ra trên tàu, là nỗi niềm băn khoăn từ một sự việc của đời sống. Nếu cũng tứ thơ này, về câu chuyện của một người thiếu phụ không có chỗ ngồi trên một chuyến tàu, sự lo sợ của nhân vật tôi về một rủi ro có thể xảy ra bất kì lúc nào theo trí tưởng tượng của anh. Thì ở các thể thơ khác như thơ cách luật hay thơ tự do bằng những khuôn mẫu về ngôn từ, vần, nhịp thì khó có thể chuyển tải hết ý nghĩa nội dung của bài thơ bằng việc chỉ kể về một câu chuyện tưởng chừng như rất bâng quơ này. Điều này cũng giống với bài thơ Chuyển dịch màu đen là đỉnh cao trong lộ trình cách tân của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, là câu chuyện thơ mang kịch tính, xung đột, gây ấn tượng mạnh, tạo đa nghĩa... Ngôn ngữ thơ trong bài thơ gần với ngôn ngữ đời sống, súc tích, từng chi tiết diễn tiến nhanh... Những mảng màu sáng tối tương phản rõ rệt ngay trong từng mạch thơ. Mỗi câu thơ như nhát bay miết mạnh, dứt khoát trên tấm toan rộng tạo ấn tượng, nhiều đoạn như nhát búa giáng mạnh vào tâm não người đọc: “Những con muỗi trộn màu đen của chúng vào màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ…/ Những cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá”. Nhà thơ dồn nén cảm xúc vào những trạng thái đặc biệt, chú trọng tạo hiệu ứng xung đột cao để bạn đọc cảm nhận được vẻ đẹp thơ ca trong những không gian lạ thường: “Ngôi nhà gỗ cắn môi, ổ khoá hóc chết chẹt một khoảng tối”

 

Bên cạnh những mảng “màu lạnh”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có chủ ý khá tỉnh táo đặt những hình ảnh tương phản, lúc giàu tính trữ tình như: “Cầu thang gỗ đã ngủ, những răng sâu đã ngủ/ Dìu dịu trên đệm ấm, cơn ngứa thay lông”. Nhiều lúc ta bắt gặp những câu thơ như ngọn đèn bất ngờ bật sáng trong góc tối: “Trong góc phòng, bầy cá vàng giấu mình vào vùng nước tối…/ Những vòm cây đã trộn vào nhau/ Rễ trộn vào thân và lá trộn vào quả…/ Tỉnh giấc trong khuya bởi màu trắng cơn mê/ Cố hương xoã tóc đen đi trong gió trắng/ Cố hương vật lên như sóng/ Cố hương vùi mình như muối triệu năm”. Bài thơ trộn lẫn giữa giấc mơ với ngổn ngang hiện thực, giữa khát vọng tự do, hòa đồng và hóa giải những định kiến về sắc tộc, văn hóa,… với cách biểu hiện chưa từng có trong lộ trình thơ ca của ông.

 

Với bài “Cây ánh sáng” cũng là một sự miêu tả, kể sự việc bằng những từ ngữ dung dị, đời thường “Và lúc này chàng nghe thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà chàng/ Và lúc này những cái cây trên thế gian, những ngọn nến xanh khổng lồ thắp lên trên tất cả con đường…/Trong một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ ấy, trong một bầu trời ấy/ Và Người đã biến chàng trở thành một chiếc lá nhỏ không bao giờ tàn úa/trên cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập tràn” (“Cây ánh sáng”). Nếu ánh sáng trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa là ngọn đuốc, đèn pha, thì ánh sáng trong tập thơ “Cây ánh sáng” được hắt lên từ đường chân trời rạng đông, cho ta nhìn thấy hết vẻ đẹp trinh nguyên, bất tận của một sớm mai tuyệt đẹp. Cho ta biết được một ngày mới đang đến với bao khác biệt, nhiều bí ẩn, bất ngờ... Bằng những chuyển động tất yếu tuân theo quy luật tự nhiên, cho chúng ta được quyền tin yêu và hy vọng vào những điều tốt đẹp trên thế gian này.

 

Trên xu hướng ấy, thơ của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn phấn cũng xuất hiện lần lượt những hình ảnh hết sức đời thường như: “con cào cào, con chuột nhắc, con chó, con cá đực, con cá cái, ...” Cho thấy một sự thay đổi trong tư duy nghệ thuật của nhà thơ. Thơ không còn là một lãnh địa riêng, khép kín mà luôn có sự giao thoa với nhiều thể loại khác. Chất thơ không phải ở bề mặt ngôn từ mà thu vào bên trong gắn với những chiêm nghiệm suy tư của nhà thơ về cuộc sống.

 

Thơ văn xuôi trong sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn không chỉ xuất hiện những từ ngữ đời thường mà còn có cả những suy tư, lo âu rất đời thường của một cái tôi - thế sự - đời tư. Ngôn ngữ đời thường đi vào thơ không chỉ giúp nhà thơ chuyển tải được tình cảm nhiều cung bậc, lắm nỗi niềm, mà còn là cách định hướng tình cảm và nhận thức của người đọc bằng việc để họ trực tiếp va chạm với các hiện tượng đời sống chứ không làm lây lan tình cảm. Cách tiếp cận này giúp người đọc đến với cuộc sống một cách trực tiếp, thơ trở nên gần gũi với cuộc đời.

 

3.2.2. Tính tạo hình và tính biểu hiện trong ngôn ngữ thơ

 

Về cơ bản, ngôn ngữ văn xuôi là ngôn ngữ tạo hình còn ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ biểu hiện. Ngôn ngữ tạo hình thiên về khả năng miêu tả, phản ánh hiện thực và xây dưng hình ảnh. Ngôn ngữ biểu hiện thiên về khả năng khơi gợi liên tưởng, thể hiện tư tưởng, tình cảm và thái độ của chủ thể sáng tạo. Trong thực tế sáng tác, hai loại hình ngôn ngữ này thường xuyên có sự chuyển hóa, hòa trộn vào nhau và các nhà thơ từ cổ điển đến hiện đại đều coi trọng tính tạo hình của ngôn ngữ thơ. Từ thơ Nguyễn Trãi:

 

“Cỏ xuân như khói, bến xuân tươi

Lại có mưa xuân nước vỗ trời

Quạnh quẽ đường đồng trưa vắng khách

Con đò gối bãi suốt ngày ngơi” (“Bến đò xuân đầu trại”)

 

Hay như Nguyễn Du với “Long lanh đáy nước in trời/ Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” (“Truyện Kiều”) đến thơ Xuân Diệu với “Quả đất – ba phần tư nước mắt/ Đi như giọt lệ giữa không trung” (“Lệ”)… đã vẽ lên những bức tranh thơ đẹp và rất giàu hình ảnh chính là nhơ khả năng tạo hình của ngôn ngữ thơ. Tất nhiên những bức tranh thơ đó đều chứa đựng cách nhìn, tâm trạng và cảm xúc nhà thơ. Khả năng biểu hiện của ngôn ngữ thơ giúp người đọc cảm nhận được những mặt này. Có điều, đối với thơ trữ tình, điều quan trọng không phải là tái hiện hiện thực khách quan mà là bộc lộ thế giới chủ quan của con người trước hiện thực khách quan đó. Do vậy, tính biểu hiện bao giờ cũng được ưu tiên trong ngôn ngữ thơ.

 

Đến thơ văn xuôi, việc miêu tả, khắc họa hình ảnh của sự vật hiện tượng nhiều khi cũng quan trọng không kém việc thổ lộ tình cảm, cảm xúc. Điều này giúp cho hình ảnh của sự vật, hiện tượng trong thơ văn xuôi trở nên rõ nét và sự tác động của hình ảnh đối với người đọc cũng mạnh mẽ hơn.

 

Trong nhng sáng tác thơ văn xuôi ca Mai Văn Phn, cng tôi nhn thấy nhà thơ s dụng dày đặc hình nh, các hình nh đưc nhà thơ s dng mt cách t do, thoải mái, to ra được mt giọng thơ đc đáo, góp phn thể hiện những ý tưng, chiêm nghim, cũng như bc l được quan niệm thẩm m mới mẻ. Tác giả đã nhiu dụng công trong việc to ra được nhng hình nh mới lạ, những liên tưng, so sánh đầy bất ng:

 

 “Mình đã ng sâu hai chiếc chai đóng kín hai que diêm chen ln gia bao diêm

hai bức tranh lng vào khung tranh

hai kỷ vt ct trong rương ti

hai chiếc đinh đóng ngp trên tường” (“Hình đám cỏ”)

 

Hay:

 

“Chiếc áo va git nhàu n, nước lng l bc hơi i đâu có biết. Rồi những si vi mỏng manh li phẳng phiu dưi n là nóng bng. Giặt - , git - ... Đời sống đôi khi giống qu lc chiếc đồng h quá cũ. Tôi tp nghĩ vn để có th nghĩ tiếp (“Anh tôi”)

 

thể i, kh năng s dụng những hình nh liên tưng, so sánh táo bo là mt trong nhng thế mnh ca Mai Văn Phn. Chính nó đã tạo nên sự cun hút, s đc đáo trong nhng tác phm ca ông. Nhà thơ bng mt lot nhng hình nh được s dụng vi tn sut cao, khiến cho ngưi đc phi huy động tư duy và liên ng ch cc trong quá trình tiếp nhn các ý tưng thơ. Thơ Mai Văn Phn tất cả các giai đon đu tn dụng khai thác ti đa ưu thế ca các nh nh được bộc lộ cảm c và ý ng thẩm m. phương din này, Mai Văn Phn và Nguyễn Quang Thiu mặc dù s tương đồng việc sdụng các hình nh với tần sut cao, nhưng cũng có s khác biệt khá bn. Nguyễn Quang Thiu thưng s dng các hình nh hừng hc mnh mẽ, và thưng đẩy chúng ti tn cùng giới hn ca chính nó Con nhn c git mình chy hút cui đưng tơ hoặc cũng có thể là nhng hình nh thể hin s đvỡ,  chia ct... nhà thơ buc s vật phải nói đến cái mnh m nhất ca đi sng t nhiên.

 

“Sông đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại

Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi” (“Sông đáy”)

 

Nguyễn Quang Thiều thưng phát huy hiu qu thẩm m của các hình nh đi lp, tương phn. Trong thơ Nguyễn Quang Thiu, strn tc ln đưc đt cnh s linh thiêng, cái bình thưng luôn được đặt cnh cái phi thưng... chúng va đi lập nhau, va dung hòa nhau. T người đàn bà gánh nước ng, nhà thơ viết:

 

“Mt tay h bám vào đòn gánh bé bng chơi vơi

Bàn tay kia bu vào mây trắng” (“Người đàn bà gánh nước sông”)

 

Sự tương phn ấy làm nổi bt v đp va yếu đuối, gin d, lãng mn. Hình nh ấy cht cha cảm hng nhân văn sâu sắc ca nhà thơ. Cũng như cách thể hiện tình yêu không phô trương, gân guốc nhưng lại nhẹ nhàng, thắm thiết và đầy ý nghĩ của Mai Văn Phấn trong bài “Viết cho cây sáo”: “Vũ trụ lầm lì lơ lửng trong đêm. Những con sóng dịu mềm cho bên lở biết mình còn đó, để ban mai thức dậy gặp bên bồi” tác giả mượn hình ảnh biểu tượng “bên lở - bên bồi” một sự đối lập gần như không hề dung hòa nhau, nhưng ở đây “bên lở” gần như cảm thấy hạnh phúc và hoàn toàn tự nguyện khi “biết mình còn đó, để ban mai thúc dậy gặp bên bồi” để dành sự bồi đắp cho “bên bồi” các từ ngữ “dịu mềm”, “ban mai” tạo nên một không gian bình yên và tĩnh lặng ở đó chỉ có tình yêu và sự hi sinh, tấm lòng bao dung rộng lớn khi sự sống của mình chính là niềm tin, sức mạnh và động lực cho một sự sống khác. Thật sự khi yêu nhau người ta dường như không còn sống vị kỉ cho riêng bản thân mình nữa, mà lúc nào họ cũng gắn kết sự sống của mình với một sự sống khác, đan dệt nên những cung bậc yêu thương đa màu sắc cho cuộc đời.

 

Bên cạnh đó, hình tượng của thơ văn xuôi còn thể hiện tính đa nghĩa của nó ở chỗ có khả năng tạo ra những nhận thức, cảm nhận và liên tưởng khác nhau ở mỗi người. Hình tượng văn học nói chung, hình tượng thơ nói riêng càng được miêu tả cụ thể thì càng ít gợi liên tưởng. Do đó, so với ngôn ngữ thơ cách luật thì ngôn ngữ thơ văn xuôi có sự gia tăng về khả năng tạo hình nhưng phần nào hạn chế về khả năng biểu hiện. Hệ quả là hình tượng, cảm xúc trong thơ văn xuôi tuy phong phú, đa dạng và không dễ nắm bắt như cách miêu tả “Những người đàn bà gánh nước sông” trong thơ Nguyễn Quang Thiều như: “Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái” qua việc so sánh hình ảnh những người đàn bà với những con gà mái chúng ta thấy ở đây hoàn toàn khập khiễng nhưng đều này không có nghĩa là nó không có lí. Cuộc sống mưu sinh đã đè nặng lên đôi vai của những người phụ nữ, lao động vất vã làm xuất hiện những dị tật nhưng đó không chỉ là dị tật ở bên ngoài mà xa hơn đó còn là một vết sẹo thẳm sâu trong tâm hồn khi họ phải gồng gánh trên vai cuộc sống ngàn đời vất vã. Nhưng không dừng lại ở đó khi tác giả còn nhấn mạnh: “Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến/ Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ” như báo hiện một vòng tuần hoàn sẽ được lập lại và những cô gái kia cũng phải đến lúc thấy những dị tật ngay trong người mình “Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen tõe ra như móng chân gà mái” . Hình ảnh này càng làm người đọc không khỏi đau đáu khôn nguôi trước bao phận người, bao cuộc đời với trăm ngàn ngã rẽ khác nhau. Cùng viết về hình tượng người phụ nữ nhưng Mai Văn Phấn lại khắc họa nỗi đau của họ ở một khía cạnh khác, đó chính là hình ảnh của những giọt “nước mắt”:

 

“Nước mắt những người đàn bà góa bụa mà đông thành tinh thể, thì làng tôi có bao nhiêu hòn Vọng-Phu. Nhưng nước mắt chỉ thầm như sương muối, tháng ngày tàn héo xuân xanh, rồi bay về trời tụ thành mây hồng hoang” (“Nước mắt”)

 

Không gân guốc, không mãnh liệt mà rất nhẹ nhàng nhưng lại làm cho người đọc xót xa khi nước mắt có thể làm nên những “hòn Vọng – Phu” nếu chúng được đông thành tinh thể. Đây có thể được xem là một trong những thành công tiêu biểu của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong việc tạo dựng hình ảnh và biểu hiện những hình ảnh ấy với phong cách riêng độc đáo của mình. Cùng xây dựng hình tượng về người phụ nữ, nhưng với cách nhìn cách cảm khác nhau mỗi tác giả lại mang đến cho người đọc một cảm nhận khác nhau về thân phận của người phụ nữ nhưng tụ chung lại đích đến cuối cùng vẫn là sự đồng cảm dành cho những thân phận “ba chìm bảy nổi” trong xã hội từ ngàn đời nay.

 

Đi vi Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn vic s dụng nh nh trong thơ cũng được coi như là mt phương tiện truyền ti nhng ý tưng, những cảm hng nhân văn ca mình. Tuy nhiên, trong việc xây dựng và s dụng hình nh trong thế gii thơ mình Mai Văn Phn thưng có xu hưng vươn tới mt thế gii trầm lng, du dàng và thanh bình khác với thơ Nguyễn Quang Thiều hình ảnh được thể hiện như một sự bức phá mạnh mẽ và dữ dội. Song, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn cùng chất chồng hình nh nng đó thưng là nhng nh nh vừa hiện đại va mang âm hưng bn sắc riêng ca dân tộc, thể hiện mt tâm hn thi sĩ nng tình vi ci nguồn, vi quê hương, đt nưc. Như vậy thể d dàng nhn thấy h thống hình nh trong thơ văn xuôi của hai nhà thơ này đều thể hiện  quan niệm hưng thơ ti mt giá tr thun khiết, gn gũi vi đời sống, tâm thc ngưi Vit, mang âm hưng riêng ca thơ Vit đương đi.

 

3.2.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lí

 

Chất triết lí trong thơ là vấn đề thiên về nội dung, tư tưởng. Đó có thể là những suy ngẫm, chiêm nghiệm, lí giải, thậm chí là những phát hiện của tác giả về cuộc sống, về con người mà tác giả muốn gửi gắm đến độc giả thông qua bài thơ. Ở thể loại thơ văn xuôi, tính triết lí có những biểu hiện khá rõ nét vì thơ không còn giọng điệu êm ái, du dương, mượt mà với những dòng cảm xúc êm đềm. Thay vào đó là một dòng cảm xúc đa dạng, nhiều khi dữ dội, lắm thác ghềnh. Thơ chứa đựng nhiều suy tư, trăn trở, nhiều lí sự với các lập luận, biện minh, giải bày, tranh luận để thể hiện một chiều sâu triết lí nhân sinh:

 

“Những con kiến chữ khổng lồ bu lấy tôi, ngang nhiên đi lại qua những lỗ hổng cơ thể. Rối loạn, chồng chất, đè nặng... khiến tôi nhận thức loài kiến cũng là lũ giết người. Phải tìm cách đuổi chúng đi hay xếp thành hàng lối. Giờ chỉ còn ngữ nghĩa mới điều khiển được, nhưng mọi khái niệm đã bị lu mờ. Tôi thử phát âm từ “đen” để gọi lũ kiến đen. Lập tức các loài kiến đủ sắc màu tụ lại, làm nên nghĩa của từ “bu đen”.

Người ta nói, dòng sông kia đã được tiệt trùng. Tôi thận trọng tắm rửa bằng những hương liệu quý. Lội xuống, nước đến đâu cơ thể tôi bầm đen đến đó, rồi mọc ra những sợi lông vũ. Thế là nửa người trong nước hóa thành chim. Nhưng tiếng hót phải thoát qua vòm họng và lưỡi. Từ đấy, miệng tôi luôn chống lại quán tính của phần bầm đen trong nước đã ngập chìm” (“Di chứng” – Mai Văn Phấn)

 

Con người như cố vẫy vùng ra khỏi “phần bầm đen” đã “ngập chìm” như cố vương lên giữa một đời sống khắc nghiệt mà có thể nhấn chìm con người bất cứ lúc nào nếu họ không vận động cho kịp với sự phát triển của thời đại khi mà “mọi khái niệm đã bị lưu mờ”. Ở đó còn bao hàm những phát hiện bất ngờ, thú vị về triết lí đời sống như bài “Hồi tưởng” của tác giả Nguyễn Quang Thiều:

 

“Có một người mù ngày ngày vẫn đi qua thành phố

Dừng lại nói cho chúng ta về những con đường”

 

Hay “Tất cả những con người ở ngoài cửa hiệu này mới thực sự là ma-nơ-canh” (“Thư gửi những ma-nơ-canh trong một hiệu áo cưới ở Hà Đông” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Ở hai câu thơ trên, chúng ta có thể thấy chính sự ngịch lí tưởng chừng như phi lí lại mang đến một hiện thực hết sức bất ngờ và đầy thú vị, người mù thì làm sao có thể chỉ đường cho người sáng, nhưng xét lại nó vẫn có yếu tố hợp lí vì không phải tất cả người mù đều không ra đường (vì không thấy), họ vẫn đi ra phố trên những con đường của tâm tưởng và của cảm giác. Tương tự vậy, những con người thực đang chuyển động bên ngoài kia thì có lẽ nào lại là những ma-nơ-canh, nhưng ở đây, họ “những con người ngoài cửa hiệu” thật sự là ma-nơ-canh bởi vì họ luôn ngụy tạo cho mình một gương mặt hoàn hảo khi ra đường, họ luôn đóng khung mình vào những khuôn mẫu của đời sống tầm thường mà nói như Mai Văn Phấn thì

 

Đích đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng” (“Đến trong ý nghĩ”)

 

Bên cạnh triết lí nhân sinh, trong thơ văn xuôi ta còn bắt gặp một triết lí mang màu sắc tôn giáo, đó là qui luật nhân-quả của con người trong kiếp vô thường:

 

“Và như thế, cội nguồn trong gang tấc, lúc quay về là đi hết đời mình, hay chờ luân hồi trở lại kiếp sau.

Những linh hồn kia chưa kịp đầu thai, đang ngưng lại nơi không gian thờ phụng, bay lửng lơ rồi nấp vào bái vật giáo bất động” (“Bức ảnh, trái cây và giấc mơ” – Mai Văn Phấn)

 

“kiếp” là một khái niệm của đạo phật nói về sự luân hồi, mà qui luật chi phối nó là luật nhân-quả, tức là kiếp trước gieo nhân nào kiếp sau sẽ nhận được quả ấy. Đó là sự báo ứng cho những việc mình đã làm trong quá khứ. Sự nghi ngờ của tác giả “lúc quay về là đi hết đời mình, hay chờ luân hồi trở lại kiếp sau” là hoàn toàn có lí vì dường như con người của thời đại ngày nay ít có niềm tin vào cái thiện, họ sống như vô cảm hơn, lạnh lùng hơn và chính điều này dường như làm cho con người trở nến khép kín và e dè hơn:

 

“Sự e dè thường được bọc kín thành nhân trong hạt. Dẫu mang nhiều hứa hẹn mùa xanh, những hiệu quả bội thu tiếp nối, nó vẫn không tự thoát ra khỏi lớp vỏ dày” (“Giải pháp” – Mai Văn Phấn)

 

Hay đó là sự tự ý thức của Nguyễn Quang Thiều về hiện thực cuộc sống trong bài “Với chiếc xe một bánh”:

 

“Tôi đã chết một cái chết khoảnh khắc

Trong tuyệt vọng cuối cùng, hi vọng đầu tiên”

 

“cái chết khoảnh khắc” không phải là cái chết kết thúc tất cả, mà chính là cái chết để bắt đầu lại, để con người thêm tin yêu vào cuộc sống, cái chết ấy chỉ là tạm thời cho những “tuyệt vọng cuối cùng”, để những tuyệt vọng, khổ đau, mất mát… ở lại với quá khứ, để chúng “chết” đi và đã đến lúc con người cần bắt đầu lại để sống bằng niềm “hi vọng đầu tiên”. Nhưng không phải lúc nào con người cũng đều nhận ra đều này, nhận ra đôi lúc chúng ta cần có một “cái chết khoảnh khắc” để có thể biết mình cần thêm hi vọng để sống, rằng cuộc đời này sự sống mới quí giá biết bao. Họ tự giết đi sự sống của mình dần dần mà không hề có sự hồi sinh qua những đố kị, đua chen, nghi ngờ đến ám ảnh:

 

“Nhưng đời tôi phải chăng đã gặp những lọc lừa

Nên tôi sợ và tôi nghi ngờ

Sự nghi ngờ đã lây lan, sự căm thù đã lây lan

Nhưng mãi mãi tấm mạng nhện kia không có mưu mô độc ác gì”

(“Ám ảnh” – Nguyễn Quang Thiều)

 

Thậm chí, chỉ một tấm mạng nhện giăng mỏng manh ngoài của sổ “mỏng như hơi thở con tôi phả vào mặt kính” cũng làm con người nghi ngờ về mức độ sẽ ảnh hưởng của nó sẽ gây hại đến mình. Thử hỏi, con người làm sao có thể sống an nhiên, vui vẻ, lấy gì làm điểm tựa để tiếp tục sống giữa cuộc đời luôn tất bật này, khi mà họ không ngừng tạo cho mình những bức tường vô hình vị kỉ, cá nhân.

 

Từ cách thức sử dụng ngôn ngữ giàu tính triết lí, suy tưởng của thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn chúng ta có thể thấy thơ văn xuôi của hai tác giả này ngày càng tiếp cận với đời thường và ứng với nó là việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ mang một hàm nghĩa riêng gần với ngôn ngữ văn xuôi. Bên cạnh đó, thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng và thơ văn xuôi Việt Nam nói chung cũng không ngừng kiếm tìm, thể nghiệm những nội dung mới, những cách cảm nhận mới trong cuộc sống đương đại, ứng với nó là việc sử dụng những lớp từ ngữ, những tổ hợp ngôn ngữ có khả năng tạo ra những ý nghĩa rất riêng, mang chiều sâu triết lí sâu sắc.

 

3.3. Nhạc điệu

 

Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” nhạc điệu là “cấu tạo ngữ âm của lời văn nghệ thuật hình thành bởi vật liệu âm thanh của ngôn từ thể hiện đặc sắc của văn học” [29; 224]. Mà yếu tố hình thái cấu tạo nên nhạc điệu là các phép điệp âm, điệp vần phối hợp bằng nhiều hình thức đa dạng như luật bằng, trắc, niêm, đối, vần, nhịp điệu cùng với các yếu tố tượng thanh, ngữ điệu. Đặc biệt là “cái làm nên cái hồn của nhạc điệu là sự liên tưởng của tổ chức âm thanh với cảm giác âm nhạc trong lòng người” [29; 225] Sự liên tưởng này không phải bao giờ cũng cụ thể, trực tiếp nhưng bao giờ cũng có một mối liên hệ nhất định giữa âm hưởng, nhịp điệu với điệu tâm hồn. Từ đó, có thể thấy nhạc điệu là yếu tố không thể thiếu của ngôn ngữ thơ và trong thực tế sáng tác, hầu như mọi tác giả thơ đều chú trọng điều này. Vì chỉ có nhờ vào nhạc điệu được tạo ra ở ngôn ngữ mà người đọc thơ cảm nhận được cái nhịp nhàng, bay bổng, cái réo rắt ngân vang trong mỗi câu thơ, bài thơ. Những qui tắc cách luật trong thơ như ngắt nhịp, phối thanh, hiệp vần, niêm, đối...trong các thể thơ Đường luật, lục bát, xét cho cùng cũng không ngoài mục đích tạo ra nhạc điệu trong thơ. Trong thơ văn xuôi của hai tác giả Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn tính nhạc có những biểu hiện khá phong phú và được tạo dựng bằng những cách thức riêng.

 

Nếu như thơ trung đại, nhất là thể Đường luật thất ngôn bát cú, sử dụng năm yếu tố để tạo nhạc điệu trong thơ là nhịp điệu, thanh điệu, vần điệu, niêm và đối. Trong đó, ba yếu tố đầu thuộc về ngôn ngữ, hai yếu tố sau thuộc về cấu trúc văn bản thơ. Thơ văn xuôi tuy đã phá vỡ mọi trật tự cấu trúc thơ cách luật và làm thay đổi diện mạo văn bản thơ nhưng vẫn tôn trọng các yếu tố thuộc về ngôn ngữ. Chỉ khác ở chỗ là nó không ràng buộc các yếu tố đó vào một qui tắc nhất định. Thơ văn xuôi coi trong nhịp điệu vì nếu không có nhịp điệu, nó dễ biến thành văn xuôi. Nhưng nhịp điệu thơ văn xuôi không phải là những cấu trúc cố định theo mô hình chẳn, lẻ, thơ văn xuôi vẫn coi việc phối thanh là cần thiết để tạo sự hài hòa nhưng không tuân theo luật bằng – trắc, thơ cũng có thể bắt vần nhưng không coi đó là tiêu chí để phân biệt, đánh giá. Tóm lại, trong năm yếu tố góp phần tạo ra nhạc điệu nói trên, thơ văn xuôi giữ lại cho mình hai yếu tố then chốt  nhất là nhịp điệu và thanh điệu. Nhạc điệu trong thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn chủ yếu được tạo ra từ hai yếu tố này, trong đó, yếu tố nhịp điệu đóng vai trò chủ đạo.

 

3.3.1. Thanh điệu

Tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Hệ thống ngôn ngữ trong tiếng Việt gồm sáu thanh chia thành hai nhóm bằng và trắc, thanh bằng gồm thanh huyền và thanh ngang (hay còn gọi là thanh không – không thể hiện bằng kí hiệu trên âm tiết), thanh trắc gồm các thanh sắc, hỏi, ngã, nặng. Việc tổ chức, sắp xếp các âm tiết mang thanh điệu đứng gần nhau gọi là phối thanh. Trong thơ cách luật, mỗi thể thơ đều định ra một quy tắc phối thanh nhất định. Riêng trong thơ tự do và thơ văn xuôi, việc phối thanh không theo quy tắc nhất định mà được coi là hoạt động “tự giác” của mỗi nhà thơ.

 

Trong thực tiển sáng tạo thơ ca, phối thanh không chỉ mang lại sự hài hòa trầm bổng cho một tổ hợp ngôn ngữ về mặt hình thức mà còn hướng đến mục đích cao hơn là thông qua hình thức để biểu hiện một nội dung nào đó trong tư tưởng, tình cảm của tác giả. Những câu thơ được coi là tài hoa trong nền thơ Việt Nam của các tác giả thơ Tản Đà (“Tài cao phận thấp chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương”), Bích Khuê (“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”), Xuân Diệu (“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”), Tố Hữu (“Em ơi! Ba Lan mùa tuyết tan/ Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”) hay Quang Dũng (“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”)… đều có dấu ấn của nghệ thuật phối thanh, phối âm. Ngay cả trong văn xuôi, Nguyễn Tuân cũng phải dụng công lắm mới viết lên hai câu văn được nhiều người xếp vào hàng “tuyệt bút” trong văn xuôi: “Mặt sông xuất hiện những cái hút nước xoáy tít đáy”“Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái hay của chúng không chỉ ở nội dung miêu tả mà còn ở việc chúng được đặt đúng chỗ. Câu đầu với rất nhiều thanh trắc mở đầu cho đoạn văn miêu tả về con sông Đà “hung bạo, hiểm ác”, câu còn lại toàn thanh bằng mở đầu cho phần khắc họa con sông Đà “trữ tình, thơ mộng” như “một nỗi niềm cổ tích”… Những ví dụ trên đây, đều cho thấy phối thanh là cả một nghệ thuật mà không phải bất kì nhà thơ, nhà văn nào cũng có thể đạt đến.

 

Thơ văn xuôi không buộc mình vào các khuôn hình bằng – trắc cố định là một điểm thuận lợi để người viết thể hiện năng lực ngôn ngữ và sự nhạy cảm riêng của mình. Mai Văn Phấn chọn các thanh bằng làm chủ đạo, tạo nên những cung trầm nhẹ nhàng, êm ái về một hạnh phúc đời thường bình dị trong bài: “Em cho con bú”

 

“Chiều nay em cho con bú. Ngoài kia từng chân kiến đang đi, từng cánh ong vẫn còn đang vỗ. Nơi anh về trú ngụ là ô trời xanh trong mắt em cười. Hạnh phúc nào bằng ta bên nhau thảnh thơi, như được xoải mình nơi chân đê cát mịn. Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn những bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh...

Nghe đâu đây có tiếng thạch sùng điểm nhịp, hay những giọt nước xa xưa đang rơi vào vại nước nhà mình” (Mai Văn Phấn)

 

Với Nguyễn Quang Thiều lại chọn những thanh trắc làm chủ âm, tạo nên một khúc trầm buồn, sâu lắng, đau đáo một nỗi niềm trăn trở về thân phận của những người phụ nữ bất hạnh, làm cho người đọc không khỏi thổn thức, bâng khuâng trong bài “Những ví dụ”:

 

“Thời gian cứ lặng lẽ chảy vào chiếc bình gốm cổ khổng lồ. Những người đàn bà góa bụa làng tôi như những con cào cào áo nâu khuất dần sau cỏ. Từ chân trời xa chạy về những ngọn gió loang lổ màu đỏ. Những ngón tay của gió như điên cuồng, như kiệt sức bới rối tung từng đám lá cỏ gai. Tôi đứng trên con đường cuối làng khóc run lên như đứa trẻ mất mẹ. Tôi làm sao lật hết từng lá cỏ trên đất đai rộng lớn nhường kia, để tìm lại những người đàn bà góa bụa…

Những người đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai, trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất vả. Họ mộng du qua những cơn gió hồng hoang nổi lên lúc mặt trời lăn vòng cuối cùng vào bóng tối. Họ mộng du trong những cơn mưa tiền sử lúc bình minh vừa vực dậy sau một cơn sốt đêm. Và tôi như kẻ mắc bệnh tâm thần đứng đếm họ. Tôi đếm từng ví dụ”

 

Đến đây chúng ta có thể thấy rằng, nghệ thuật phối thanh không chỉ đơn giản là tạo ra những kết cấu âm thanh bên ngoài của ngôn ngữ nhằm tạo ra nhạc điệu trong thơ, nó còn nhằm biểu hiện những trạng thái cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật trữ tình, của chính tác giả. Mai Văn Phấn với bài thơ “Bừng tỉnh trên tàu” có thể nói đều đã thể hiện được hai phương diện này:

 

“Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng gần bậc cửa. Chị vội vã lắc đầu và cảm ơn chiếu lệ. Về ghế của mình, tôi lơ đãng nhìn qua cửa sổ con tàu và ngủ thiu thiu.

Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến những nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.

Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.

Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi vừa nãy!”

 

Bài thơ có 9 câu thì đã có đến 5 câu kết thúc bằng thanh trắc. Một mật độ hơi dày khiến câu thơ có phần trúc trắc. Nhưng chính cái trúc trắc đó lại có giá trị trong việc biểu hiện một tâm hồn, một cuộc đời nhọc nhằn, cơ cực và sự hoang mang lo sợ đến cực độ của nhân vật trữ tình trước những phận người nhỏ nhoi.

 

Từ những ví dụ trên về vai trò và chức năng của thanh điệu trong thơ văn xuôi chúng ta có thể nhận định rằng, thanh điệu là một yếu tố tạo ra tính nhạc trong thơ văn xuôi nhưng việc phối thanh là tùy thuộc vào cá nhân, cảm hứng chủ đạo của tác giả chứ không hề phụ thuộc vào các mô hình sẵn có như trong thơ cách luật. Bên cạnh đó, thanh điệu trong thơ văn xuôi còn là một yếu tố góp phần tạo nên ý nghĩa về nội dung, nghệ thuật phối thanh còn có tác dụng giúp cho nhà thơ bộc lộ một khía cạnh nào đó trong tư tưởng và tình cảm của mình. Như vậy, chúng ta thấy rằng, thanh điệu là một yếu tố hình thức của ngôn ngữ nhưng nó có chức năng của một siêu ngôn ngữ trong việc biểu hiện nội dung tác phẩm văn học nói chung và thơ văn xuôi nói riêng.

 

3.3.2. Nhịp điệu

 

Trên cơ sở khảo sát nhịp điệu dựa trên cứ liệu thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn, chúng ta có thể nhận thấy nó thể hiện chủ yếu trên hai mặt ngôn ngữ và cảm xúc. Hai mặt này thường xuyên có sự tác động chuyển hóa lẫn nhau khiến cho nhịp điệu trong tác phẩm thơ văn xuôi có những biểu hiện hết sức phong phú. Có thể thấy, hai đặc điểm nhịp điệu được thể hiện rõ nét nhất trong thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn là nhịp ý và nhịp lời.

 

Tất cả các cấp độ trong cấu trúc của một tác phẩm văn học đều có thể có những yếu tố lập lại, luân phiên tạo thành nhịp điệu nghệ thuật, do đó có thể tạm nhận diện nhịp điệu trên hai phương diện: nhịp lời và nhịp ý. Nhịp lời được tạo nên chủ yếu từ cách phối vần, phối thanh, ngắt nhịp. Nhịp ý được tạo nên chủ yếu bằng nhịp điệu cảm xúc là nhịp điệu bên trong, không nhìn thấy được mà chỉ cảm nhận qua những biểu hiện tình cảm của nó.

 

Nhịp lời của ngôn ngữ là nhịp điệu được thể hiện ở sự ngắt quãng về mặt ngữ âm, cú pháp ở sự ngừng nghĩ giữa các âm tiết khi đọc. Dấu hiệu nhận biết của nó là dựa trên hình thức dấu chấm câu, sự phân chia dòng thơ hay cụ thể hơn nữa là những quy tắc định sẵn. Đây là cách ngắt nhịp được sử dụng phổ biến trong các thể thơ cách luật và thơ tự do. Sự khác biệt về đơn vị nhịp điệu gắn liền với sự khác biệt trong cách thức tạo dựng đơn vị nhịp điệu cơ sở đó. Trong thơ tự do và thơ cách luật, nhịp điệu “được tạo ra do sự phân chia dòng ngôn từ tác phẩm thành những ngữ đoạn vốn không trùng hợp với sự phân chia dòng ngôn từ theo qui tắc cú pháp” [12; 314] mà tùy thuộc vào nhịp đi của cảm xúc và hình tượng, trong đó có hình tượng âm thanh, do đó lệ thuộc rất nhiều vào vần, ngữ điệu.

 

Tương tự như trên, nhịp ngắt của các thể thơ Đường luật theo nguyên tắc chẳn trước lẻ sau (2/3, 2/2/3 hoặc 4/3), đối với cặp câu thất trong thể song thất lục bát thì ngược lại, lẻ trước chẳn sau. Nhịp thơ lục bát có phần phong phú hơn nhưng phổ biến nhất vẫn là nhịp chẳn (2/2/2, 4/4, 2/2/4, 4/2/2...) còn nhịp lẻ (3/3) nhìn chung xuất hiện với tần số thấp. Cũng như vậy, các thể thơ từ bốn đến tám tiếng trong phong trào Thơ mới cơ bản cũng được chia cách ngắt nhịp theo đơn vị chẵn lẻ. Nhìn chung dù là thể thơ nào thì cách ngắt nhịp chia theo đơn vị ngôn ngữ cũng ít tạo ra những biến động. Thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn thường không tuân thủ cách ngắt theo đơn vị chẳn lẻ này vì thơ gần giống với hình thức văn xuôi và lời thơ tự nhiên mang đậm những suy tư, trăn trở như những tâm sự thường nhật của cuộc sống thông qua việc miêu tả, kể hơn là biểu hiện những cảm xúc, rung động từ tâm hồn. Đặc điểm này được thể hiện đa phần những sáng tác của hai nhà thơ này như: “Chuyển động” (Nguyễn Quang Thiều), “Lúc mặt trời mọc” (Mai Văn Phấn), “Một màu đen” (Nguyễn Quang Thiều), “Nhân chứng của một cái chết” (Nguyễn Quang Thiều), “Nước mắt” (Mai Văn Phấn), “Bừng tỉnh trên tàu” (Mai Văn Phấn)... Ví dụ như:

 

“Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng gần bậc cửa. Chị vội vã lắc đầu và cảm ơn chiếu lệ. Về ghế của mình, tôi lơ đãng nhìn qua cửa sổ con tàu và ngủ thiu thiu.

Đoàn tàu băng qua bao cây số, đưa giấc mơ của tôi đến những nơi giời ơi đất hỡi ... Tôi đi ra khỏi tôi, ra khỏi con tàu.

Có tiếng sóng biển rào rạt đập vào bờ làm tỉnh giấc. Đang bàng hoàng run rẩy, tôi nhớ ngay đến người phụ nữ xa lạ kia liệu có ngủ́ thiu thiu, để lỡ trượt chân ngã xuống đường tàu.

Nhìn chẳng thấy chị đâu. Hay chị xuống ga nào? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Có cái ga ấy không? Trong giấc ngủ của tôi vừa nãy!” (“Bừng tỉnh trên tàu” – Mai Văn Phấn)

 

Có thể thấy, dù không tuân theo một khuôn nhịp cố định, song nhịp điệu bài thơ vẫn có sự luân phiên chẵn lẻ một cách tự nhiên, tạo nên một nhịp điệu gần giống với thơ nhưng không đều đều như cách kể, cách tả trong văn xuôi. Đây cũng chính là một đặc điểm để phân biệt thơ và thơ văn xuôi, cũng như thơ văn xuôi và văn xuôi.

 

Hay như cách trùng điệp lời thơ trong tác phẩm “Bài học” của Mai Văn Phấn cũng thể hiện rõ hiện tượng trùng điệp này:

 

“Đạo mạo phát biểu chung chung

Đạo mạo nghiêng mình trống rỗng

Đạo mạo lấy trộm áo mưa

Đạo mạo thở mùi hôi vào miệng người khác

Đạo mạo bọc nhầm một chiếc răng sâu

Đạo mạo tiểu tiện nơi công cộng

Đạo mạo xụt xịt trong khăn mùi xoa”

 

Mai Văn Phấn đã thoải mái phô bày con người thời đại với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa một thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Ở đó, con người hết còn mơ mộng đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ, hết còn niềm tin vào tương lai tươi sáng. Mỗi người là một thế giới kín bưng bít, âm u hơn, vô vọng hơn. Nếu hình dung bài thơ là một bản nhạc không lời, thì chủ đề âm nhạc đã được hé mở ngay từ giai điệu đầu tiên, một giai điệu khắc khoải, sâu lắng. Sau giai điệu mở đầu, hình tượng âm nhạc đã phát triển mở rộng với những hình thức mới, tiếp đó lại trở về với giai điệu chủ âm bằng việc lập lại một kiểu cú pháp.

 

Ngoài ra, hình thức nhịp lời của ngôn ngữ còn được thể hiện qua một phương thức khác, đó là ngắt nhịp dựa vào sự ngăn cách bằng các dấu chấm câu và hình thức phân dòng của câu thơ. Cách ngắt nhịp này phần lớn được sử dụng trong thơ tự do. So với thơ văn xuôi, thơ tự do có nhiều điểm tương đồng nhưng về mặt hình thức văn bản, thơ tự do vẫn sử dụng hình thức phân dòng. Câu thơ tự do có độ dài ngắn khác nhau, mỗi câu thơ thường đặt trên một dòng nhưng cũng có trường hợp nhà thơ tách một câu thơ thành nhiều dòng khác nhau, lúc đó, nhịp điệu câu thơ thường trùng với đơn vị chữ trên mỗi dòng thơ. Bài thơ “Ngọn đèn đứng gác” của Chính Hữu là một ví dụ:

 

“Trên đường ta đi đánh giặc

Ta về Nam hay ta lên Bắc

Ở đâu

Cũng gặp

Những ngọn đèn dầu

Chong mắt

Đêm thâu...

.............

Đi nhanh đi nhanh

Chiến trường đã giục

Đầy núi đầy sông

Đèn ta đã mọc...”

 

Nếu ta xét đơn vị câu thơ theo cấu tạo ngữ pháp thì rõ ràng mỗi dòng thơ không phải là một câu nhưng cách phân dòng đó đã ngầm chỉ ra cơ chế ngắt nhịp cho người đọc, một cơ chế ngắt nhịp hết sức phóng túng, lúc nhịp khoan thai, lúc thúc giục, gấp gáp. Nhạc điệu bài thơ cũng theo đó mà có những trạng thái vừa sâu lắng da diết, vừa âm vang dồn dập như một khúc quân hành.

 

Khác với thơ văn xuôi phần lớn không phân dòng, nhịp ngắt câu thơ có lúc phải dựa vào các dấu chấm câu, dễ thấy nhất là ở bài “Màu đen một” (Nguyễn Quang Thiều)

 

“Đứa bé gái rời cái làng trồng bắp cải ra đi trên lưng mẹ nó mười tám năm về trước. Trong địu nó ngủ, thức, khóc, chảy dãi và đái ướt một vòm đen vĩ đại khốn khó, hay rên khóc, nhưng không nguyền rủa. Ra đi như thiên thần qua bầu trời trắng. Đến xứ sở trắng, nó khóc như thổ huyết trên tuyết. Màu đen vĩ đại của nó cắt bánh mì đứt tay mở ra một cái miệng. Và cái miệng bé xíu chảy dãi đỏ thấm ướt ruột bánh mì. Nó lớn lên trên tuyết và nẩy hai bầu vú. Hai bầu vú lấp lánh như hai cây kim bọc trong vải tối màu”

 

Từ ví dụ trên chúng ta có thể thấy, với thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều, vai trò của nhịp ý càng được gia tăng. Trong nhiều bài thơ, chất nhạc trên phương diện hình thức gần như bị xóa mờ. Sự tự do hóa hình thức khiến cho thơ ông mất đi tính du dương, mềm mại, trở nên trúc trắc, không xuôi tai. Nhạc không lấy làm điểm tựa chính ở bình diện ngữ âm mà chủ yếu trông cậy vào sự phát triển trong hình tượng, cụ thể là từ sự láy đi láy lại của các hình tượng kì ảo, các mô tip Kinh thánh, hoặc những biểu tượng về sự rạn nứt, đổ vỡ của một thế giới. Kiểu nhịp điệu này được tác giả sử dụng không phải chỉ với mục đích tạo nên chất nhạc của âm thanh mà chủ yếu để tạo nên sự chồng chất, trùng điệp về hình ảnh. Nhìn nhận đời sống thông qua những đối cực là một nét đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều.

 

Bên cạnh đó, ở một phương diện khác, cũng có những bài thơ rất ít hoặc không sử dụng dấm chấm câu. Lúc đó nhịp điệu là dòng thơ, bài thơ không đơn thuần chỉ nhận biết qua nhịp điệu ngôn ngữ mà còn qua nhịp điệu cảm xúc hay đây chính là nhịp ý. Trong trường hợp này, Nguyễn Quang Thiều đã thành công khi chuyển hóa lòng cảm thương tha thiết những “người đàn bà góa bụa” bằng “Những ví dụ” mong manh thành những lời thơ hồn hậu:

 

“Những người đàn bà góa bụa làng tôi gồng gánh trên vai, trên những con đường mòn như cột sống dị tật của ngàn đời vất vả. Họ mộng du qua những cơn gió hồng hoang nổi lên lúc mặt trời lăn vòng cuối cùng vào bóng tối. Họ mộng du trong những cơn mưa tiền sử lúc bình minh vừa vực dậy sau một cơn sốt đêm. Và tôi như kẻ mắc bệnh tâm thần đứng đếm họ. Tôi đếm từng ví dụ”

 

Hoặc Mai Văn Phấn với bài “Mail cho em” (bằng cách thể hiện tất cả từ ngữ trong bài thơ đều là chữ in hoa) “Mười bài tập mùa xuân” , “Những bông hoa mùa thu” (13/17 đoạn) ... xuyên suốt những dòng thơ không bất kì một dấu chấm hay dấu hỏi nào.

 

“... vết bùn vách liếp phiên chợ Tết cổ xưa gom hình ảnh đất ông bà từ sàn sân rêu lầy lội con đường cổ lỗ chôn nông khuôn mặt hạn hán bới nhẹ ra đã bốn mươi năm ký ức tối sẫm hút dài có vết bùn làm chiếc đó đơm ở miệng cống trôi qua thời gian làm con tôm con cá lẫy vào biển chiều kinh động...” (“Mười bài tập mùa xuân”)

 

Từ những ví dụ trên, chúng ta thấy rằng, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ âm vang. Cái âm vang đó một mặt được tạo ra nhờ các yếu tố âm và thanh của ngôn ngữ, mặt khác nó cũng được tạo ra bởi những rung động nội tâm của nhà thơ. Rõ ràng nếu lấy dòng thơ làm đơn vị nhịp điệu cơ bản thì sau mỗi chỗ gieo vần, tác giả hoàn toàn có quyền ngắt nhịp để xuống dòng. Nhưng thế mạnh của thơ văn xuôi không phải ở từng câu, từng chữ đơn lẻ mà ở sự phối hợp tổng thể các phương tiện tạo nhịp trong đoạn cho nên nhà thơ chỉ xuống dòng sau khi đã tạo ra một triết đoạn về ý nghĩa. Nói cách khác, nếu như thơ tự do, thơ cách luật nhiều khi nhờ vào vẻ đẹp của nhãn tự, thì thơ văn xuôi lại đòi hỏi chúng ta tri giác văn bản theo mạch cảm xúc của nó.

 

Nếu như ở trên chúng tôi đã nhận định thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều đã là một bước giải phóng đáng kể cho hình thức thơ thì thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn còn là một cú huých mạnh hơn cho sự tự do hóa hình thức thơ ca đó. Nhịp lời trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn hầu như khước từ mọi phương tiện tạo nhịp của thơ truyền thống, cả vần lẫn mô hình đối xứng, mô hình trùng điệp được sử dụng với một tần số vô cùng thấp. Hơn thế, lối viết tự động phá tung những chuẩn mực ngữ pháp, triệt tiêu mọi dấu chấm phẩy khiến nhịp điệu thơ anh trở nên bất định. Quan hệ giữa các từ, các câu, hình ảnh, đoạn thơ bị khoét rỗng, tất cả được tung ra từ những mảnh, những mảng rời rạc, những ý nghĩ không được sắp đặt.

 

Nhịp điệu ý cũng là một thứ nhịp điệu của cảm xúc, là sự biểu hiện ra bên ngoài những rung động của hồn thơ. Sự phân biệt nhịp điệu cảm xúc (nhịp ý) và nhịp điệu ngôn ngữ (nhịp lời) chính là ở chỗ nhịp điệu ngôn ngữ thể hiện ngay trên cấu tạo vật chất của lớp vỏ âm thanh của ngôn ngữ và ở các dấu hiệu hình thức của sự ngắt nhịp. Còn nhịp điệu cảm xúc là nhịp điệu bên trong, không nhìn thấy được mà chỉ cảm nhận qua những biểu hiện tình cảm của nó. Nhịp điệu cảm xúc có sự cộng hưởng của những rung cảm bên trong tâm hồn nhà thơ với các thuộc tính của hệ thống ngôn ngữ mà nhà thơ sử dụng để cấu tạo lời thơ.

 

Về cơ bản, điểm làm nên nét đặc trưng của nhịp điệu thơ văn xuôi là ở đơn vị nhịp điệu cơ sở, sự tiêu giảm của nhịp lời và sự gia tăng của nhịp ý, mối quan hệ giữa tính linh hoạt của nhịp điệu với việc thể hiện nội dung. Cụ thể là nếu như thơ cách luật và thơ tự do lấy câu thơ, đúng hơn là dòng thơ làm đơn vị cơ sở thì thơ văn xuôi lại lấy đoạn thơ làm đơn vị nhịp điệu cơ sở. Nếu trong thơ cách luật, nhịp lời đóng vai trò chủ yếu trong việc kiến tạo nhịp điệu, thì ở thơ văn xuôi, nhịp ý lại thu hút được sự chú ý nhiều hơn của người sáng tác.

 

Tóm lại, xét trên phương diện nhịp điệu, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nói riêng và thơ văn xuôi Việt Nam nói chung đang đi theo xu hướng ngày càng rời xa những ràng buộc của vần luật, hướng đến một lối viết tự do, tung phá. Sự ra đời của thể thơ này chính là một hướng đi tích cực đáp ứng khát vọng tìm tòi đổi mới thơ ca, trên cơ sở thoát ra những khuôn khổ sáo mòn của thơ cách luật, đồng thời tiếp nhận những ảnh hưởng mạnh mẽ của nhịp điệu câu văn xuôi tiểu thuyết.

 

 

 

 

KẾT LUẬN

 

Tìm hiểu về đặc điểm thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn nhằm góp phần đem đến một cách nhìn đầy đủ hơn về thơ văn xuôi của hai nhà thơ này trên các phương diện nội dung và hình thức thể hiện. Qua đó, chúng ta có một cái nhìn xác đáng hơn về vai trò, vị trí cũng như những đóng góp của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn trong tiến trình phát triển của thơ văn xuôi nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.

 

1. Thập kỉ tám mươi của thế kỉ XX, là giai đoạn chứng kiến nhiều đổi thay to lớn trong đời sống dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Sự bùng phát mạnh mẽ của thể loại thơ văn xuôi đã góp phần làm thay đổi diện mạo thơ ca dân tộc. So với các hình thức thơ khác (thơ cách luật và thơ tự do) ở thời kì này hình thức thơ văn xuôi đã dần định hình và khẳng định vị trí của mình trong dòng chảy văn học dân tộc. Nó được thể hiện trước hết ở sự xuất hiện đông đảo một đội ngũ nhà thơ sáng tác thơ văn xuôi. Trong đó, có những nhà thơ thuộc thế hệ chống Mĩ, chống Pháp, có thế hệ nhà thơ vừa trưởng thành sau chiến tranh. Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn là hai nhà thơ thuộc về thế hệ thứ ba, tức là trưởng thành sau chiến tranh với sự vỡ giọng mới lạ thể hiện một cách nhìn, cách nghĩ mới mẽ bằng quá trình lao động miệt mài, không ngừng khám phá để có những đóng góp đáng kể cho thể loại thơ văn xuôi.

 

2. Trên phương diện nội dung, thơ văn xuôi là thể thơ có thế mạnh trong việc đi sâu, khám phá mọi mặt đời sống xã hội cũng như những biểu hiện tinh tế nhất trong thế giới nội tâm của con người. Thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn cũng thể hiện thế mạnh này khi đi vào khám phá những chiêm nghiệm, suy tư trong đời sống, khát khao tình yêu hạnh phúc và thể hiện cả đời sống tâm linh, hướng về cội nguồn dân tộc của con người. Cùng với sự thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, sự phát triển đô thị công nghiêp với những bất an trước cái nhìn đau đáu về tiếng kêu cứu của những giá trị văn hóa truyền thống đang ngày càng mai một. Chính điều này đã giúp cho thơ văn xuôi phản ánh hết nét tâm lí khá tiêu biểu của con người hiện đại trong một xã hội hoàn toàn mới, đó là con người rất nhạy cảm và dễ rung động trước mọi biến đổi của đời sống nhưng cũng luôn có khuynh hướng nhìn nhận, đánh giá và triết lí về đời sống. Nhờ vậy cảm hứng thế sự và cảm hứng chính luận được hình thành như là hai nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ văn xuôi Việt Nam.

 

3. Trên phương diện hình thức nghệ thuật, thơ văn xuôi của hai nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn có sự phát triển về dung lượng câu thơ, sự đa dạng về kết cấu văn bản…đây chính là một trong những điều kiện thuận lợi giúp cho nhà thơ có thể diễn đạt dễ dàng và trôi chảy tư tưởng, tình cảm của mình. Bên cạnh đó, thơ văn xuôi còn được thể hiện đặc sắc qua việc dung nạp ngôn ngữ đời thường vào thơ và ngôn ngữ thơ mang tính chất tạo hình và biểu hiện cao, cùng với việc thể hiện ngôn ngữ giàu tính triết lí nhằm bộc lộ một cách tự nhiên nhất những lo âu, trăn trở của con người trước đời sống thường nhật đầy phức tạp và đa diện, đa chiều. Nhạc điệu thơ văn xuôi từ đó cũng được “giải phóng” khỏi những mô hình định sẵn. Sự cân đối, hài hòa, âm điệu du dương, trầm bổng không còn là tiêu chí để bình giá, nhận định về nhạc điệu. Mà thay vào đó là hơi thở của thời đại, nhịp điệu của đời sống, sự rung động của cảm xúc, các sắc thái tình cảm của tác giả…mới chính là yếu tố chủ yếu chi phối nhịp điệu và tạo ra nhạc điệu trong thơ văn xuôi. Có thể nói, nhạc điệu trong thơ văn xuôi chính là thước đo về nghệ thuật phối thanh, hòa âm cũng như độ căng của cảm xúc thẩm mĩ ở mỗi nhà thơ.

 

Để hoàn thành khóa luận này, chúng tôi đã làm việc bằng tất cả sự say mê của mình với một thái độ hết sức nghiêm túc. Tuy nhiên, với nâng lực và lượng kiến thức hữu hạn, chắc hẳn khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì thế chúng tôi tất mong có được những đóng góp, những ý kiến chân thành từ quí thầy cô và các bạn đọc nhằm giúp cho đề tài có thể hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hy vọng rằng sẽ có nhiều hơn nữa những công trình nghiên cứu về thơ văn xuôi nói riêng và văn học sau thời kì đổi mới nói chung. Cũng như những công trình tiếp sau sẽ phát huy được những ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của khóa luận này, nhằm đem lại kết quả cao nhất. Đồng thời cũng đem lại cách nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về văn học giai đoạn sau 1975 nói chung và thơ văn xuôi nói riêng.

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam – Tìm tòi và cách tân (1975 – 2005), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
2. Văn Chinh, Thơ Mai Văn Phấn – cuống nhau và chùm rễ, wedsite http://www.van.vn.net
3.Nguyễn Văn Dân, Thơ văn xuôi tiềm năng và triển vọng, trên wedsite http://www.huudat.vn.
4.Bùi Hải Đăng, Thơ văn xuôi đôi đều cảm nhận, đăng trên http://blog.tamtay.vn.
5.Phan Cự Đệ (2009), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo dục Việt Nam.
6.Nguyễn Đăng Điệp (2012), Thơ Việt Nam hiện đại & Nguyễn Quang Thiều, Nxb Hội nhà văn.
7.Nhiều tác giả (2010), Tuyển tập thơ Kể - thơ tân hình thức, Nxb Lao động.
8.Nhiều tác giả (2006) Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1887-2000, tập II, quyển 4, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
9.Đặng Huy Giang, Mai Văn Phấn “giấu mặt” trong “hoa”, wedsite http://www.van.vn.net
10. Đặng Hiển, Tình yêu cuộc sống trong thơ Nguyễn Quang Thiều, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.

11. Nguyễn Văn Hoa, Mấy ý kiến nhỏ về thơ văn xuôi Việt Nam, Tạp chí Sông Hương số 132, tháng 2.

12. Nguyễn Văn Hoa (1997), Tuyển tập thơ văn xuôi (Việt Nam và nước ngoài), Nxb Văn học.

13. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ – phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

14. Phan Hoàng, Nguyễn Quang Thiều mãi mãi là ẩn số, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.

15. Hoàng Hưng, Thơ – văn xuôi của ngày thường trong “Gửi VB”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội số tháng 10.2007.

16. Trần Ngọc Hưởng (2006), Thơ và nguồn thơ, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

17. Đình Kính (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

18. Đông La, Sự mất ngủ của lửa hay sự thao thức của một tâm hồn, tham luận tại tọa đàm thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.

19. Phong Lan, Nhà thơ Mai Văn Phấn đã băng qua “sa mạc” các khuynh hướng, wedsite http://www.van.vn.net

20. Phương Lựu (Chủ biên) (2008), Lí luận văn học, tập 1 (Văn học, nhà văn, bạn đọc), Nxb Đại học Sư phạm.

21. GS.Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Tinh tuyển Văn học Việt Nam (tập 7, quyển 1), Nxb Khoa học Xã hội.

22. Dương Kiều Minh, Thơ văn xuôi và nhu cầu tự thân của thời đại, wedsite http://vnca.cand.com.vn

23. Hoài Nam, Thơ văn xuôi và những kết hợp nghệ thuật, đăng trên trang http://phongdiep.net.

24. Cao Năm, Nhà thơ Mai Văn Phấn hiện thân của sự sáng tạo, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.

25. Mai Văn Phấn, Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.
26. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội nhà văn.

27. Hoàng Phê (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

28. Khánh Phương, Nguyễn Quang Thiều và hành trình tới một quan niệm thẩm mĩ mới, wedsite  http://nhavantphcm.com.vn.

29. Đặng Văn Sinh, Mai Văn Phấn tìm về cội nguồn thi ca, wedsite http://trannhung.com

30. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.

31. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Lí luận văn học tập 2, Nxb Giáo dục.
32. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

33. Nguyễn Trọng Tạo, Thơ văn xuôi hay là thơ không vần, đăng trên http://nguyentrongtao.info

34. Hoài Thanh – Hoài Chân (2010), Thi nhân Việt Nam, Nxb Thời Đại.

35. Nguyễn Quang Thiều (2010), Châu thổ tuyển tập thơ, Nxb Hội nhà văn.

36. Hồ Tôn Trinh (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội.

37. Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Quang Thiều kẻ khóc thương những ngôi làng, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.

38. Lê Vũ, Châu thổ - cơm mê sảng những ý nghĩa, wedsite http://nhavantphcm.com.vn.


















BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị