Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Hoàng Thị Thanh Nhàn
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH










Hoàng Thị Thanh Nhàn
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hồ Quang





THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 
 


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2014







MỤC  LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .

5. Phương pháp nghiên cứu

6. Đóng góp của luận văn

7. Cấu trúc của luận văn

 

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

1.1. Giới thuyết khái niệm

1.1.1. Thế giới nghệ thuật 

1.1.2. Thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình 

1.2. Mai Văn Phấn và các chặng đường thơ 

1.2.1. Tiểu sử nhà thơ Mai Văn Phấn 

1.2.2. Các chặng đường thơ Mai Văn Phấn 

1.3.  Cơ sở hình thành thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn 

1.3.1. Về thế giới nghệ thuật  thơ Mai Văn Phấn

1.3.2. Những cơ sở hình thành nên thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

 

Chương 2. HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG THẾ GIỚI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

2.1. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn

2.1.1. Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca 

2.1.2. Cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu

2.1.3. Cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén

2.1.4. Cái tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần lý tưởng “thuần Việt

2.2. Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn

2.2.1. Một thế giới của sự viên mãn và thuần khiết 

2.2.2. Một thế giới của sự tương giao, hài hòa 

2.2.3. Một thế giới của những cảm giác siêu nghiệm 

 

Chương 3. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

3.1. Thể loại 

3.1.1. Thơ lục bát 

3.1.2. Thơ tự do

3.1.3. Thơ văn xuôi 

3.1.4. Thơ cực ngắn 

3.2. Kết cấu 

3.2.1. Kết cấu văn bản

3.2.2. Kết cấu hình tượng 

3.3. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và biện pháp tạo hình

3.3.1. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng 

3.3.2. Những tìm tòi trong bút pháp tạo hình

KẾT LUẬN 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

 

 
Ts. Lê Hồ Quang (trái) và Th.sỹ Hoàng Thị Thanh Nhàn trong ngày bảo vệ LVTS

 

 





 

 

 


 

MỞ ĐẦU

 

1. Lí do chọn đề tài

 

1.1. Mai Văn Phấn là một cây bút cách tân tiêu biểu của thơ Việt Nam đương đại. Với ông, sáng tạo nghĩa là phải luôn đổi mới và quá trình sáng tạo chính là “những cuộc cách mạng liên tiếp xảy ra trong mỗi nhà thơ”. Điều đó được chứng minh rất rõ qua các chặng đường thơ của ông. Nhà thơ quan niệm rất nhất quán: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân là nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [55;378]. Có lẽ chính vì thế nên khi xuất hiện, những “đứa con tinh thần” của ông luôn tạo ra những hiệu ứng thẩm mỹ trái chiều và mạnh mẽ.

 

1.2. Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Gắn với một thế giới nghệ thuật là một quan niệm riêng, cá tính sáng tạo riêng của mỗi tác giả. Có thể thấy, gắn liền với một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, thơ Mai Văn Phấn là một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo.

 

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp bàn đến vấn đề này. Do đó, chúng tôi quyết định chọn “Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.

 

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

 

Mai Văn Phấn là cây bút cách tân tiêu biểu trong văn học đương đại. Về vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, cũng đã có một số công trình, bài viết quan tâm tìm hiểu. Sau đây chúng tôi sẽ lược thuật những ý kiến tiêu biểu.

 

2.1. Những nhận định, đánh giá về đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

 

Văn Giá trong bài Thơ sinh ra để nói về niềm hy vọng của con người, khẳng định thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới rất khó nắm bắt với sự “Bề bộn về số lượng: 370 bài. Bề bộn về ý tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên, để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai” [46; 528] Nhà phê bình này cũng nhận xét rất xác đáng: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định; và còn phồn sinh hóa sinh bất định là còn khiến con người ta có quyền hy vọng vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ ngơi nghỉ ở con người” [46; 529].

 

Theo Đỗ Minh Tuấn: “Thế giới thơ của Mai Văn Phấn luôn luôn trong trạng thái sẵn sàng bùng nổ. Một biến động dù thi nhân day dứt siêu hình, những suy tưởng miên man... tất cả đều có thể là nhỏ nhất như một tia sáng, một tiếng chim... Từ cuộc sống xung quanh vọng tới cũng có thể khởi động lên trong sứ giả của một trật tự thi ca mới mẽ đang chờ” [46; 148].

 

Theo Nguyễn Quang Thiều, viết về  thơ Mai Văn Phấn là viết về “ hiện thực của những giấc mơ, của những câm lặng, của tưởng tượng và khát vọng. Hiện thực này trong nghệ thuật được sinh ra để hé lộ cho ta thấy một đời sống tâm linh, và nó tìm cách cứu vớt sự tuyệt vọng của một hiện thực khác mà con người đang phải đương đầu” [76; 3].

 

Nguyễn Thanh Tâm trong bài Lập thể của ký ức và tưởng tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã  nhận định:Thơ Mai Văn Phấn quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là những lập thể của kí ức và tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [46; 395].

 

Tác giả Lê Hồ Quang, trong bài Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo” [61; 1]. Và “ thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [61; 3]. 

 

Kim Chuông trong bài Mai Văn Phấn lấp lánh giữa mông lung vô thức cho rằng: “Vũ trụ đã nằm trong trái tim thi sĩ” và “Nhà thơ luôn văng mình về một phía xa khuất để cố nén và ôm trùm nơi hồn mình một ngoại giới mông lung. Một vũ trụ thiên nhiên tự nhà thơ đẻ ra các dồi dào trực giác, nhưng trực giác lại có quá trình tích lũy nào đó”[46; 275].

      

Nhã Thuyên trong bài Khí quyển thơ-sinh thái của Mai Văn Phấn: thơ, bầu trời và những linh hồn cho rằng thơ Mai Văn Phấn mang đến “không gian luôn rộng mở đón đợi người đọc cùng sáng tạo nhưng lại không dễ dàng để gọi tên cái “khí” của một người thơ miệt mài, nhẫn nại, trong lành và nhiệt huyết như Mai Văn Phấn”[46; 451].

 

Trong luận văn Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn của Nguyễn Quang Hà (Đại học Thái Nguyên) cũng đã đề cập tới một phương diện của thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, đó là không gian nghệ thuật. Tác giả luận văn cho rằng: Trong thơ Mai Văn Phấn tập trung thể hiện không gian đa diện - biến ảo và “biểu hiê%3ḅn rõ nhất của không gian đa diê%3ḅn - biến ảo là không gian vụt hiê%3ḅn châ%3ḅp chờn giữa thực và ảo và không gian vô thức siêu thực" [19; 59].

 

2.2. Những nhận định, đánh giá về nghệ thuật xây dựng, thể hiện thế giới thơ Mai Văn Phấn

 

Nguyễn Hoàng Đức, khi đề cập đến sự thay đổi bút pháp thơ Mai Văn Phấn, đã viết: “ Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như lông hồng” [46; 35].

           

Đỗ Quyên, khi đề cập tới ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn, cho rằng: “Chúng ta đang bàn đến một thi giới gần như không có vốn từ vựng riêng và lạ. Nếu lướt nhẹ trên vài câu vài bài, sẽ tưởng đây là tay viết bình dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không phải tra từ điển Việt – Việt! Không khó hiểu với từng bài lẻ nếu có được vốn tối thiểu của luật câu cú tiếng Việt...” [46; 187]. Cũng theo tác giả Đỗ Quyên, “Mai Văn Phấn không là chủ nhân của các câu thơ, đoạn thơ hút hồn theo nghĩa đơn tuyến. Các bài hay và khá của thi sĩ đều là những mạng đan xen trên một phông văn hóa ổn cố bằng loại ngôn ngữ giản dị, chiêm nghiệm” [46; 164].

 

Nhà thơ Inrasara thì cho rằng: "Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn trong những năm hậu đổi mới chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng và trịnh trọng. Ngôn ngữ thơ của Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẩn, ngày càng hướng đến sự tự phát và ngẫu hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng thùng" [46; 73].

 

Đặng Văn Sinh, khi đề cập tới tập thơ Bầu trời không mái che, đã viết: “Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trưng của bút pháp Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ không vần, không nhịp điệu, không đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc cú pháp”[46; 109].

 

Theo học viên Vũ Thị Thảo: “Thơ Mai Văn Phấn có nhiều bài mang hơi thở tự do, ít khi sử dụng những dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự cú pháp, đề cao sự liên tưởng cá nhân. Để biểu đạt giấc mơ và đời sống vô thức, lối viết tự động được xem như là phương thức hữu hiệu...Đó là một cách để thoát khỏi mọi định kiến của xã hội và luân lý, để biểu lộ niềm tin vào tính dân chủ của ngôn ngữ, để tự do suy ngẫm về chức năng của nghệ thuật và bản chất của quá trình sáng tạo” [46; 572].

 

Tuy nhiên bên cạnh những nhận định, đánh giá khẳng định giá trị thơ Mai Văn Phấn thì vẫn còn những nhận định, đánh giá trái chiều. Chẳng hạn Đặng Huy Giang, trong bài viết đánh giá về tập Thơ viết, đã chỉ trích cách dùng từ, kết cấu trong thơ Mai Văn Phấn, cụ thể là trong bài Mười bài tập mùa xuân. Theo tác giả, bài thơ chỉ là tập hợp những câu vọng cổ, rối rắm, vô nghĩa, dài dòng,... mà thôi.

  

Nhìn chung, những nhận định, đánh giá của các tác giả về vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn khá cụ thể, sâu sắc và có giá trị, đưa lại cho chúng tôi những gợi dẫn quan trọng trong việc khám phá thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.

 

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 

3.1. Đối tượng nghiên cứu

 

Luận văn chọn Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn làm đối tượng nghiên cứu.

 

3.2. Phạm vi văn bản khảo sát

 

Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, luận văn khảo sát công trình Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn (2013), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. Tập thơ Hoa giấu mặt (2012), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. Tập thơ Vừa sinh ra ở đó (2013), Nxb Hội Nhà văn Việt Nam.

 

4.  Nhiệm vụ nghiên cứu

 

Với đề tài này, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu sau:

 

4.1. Tìm hiểu khái niệm thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.

 

4.2. Tìm hiểu đặc điểm hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn.

 

4.3. Tìm hiểu phương thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.

 

5. Phương pháp nghiên cứu

 

5.1. Phương pháp hệ thống

 

Quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng của thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, luận văn chú trọng tìm hiểu những yếu tố tạo nên chỉnh thể này và những quy luật cấu tạo của nó.

 

5.2. Phương pháp so sánh

 

Phương pháp này giúp người viết nhận ra bản sắc riêng, thi pháp riêng của Mai Văn Phấn khi xây dựng hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới  (so với các nhà thơ khác).

 

5.3. Phương pháp thống kê, phân loại

 

Phương pháp này giúp người viết tìm kiếm một cách có hệ thống những hình ảnh, biểu tượng xuất hiện nhiều lần trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.

 

5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp

 

Phương pháp này giúp người viết làm rõ những nét đô%3ḅc đáo về thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn và có cái nhìn khái quát về thơ Mai Văn Phấn.

 

6. Đóng góp của luận văn

 

Luận văn  góp phần  trong việc xác định, đánh giá những đóng góp của thơ Mai Văn Phấn vào tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Đồng thời khẳng định một phong cách thơ độc đáo - Mai Văn Phấn.

 

7. Cấu trúc luận văn

 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1. Khái quát về thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

Chương 2. Hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn

Chương 3. Phương thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn

 

 

 

 

 

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT 
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 

1.1. Giới thuyết khái niệm

 

1.1.1.Thế giới nghệ thuật

 

Thế giới nghệ thuật là khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong đời sống và trong học thuật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thế giới nghệ thuật là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng: sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... Như vậy,  khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan, văn hoá chung, văn hoá nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ” [18; 303].

 

Lí luận văn học (tập 2, do Trần Đình Sử chủ biên), khẳng định: “Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ có trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật…Thế giới nghệ thuật là thế giới tư tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người” [68; 81]. Và “Một thế giới nghệ thuật nhất định với tư cách là hệ thống không chỉ đặc trưng cho tác phẩm đó, mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung…Nghiên cứu cấu trúc của thế giới nghệ thuật vừa cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm của tác giả về thế giới, vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn kín của nhà văn, cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật” [68; 83].

 

Theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Thế giới nghệ thuật của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là chỉnh thể tất phải có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [37, tr.78].

 

Tham khảo những định nghĩa trên, chúng tôi đi đến cách hiểu về khái niệm thế giới nghệ thuật như sau:

 

Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Đó là một chỉnh thể nghệ thuật sống động, cảm tính, được xây cất bằng vật liệu ngôn từ và các phương thức, phượng tiện nghệ thuật đặc thù. Là đứa con tinh thần của nghệ sỹ, thế giới nghệ thuật luôn hàm chứa và thể hiện quan niệm riêng của người nghệ sỹ về thế giới, con người và bản thân sự sáng tạo. Đó không phải là một thế giới tĩnh mà là một thế giới động, phản ánh những biến chuyển tinh vi và phức tạp trong tư tưởng của người nghệ sĩ.

 

1.1.2. Thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình

 

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thơ trữ tình (tiếng Pháp: poesie lyrique), là thuật ngữ dùng chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình. Trong đó, những cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. « Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tình cảm cho tới những chính kiến, những tư tưởng triết học"[18 ; 317].

 

Lê Quang Hưng trong Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945 cho rằng: Thế giới nghệ thuật trong thi ca là thế giới được nghệ sỹ sáng tạo ra bằng phương tiện ngôn từ. Nó chưa từng tồn tại trong thế giới vật chất, và mãi mãi không bao giờ có thể biến thành thực tại vật chất. Nhưng nó lại mang sự sống và tâm hồn chân thực của một người, một thế hệ, một thời. Đó là bản lĩnh hình tượng của thế giới nghệ thuật - thuộc về tinh thần. Là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ, thế giới nghệ thuật vừa phản ánh thế giới xung quanh được cảm thấy của chủ thể. Nói theo ngôn ngữ của lý luận quen thuộc thì nó vừa phản ánh “hiện thực”, vừa phản ánh “ý thức chủ quan” của người nghệ sỹ” [24; 5].

 

Thơ trữ tình là sự bộc lộ cái chủ quan, là sự biểu hiện và cảm thụ của chủ thể trữ tình trong một không gian, thời gian nhất định. Vì thế, thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình thể hiện rõ qua hai hình tượng: hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới. Cái tôi là hình tượng trung tâm của thơ trữ tình, mang vẻ đẹp độc đáo không lặp lại. Hình tượng thế giới tồn tại trong thơ trữ tình với vai trò là khách thể để chủ thể - cái tôi trữ tình thể hiện mình. Tất nhiên, hình tượng thế giới (cũng như hình tượng cái tôi nói trên) thực chất đều là hình tượng nghệ thuật, chúng được xây dựng, thể hiện theo những nguyên tắc thẩm mĩ riêng của nhà thơ.

 

1.2. Mai Văn Phấn và các chặng đường thơ

 

1.2.1. Tiểu sử Mai Văn Phấn

 

Mai Văn Phấn nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong những gương mặt xuất sắc của khuynh hướng cách tân thơ Việt đương đại. Ông sinh năm 1955, tại Kim Sơn, Ninh Bình, hiện sống và làm việc tại thành phố Hải Phòng. Hải Phòng – thành phố cảng, chínhlà  nơi đã sinh ra nhiều tên tuổi tài năng như: Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Bùi Ngọc Tấn, Thi Hoàng, Đồng Đức Bốn, Đình Kính, Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn... Trong đó, Mai Văn Phấn là một gương mặt tiêu biểu.

 

Mai Văn Phấn vốn là một học sinh giỏi văn của trường cấp 3 Kim Sơn, là người yêu thơ văn và bắt đầu làm thơ từ những năm 16, 17 tuổi.  Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Mai Văn Phấn lên đường nhập ngũ. Năm 1981, trở về quê và làm việc tại Công ty Thuỷ lợi II Ninh Bình. Sau đó, học Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và được cử đi du học ở Liên Xô (cũ). Những năm tháng đi du học cộng với tinh thần ham học hỏi, ông đã tiếp thu được tinh hoa nhiều nền văn hóa, văn học trên thế giới. Đây là những kiến thức hết sức quan trọng làm nền tảng cho hành trình sáng tạo của nhà thơ về sau.

 

Để hiểu hơn về tác giả này, ta hãy tìm hiểu thêm về những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến con người và hồn thơ ông.

 

Thứ nhất, yếu tố gia đình. Xuất thân trong gia đình theo đạo Thiên chúa giáo nên từ nhỏ Mai Văn Phấn đã rất ngoan đạo. Trong một lần tâm sự với Hoàng Hiệp, nhà thơ từng nói: “Tôi sinh ra trong gia đình theo đạo Thiên Chúa. Từ nhỏ tôi rất ngoan đạo, thuộc kinh bổn và thông thạo Kinh Tân Ước và Cựu Ước, các sách thánh, mê hát thánh ca… Lúc ấy cha mẹ tôi rất muốn cho tôi vào nhà dòng để có thể đi tu lâu dài, nhưng khi nhận ra con ngựa hoang’ trong tâm hồn mình, thấy sự đam mê,  run rẩy quá đỗi của mình với vẻ đẹp của thiên nhiên và con người… Tôi đã từ chối. Sau này khi du học ở Liên Xô cũ (1983-1984), tôi đã gặp vợ tôi bây giờ – một người theo Đạo Phật.  Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người tôi yêu nữa. Khi nghiên cứu các giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng: Thượng Đế chỉ có một. Và, chắc chắn chúng ta được sinh ra và bị chi phối bởi một Đấng –Toàn - Năng. Đấng – Toàn - Năng cho con người biết được ‘gần đúng  khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông qua các hình thức tôn giáo mà thôi”. Qua lời tâm sự này, chúng ta cũng phần nào thấy được ảnh hưởng của các tôn giáo và các nền văn hóa thế giới trong thơ ông.

 

Thứ hai, yếu tố quê hương. Ông được sinh ra và lớn lên ở Ninh Bình, vùng đất với nhiều truyền thống, nét đẹp văn hóa dân tộc. Ninh Bình là vùng đất giao thoa giữa ba khu vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó tạo nên một nền văn hóa tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Vào thế kỉ X, Ninh Bình được xem là kinh đô, mảnh đất gắn liền với bao thăng trầm của lịch sử. Đến thế kỉ XVI – XVII, đạo Thiên Chúa  được truyền vào Ninh Bình, hình thành trung tâm Thiên Chúa Giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn. Mảnh đất quê hương với chiều sâu truyền thống và đặc thù văn hóa ấy đã in đậm vào tâm khảm thi nhân, tạo nên những trang viết giàu nội lực và ám ảnh. Hiện tại, Mai Văn Phấn đang công tác và sinh sống tại thành phố Hải Phòng, nơi được xem là quê hương thứ hai của nhà thơ. Hải  Phòng là một trong các thành phố lớn của Việt Nam, nơi có vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước. Là đầu mối giao thông vận tải với hệ thống cảng biển, Hải Phòng là thành phố phát triển mạnh về kinh tế, cũng như đời sống, văn hóa …

 

Có thể thấy, yếu tố quê hương, gia đình đã ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ tới nhiều phương diện nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Thơ  ông  thể hiện tiếng nói tri ân đối với quê nhà, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, sự gắn bó với những gì bình dị của đất đai, làng mạc và khát vọng tìm kiếm, hướng về một tiếng thơ lý tưởng "thuần Việt".

 

Thứ ba, yếu tố thời đại. Thế kỉ XX, XXI với sự phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ, xã hội phát triển, tư duy của con người cũng đổi khác. Tương ứng với sự biến đổi của đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người, thơ ca cũng đang có những thay đổi với nhiều hướng tìm tòi mạnh mẽ và khác biệt. Nhận thức được điều này, nhà thơ tìm đến thơ ca để phản ánh hiện thực theo cách riêng, nhằm hướng về những nét đẹp truyền thống thông qua lăng kính của con người hiện đại.

 

Mai Văn Phấn là con người thông minh, tài hoa – đó là điều không thể  không nói khi bắt đầu về con người này.

 

Ngay từ những năm đang còn ngồi trên ghế nhà trường, tinh thần ham học hỏi và tình yêu thơ văn đã trỗi dậy trong ông. Ý chí, nghị lực và sự kiên trì trong học tập, sáng tạo đã giúp ông có một phông văn hóa rộng và giàu kinh nghiệm trong cuộc sống. Sau một thời gian dài tích lũy kiến thức, ông đã cho ra mắt bạn đọc hàng loạt ấn phẩm  khẳng định sức sáng tạo dồi dào và tài năng nghệ thuật của bản thân.

 

Trong bài Mai Văn Phấn: hiện thân của sự sáng tạo, nhà văn Cao Năm đã viết: ‘‘Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tao’’[46 ; 33]. Ngoài tài hoa, đam mê, tri thức, ông còn là người dũng cảm và giàu bản lĩnh trong sáng tạo. Nhà văn  Đình Kính đã từng nói : ‘‘Anh làm thơ như nghệ sỹ tự tin đi trên sợi  mảnh, bên dưới là vực sâu hiểm trở, nhưng vẫn luôn tự tin rằng mình sẽ đến được đích’’[46 ; 10].  Mai Văn Phấn – con người luôn mạo hiểm để chinh phục  đỉnh cao nghệ thuật. Tự  đổi mới và tự tái tạo không ngừng chính là phẩm chất nổi bật của ông trong sáng tạo.

 

1.2.2. Các chặng đường thơ Mai Văn Phấn

 

Với sức sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn đã xuất bản 11 tập thơ và  trường ca: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi xanh (thơ, 1995); Cầu nguyện ban mai (thơ, 1997); Nghi lễ nhận tên (thơ, 1999); Người cùng thời (trường ca, 1999); Vách nước (thơ, 2003); Hôm sau (thơ, 2009); Và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009); Bầu trời không mái che (thơ, 2010); Hoa giấu mặt (thơ, 2011); Vừa sinh ra ở đó (thơ, 2013)… Và, ông cũng gặt hái  được nhiều giải thưởng: Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội (1994), giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Văn Nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 cho tập thơ Bầu trời không mái che.

 

Với sức sáng tạo dồi dào, tư duy sáng tạo không ngừng đổi mới, thơ Mai Văn Phấn không chỉ được bạn bè trong nước quan tâm mà còn được đông đảo bạn đọc thế giới đón nhận. Ngày 19 tháng 6 năm 2014, ba tập thơ song ngữ của nhà thơ đất cảng Hải Phòng lọt vào top 10 tập thơ Châu Á bán chạy nhất trên mạng AmaZon. Đó là hai tập thơ song ngữ Việt – Anh : Ra vườn chùa xem cắt cỏ (Grass cutting in a temple garden), Những hạt giống của đêm và ngày (Seeds of night and day) và tập thơ song Việt – Pháp : Bầu trời không mái che (A ciel ouvert).

 

1.2.2.1. Từ trước  1995

 

Với những sáng tác đầu tay, Mai Văn Phấn đã có ý thức muốn khác và khác so với chính ông và với người khác. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nhận xét: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá”[46; 8].

 

Giai đoạn này có 2 tập thơ: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi xanh (thơ, 1995). Với những tác phẩm này, tên tuổi Mai Văn Phấn bước đầu được khẳng định qua các giải thưởng : Giải nhất văn nghệ thành phố Hải Phòng với bài thơ Thuốc đắng ( 1991), Giải nhì (không có giải nhất) của hai tờ báo : năm 1994 của báo Người Hà Nội với bài Nghi Tàm ; năm 1995 của báo Văn nghệ với chùm hai bài Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc Nhật ký đô thị hóa.

 

Trong  giai đoạn này thơ Mai Văn Phấn thường hướng về những chủ đề thiên nhiên, tình yêu lứa đôi, tình cảm quê hương, gia đình …, những chủ đề có tính truyền thống. Những tác phẩm tiêu biểu của ông thời kì này có thể kể đến Thuốc đắng, Mười nén nhang ngã ba Đồng Lộc, Em gái đi lấy chồng, Kinh cầu ban mai, Nhật kí đô thị...Ở đó, hiện thực đời sống hiện lên với những đường nét quen thuộc và giản dị: Đưa dâu qua chiếc cầu tre/ lòng anh chạm lá chua me chạnh buồn (Em gái đi lấy chồng).

 

Ngoài thơ lục bát, giai đoạn này Mai Văn Phấn còn sử dụng thể thơ tự do và thơ văn xuôi. Với hình thức tự do, phóng khoáng, thơ văn xuôi của ông  đưa đến những cảm nhận mới về thế giới: Mùa thu mang theo trận mưa giục chiếc lá chớm vàng rụng vội. Em dọn lại căn nhà, còn anh mang chài lưới ra khơi (Ký sự mùa thu). Và, ở đó nhà thơ thể hiện khát vọng tìm tòi, dâng hiến:  Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si” (Viết cho cây sáo).

 

Nhìn chung, thơ Mai Văn Phấn giai đoạn trước 1995 xét về mặt thi pháp đã có nỗ lực tìm tòi nhưng vẫn chưa đi xa hơn hệ hình thi pháp truyền thống.

 

1.2.2.2. Từ 1995 đến 2000

 

Từ 1995 đến 2000, Mai Văn Phấn cho ra đời ba tập thơ: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường ca Người cùng thời (1999). Nhà thơ bước đầu làm một cuộc lột xác về nội dung, tư tưởng cũng như hình thức thể hiện. Về cảm hứng cũng như thi pháp thơ giai đoạn này đã có nhiều điểm khác trước. Nếu giai đoạn trước, thi sỹ chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cái hiện thực cảm xúc bề mặt, dễ nhận biết của đời sống thì giai đoạn này, nhà thơ chủ trương hướng về nhận thức chiều sâu nhân sinh. Do đó, hiện thực được khắc họa với những nét gai góc, phức tạp: Lẽ phải vùi chôn trong đơn thư mặc danh/ Đồng tiền lật ngược trang hồ sơ khởi tố/ Có mặt quỷ sau mặt người lấp ló/ Quỷ thì run mà người thì buồn. Cuộc sống hiện đại đang dần đổi thay: Sủi bọt. Rạn nổ. Vụn nát/ Hơi nóng bốc cao ngùn ngụt giữa trời/ Nỗi khắc khoải không còn có ý nghĩa/ Sự đổi thay vượt quá sức mình (Từ hạt mưa); Dấu chân không nhận ra nhau vô cảm trơn lỳ/ Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ/ cỏ nát...(Khúc dạo đầu). Ở đó, ý thức cá nhân và tinh thần trách nhiệm cộng đồng hòa nhập làm một: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua. Ở đó, xuất hiện những nỗi đau mới và những niềm hy vọng mới: Từ tưởng tượng/ và niềm hy vọng/ Tôi rút những mũi tên/ Ra đi tìm đích cho ngày mai (Mũi tên bóng tối).

           

Về mặt thi pháp, nhà thơ Lê Xuân Đố khẳng định thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này “bứt phá cách tân thi pháp với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc, bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét đẹp tiềm ẩn của tình yêu, đời sống” [46; 283]. Cùng với ý thức cách tân thi pháp, Mai Văn Phấn khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ ông giờ đây có khi chỉ là những “Dàn ý” hay “Bài tập mùa xuân”, hoặc những ý tưởng bất chợt “đến trong ý nghĩ”. Những câu chữ bề bộn, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man như “những ý nghĩa không sắp đặt”, “không quán tính”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Điều này được chứng minh qua các bài thơ tiêu biểu như: Mười bài tập mùa xuân, Mail cho em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số 18…

 

Trong những tổ chức ngôn từ tưởng chừng như phi logic, nhà thơ đang đến gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Vì thế, Văn Giá đã khẳng định: “Chặng thứ 2 là cả một nỗ lực bứt phá: giờ đây không trọng tự tình nữa, mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha, để rồi phát huy rõ rệt ở chặng 3” [45; 539].

 

1.2.2.3. Từ  2000 đến nay

 

Từ 2000 đến nay, Mai Văn Phấn cho ra đời hàng loạt tập thơ: Vách nước (2003),  Hôm sau (2009), Và đột nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Vừa sinh ra ở đó (2013)...; thể hiện sức sáng tạo dồi dào của nhà thơ. Đây được đánh giá là giai đoạn nở rộ tài năng của thi sỹ.

 

Thi pháp thơ Mai Văn Phấn tiếp tục cách tân với những hình ảnh, liên tưởng, ngôn từ lạ. Thay cho cái nhìn mang tính “nhất phiến” trước đây là một cái nhìn “phân mảnh” đầy hoang mang, “sản phẩm” của một thời đại đầy bất an và biến động. Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Đúng vậy, Chỉ là giấc mơ, Còn cậu hãy đứng đằng kia… phản chiếu một cái nhìn nghịch dị, hài hước, không kém phần tỉnh táo về một thế giới bị xô lệch, con người bị biến dạng, trở nên méo mó, không khác gì những sản phẩm “chế tác từ đồ phế thải”.

 

Giai đoạn này, nhà thơ tiếp tục dung nạp những thủ pháp, kĩ thuật viết mới, phức tạp theo hướng hiện đại chủ nghĩa và hậu hiện đại chủ nghĩa. Song bên cạnh đó, tư tưởng và nỗ lực  hướng đến một lối viết “tự nhiên/ như đi trên đất”, giản dị, “thuần Việt”, ngày càng hiển lộ rõ nét trong Những bông hoa mùa thu, Cửa mẫu, Hình đám cỏ…, và gần đây nhất là những tác phẩm trong tập Vừa sinh ra ở đó.

 

1.3. Cơ sở hình thành nên thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn

 

1.3.1. Về thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn

 

Mai Văn Phấn trong một tiểu luận đã viết: “Thơ ca đang chuyển động trong một thế giới đa chiều, đa cực. Trách nhiệm của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại” [55; 275]. Với ý thức sáng tạo mạnh mẽ, độc đáo, Mai Văn Phấn đã sớm nỗ lực xây dựng một thế giới nghệ thuật riêng cho mình.

 

Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn được xây dựng bởi nhiều yếu tố: nhân vật, không gian, thời gian, ngôn từ, thể loại, giọng điệu, âm thanh và màu sắc…Nhưng do phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung làm rõ hình tượng cái tôi, hình tượng thế giới và những phương thức nghệ thuật xây dựng thế giới hình tượng trên.

 

Hình tượng cái tôi là nhân vật trung tâm của tác phẩm mang vẻ đẹp độc đáo, không lặp lại. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện ở các phương diện: Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca; cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén; cái tôi nồng nàn, say đắm trong tình yêu và cái tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần "thuần Việt". Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn luôn vận động hướng về phía trước để mang lại cho người đọc những cảm giác mới lạ, không lặp lại. Hình tượng thế giới chính là sự khúc xạ hiện thực qua lăng kính chủ quan của nhà thơ. Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện qua các phương diện cơ bản: Một thế giới của sự viên mãn và thuần khiết; một thế giới của sự tương giao, hài hòa và một thế giới của cảm giác siêu nghiệm. Để xây dựng hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới, Mai Văn Phấn đã sử dụng khá đa dạng và linh hoạt các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Tiêu biểu là cách tổ chức văn bản, cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và bút pháp tạo hình độc đáo.

 

Có thể thấy, thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn biến đổi đa dạng, phong phú song vẫn nhất quán ở tinh thần vận động về cái mới, mở ra một chân trời tiếp nhận rộng rãi cho độc giả.

 

1.3.2. Những cơ sở hình thành nên thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn

 

1.3.2.1. Bối cảnh lịch sử -  thẩm mĩ Việt Nam sau 1975

 

Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực qua các giai đoạn, thời kì. Các giai đoạn phát triển của nền văn học nước nhà thường gắn liền với mốc phát triển của lịch sử dân tộc. Văn học và lịch sử dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau. Trải qua bao thăng trầm dân tộc, đất nước ta ngày càng đi lên và cùng với sự phát triển của dân tộc là sự phát triển trong tư duy của con người.

 

Năm 1975, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, kết thúc vẻ vang ba mươi năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân hơn một thế kỷ trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước và đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức: chiến tranh vẫn tiếp tục (chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam); cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với nhiều di hại nặng nề, chính sách cấm vận của Mỹ... Thời hậu chiến với những khó khăn chồng chất buộc thơ ca không thể tiếp tục nhãn quan, cảm hứng và giọng điệu sử thi như trước nữa.

 

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một trang mới cho lịch sử đất nước nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng. Công cuộc đổi mới không chỉ làm thay đổi diện mạo đất nước trên bình diện kinh tế, chính trị, xã hội mà còn làm thay đổi một cách sâu sắc và tác động trực tiếp đến đời sống văn hóa xã hội, trong đó văn học nghệ thuật cũng không nằm ngoài guồng quay đó.

 

Sự nghiệp đổi mới đưa nước ta phát triền hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Công nghiệp hóa, hiên đại hóa đã làm thay đổi tận gốc nền sản xuất, kiến tạo lại hạ tầng cơ sở xã hội. Kinh tế thị trường đã tác động nhiều mặt tới đời sống người dân cũng như tới hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Cũng với điều đó, xu hướng toàn cầu hóa kéo theo những thay đổi to lớn trên mọi lĩnh vực đời sống. Việt Nam từ một nền văn hóa mang đậm tính cộng đồng, làng quê đang chuyển mình thành một nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Nền văn hóa đó không những đề cao những giá trị truyền thống, những giá trị cộng đồng mà còn đánh thức tiềm năng sáng tạo kỳ diệu của con người, thúc đẩy xã hội đi lên trên cơ sở hình thành ý thức cá nhân hiện đại.

 

Như vậy, hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam sau 1975 thay đổi dẫn đến những chuyển biến về mặt tâm lý, lối sống của con người. Sự chuyển biến về tâm lý, lối sống đã dẫn đến sự thay đổi cách nhìn, quan điểm thẩm mỹ  của các nhà thơ và đây là điều kiện cho sự xuất hiện thế hệ nhà thơ đổi mới với những cách tân thi pháp.

 

Trước hết là sự thay đổi trong quan niệm thẩm mĩ về con người và đời sống. Nếu văn học Cách mạng trước 1975 thường phản ánh hình tượng con người lớn lao, kì vĩ, đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp cộng đồng, dân tộc thì thơ sau 1975 thường hướng về con người với những lo toan thường nhật trong cuộc sống, ở đó, ý thức cái tôi cá nhân được khẳng định mạnh mẽ. Thơ hướng về hiện thực với những bề bộn, phức tạp như nó vốn có. Đồng thời, thơ cũng đi sâu vào thế giới bên trong tâm hồn con người. Cùng với xu hướng đưa thơ về gần với hơi thở của đời sống là xu hướng đi sâu vào vùng vô thức của con người, gia tăng “chất ảo” trong thơ buộc người đọc phải giải mã các tín hiệu nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng khác nhau.

 

Quan niệm về bản chất thơ ca cũng đã có những thay đổi. Nếu trong văn học trung đại, thi sỹ dùng thơ ca để tải đạo, giáo huấn thì đến thơ ca hiện đại, nhiệm vụ thơ ca đã có sự thay đổi. Ngoài chức năng xã hội, chức năng giáo dục, thơ ca còn đề cao chức năng thẩm mĩ. Với quan niệm này, đề tài, chủ đề thơ sau 1975  trở nên phong phú và đa dạng hơn. Quan niệm tư tưởng sáng tạo thay đổi, tất yếu kéo theo sự thay đổi về hình thức, ngôn ngữ, bút pháp tạo hình…. Nhiều  nhà thơ mạnh dạn vận dụng các kỹ thuật viết hiện đại, tiếp thu các khuynh hướng văn học trên thế giới, tạo nên những cách tân mang tính đột phá trong thi pháp thơ.

 

1.3.2.2. Sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ đổi mới

 

Lực lượng chủ đạo của nền thơ đương đại Việt Nam là thế hệ nhà thơ đổi mới. Thực ra, “thế hệ nhà thơ đổi mới” là một thuật ngữ có tính quy ước, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ cầm bút sau 1975 và thành danh sau 1986, theo xu hướng đổi mới và cách tân thi pháp. Với ý nghĩa đó, “thế hệ đổi mới” thực chất bao gồm nhiều thế hệ cầm bút nối tiếp nhau. Có thế hệ cầm bút trước 1975, nhưng chỉ thực sự gây ấn tượng và được độc giả rộng rãi biết đến sau 1986 như nhóm tác giả “dòng chữ”: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, ..., Có những tác giả cầm bút và thành danh từ thời chống Mỹ song vẫn tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho thơ sau 1975 như Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Ý Nhi, Thi Hoàng, Hoàng Hưng... Có thế hệ viết sau 1975 và thành danh sau 1986, còn gọi “thế hệ hậu chiến” như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Irasara... Nối tiếp thế hệ trên là sự ra đời thế hệ nhà thơ trẻ như Nguyễn Quyến, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Vĩnh Tiến, Ly Hoàng Ly, Trần Nguyễn Anh, Văn Cầm, Nguyễn Thị Từ Huy,…

 

Họ là một thế hệ sáng tạo sung sức và khao khát cách tân, làm mới thơ ca dựa trên những nền tảng dân tộc. Họ mong muốn được giải phóng khỏi những quan niệm hẹp hòi, khô cứng, để không còn quá băn khoăn tôi hay ta, hiện thực hay không hiện thực. Họ mải mê ghi lại những chấn động đột ngột từ tâm hồn, đắm mình trong dòng chảy của cảm xúc, cứ như thế, càng trọn vẹn bao nhiêu, hoàn hảo bao nhiêu càng thơ bấy nhiêu. Họ khao khát làm mới thơ từ nội dung đến hình thức thể hiện. Họ cất lên tiếng nói mạnh mẽ, quyết liệt, nhiều khi gây sốc. 

          

 

Tóm lại, sự xuất hiện thế hệ các nhà thơ đổi mới với những cách tân thi pháp đã đưa thơ ca đương đại Việt Nam bước sang một trang mới. Họ dám chấp nhận thử thách, dám chối bỏ sự hoà lẫn đơn điệu vào dòng thơ truyền thống với những bạn đọc quen thuộc và những nhà phê bình quen thuộc để phiêu lưu vào những con đường sáng tạo mới  nhằm đưa lại diện mạo mới  cho thơ Việt đương đại. Sau đây là một số gương mặt nổi bật trong thế hệ nhà thơ sau 1975 – “thế hệ hậu chiến”.

           

* Nguyễn Lương Ngọc (1858 – 2001): Ông quê ở Ba Vì, Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp kĩ sư cơ điện, năm 1981 nhà thơ về công tác tại công trường thủy điện sông Đà, bắt đầu sáng tác thơ. Sau đó, ông theo học trường viết văn Nguyễn Du rồi làm báo ở Hà Nội. Nhà thơ qua đời ở cái tuổi mà thơ ca còn độ sung sức nhất, để lại bao dự định ngổn ngang về thơ, về đời. Nhà thơ Dương Kiều Minh đã nhận định: “Anh để lại cuộc cách tân thơ ca đầy hứa hẹn với triển vọng của một sức bật mãnh liệt và vạm vỡ, đã gây nên sự chấn động trong giới văn chương và bạn bè”. Các tập thơ tiêu biểu của ông gồm: Từ nước - 1990, Ngày sinh lại - 1991, Lời trong lời – 1994.

 

* Dương Kiều Minh (1960 – 2012): Nhà thơ Dương Kiều Minh quê huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ 1980-1991, ông công tác tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà - Hòa Bình. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du khóa III (1986-1989). Từ năm 1991 đến nay, ông công tác tại Sở Văn hóa thông tin, Hội văn học nghệ thuật Hà Tây (cũ), Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội, phó chủ tịch thường trực Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Thủ đô. Ông để lại 7 tập thơ (Củi lửa - 1989, Dâng mẹ - 1990, Những thời đại thanh xuân -1991, Ngày xuống núi - 1995; Tựa cửa -  2001; Tôi ngắm mãi những ngày thu tận - 2008; với một số tập bản thảo sau này in trong Tuyển thơ Dương Kiều Minh (2011), 2 tập tiểu luận và một số tùy đàm văn chương.

           

* Nguyễn Bình Phương: Sinh năm 1965, quê ở Thái Nguyên. Nguyễn Bình Phương là gương mặt thơ xuất hiện vào nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cùng một lúc với nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc. Gắn bó với quân ngũ và sớm bén duyên với văn chương, Nguyễn Bình Phương bắt đầu cho ra mắt những tác phẩm ấn tượng của mình từ giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Ở thời điểm đó, ông bắt nhịp hết sức nhanh chóng với không khí sáng tạo ở Trường Viết văn Nguyễn Du, với những tên tuổi như Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Giáng Vân… nhưng vẫn rất đậm đà tố chất độc đáo của mình. Gia tài thơ ca của Nguyễn Bình Phương gồm: Lam chướng (1994), Xa thân (1997), Từ chết sang trời biếc (2001) và tập thơ mới nhất, Buổi câu hờ hững (2011).

           

* Nguyễn Quang Thiều: Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 13/2/1957 tại Làng Chùa, Ứng Hòa, Hà Tây (nay là Hà Nội). Bắt đầu viết văn từ năm 1983, ông đoạt giải thưởng Hội Nhà văn 1993 cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa. Cho đến nay, Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 10 tập thơ và tuyển chọn trong số đó để in thành tuyển thơ lần thứ nhất Châu thổ (NXB Hội nhà văn, 2011). Ông là một trong những gương mặt cách tân nổi bật của thế hệ thơ Đổi mới. Tập thơ Châu thổ được tuyển từ 6 tập thơ đã xuất bản của Nguyễn Quang Thiều: Ngôi nhà 17 tuổi (1990), Sự mất ngủ của lửa (1997), Những người đàn bà gánh nước sông (1995), Nhịp điệu Châu thổ mới (1997), Bài ca những con chim đêm (1999), Cây Ánh Sáng (2009).

           

* Inrasara: Inrasara - nhà thơ dân tộc Chăm, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tên thật là Phú Trạm, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1957 tại làng Chakleng, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ông là nhà thơ, đồng thời là nhà lí luận - phê bình, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, nhưng ông thành công hơn ở lĩnh vực thơ ca. Inrasara đã được trao giải thưởng ASEAN 2005 (giải thưởng dành cho những người có đóng góp về văn hoá và văn học của các nhà văn trong khu vực châu Á). Ông là tác giả của 5 tập thơ  nổi tiếng: Tháp nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng (1997), Hành hương em(1999), Lễ tẩy trần tháng Tư (1996), Chuyện 40 năm mới kể. 

           

1.3.2.3. Quan niệm sáng tạo của tác giả

 

Sáng tạo luôn là nhu cầu của người nghệ sỹ. Trần Thiện Khanh, một nhà phê bình trẻ viết: “Về phương diện lý thuyết, có bao nhiêu người sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho cùng, mọi quan niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình độ nhận thức rất khác nhau của người cầm bút về văn học” [46; 507].

 

Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ có quan niệm sáng tạo rất nhất quán và mang tinh thần đổi mới mạnh mẽ. Quan niệm này được ông thể hiện theo nhiều cách, hoặc trực tiếp qua các  tiểu luận văn học và các bài trả lời phỏng vấn, hoặc gián tiếp qua các sáng tác thi ca. Sau đây là những khái lược quan niệm về thơ và nhà thơ của Mai Văn Phấn.

 

* Quan niệm của Mai Văn Phấn về thơ

 

Với Mai Văn Phấn, hành trình sáng tạo nghệ thuật là hành trình gian khổ, đơn độc để đi tìm cái đẹp, và “dù viết theo bất kỳ khuynh hướng nào, thơ ca luôn mang vẻ đẹp nguyên khởi, nhằm phục sinh, tái tạo thế giới, mãi đối lập với cái xấu và gian tà. Thơ ca là ánh sáng đẩy lùi bóng tối, là nước mát làm xanh tươi mặt đất, là vị thuốc chữa lành những vết thương tâm hồn, đánh thức thiên lương con người để họ không rơi vào vũng lầy tha hóa, sống nhân hậu thân thiện hơn” [59; 1]. Với tác giả này, thơ ca là CÁI ĐẸP, nơi con người hướng đến để thể hiện, để thanh lọc tâm hồn và hoàn thiện nhân cách của mình. Thơ ca được ví như là dưỡng chất để nuôi lớn tâm hồn con người, là vị thuốc để chữa lành mọi vết thương lòng, là vị thánh cứu rỗi con người và thế giới. Thơ ca mang trong mình vẻ đẹp quyền năng lớn lao.

 

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: "Thơ ca, đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con đường vĩnh cửu của nó, (...) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con người trần tục của nhà thơ và con người sáng tạo của anh ta” [71; 15]. Quả đúng vậy! Với Mai Văn Phấn, “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả... nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [55; 454]. Hết sức đề cao việc đổi mới và cách tân thi pháp thơ, ông viết: “Thơ ca càng ảo bao nhiêu càng đem lại sự chân thật bấy nhiêu..., hiện thực trong thơ được hiện hữu trong một “mặt phẳng cong”...Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng” [55; 400].

 

Chúng ta đang sống trong xã hội phát triển, ở đó, sự cách biệt giữa các dân tộc, giữa con người với con người ngày càng xa. Ý thức đươc điều này, thi sỹ khẳng định: “Thơ ca là cầu nối, là bàn tay chân thành, giọng nói ấm áp để chúng ta tìm đến nhau, cảm thông, thấu hiểu nhau hơn. Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn...cũng như thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của dân tộc ấy. Chúng ta tựa vào thơ ca để ngày thêm hoàn thiện, thay đổi, lớn lên và bình đẳng giữa các dân tộc trên trái đất” [59; 1].Ông cũng nhấn mạnh: “Quan niệm mỗi nền thơ chỉ có giá trị trong ngôn ngữ mẹ đẻ là phiến diện và nghèo nàn, không thể tồn tại lâu khi những cuộc giao thương, di dân, hội nhập trong lịch sử đã mang đến cho thơ những quan niêm mới” [59; 1].

 

* Quan niệm của Mai Văn Phấn về nhà thơ

 

Người làm nghệ thuật luôn mang trong mình khát vọng sáng tạo nhưng mỗi nghệ sỹ lại có những quan niệm sáng tạo riêng. Với Mai Văn Phấn, sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển những giá trị đã định hình mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi là đối lập) với cái đã định giá. Quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong thân”, là quá trình phủ định bản ngã: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách trung thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa chìa khóa trong một cái chợ” [55; 399]. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong nghệ thuật. Ông cho rằng, bài thơ mà nhà thơ viết ra không còn thuộc về anh ta nữa mà thuộc về độc giả. Nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời vì "mỗi bài thơ viết xong hầu như tồn tại độc lập với người làm ra nó, sự "lưu luyến" hay không xin dành cho người đọc và thử thách khắc nghiệp với thời gian. Tôi không có thói quen chiêm bái những con đường cũ của mình,  không "quay vái lạy chiếc áo vừa treo lên giá" [55; 430]. Sáng tạo luôn đồng hành với việc không ngừng nghỉ trong sáng tác, mỗi đứa con tinh thần ra đời tồn tại độc lập với những sản phẩm sau đó, “tôi được bài thơ dạy lại mình cách viết” [55; 441].

 

Xã hội ngày càng thay đổi, phát triển kéo theo quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của con người cũng thay đổi, điều đó đòi hỏi nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi và đổi mới: “ Trách nhiệm của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại” [55; 375], và, “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn cỗi” [55; 399].

 

Xuất phát từ những quan niệm nói trên, Mai Văn Phấn quyết liệt đặt ra vấn đề đổi mới thi pháp thơ: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [55; 378]. Nhà thơ nếu chỉ để tâm ve vuốt sở thích của đám đông thì sẽ làm nghèo đi sự phong phú của khu vườn thi ca sinh động. Mọi người cầm bút đều mong muốn được nhiều bạn đọc chia sẻ, nhưng đây không phải là cứu cánh của những thi sỹ chân chính. Mai Văn Phấn cho rằng: “Đổi mới thi pháp trước hết nhằm chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người đọc, tạo những không gian thơ đa dạng, thiết lập hệ quy chiếu mới trong cách tiếp cận tác phẩm. Sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển những giá trị đã định hình, mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá” [55; 423], và phù hợp “lối tư duy phổ quát, mạch lạc, tốc độ... họ luôn khao khát những giá trị mới lạ phù hợp với đời sống hiện đại của độc giả” [55; 423].

 

Tuy nhiên, với Mai Văn Phấn, sáng tạo, cách tân không đồng nghĩa với việc cắt đứt với thơ ca truyền thống. Cách tân là tiếp thu cái truyền thống đồng thời làm mới để tạo nên nét hiện đại cho  truyền thống. Mai Văn Phấn là người đọc nhiều và rất am hiểu về các xu hướng, trường phái thơ phương Tây hiện đại, nhưng ông quan niệm học hỏi và sáng tạo  chứ không phải bắt chước máy móc. Sáng tạo luôn đòi hỏi tài năng và bản lĩnh. Chính vì thế, trong một bài thơ của mình, ông viết: Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động (Ngậm em trong miệng). Là người hành nghề sáng tạo, nhà thơ phải biết dũng cảm rời bỏ bầy đàn và chính mình.

 

Từ những phân tích trên ta thấy, Mai Văn Phấn nhà thơ luôn có ý thức quyết liệt đổi mới mình, đổi mới thi ca. Quan niệm sáng tạo ấy đã phần nào cho thấy bản lĩnh, phẩm chất của thi sỹ. Đây cũng chính là một cơ sở quan trọng hình thành nên thế giới nghệ thuật thơ khác biệt, độc đáo của Mai Văn Phấn:  “Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi, ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định” [55, 447 - 448]. Tất nhiên, từ những quan niệm đến thực tế sáng tác nhiều khi là cả một khoảng cách đầy thử thách đối người nghệ sỹ sáng tạo.

 



 

Chương 2

HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG THẾ GIỚI 
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 

 

Thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các thành tố cấu trúc và quy luật vận động nội tại, thể hiện quá trình cái tôi nhà thơ nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tưởng tượng, sáng tạo. Từ góc độ thi pháp, luận văn chúng tôi tập trung tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn ở hai phương diện: hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới.

 

2.1. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn

 

Cái tôi là biểu hiện của ý thức về con người cá nhân, là sự tự nhận thức của con người về tư cách, nhân phẩm hoặc giá trị của chính mình trong xã hội.

 

Mỗi nhà thơ khi sáng tạo đều thể hiện sự nhận thức của bản thân về cuộc sống hiện thực và nhu cầu bộc lộ cảm xúc của cá nhân giữa cuộc đời. Hình tượng cái tôi được xây dựng khi nhà thơ tự ý thức đầy đủ về cá tính năng lực sáng tạo và con đường nghệ thuật của mình. Có thể, tìm hiểu hình tượng cái tôi ở nhiều cấp độ: bài thơ, tập thơ, nhà thơ, thời đại. Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn, chúng tôi nghiên cứu hình tượng cái tôi ở cấp độ nhà thơ thể hiện qua các sáng tác cụ thể. Ở cấp độ này, hình tượng cái tôi là một kiểu nhân vật trong tác phẩm văn học. Nó là kết quả của sự khái quát hiện thực, thể hiện cái nhìn của tác giả và gợi lên ở người đọc quan niệm, nhận thức sinh động về con người và cuộc sống.

 

Qua thực tế khảo sát văn bản thơ, chúng tôi nhận thấy hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn có những đặc điểm nổi bật sau đây:

 

- Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca

 

- Cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu

 

- Cái tôi thống nhất giữa lí tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén

 

- Cái tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần lý tưởng “thuần Việt”

 

2.1.1. Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca

 

Với Mai Văn Phấn, cách tân thơ là điều tất yếu trong quy luật vận động thi ca, cũng là khát vọng tự thân mãnh liệt của người nghệ sỹ này. Điều đó được chứng minh qua hành trình sáng tạo của ông. Mỗi tập thơ ra đời là kết quả của một ý thức tìm tòi, cách tân mạnh mẽ, để không lặp lại người khác và quan trọng hơn là không lặp lại chính mình. Hành trình ấy cho thấy nhà thơ không ngừng học hỏi, tiếp thu, thể nghiệm nhiều bút pháp, khuynh hướng sáng tạo khác nhau, từ nhiều nguồn thi ca trên thế giới. Khát khao làm mới khuôn mặt tinh thần bản thân và thi ca, cái tôi Mai Văn Phấn không ngại phủ định và tự phủ định, để liên tục hướng tới những giá trị thẩm mĩ mới. Cái tôi ấy luôn hướng tới mục tiêu cách tân nghệ thuật, sử dụng nhiều kỹ thuật hiện đại, song luôn tuân thủ mục đích tạo ra không gian thơ, trường thơ riêng, coi thơ là tiếng nói khai mở một cõi thế giới riêng của trực giác, tâm linh. Ở đó, thi sỹ tìm về một tiếng thơ riêng, thuần khiết của người Việt hiện đại.

 

Nói như vậy cũng có nghĩa là sự đổi mới này, dĩ nhiên, không chỉ dừng lại ở những thể nghiệm kĩ thuật nhỏ lẻ, thuần túy. Ngược lại, nó luôn hướng tới và gắn liền với mục đích kiến tạo một quan niệm mĩ học hiện đại, nhất quán ở nhà thơ. Với Mai Văn Phấn, “Điều quan trọng trước hết trong sáng tạo là thiết lập không gian... Không gian ấy hàm chứa những vấn đề lớn tạo nên từ trường ảnh hưởng cho những bài thơ cụ thể sau này. Đó là những ám ảnh cốt lõi về thời đại, thời cuộc, những quan chiếu, hệ luỵ trong xã hội, thái độ sống, thái độ chính trị của thi sỹ; một cõi riêng của cảm giác hay linh giác mà người ngoài không thể dụng ý chạm tới, và cả những vấn đề muôn thuở của văn chương, như khuynh hướng, giọng điệu, thể loại, tính nhân bản v.v...”[60; 1]. Đặc biệt, “Không gian sáng tạo này luôn mang giá trị biệt lập, độc sáng, không trùng hợp với những người khác, và, không lặp lại chính mình. Đây là thử thách lớn nhất với nghệ sỹ, đặc biệt nhà thơ, vì thường sau mỗi giai đoạn sáng tạo, các nhà thơ nhìn lại không gian mình vừa trải qua với thái độ tự hài lòng, cảm giác như mọi góc khuất đời sống, những bí ẩn của tâm trạng đều được ánh sáng thi ca soi tỏ; nói cách khác, nhà thơ như không muốn nói thêm điều gì, và, cũng thấy mọi ngả đường phía trước bị bịt lối... Nếu không mở được không gian nghệ thuật khác tiếp theo, nhà thơ sẽ rơi vào bế tắc, cùn mòn, thấy nặng nề nếu phải cố gắng nói những điều đã cũ” [60; 1].

 

Chính quan niệm cách tân mạnh mẽ này đã tạo nên đặc điểm nổi bật đầu tiên ở hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn: giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca.

        

Trước hết, hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn là cái tôi của những tìm tòi, thể nghiệm sáng tạo đa dạng. Trong các sáng tác trước 1995, như nhận xét của một nhà phê bình, Mai Văn Phấn đã có ý thức khác đi - so với chính ông và với người khác. Những bài thơ mang đậm dấu ấn thi pháp truyền thống đã bắt đầu cựa quậy với những dấu hiệu đổi mới trong thi tứ, thi ảnh. Chẳng hạn:

Tàn mùa chiếc lá lia qua
Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần
Sáng thì làm trăng thượng tuần
Lu thì ghép với mấy lần cong vênh
(Một mình)

 

Hoặc:

 

Em ngủ say không biết/ anh đang nhìn hạt mưa/ bóng tối xơ xác ngoài cửa sổ/ tán cây đè nặng ngực mình/ .../ Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh/ những đế giày chuẩn bị vỡ tung/ chân tường mở cánh cửa thoát hiểm/ bụi mưa phùn hay châu chấu bay qua/ cả ngôi nhà lao đi chóng mặt/ sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh... (Để nhận ra anh).

 

- Những hạt giống vừa chạm vào ánh sáng / Đã gặp những gì chẳng thấy trong mơ / Rơm rạ mục dâng lên từ đất ẩm/ Gió xước qua bụi gai trong lúc giao mùa / Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm / Để lấy đi những hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi những mùa vàng rạo rực hiến dâng” (Tự thú trước cánh đồng).

 

Ngay trong những sáng tác ở giai đoạn đầu, thơ Mai Văn Phấn đã đem lại cho người đọc những liên tưởng mới lạ nhờ các ẩn dụ tinh tế. Chẳng hạn: Vầng trăng em đứng giữa trời/ Để rơi ngàn mảnh gương ngời mặt sông/ Ngày tràn đêm vỡ lên bông/ Mình ta khua động cả dòng tịch liêu (Trương Chi) ;  Anh đi níu gió trên trời/ Lùa râm mát tới những nơi em chờ/ ... /  Mắt người buông xuống sông xưa/  Ru con thuyền ấy trong mưa mỏi mòn/ ... (Bâng quơ).

 

Đấy vẫn là một cái tôi mang trong mình những vẻ đẹp cổ điển: Em nhòe nắng mới ngây thơ/ Ấm ran khắp tầng vũ trụ/ Anh thành bông cúc thẫn thờ/ Cuối mùa vàng lên vội vã (Cuối xuân đầu hè), nhưng không nằm im trong khuôn khổ mà luôn cựa quậy tìm lối, chuyển động: “Lỡ vin vào bóng mây qua / Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò / Đầu kim tựa có ai chờ/ Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa” (Gom nhặt cuối mùa). Con người luôn tìm cho mình một lối đi riêng với khát vọng thay đổi: “Những hạt giống vừa chạm vào ánh sáng / Đã gặp những gì chẳng thấy trong mơ / Rơm rạ mục dâng lên từ đất ẩm / Gió xước qua bụi gai trong lúc giao mùa / Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm / Để lấy đi những hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi những mùa vàng rạo rực hiến dâng” (Tự thú trước cánh đồng).

 

Có thể thấy, cái tôi trong sáng tác ở giai đoạn đầu của nhà thơ vừa mang vẻ đẹp của cái tôi truyền thống vừa có dấu hiệu bắt đầu cựa quậy để bứt phá, đổi mới.

 

Từ 1995 đến 2000, thơ Mai Văn Phấn cách tân thi pháp mạnh mẽ. Khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề rộng, bề xa” buộc phải đổi mới cách nhìn, cách lí giải về hiện thực. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này là sự “cộng hưởng” của ý thức cá nhân và tinh thần công dân, dân tộc được thể hiện ấn tượng qua hệ thống hình ảnh, ngôn từ mới, lạ:

 

Nghe trong đám đông cộng hưởng những giai điệu cá tính, tựa hào quang hắt lên từng khuôn mặt, đan xen nhau rồi kết thành nhọn tháp. Ở đó qua chuông trái tim đã được kéo lên…

Cá tính hòa đồng với quy luật thiên nhiên, cho ta nhịp nhàng, cho ta nguôi ngoai, cho ta thổn thức…

Tuân theo luật mà dồi dào cá tính. Cái Tôi tận cùng dẫn tới cái ta”

 

Hay:

“Cộng hưởng cùng bạn bè, đồng chí, vợ con…Cùng giấc mơ trước thềm thế kỉ, để không còn những ngón tay rã rời (ngón duy cảm, ngón thì duy lý). Mà tất cả là những ngón tay chân thực, hòa đồng trên một bàn tay.” (Cộng Hưởng II)

 

Không dừng lại cái tôi với những khát vọng của đời sống hiên hữu, nhà thơ còn muốn “hóa thân” để được sống lại với những cảm giác vô thức trong từng giấc mơ – hay chính là những suy tư của con người, thông qua tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Đây là giai đoạn cách tân mạnh mẽ của nhà thơ với nhiều thử nghiệm bút pháp hiện đại: tượng trưng, siêu thực, tân hình thức… Xin lấy ngẫu nhiên một bài thơ để chứng minh - Ngậm em trong miệng:

 

Luôn tin có em trong miệng

Nơi không chiến tranh, dịch hạch

Mũi tên bắn lén tẩm độc

Thị phi, cạm bẫy, lừa lọc

Lối em đi không còn gai nhọn

Bão tràn qua anh dựng tường ngăn

Bình yên trong miệng anh

Em thúc nhẹ bờ vai

Vòm ngực, ngón chân vào má

Huyên thuyên và hát thầm

Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể

Anh là con cá miệng dàn dụa trăng

Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động

 

Đấy là một hình tượng thơ độc đáo. Cái tôi trữ tình “Luôn tin có em ở trong miệng”, để có thể che chở, bao bọc em khỏi một thế giới đầy rẫy dịch hạch, thị phi. Có lẽ, sự hy sinh của anh đã được em đền đáp xứng đáng:  Em thúc nhẹ bờ vai/ Vòm ngực, ngón chân vào má - siêu thực, mộng mơ nhưng lại rất thực. Đặc biệt là hình ảnh:  Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động… Ở đây, cái tôi đang có một hành động quyết liệt “rời bỏ bầy đàn”, để khẳng định mình trong một thế giới đầy biến động. Chỉ một từ “quẫy” đã làm bật nổi  sự khó khăn khi rời bỏ đám đông  rời bỏ những bộ đồng phục tinh thần, tư tưởng, để có thể đạt tới tự do sáng tạo. Ta cũng có thể thấy rõ điều này qua nhiều tác phẩm khác: Chỉ là giấc mơ, Kể lại giấc mơ, Giấc mơ vô tận, Quay theo mái nhà, Bài học, Hội chứng từ một tin đồn, Tỉnh táo tột cùng,..

 

Về diện mạo cách tân của thơ Mai Văn Phấn, một nhà phê bình đã nhận định: “Có thể thấy thơ Mai Văn Phấn là một hành trình liên tục cách tân, tìm tòi. Vượt lên những hạn chế nhất định, mỗi giai đoạn sáng tác của ông đều ghi dấu bằng những tác phẩm đáng chú ý. Ý thức học hỏi nghiêm túc hướng về những nền thơ lớn trên thế giới, đặc biệt là thơ Âu – Mỹ hiện đại, cộng với “tham vọng” hướng tới xây dựng một tiếng thơ Việt “thuần khiết” là động lực thúc đẩy ông không ngừng hăng hái tìm kiếm và thử nghiệm. Dĩ nhiên, song song với việc tiếp thu có chọn lọc là ý thức xây dựng một thẩm mĩ quan cá nhân độc lập. Bởi vậy, thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [62; 3]. Quả đúng như vậy.

 

2.1.2. Cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu

 

Bên cạnh cái tôi tràn đầy năng lượng và khát vọng cách tân nghệ thuật, hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn còn là một cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu.

 

Thực ra, tình yêu là một đề tài vĩnh cửu. Trong phong trào Thơ Mới, đã xuất hiện nhiều nhà thơ tình xuất sắc như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu...Trong đó, Xuân Diệu từng được mệnh danh “nhà thơ tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “vị hoàng tử của thi ca Việt Nam trên lĩnh vực thơ tình” (Đoàn Thị Đặng Hương). Với Xuân Diệu, yêu là sự hòa cảm, sự sát kề của hai thể xác:

 

Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực.

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài

Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!

Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!

Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt.

Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng

Trong say sưa anh sẽ bảo em rằng:

Gần thêm nữa! Thế vẫn còn xa lắm!

(Xa cách)

 

Ý thức “Yêu là chết trong lòng một ít” nhưng thi sỹ vẫn lao vào để “yêu”, “được yêu”, “mời yêu”. Ông nồng nàn và quyết liệt khẳng định:

Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ, không thương một kẻ nào

Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa

Cho từng tia mắt đọ tia sao

(Bài thơ tuổi nhỏ)

 

Có thể thấy, cái tôi nồng nàn nhục cảm trong thơ Xuân Diệu thường được bộc lộ qua các hành động thụ hưởng trực tiếp về thân xác (ôm, riết, hôn, say...). Khao khát mãnh liệt nên cái tôi Xuân Diệu luôn giục giã, vội vàng “gấp đi em!”, “gần thêm nữa, thế vẫn còn xa lắm!” (Xa cách), kêu gọi “phải nói yêu trăm bận đến ngàn lần” (Phải nói), năn nỉ, van xin “mở miệng vàng, và hãy nói yêu tôi/ Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi!” (Mời yêu).

 

Cái tôi trong thơ Xuân Diệu thể hiện tình yêu thật mạnh mẽ, nồng nàn. Còn trong thơ Mai Văn Phấn, điều đó được thể hiện như thế nào?

 

Thơ Mai Văn Phấn viết về tình yêu đậm tính dục nhưng không hề tạo ra cảm giác trần trụi, thô tục, ngược lại vẫn giữ được nét kín đáo mà không kém phần mãnh liệt, thông qua các biểu tượng, hình ảnh giàu sức liên tưởng. Bài thơ Gió thổi sau đây là một ví dụ tiêu biểu:

 

Chúng mình hôn nhau trong hành lang hẹp

trên cỏ xanh, trong những góc tối

trên tháp chuông, bên gốc cây cổ thụ...

 

Bốn bề nước tràn ướt chân

lúc ấy gió thổi rất mạnh

 

Con sâu đo em đu lên người anh

thì thầm gặm hết những xanh non

 

Con ong vẫn nhởn nhơ bay

thác đổ đều đều, mưa rơi rất chậm

nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một phía.

(Gió thổi)

 

Cái tôi nhà thơ khát khao giao cảm, khát khao thể hiện xúc cảm tình yêu trong mọi không gian: “hành lang hẹp”,“bên gốc cây cổ thụ”,“những góc tối”,... Tình yêu được thể hiện mạnh mẽ qua những nụ hôn nồng nàn, say đắm. Trong những cảm xúc thăng hoa, Em biến thành “con sâu đo đu lên người anh” để “gặm” tất cả những gì “ xanh non”.  Động từ “gặm” được sử dụng rất tài tình: em cảm nhận cơ thể anh, hòa vào cơ thể anh và muốn tận hưởng cảm giác đó thật lâu, mãi mãi.                          

  

Với con mắt nhân sinh – thẩm mĩ hiện đại, nhà thơ không ngần ngại mô tả tình yêu gắn liền với tính dục, với những khát khao nhục cảm. Tính dục không đơn thuần chỉ tồn tại ở con người mà tồn tại ở mọi sinh vật trong vũ trụ. Mai Văn Phấn thường sử dụng những hình ảnh thiên nhiên, mùa màng, sự kết giao, sinh nở của vạn vật để diễn tả về tình yêu đôi lứa của con người. Đó là một tình cảm mang tính phổ quát, thể hiện sự hợp nhất cao độ giữa các mặt đối lập Âm – Dương, Đất – Trời, Sáng – Tối..., mang đậm tính triết học:

 

Vươn thẳng

Tán cây quang hợp mặt trời

Lá chồng lên nhau hoan hỉ

Bật dậy thở chung dòng nhựa

Máu từ đất đau chảy qua bàn chân

Do đó, cảm xúc ấy có thể hết sức mãnh liệt:

Nhoài lên mỏn đá sắc

Thân thể gió trầy xước

...

Giang tay núi đạp chân vào đất

Vò nát

Xé toang thân gió

Ánh sao rơi

Buổi sớm vỡ òa

 

Mà cũng rất đỗi tinh tế, gợi cảm:

 

Đu cành cao

Chạm ngực em trái chín

Thân bỏng rát

Anh sấm rền gót chân

Trái chín bay chậm buông thõng

hút lên sạch bụi rì rào

Anh nhai lá khô ngấu nghiến

lưng tròn khép lại vòng tay

(Hái từ đất)

 

Hình tượng Em trong con mắt thi sỹ là biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở và cho những gì tinh túy nhất của con người. Thông qua Em, Anh có thể nhận ra được chính mình, và hơn thế, bản chất sâu xa của thế giới. Em là nơi Anh luôn khao khát hướng tới và chờ đợi không chỉ trong hiện thực mà còn trong cả dòng suy nghĩ, trong giấc mơ:

 

Anh mơ được em gieo trồng trên ngực

Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt

Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào

Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp

 

Gió sẽ đến vỗ về từng chiếc lá

Lật phía bên kia che cơn bão đang về

Mùa đông em phủ lá vàng lên mặt

Nỗi ưu phiền mục ra trong lấm chấm mưa xuân.

 

Từng giọt mát lành thấm nhuần trong đất

Tươi từ môi anh đến gót chân em

Anh ngỡ mình được phép lành thánh thể

Đêm vừa qua hay đã mấy nghìn năm.

(Bài ca buổi sớm)

 

Em - một nửa cuộc đời Anh, em người luôn mang đến cho anh cảm giác được yêu thương, chăm sóc. Ở bên em mọi nỗi ưu phiền của cuộc sống thường nhật đều mục ra tan dần và mất đi, em đưa đến một luồng khí tinh nguyên để anh như được hồi sinh và ngỡ mình được phép làm thánh thể. Một cử chỉ nhỏ của em cũng làm Anh phải chìm đắm trong yêu thương Cầm bàn tay/ Mình đã nuốt em/ Không còn lọn tóc, và mỗi nụ hôn nồng nàn cũng được Anh cảm nhận, níu giữ rất chặt: Hôn nhau/ Hồi tù và song đôi/ Bay đi rất chậm.

 

Tình yêu lứa đôi trong thơ Mai Văn Phấn được tác giả thể hiện qua hệ thống từ ngữ, hình ảnh giàu tính biểu tượng. Vì thế, tình yêu ấy tuy hết sức mãnh liệt, nồng nàn, mang đậm hơi thở dục tính song vẫn hết sức thiêng liêng, thuần khiết. Đây là những ví dụ tiêu biểu:

        

- Rơi vào giấc mơ dâng hiến đắm say. Tắm gôi bằng bóng tối của đất. Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ thể, nước quả óng vàng lan chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát thơm. Tưởng tượng em nhặt anh lên, hít hà, cắn ngập vào lớp vỏ mịn. Nâng niu không vỡ hạt. Bao bọc. Chở mưa phùn gieo anh nơi đất ẩm.

 

- Đôi môi anh làm mỏ chim ong hút nhụy/ Đập cánh liên hồi bay tại chỗ.

 

- Cùng em nhìn muôn mặt cắt khuất lấp/ Biết mình đã đổi thay và mãi ngây thơ/ Ngày  mai đang yêu/ Trái tim rộn rã thủa ban đầu/ Trong hơi thở gấp anh biết/ Tay mang hạt giống/ Gieo...Gieo.../ Ta gieo ...

 

Đặc biệt, điều này được thể hiện rõ qua Tỉnh dậy trong mưa. Ở đó, khát vọng dục cảm Ta gần nhau thêm/ Trước khi ban mai trong suốt kéo lên được thể hiện như một lời kêu gọi hãy tận hưởng, kẻo thời gian, sức trẻ trôi đi. Và, rồi Nước chảy/ Cứ chảy/ Giữ đôi ta lại. Có thể nói, tính dục trong thơ Mai Văn Phấn không đơn thuần là sự thỏa mãn bản năng tự nhiên, mà đó là sự gắn kết tâm hồn, trái tim cùng nhịp đập.

          

Tóm lại, cái tôi yêu đương trong thơ Mai Văn Phấn vừa nồng nàn, rạo rực vừa thuần khiết, thiêng liêng. Cái tôi khao khát được bộc lộ và đón nhận tình yêu, tình dục nhưng không đưa đến cho ta cảm giác thô tục, trần trụi. Cái tôi mang trong mình hai tính chất nhục cảm và thuần khiết và chúng  luôn song hành và bổ sung cho nhau. Có thể  khẳng định thơ Mai Văn Phấn không hiếm những hình ảnh nhục cảm đắm đuối nồng nàn, song chúng thường được bao bọc bởi “vòng vòng hào quang” tượng trưng, do vậy, luôn có khả năng hướng độc giả đến điều gì đó mang tính phổ quát hơn và sâu xa hơn những hình ảnh biểu hiện cụ thể.

 

2.1.2. Cái tôi thống nhất giữa lí tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén

 

Không dừng lại với cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu, trong thơ Mai Văn Phấn còn hiện diện cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén. Vậy thế nào là lý trí tỉnh táo? Thế nào là trực giác nhạy bén?

 

Nói tới lý tính, ta thường nghĩ tới khả năng nhận thức thế giới  của con người, một sự nhận thức khách quan, nhạy bén, chính xác qua sự chỉ dẫn của đầu óc. Nhận thức lý trí được hình thành dựa trên ngũ quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác). Còn trực giác hay còn gọi là “giác quan thứ sáu” cho phép ta thấy được những gì mà năm giác quan kể trên không thể thấy, cụ thể như linh cảm, cảm nhận, tưởng tượng… hay tất cả những gì thuộc về thế giới vô hình. Trực giác nhạy cảm là một phẩm chất  “trời phú”, không phải ai cũng có thể đạt đến và nắm bắt được.

           

Sự thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong hình tượng cái tôi trữ tình là một lý do giải thích cho sự thành công trong thơ Mai Văn Phấn. Nếu trong thơ chỉ có lý trí tỉnh táo thì sẽ đánh mất bản chất của thơ ca - lãng mạn, thi vị, thiếu đi những “lóe sáng” thiên khải tạo nên yếu tính của thi ca. Ngược lại, nếu có trực giác nhạy bén nhưng thiếu đi tri thức về thơ ca, óc mẫn cảm ngôn từ, khả năng tổ chức sắp xếp văn bản một cách kỹ thuật nhằm tạo nên tính thơ, tính thẩm mĩ thì cũng khó lòng tạo nên bài thơ toàn thiện.

 

Trước đây, Xuân Diệu “sống toàn thân và thức nhọn giác quan” để cảm nhận sự thay đổi của thế giới vạn vật:

 

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn nghê như nước, lạnh, trời ơi!

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người!

 

Còn bây giờ, Mai Văn Phấn không chỉ vận dụng các giác quan để cảm nhận về vạn vật, về thế giới mà còn sử dụng tiếng nói vô thức để thể hiện những góc khuất trong tâm hồn con người. Cái tôi trong thơ ông vừa biết phát hiện, cảm nhận những biến chuyển đời sống, vừa biết tận hưởng mọi vẻ đẹp trong đời sống thế tục. Ở đó, cái tôi khẳng định mạnh mẽ qua những động thái: Tôi nhìn, Tôi thấy, Tôi cảm, Tôi biết, Tôi tưởng tượng, Tôi nghĩ…. Bài thơ Tĩnh lặng với 45 phần đã thể hiện rõ điều đó, chẳng hạn:

 

Hai đồ vật trên bàn

Đồng hồ

Viên sỏi chặn giấy

 

Tôi không thể đọc sách

Không nghĩ trọn một việc

 

Đầu óc mông lung

Nhìn rất lâu từng đồ vật

 

Tôi xoay một trong hai

Đặt lại khoảng cách

 

Thấy vệt sáng duy nhất

Giữa đồng hồ và viên sỏi.

 

Hay:

 

Gió ra đi

Giam tôi ở đây

Bằng chiếc lá

 

Nhìn khung cửa và chắn song

Tôi biết không thể bẻ gãy

Những đường gân lá

 

Chỉ mong những đốm vàng

Trên đó lan nhanh

Nhưng hơi ẩm đang phà hơi

Vào khoảng xanh diệp lục

 

Mình không manh động

Vào mùa xuân.

 

Cái tôi với tâm hồn tĩnh lặng gần như tuyệt đối để cảm nhận, tái hiện những sự vật đang thay đổi, đang chuyển động: vệt sáng yếu ớt đang tồn tại trong thế giới đầy những bất trắc của xã hội công nghiệp hiện đại hay sự ra đi  của gió... Nơi đó, con người đã ra sức thay đổi góc nhìn nhằm tìm thấy bản chất của sự vật, hiện tượng.

 

Cái tôi thống nhất giữa lý trí tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện rõ qua các tập thơ sáng tác vào giai đoạn sau, tiêu biểu là hai tập thơ Hoa giấu mặt, Vừa sinh ra ở đó. Trong Hoa giấu mặt, vẻ đẹp của đời sống tâm linh được thể hiện rất rõ:

 

Giọt sương nín thở

Treo

Trên vũng nước bẩn

(Mong manh)

 

Hình ảnh giọt sương treo trên vũng nước bẩn đưa đến sự liên tưởng độc đáo. Khoảng cách giữa cái đẹp, tinh nguyên nhất của con người với cái dơ bẩn của xã hội quả là quá mong manh. Kết thúc bài thơ không một dấu chấm hỏi nhưng đang đặt ra vô vàn câu hỏi trong lòng người tiếp nhận. Bài thơ có kết cấu mở, ở đó, diễn ra cuộc đối thoại vô ngôn, mời gọi sự diễn dịch của độc giả.

 

Cái tôi trong Hoa giấu mặt không chỉ phản ánh hiện thực bằng lý trí tỉnh táo mà còn đi sâu vào thế giới hư ảo, linh thiêng của tâm linh con người với câu tụng niệm, với tiếng chiêng, với nhang khói tỏa hương, với cuộc hóa vàng, với những linh hồn và với cả những mảnh vỡ của ánh trăng trên cây Tất cả tưởng như là phi lý nhưng rất có lý – cái lý ở bề sâu cảm giác tâm linh. Chỉ bằng những nhận thức sâu sắc của lý trí cộng với một trực giác trời phú, cái tôi đã thể hiện được những hình ảnh “vụt hiện” và đó là những hình ảnh diễn đạt không thể đúng hơn:

- Con bướm đậu

Hạt mưa

Tập vỗ cánh

(Con mắt nghiêng)

 

- Chuông đổ thêm lần nữa

Tôi nhận ra

Con giun bò trên đất

(Tìm đường)

 

- Bà nội rất muốn gặp tôi

Nhưng những người chết

Ngăn lại

(Thanh minh)

 

- Chưa kịp cất lời Kinh

Con chim sâu

Vội chuyền sang cành khác

(Sát na)

          

Cái tôi như đang sống trong khoảng khắc sâu kín nhất của tâm hồn. Đó là những phút “bừng ngộ” trước vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên đất trời. Vạn vật được sinh ra, lớn lên rồi cũng quay về với cát bụi, ranh giới sự sống và cái chết quả là mong manh.

 

Mai Văn Phấn đưa đến cho thơ ca một thế giới xa lạ, tiềm ẩn đằng sau những giấc mơ, giấc mộng - đến bất chợt trong ý nghĩ của con người.  Giấc mơ đến với tất cả mỗi con người nhưng tất cả sẽ không còn dấu ấn nếu ta tỉnh giấc. Song với thi sỹ Mai Văn Phấn, mọi giấc mơ đến đều được nhà thơ “kịp thời” nắm bắt để rồi tái hiện lại một cách sinh động, đưa lại cảm nhận mới cho người tiếp nhận thi ca. Sự vụt hiện của giấc mơ đã được tích lũy bằng sự chiêm nghiệm cuộc sống, hiện thực của nhà thơ. Bước vào thế giới thơ Mai Văn Phấn ta thường bắt gặp Chỉ là giấc mơ, Giấc mơ vô tận, Kể lại giấc mơ, thậm chí là Giấc mơ cây. Giấc mơ thực sự là một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông.

 

Cái tôi thống nhất giữa lý trí tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong thơ Mai Văn Phấn thường ẩn nấp sau nhân vật kể chuyện để bắt đầu cuộc đối thoại. Cuộc đối thoại diễn ra trong không gian tĩnh lặng, để cái tôi cảm nhận được những điều bí ẩn, kể cả những tiếng kêu của linh hồn đã mất:

 

Lưỡi dao sắc lia ngang

Sát gốc cỏ

 

Những vong hồn còn mắc kẹt

Cùng ngọn cỏ

Vươn tay

 

Lá cỏ vun thành đống

Làm thức ăn gia súc

Hoặc phơi khô

 

Vong hồn nào chưa được bay lên

Còn trong vòng nghiệt ngã

Cơn đau đớn sát sinh

Hoang hoải mùi hăng sữa cỏ.

(Ra vườn xem cắt cỏ)

 

Có thể thấy, sự thống nhất lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén là một đặc điểm nổi bật của cái tôi trữ tình Mai Văn Phấn. Đúng như nhà thơ đã khẳng định: “Thơ hay có thể đến tình cờ với một số thi sỹ trong khoảng khắc đốn ngộ, xuất thần… Nhưng đa số các nhà thơ có được thơ hay qua quá trình tu luyện, tích lũy kiến thức phong phú, một hành trình bới tìm “vỉa quặng” của tâm hồn, đợi đến khi chín muồi, cảm xúc sẽ chợt nhòe chợt hiện và nhà thơ, viết với tất cả choáng ngợp của mình. Sự choáng ngợp của tác giả rồi sẽ lan truyền tới người đọc” [55; 391].

 

2.1.3. Cái tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần lý tưởng“thuần Việt”

 

Thơ Mai Văn Phấn là một hành trình liên tục cách tân, tìm tòi. Mai Văn Phấn vừa chú trọng tiếp thu tinh hoa truyền thống dân tộc vừa có ý thức học hỏi nghiêm túc những khuynh hướng sáng tạo mới của thơ ca thế giới. Song, sau tất cả những học hỏi, tìm tòi về mặt kĩ thuật, cái đích cao nhất mà ông khao khát  hướng  đến là một lối viết “tự nhiên/ như đi trên đất” giản dị, nhằm diễn tả một cách sát đúng và đích đáng nhất tiếng nói thi ca “thuần Việt” – một thuật ngữ được ông thường nhắc đến trong nhiều tiểu luận và những cuộc chuyện trò, tao đổi về thi ca. Tất nhiên, “thuần Việt” ở đây là một thuật ngữ mang tính quy ước hơn là một khái niệm lý thuyết chặt chẽ. Thế giới tinh thần “thuần Việt” ở đây cần được hiểu theo nghĩa là thế giới đời sống tư tưởng, tình cảm… của con người mang hồn cốt, tinh hoa của dân tộc, kết hợp chặt chẽ giữa tình truyền thống và hiện đại. Trong Tiểu luận Thơ, giá trị cần đến, nhà thơ khẳng định: Hơi thở Việt được hiểu như một hệ thống sinh thái, tập hợp nhiều thực thể độc lập nhưng liên quan với nhau, bắt nguồn từ cội rễ văn hóa và bản sắc dân tộc. Tạo một nền thơ hiện đại, làm phong phú tính truyền thống là nhiệm vụ cốt tử của mỗi nhà thơ” [55; 375]. Còn trong tiểu luận Thơ Việt Nam đương đại buổi ra đi và trở về, Mai Văn Phấn bộc bạch: “Tôi hâm mộ ai đó dám bước đi và biết quay về trên cội nguồn thơ Việt, với tâm thức của thời đại, biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà không đánh mất bản chất tâm hồn Việt, vốn sáng trong, chân thành, bao dung mà rất hiện sinh, tinh tế trong cảm nhận, nhân bản hồn hậu trong nghĩ suy về phận người”[55; 385].

 

Từ đây, xuyên xuốt hành trình sáng tạo của Mai Văn Phấn là hình tượng cái tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần “thuần Việt”. Thế giới tinh thần “thuần Việt” mà Mai Văn Phấn hướng đến không phải là một thế giới cũ kĩ, lạc hậu, hẹp hòi. Đó là một thế giới vừa mang vẻ giản dị, gần gũi truyền thống vừa mang nét hiện đại, mới mẻ. Chân dung cái tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần “thuần Việt”  trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện ở nhiều khía cạnh.

 

Trước hết, cái tôi ấy khao khát tìm kiếm những điều giản dị, thân quen trong cuộc sống văn hóa và sinh hoạt hàng ngày của người Việt. Điều này thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm, chẳng hạn Cửa mẫu, Giai điệu xuân, Cốm hương, Thu đến, Nghé ơi, Đá trong lòng suối, Hình đám cỏ...

 

Cốm hương  là một ví dụ tiêu biểu:

 

Thu về e ấp/ Cốm non lãng đãng sương giăng/ Khăn áo ấy mịn màng da thịt/ Dâng heo may lên trời/ Nhịp cốm giã rộn mùa thóc nếp/ Thúng mủng dần sàng vỏ trấu hây hây/  Trái bưởi thơm dịu ngọt nắng hanh/ Thanh khiết chùm hoa mộc/ Giữa đất trời ngó sen sau mưa/ Da diết nhớ từng vòng cuộn xiết/ Lá sen xanh ủ cốm em anh/ Chín nẫu chân mây mùa hạ/ Đêm ái ân lặng phắc ngọn đèn/ Trái hồng đượm trong hương cốm nõn (Cốm hương).

 

Những hình ảnh: mùa thu, cốm non, thúng mủng, dần sàng, vỏ trấu, trái bưởi, ngó sen, trái hồng... được nhà thơ khắc họa sinh động, gợi nên hình ảnh thiên nhiên, mùa màng, sản vật cây trái… xiết bao gần gũi và quen thuộc của những miền quê đất Việt. Mùa xuân trong thơ thi sỹ được nhận biết với những dấu hiệu xiết bao quen thuộc: Mây nặng. Hoa đào. Củi mục. Đường trơn…

 

Vốn là nước xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, hình ảnh “Làng” với bến nước, mái đình, cây đa… là những điều không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Cuộc sống xô bồ công nghiệp ập đến, liệu những nét đẹp đó có còn giữ được không? Mai Văn Phấn đã khẳng định những giá trị truyền thống  đó qua những hình ảnh thơ giàu sức liên tưởng: “Nước lùa bóng ao lên chót vót/ ngập cuống nhau rã phận hoa bìm/ lối về thấp thỏm/ Cội rễ giữ đất/ Con đường bầu vú vương thơm/ nối khuôn mặt với bao nhiêu họp sọ/ trên tay chuyền một chuyền hai” (Làng).

 

Cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn còn thiết tha hướng về những giá trị văn hóa nguồn cội với những dấu ấn hiển hách mà bi thương của lịch sử dân tộc. Việt Nam – dân tộc anh hùng. Bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc là một minh chứng. Lịch sử dân tộc được tái hiện qua hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong, sự hy sinh của họ đưa lại nền tự do, hòa bình cho chúng ta hôm nay. Thay mặt mọi người, thi sỹ thắp nén nhang để tưởng nhớ về họ:

 

Nhang này quặn nỗi đau xưa

Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn  
(Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc)

 

Nén nhang “quặn” đau hay đó chính là nỗi lòng của thi sỹ : hướng về quá khứ, về nguồn cội, để rồi khẳng định: Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.

 

Và xa hơn, khi đọc thơ Mai Văn Phấn một phần lịch sử được tái hiện. Bài thơ tiêu biểu như: Nhớ Hà Nội, Khúc cảm mùa thu, Mưa cuối hạ, Qua hoàng hôn, Những con sẻ chùa Vĩnh Nghiêm, Đêm ở Thụy Khuê,… với những câu thơ:

Hồ Gươm tựa ngày biển lặng

Tháp Rùa đứng đó buông neo

Mặt người thành mây soi bóng

Nỗi buồn biêng biếc rong rêu

(Nhớ Hà Nội)

 

Bằng thơ, tác giả  tái hiện gương mặt lịch sử  đau thương của một đất nước đầy giặc giã và những cuộc chiến tranh liên miên – “gương mặt” của những quả phụ và những em bé “chết vì đạn bom chưa một lần được sinh ra”: :

 

Vết sẹo tựa bản đồ một cuộc chiến tranh

Những cuộc đời quả phụ

Những em bé chết vì đạn bom chưa một lần được ra

Thành phố

Nỗi đau một thời lau bằng rạ rơm

(Tiếng gọi từ những cánh đồng)

 

Cái tôi khao khát hướng tới một tinh thần “thuần Việt” trong thơ Mai Văn Phấn còn được thể hiện ở một khía cạnh khác, đó là cái tôi nặng lòng với những giá trị văn hóa, đạo lý truyền thống dân tộc. Ngày giỗ; Tạ ơn; Trồng cây nêu trước nhà; Hóa vàng; Hoa cửa đền…như những lời nhắn gửi nhẹ nhàng, đầy ân nghĩa của tác giả với chính mình và với cuộc đời.

 

Đặc biệt, cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn luôn thiết tha hướng về hướng về đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt. Ở đó, dấu ấn văn hóa tâm linh của người Việt hiện lên rất rõ. Tiêu biểu là tục thờ “Mẫu”. Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, trở nên có hệ thống và phát triển mạnh vào thời Hậu Lê. Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở đất nước nông nghiệp, ở đó, chế độ mẫu hệ tồn tại, phát triển nhằm đề cao vai trò của người phụ nữ, đề cao tính nữ. Mẫu – mẹ là đại diện cho sự che chở, bao bọc, đồng thời Mẫu là đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở.

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ phát triển trong xã hội phong kiến mà còn phát triển mạnh mẽ trong xã hội công nghiệp hóa hiện nay. Thờ Mẫu là tín ngưỡng hướng về đời sống trần thế hiện tại, chứ không phải hướng về thế giới ảo, không có thực ở thế giới bên kia. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện ước vọng về sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ niềm tin và sức mạnh trong cuộc sống. Thờ Mẫu vừa là một tín ngưỡng tôn giáo, vừa là một nét đẹp trong văn hóa người Việt.

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị nữ thần gắn với các hiện tượng tượng tự nhiên, được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo, che chở, bao bọc cho sự sống của con người (như đất, sông, nước…); thờ những bậc anh hùng dân tộc, khi sống họ đem tài năng giúp dân, giúp nước; khi mất họ hiển linh phù trợ cho con người, vạn vật được bình an (như: những thái hậu, hoàng hậu, công chúa…).

 

“Mẫu” khởi nguồn của mọi sự sống trên thế gian, là biểu tượng của cảnh khai thiên lập địa.  Mẫu là đại diện của sự che chở, bao bọc, đồng thời cũng là đại diện của sự sinh sôi, nảy nở, trù phú. Trong bất cứ mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh của cuộc sống, mẫu luôn theo sát, nâng niu, bảo vệ và  dẫn đường cho con vượt qua bao khó khăn, thử thách, bao sóng to gió lớn của cuộc đời. Mẫu chính là chỗ dựa vững chắc trên con đường con lựa chọn. Mẫu là cội nguồn sự sống cho nên mỗi chúng ta dù đi đâu, làm gì cũng không thể quên Mẫu. Điển hình cho quan niệm này là bài thơ Cửa Mẫu, với cảm hứng linh thiêng về Thánh Mẹ.

 

Bài thơ mở đầu với liên khúc I, khẳng định vai trò của Mẹ đối với người con của mình.


Mẫu nâng niu con ánh trăng

Tiếng chuyền cành, tiếng hú

Da thịt con yêu trải sâu đêm tối

Dựng tầng mây mưa nguồn

 

Không chỉ nâng niu, yêu thương Mẹ còn là người chỉ bảo, dẫn đường cho con bước những bước chân đầu tiên trong cuộc đời:

Chợt nhớ mùa nước lớn ngập tràn hang dế

Lóc bóc tiếng bong bóng phun lên từng đợt

Cho con biết được đâu là cửa hang…

 

Và đến một ngày, con phải tự mình nếm trải sóng gió cuộc đời (Khúc II, III, IV, V) với bao khó khăn chông gai nhưng chính trong biển lớn khó khăn cuộc đời, con mới trưởng thành và khi đó: Con biết ơn trận mưa/ Sấm to và gió mát.

 

Mẫu ở đây không đơn thuần là người mẹ sinh thành ra con, mà đó là người Mẹ Cả của vũ trụ, của thiên nhiên. Mẫu - trung tâm của con, của cha và của tất cả mọi người. Chính vì thế, hướng về Mẫu là nhu cầu tự thân của mỗi người thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu.

 

Sự tôn vinh cái đẹp trong tín ngưỡng thờ Mẫu được thể hiện qua lễ hầu đồng. Không gian buổi lễ với những nghi thức, khiến con người được thăng hoa, quên đi những âu lo trong cuộc sống thường nhật. Tín ngưỡng thờ Mẫu được tác giả khắc họa rất rõ nét qua nhịp IX của bài thơ: trống chiêng bát bửu/ mở hội long đình/ múa hát cao xanh/ công đồng tứ phủ/ mở lòng đệ tứ/ bao dung mắt nhìn/ mưa thuận gió êm/ khâm sai ân huệ/ tâm thành kính lễ…cầu mong: đi tươi về tốt/ thuận buồn xuôi ngược/ má phấn môi son/ lá phách sênh tiền/ rồng thiêng bay lượn/ năm tòa quan lớn/ phơ phất bàn tay/ tài cao đức dày…Thơ Mai Văn Phấn cho ta  hình dung được nét đẹp, sự linh thiêng mà tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại. Đó cũng  chính là nét đẹp của con người Việt – luôn hướng về nguồn cội, hướng về sự sống, với cái tâm thành kính.

 

Ngoài ra, ta còn bắt gặp trong thơ Mai Văn Phấn một  cái tôi luôn khao khát hướng đến cái “Tâm” thanh tịnh in đậm màu sắc tâm linh truyền thống người Việt. Khi con người hướng về và ý thức được mọi việc nhờ tu tâm thì “cốt cách” sẽ được khẳng định dù ở bất cứ hoàn cảnh nào:

 

Cánh hoa sen

Ngay ngắn rơi xuống

Vũng bùn

(Cốt cách)

 

Có thể thấy, cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn luôn vận động với những cách tân và tìm tòi đa dạng, song càng ngày ý thức hướng đến tìm kiếm một vẻ đẹp tinh thần thuần Việt ngày càng đậm đà, rõ nét. Cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn mang những nét đẹp truyền thống trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại – một vẻ đẹp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.

 

2.2. Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn

 

Tìm hiểu hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn có nghĩa là thừa nhận tính khách thể của hình tượng trữ tình này. Qua ngôn từ gợi tả của lời thơ và bằng trí tưởng tượng, người đọc có thể hình dung bức tranh về thế giới với những đường nét, màu sắc, hình khối và âm thanh sinh động. Hình tượng thế giới thơ Mai Văn Phấn được thể hiện qua các phương diện cơ bản sau:

 

2.2.1. Một thế giới của sự viên mãn và thuần khiết

 

Như một số nhà phê bình đã nhận xét, thế giới trong thơ Mai Văn Phấn được tái hiện tất độc đáo qua “nhãn quan phồn sinh”. Ở đó, vạn vật đều được nhìn ngắm trong sự sinh sôi, nẩy nở và tràn đầy năng lượng. Nhà phê bình Văn Giá nhận định: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất tận” [46; 529 ].

 

Thế giới qua lăng kính phồn sinh là “thế giới phì nhiêu, nhiều tầng, nhiều cá thể cộng sinh chen chúc đầy hoan lạc, tựa như cánh rừng nhiệt đới vậy” [46; 529]. Xuyên suốt sáng tác thơ Mai Văn Phấn là sự xuất hiện dày đặc các hình tượng: mùa màng, cây cỏ; đất đai, cánh đồng,…tượng trưng cho cho sự sinh sôi, vĩnh hằng của thế giới. Ở đó, những câu thơ tôn vinh thế giới phì nhiêu thật ấn tượng: Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non (Tản mạn về cỏ); Chỉ còn ta lại với ta/ Cỏ run đầu ngõ như đà cắn câu (Lơ lửng); Mắt vừa mở với rạng đông/ Chân trời hổn hẻn phập phồng ngón chân (Kinh cầu ban mai); đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời/ Những mùa tái sinh trổ đòng chín rục/ Sấm nổ vang trong lòng tay mầm hạt/ Vòng phù sa tươi ròng ấp ôm thớ đất (Bài hát mùa màng); Thiên nhiên động tiếng mùa sang/ Dấu chân trong cỏ mỡ màng trổ hoa/ Quả thơm trĩu ngọt la đà/ Tạ ơn sương đọng vái xa chân trời (Chương VIII: Trái tim giải thoát)…Thiên nhiên tràn đầy sức sống trong con mắt  tác giả.

 

Nhãn quan phồn sinh  hướng về thiên nhiên thực chất là  hướng về con người, hướng về đời sống nhân thế. Hình ảnh “Em” trong thơ Mai Văn Phấn là hiện thân của đất đai, mùa màng, tươi tốt và sự gieo trồng: Em chợt hiện/ Từ hương thơm trái chín/ Trong dập dờn bãi ngô mùa thụ phấn/ Lá giật mình/ Cá lặn xuống chân/ Hút mãi về em/ Từng hơi thở đất/ Anh hạn hán/ Cơn mưa chiều tất bật (Nỗi nhớ mùa thu)…Và “Anh” khao khát đón nhận sự gieo trồng của “Em”: Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/ bàn tay dịu dàng vun vào da thịt/ Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào/ Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp (Bài ca buổi sớm)…

 

Thế giới phồn sinh viên mãn còn được thể hiện qua khát vọng nhục cảm trong tình yêu nam nữ, trong cái khát khao gieo trồng và sinh nở: “Tìm miệng anh gieo hạt/ Gió níu chân tay đất dịu dàng”, để rồi “Anh dìu em lộng lẫy váy hoa/ Hôn em, ngón tay út/ Nâng em lên trăng”; “Mỗi nụ hôn mở thêm cánh cửa/ Níu chặt tay nhau/ Bám chặt tay nhau/ Không thất lạc”… Trong một cái nhìn mang tính lý tưởng hóa, hành động tính giao trong tình yêu được nhà thơ ví như một nghi lễ xiết bao kì vĩ và thiêng liêng: Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em)…  Nơi đó, con người sẽ luôn cảm nhận được sự nồng nàn mà tình yêu mang lại: “Chạm vào anh biết viên sỏi rất mềm, cọng  rơm khô trĩu nặng, sợi tóc thở nhẹ (Tỉnh dậy trong mưa).

 

Thơ Mai Văn Phấn đưa ta đến thế giới của sự sống, sự sinh sôi, nảy nở. Đó là sự sinh sôi nảy nở của vạn vật và con người: Dòng sông vừa chảy/ vừa sinh nở (Đất mở); Ngựa thở dốc/ bời ngợp cảm giác cỏ/ chùm lưỡi dìu nhau đứt cuống/ xuyên qua tim lăn vào đât tơi/ nở những bàn tay sau lưng tươi tốt (Được quyền nghĩ những điều đã ước)…Người đọc  dễ dàng bắt gặp trong thơ Mai Văn Phấn những tính từ chỉ trạng thái, cảm giác về sự sung mãn, tràn trề năng lượng: căng tràn nhựa mật, ứ căng dòng nhựa, chật căng mầm hạt, bạt ngàn cây lá, lá mầm che mặt đất sum suê, lá lên xanh thắm…; các động từ chỉ hoạt động sinh nở, phát triển:  nứt vỡ vỏ cây, chồi lên thành lộc biếc, rộ lên từng đợt lá non; vùi vào nhau hạt mầm bé nhỏ; đọt mầm bật dậy

 

Tuy nhiên, bên cạnh tính chất  phồn sinh viên mãn, thơ Mai Văn Phấn còn đưa người đọc vào một thế giới của sự thuần khiết, trong trẻo. Ta có thể thấy điều này rất rõ qua nhiều tác phẩm của ông, tiêu biểu là tập  Vừa sinh ra ở đó.

 

Vừa sinh ra ở đó tái hiện không gian thiên nhiên thật đẹp đẹp và thuần khiết.

 

Đó là không gian  làng quê Việt Nam với những Màu xanh lá mạ/ Đọt mầm/ Nõn chuối/ Bãi dâu non; Vườn cây/ Dòng mương/ Khoảng không lặng im/ Trong suốt…gợi lên sự gần gũi, thân quen và bình yên. Nơi đó, con người tìm về tâm hồn  thiên nhiên để gạt bỏ bao phiền muộn, u sầu trong công việc, trong cuộc sống: Dang tay vươn thở/ Sải mình/ Mở cùng nước/ Cơ thể anh/ Cánh cửa nhỏ bé/ Gập mình dịu mát/ Thả lỏng/ Sắp đặt lại xương cốt/ Dòng nước cuốn từng tế bào chết (Tỉnh dậy trong mưa).

 

Đó cũng là không gian của gió, của nắng, của ban mai, của bình minh mà thiên nhiên mang đến cho con người:

 

- Nắng hây hây, nắng xế/ Làm cánh đồng lúa chín rộ lên

- Kéo mặt đất lên cho hơi mát, tiếng chim/ Dồn vào nơi thanh vắng/ Ánh ngày reo trong đất sâu

- Nắng sớm đang phủ lên đỉnh núi/ Làm trong suốt lòng đất, lòng cây

- Tiếng chim thổi bung gió lộng

- Ánh sáng phát ra từ đó/ Bình minh phát ra từ đó/ soi rõ chân đồi, lối ra bìa rừng…

 

Ánh sáng tràn ngập trong các bài thơ. Chẳng hạn, trong bài Tĩnh lặng “ánh sáng”, “quầng sáng”, xuất hiện 13 lần, trong bài Quang phổ, “ánh sáng” xuất hiện 12 lần. Ánh sáng mang nguồn năng lượng sống, xua tan sự hắc ám,  thanh lọc tâm hồn con người.

 

Đó cũng là không gian của hương hoa, sắc hoa ngọt ngào và tinh khôi:

- Hương thơm/ Nhẹ tinh khôi

- Hương hoa thanh khiết phủ đá núi

- Rừng nụ chờ em bước đến mới nở, điệp trùng hoa trắng lan nhanh

- Nhụy hồng tươi/ Cánh trắng tinh khôi/ Mở bầu trời hơi thở

- Xương cốt mùa đông/ da thịt mùa xuân/ Hoa loa kèn mở cánh trắng muốt…/ Cuống hoa tựa vào anh biếc xanh

 

-Từng cánh hoa trắng muốt/ Giăng kín khoảng không

- Từng chùm hoa rạng rỡ trong mưa….

Trong không gian này, con người hướng về thiên nhiên - hướng về những gì thuần khiết nhất:

- Anh là cây mận trắng trong mưa xuân se lạnh, càng quay quắt nhớ hoa càng trắng muốt. Mắt nhìn, hơi thở rung rinh. Vầng hoa đang rụng bớt những cánh mỏng. (Mùa hoa mận).

 

- Mỗi ngày anh được hồi sinh từ vòm lá, chập chững, biết lo toan, để sớm mai bắt đầu một đời sống khác. Biết bao lần anh hạc gày khắc khổ, rồi sum suê bên cây. Là đứa trẻ mải chơi bóng mát, mỗi vui buồn anh lại ngước lên. (Giấc mơ cây).

 

- Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ thể, nước quả óng vàng loang chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát thơm.Tưởng tượng em nhặt anh lên, hít hà, cắn ngập vào lớp vỏ mịn. Nâng niu không vỡ hạt. Bao bọc. Chờ mưa phùn gieo anh nơi đất ẩm. (Giấc mơ cây).

Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới vừa viên mãn, sinh sôi, nảy nở vừa hết sức trong trẻo, tĩnh lặng, thuần khiết. Sự viên mãn, nảy nở và sự thuần khiết là hai đặc tính thẩm mĩ  gắn liền nhau, tạo nên nét đặc thù của  thi giới thơ Mai Văn Phấn.

 

2.2.2. Một thế giới của sự tương giao, hài hòa

 

Thế giới của Mai Văn Phấn còn là thế giới của sự tương giao, hài hòa. Ở đó, con người và thiên nhiên luôn tồn tại trong một mối quan hệ thống nhất, hài cao độ. Cấu trúc thế giới ấy cho thấy một quan niệm thẩm mĩ mang đậm dấu ấn triết lý phương Đông truyền thống song đồng thời đã mang những dáng mẻ hiện đại, khác biệt.

 

Không còn là bức tranh mênh mông, rợn ngợp trước vũ trụ mà Thơ Mới thường gợi tả:

 

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

(Tràng giang – Huy Cận)

         

Giờ đây, bức tranh thế giới trong thơ Mai Văn Phấn hoàn toàn được thay đổi. Ở đây, con người và vũ trụ luôn có sự hài hòa, tương giao. Nhà thơ Đỗ Quyên đã khẳng định: “Cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn, không còn là cái tôi công dân, cái tôi sử thi hay cái tôi riêng tư. Mà là cái tôi nhân sinh. Nhà thơ chuyển từ quan niệm thơ là nỗi lòng mình, mục đích khiến cảm động lòng người đến thái độ coi thơ là lập ngôn, làm thơ là thực hiện đạo sống. Hai đối tượng chính đã lập trình dòng thơ này là con người và thiên nhiên..”[ 54; 172].

 

Nếu thơ Nguyễn Quang Thiều chìm đắm trong hoài niệm và huyền thoại thì đến với thơ Mai Văn Phấn, ông thấu nhập cái tôi vào vũ trụ, vào thiên nhiên, vào những “yếu tố bản nguyên”,  hòa nhập vào "thế giới", nhìn xuyên thấu vũ trụ để nhận ra cái tinh thần, thần thái của muôn vật:

 

Bất chợt vệt cánh chim bay qua

Hay quanh quất bóng mình còn sót lại

Cánh chim tựa que diêm quẹt vào ngây dại

Ngọn lửa thiên thần nào có thể bén vào tôi.

(Cánh chim bay qua)

 

Cánh chim trên bầu trời bay qua để lại một vết sáng và "bóng mình" hiện lên trong sự hư vô của tiềm thức. Ở đó, cánh chim, ngọn lửa và "tôi" như hòa nhập vào nhau.

 

Con người và thiên nhiên hòa chung vào nhau để sinh tồn. Ở đó, con người mang trong mình một khát khao của "hoa thơm cỏ dại" để thanh lọc tâm hồn: Từng cá thể e dè tự xưng danh, mang nỗi khát khao tự nhiên của hoa thơm cỏ dại. Những cánh hoa nhỏ nhoi tự tin đứng trên đài hoa. Không gian giãn ra cho chúng thổi lên trời cao bao giọng điệu bất tận, làm hơi thở con người ngân lên tiếng chuyển mùa cùng thời tiết, đất đai”.

 

Và mỗi cá nhân như mang trong mình nhịp đập của thiên nhiên vạn vật:

 

Cá tính hòa đồng với quy luật thiên nhiên, cho ta nhịp nhàng, cho ta nguôi ngoai, cho ta thổn thức.

Tuân theo luật mà dồi dào cá tính. Cái Tôi tận cùng dẫn tới cái Ta.

Khi làn hương thanh cao bí ẩn ra đi, nặng trĩu đài sen cõng trên lưng mùa hạ. Những chiếc lá nằm mơ được hái gói cốm, lũ ve sầu còn ngân lên lời xưng tụng cuối cùng.

Chân chim nhấc lên để đôi cánh được đường bay tung hứng. Ta biết ơn khoảng không và thời khắc cho rực rỡ bắt đầu, cho hương thơm sắp sửa.

(Cộng hưởng II)

 

Bức tranh thiên nhiên với vạn vật đang được hoà quyện vào đời sống của con người.

 

Bóng những chiếc ghế, hàng cây, ngọn tháp…

Trốn màn đêm đi tìm ước mơ

Những lưng ghế không biết đổ mồ hôi

Và tán lá không làm ra diệp lục
(Phía sau ánh sáng)

Đang tan vỡ bao giấc mơ lộn ngược
Trong nước mưa mát lành - phồng nở - rền vang
(Biến tấu đêm mưa)

Những mái rạ chồng lên nhau thở dốc
Mặt đất nôn nao mở miệng sông hồ
Mùa thu chạy vào nỗi niềm thâm căn cố đế
Hơi nóng râm ran truyền lên thịt da (…)
Khi mùa thu thoát ra qua mắt sâm cầm
(Quyền lực mùa thu)

 

Trong thơ Mai văn Phấn, con người và thiên nhiên như là những người bạn đồng hành. Hình ảnh Anh - Em đồng hành cùng hình ảnh vạt nắng - ban mai để hướng về tương lai thật đẹp, thật gợi cảm: Anh bước lên vạt nắng/ Một con thuyền ban mai/ Em bảo hãy chờ để khóa chặt cổng. Không những thế, thiên nhiên còn là "thầy thuốc" tái sinh tâm hồn mệt mỏi của con người : Sớm mai thay áo mới/ Ánh hồng nhung hắt lên khuôn mặt em/ Thôi miên làn gió chợt qua/ Tiếng chim qua đỉnh đầu/ Vào cơ thể anh lúc đang tịnh độ/ Xua đi cho lòng yên lặng/ Sao về được tâm không/ Tiếng chim âm u/ Lập lòe sáng từng phần cơ thể/ Ngỡ bay cùng đàn chim/ Ngực căng tức tiếng hót.

 

Bức tranh thế giới trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên trong không gian mênh mông, đa chiều. Ở đó, hình ảnh thiên nhiên hiện lên với mật độ dày đặc: cây cối, đất đai, sông nước, trăng, gió, mây,..Và, tất cả thật gần gũi như một phần không thể thiếu của con người: Trăng đã về bên kia/ Phủ lên những nụ hôn khác/ Màn sương, mùi cỏ khác/ Nơi ấy một dòng kênh/ Bóng con thuyền nhỏ qua cầu/ Bờ đá nằm im nghe mồ hôi lạ/ Giọt giọt trăng khuya/ Bàn tay em tìm trăng/ Từng ngón đêm lóe sáng/ Một con đường thanh sạch/ Thức dậy làn hương/ Chuỗi thanh âm tràn dâng ngày/ Men theo trăng, cười nói trăng/ Nghẹn thở một màu trong suốt (Mùa trăng). Và ngược lại, mang ơn thiên nhiên,  con người đã hồi đáp thiên nhiên bằng chính tình yêu và sự chân thành của tâm hồn: Hôn em trời đổ mưa/ đất đai/ hồi sinh tươi tốt (Những bông hoa mùa thu).

 

Sự hài hòa giữa ngoại giới và con người được tác giả tái hiện như một thể thống nhất. Ta hãy đọc những câu thơ sau để cảm nhận về điều này:

 

Hạt mưa chạm mặt anh khỏa nhẹ.

Tiếng mưa dâng bầy thủy sinh, vây cá lượn lờ. Con tôm cong búng giật trong cơ thể anh nghẹn sóng.

Đừng mưa lây rây, mưa nhỏ giọt, mà xối xả lòng suối lòng hồ, lòng đá mềm giãn nở. Cánh tay trần vực dậy thân cây. Những nụ mầm ướt.

Mưa chạm vào da vào lưỡi, gợi đường cong và eo lưng mưa.

Tiếng sấm nổ vào thời khắc anh hình dung con cá lớn quẫy khỏi cơ thể. Ngoi lên. Ung dung bơi đi trong mưa.

 

Có thể thấy thơ Mai Văn Phấn khắc họa thành công một thế giới tương giao, hòa hợp như một ý niệm triết học cũng là một ứng xử văn hóa.

 

2.2.3. Một thế giới của những cảm giác siêu nghiệm

 

Thế giới hình tượng  trong thơ Mai Văn Phấn đi từ việc khắc họa những gì tồn tại hiển nhiên đến chỗ biểu đạt thế giới bí ẩn bên trong  mà nhà thơ khám phá nhờ cảm giác siêu nghiệm. Trả lời tạp chí Người Đương Thời, Mai Văn Phấn từng khẳng định: “Thơ ca, cũng như một số ngành nghệ thuật tiền phong khác, đang dần dà khai triển trong những tầng sâu của tâm thức và vì thế phần nào trở thành chính chất lượng cuộc sống…Thơ ca gần như tôn giáo, nhưng không cao vợi và phải thờ phụng theo những nghi lễ. Thơ ca cũng là tâm linh, nhưng nhà thơ có thể làm biến đổi cả đời sống tinh thần con người và mở ra những không gian riêng biệt khi gặp được “duyên” cảm xúc” [55; 433-434].

 

Siêu nghiệm là những cảm giác được hình thành không cần trải qua những kinh nghiệm đời sống thông thường. Nó vượt lên những cảm giác  kinh nghiệm  để dấn sâu thể hiện đời sống tâm linh, vô thức, trực giác. Tuy nhiên, cần lưu ý sự khác biệt giữa cảm giác siêu nghiệm với cảm giác siêu việt – thần bí. Cảm giác siêu nghiệm không phải là cái không có thực, không tồn tại. Nhưng, đó là sự tồn tại không thể quan sát bằng cặp mắt thực của con người và vì thế, kinh nghiệm không thể lý giải, không thể minh giải. Nơi tồn tại những cảm giác siêu nghiệm không thể kiểm chứng bằng kinh nghiệm nhưng lại được “chứng ngộ” bởi trực giác, tâm linh.

 

Mai Văn Phấn người có điều kiện tiếp tiếp thu kinh nghiệm sáng tác của những trường phái thơ hiện đại chủ nghĩa và luôn  khát khao lí giải về thế giới trong chiều sâu bản chất của nó. Vì thế, trong sáng tác, nhà thơ đặc biệt chú ý đến tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan đã nhận định: “Cho đến nay có thể anh (nhà thơ Mai Văn Phấn) là nhà thơ duy nhất trong thơ ca đương thời đã đưa vào thơ một cách có hệ thống và dày đặc đến thế những liên hệ siêu nghiệm, những hình ảnh siêu nghiệm” [46; 292].

 

Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ tồn tại trong không gian thực của cánh đồng, căn phòng, phố phường, dòng sông… mà còn hiện lên trong không gian hư ảo của giấc mơ, không gian đầy mộng mị, siêu thực của bóng người, bóng con vật, bóng đồ vật… Chẳng hạn:

 

Bóng ta không còn phân vân trên vách liếp muốn lưu giữ hư danh và sủng ái mơ hồ. Bóng minh bạch trên mặt gương, trên tường vôi, đá ốp, trong tơ nhện vô tình ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ non.

Ta theo bóng những cây cầu bắc qua sông lờ lững, qua trễ nải lo âu của hoa cỏ đôi bờ, qua cái miệng xoáy nước ngây thơ chưa biết nói, qua hồn người chết đuối không biết bơi.

Còn bóng ai in trên quả chuông, loa kèn, tang trống. Nơi ấy Phật - Thích -Ca và Chúa Giê- Su cộng hưởng, làm sự lặng im cũng nhấp nhô chuyện trò trong khoảng rỗng ban mai.

Sinh ra từ ngọn lửa và ánh sáng, bóng chạy theo mình, cái có có không không duy nhất mắt ta nhìn thấy được.

(Chương III: Cộng hưởng I –Người cùng thời)

 

Chiều sâu tri giác của trực giác tâm linh, vô thức  giúp con người nhận ra những vẻ đẹp đầy quyến rũ, ma mị, bí ẩn của thế giới mà một cái nhìn lí tính thông thường khó lòng đạt tới. Nó giúp con người lặn sâu xuống đáy bản thể để nhận ra sự tồn tại đích thực của mình giữa thế giới, như một bông hoa: Tóc và vai tôi màu trắng/ Chiếc cuống/ Bắt đầu ngả vàng… một cái cây: Không cần nước/ Tôi mọc cây non trên sa mạc…  một quả trứng: Rũ lớp vỏ ánh sáng/ Tôi mở mắt đứng lên… Và khi biết dứt bỏ tạp niệm, trở nên trong suốt, vũ trụ và Tôi là một: Không khô cứng/ Không còn sắc nhọn/ Tôi bình đẳng/ Hòa trong thế giới…

 

Hướng tới những cảm giác siêu nghiệm, ngòi bút Mai Văn Phấn đặc biệt chú ý tới những trạng thái dịch chuyển mơ hồ, những phức hợp cảm giác mong manh, sự tương giao lạ lùng giữa hình ảnh, âm thanh, đường nét, sắc màu… Thế giới được soi ngắm bằng con mắt nghiêng và nhà thơ đưa người đọc tới những miền đất xa lạ qua những giấc mơ của chính mình. Tất nhiên, ở đây những cảm giác siêu nghiệm không chỉ là cái được mô tả mà còn là một cách mô tả. Có khi ta thấy nhà thơ mượn cái vỏ vô thức để khẳng định  ý thức tỉnh táo của con người trong xã hội hiện đại – nơi mà mọi giá trị đang bị lộn sòng: Nói rằng xin/ bởi nếu tôi không đồng ý/ của quý kia phải liệng xuống hố phân/ (chúng biết cả bí quyết thần chú)/ Tôi bảo:/ các ông có thể lấy hết/ nhưng cho tôi giữ lại chút riêng/ xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ lau, trâu chó…

 

Tóm lại, nhìn thế giới bằng con mắt siêu nghiệm, nhà thơ có thể mô tả và lý giải thế giới trong chiều sâu bản chất của nó. Một thế giới đầy những cảm giác siêu nghiệm – đó vừa là một đặc điểm, cũng là một nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật của thơ Mai Văn Phấn.

 



 

 

Chương 3

 

PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT 
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN

 

3.1. Thể thơ

 

Mai Văn Phấn sử dụng đa dạng các thể thơ, nổi bật là thể thơ lục bát, thơ tự do, thơ văn xuôi và thơ cực ngắn. Khảo sát Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội nhà văn (2011), Hoa giấu mặt, Nxb Hội nhà văn (2012), Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội nhà văn (2013), chúng tôi đưa ra bảng tỉ lệ các bài thơ theo các thể thơ khác nhau như sau:

 

Bảng 3.1

Thống kê số lượng các bài thơ theo các thể thơ

STT

Thể thơ

Số bài

Tỉ lệ (%)

1

Lục bát

19

5.90

2

Tự do

164

50.93

3

Thơ văn xuôi

40

12.42

4

Cực ngắn

99

30.74

 

3.1.1. Thơ lục bát

 

Lục bát là “một thể câu thơ cách luật mà các thể thức được tập trung thể hiện trong một khổ hai dòng với số tiếng cố định: dòng sáu tiếng (câu lục) và dòng tám tiếng (câu bát). Các thể thức chủ yếu của lục bát: Gieo vần, phối điệu và ngắt nhịp”[18;190].

Bước vào làng thơ, Mai Văn Phấn chọn cho mình một lối đi truyền thống với thể thơ thơ lục bát. Thoạt nhìn, việc này tưởng như dễ dàng nhưng thực tế không ít khó khăn đang chờ đón thi sỹ ở phía bước. Một nhà thơ Argentina đã từng nói đại ý: muốn thử tài năng của một nhà thơ hãy bảo anh ta làm thơ theo thể thơ dân tộc. Làm thơ dân tộc như người làm xiếc trên dây, không có tài thì sẽ ngã.

 

Là một người có thực tài, Mai Văn Phấn đã có được những bài thơ lục bát đẹp về cảm xúc cũng như hình ảnh, chẳng hạn Tản mạn về cỏ, Một mình, Nước mùa xuân, Kinh cầu ban mai, Lơ lửng, Qua hoàng hôn, Bâng Quơ, Gom nhặt cuối mùa, Khúc cảm mùa thu, Con ngủ,…Thể thơ quen thuộc nhưng  hình ảnh, nhịp điệu trong thơ đã thay đổi. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên trong lời giới thiệu Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn đã nhận xét rằng: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá” [55; 8].

 

Thành công ban đầu của Mai Văn Phấn khi sử dụng thể thơ lục bát có lẽ là sự xuất hiện những ý tưởng, hình ảnh lạ (vào thời điểm ấy), chẳng hạn:

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non.
(Tản mạn về cỏ)

                               

Em đi cùng đám mây bông

 Mình anh gió hú dọc sông Ngân Hà

Tàn mùa chiếc lá lia qua

Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần

Sáng thì làm trăng thượng tuần

Lu thì ghép với mấy lần cong vênh.
(Một mình)


cầm tay gió dắt vào đêm

Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta về lại luân hồi kiếp sau.

(Qua hoàng hôn)

 

Không chỉ lạ hóa hình ảnh mà nhịp thơ trong thơ lục bát của Mai Văn Phấn cũng đã có sự thay đổi: Trong sương khói/ có sóng gầm/ Một mai vọng xuống cát lầm tạnh khô. Nó báo hiệu sự thay đổi trong nội dung, cảm hứng,  làm đà cho sự bứt phá ở giai đoạn sau.

 

Nổi bật trong thơ lục bát của Mai Văn Phấn giai đoạn đầu là  những ẩn dụ tinh tế: Tàn mùa chiếc lá lia qua/ Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần; Hoa tàn cây vẫn còn đau/ Hương thơm quyến luyến trên đầu cỏ xanh; Mắt vừa mở với rạng đông/ Chân trời hổn hển phập phồng ngón chân; Nhang này quặn nỗi đau xưa/ Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn; Trăng gày mòn bến mày ngài/ Thuyền ta qua nổi đêm dài này không…Các sự vật, hiện tượng đều được lạ hóa, mang trong mình tâm trạng, nỗi đau, niềm vui cái tôi cá thể: cây đau, chân trời hổn hển, nhang quặn đau, trăng gày mòn…

 

Lục bát là thể thơ được tác giả sử dụng trong giai đoạn đầu sáng tác, chiếm số lượng ít, thậm chí là rất ít trong các sáng tác của nhà thơ cho đến thời điểm hiện tại (19 bài). Đến với lục bát, thi sỹ đã tuân theo những quy tắc về hình thức và thể hiện những vấn đề quen thuộc trong thơ như mùa thu, hoàng hôn, cỏ cây… Song, so với các nhà thơ cùng thời như: Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Đồng Đức Bốn… lục bát trong thơ Mai Văn Phấn cũng có nét riêng. Dù vậy, thơ lục bát với những khuôn mẫu, quy tắc vần nhịp truyền thống vẫn chưa thực sự làm toát lên nét độc đáo trong diện mạo thơ của tác giả này.

 

3.1.2. Thơ tự do

 

Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể thơ khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do. Đặc điểm đáng chú ý của thơ tự do là phá khổ và có thể mở rộng câu thơ, kéo dài câu thơ thành hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng in, có thể sắp xếp thành "bậc thang" để tô đậm nhịp điệu trong câu, có thể xen kẽ câu ngắn dài thoải mái. Thơ tự do ra đời để đáp ứng nhu cầu diễn đạt tình cảm, cung bậc cảm xúc không giới hạn của con người hiện đại, giải phóng cảm xúc thoát khỏi những ràng buộc chặt chẽ bởi những quy tắc về hình thức (từ ngữ, nhịp điệu, cách tổ chức câu thơ…).

 

Đây là thể thơ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sáng tác của Mai Văn Phấn với 164 bài thơ, và càng về sau thì thể tự do càng chiếm ưu thế về số lượng trong thơ của ông.

 

Thơ tự do của Mai Văn Phấn thường hướng về phản ánh hiện thực cuộc sống và khám phá đời sống bên trong của con người. Thơ tự do được sử dụng nhằm tái hiện linh hoạt các cung bậc cảm xúc và làm sống lại những điều ẩn sâu trong tâm hồn của con người. Sử dụng hình thức thơ tự do giúp nhà thơ thể hiện nội dung, chủ đề đa dạng, phong phú và linh hoạt, không bị gò bó hay bị câu thúc trong một khuôn khổ nhất định của vần, nhịp,…Ở đó, những suy tư, cảm xúc được thi sỹ thể hiện một cách mạnh mẽ, chân thực nhất.

 

 Mai Văn Phấn đã đưa đến cho bạn đọc những bài thơ tự do đặc sắc: Nhật kí đô thị, Giấc mơ đi qua, Khúc dạo đầu, Mũi tên bóng tối, Cấu trúc tạm thời, Đổ về phía khuất vầng trăng, Im trôi, Được quyền nghĩ những điều đã ước, Chỉ là giấc mơ, Ghi ở vạn lý Trường Thành, Biết thì sống, Ngậm em trong miệng, Vô tình trong nắng sớm, Nơi cội nguồn thế giới,

 

Ở đó, thi sỹ thoát khỏi phong cách lãng mạn và hiện thực đơn tuyến để thoải mái thể hiện nội dung, tư tưởng. Chẳng hạn, Đá  trong lòng suối, bài thơ không chấm câu, không vần, không đăng đối mà chỉ tuôn theo nhịp đập tâm hồn để trình bày tư tưởng thẩm mỹ của nhà thơ. Trong không gian đa chiều, bức tranh thiên nhiên mùa xuân nơi rừng sâu hiện lên sinh động với vẻ đẹp nguyên sơ tinh khiết: tiếng chim, hoa rừng, mưa bụi…Và tâm thế “nhắm mắt an nhiên”, “ở yên chỗ đó” như là thông điệp thi sỹ muốn gửi tới bạn đọc: Hãy để cho vạn vật tồn tại tự nhiên, con người xin đừng can thiệp. Đó là một quan niệm nhân sinh quen thuộc song được diễn tả qua một cách viết mới, phóng khoáng và tự nhiên, trở nên thuyết phục.

 

Cũng với thể thơ tự do, nhà thơ thể hiện một khát vọng dâng hiến, khát vọng tái sinh: "Đất đai – người đàn ông nằm ngủ/ Mắt khép một vùng cửa sông/ Hạt hạt phù sa mê man bên gốc rạ" (Sau mùa gặt). Nơi đó, cung bậc cảm xúc được giải phóng: Em, bông hoa rừng buổi sớm/ Và anh bỗng thành hươi nai/ Trời xanh xanh vạt cỏ dài (Em), và trong thế giới đó, con người lại được quay về với những gì gần gũi, thân quen của cuộc sống bình dị: Thương lắm dấu chân gốc rạ/ giếng sâu, sông ngòi, ao chuôm (Từ nhà mình).

 

Thơ tự do là thể thơ có hiệu năng  trong việc thể hiện tư tưởng tinh thần, tư tưởng của con người hiện đại với bao bộn bề, phức tạp. Với thơ tự do, người viết có thể bộc lộ tiếng nói nội tâm một cách mạnh mẽ, phóng khoáng và “tự do”, như chính tên thể thơ. Có lẽ đây chính là lý do khiến Mai Văn Phấn tìm đến thơ tự do  như một thể thơ chủ đạo trong sáng tác.

 

3.1.3. Thơ văn xuôi

 

Thơ văn xuôi là thể thơ cách tân cả về hình thức biểu hiện lẫn tư duy nghệ thuật trong thơ ca hiện đại, nhằm xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi. Ý thức cách tân thơ cùng nhu cầu đào sâu tiếng nói tinh thần của con người hiện đại tạo nên xung lực mạnh mẽ làm “rạn vỡ” đường biên ranh giới thể loại thơ - văn xuôi trong sáng tác của Mai Văn Phấn.  

 

Thơ văn xuôi trong sáng tác của nhà thơ chiếm số lượng tương đối nhiều (40 bài). Những tác phẩm tiêu biểu: Viết cho cây sáo, Nước mắt, Em cho con bú, Bừng tỉnh trên tàu, Kí sự mùa thu, Giải pháp, Bến cuối, Di chứng, Vòng cung thời gian, Những ý nghĩ không sắp đặt, Niệm khúc số 18, Dấu vết, Quay theo mái nhà, Nghe tin bạn bị mất trộm, Nghe em qua điện thoại, Nhắm mắt, Mười bài tập mùa xuân, Anha hem em, Nghe em qua điện thoại, Mùa hoa mận, Giấc mơ cây, Quang phổ… Nhiều bài thơ của ông sử dụng hình thức cốt truyện đơn giản, như một tình huống nhận thức, chẳng hạn: Chương VII: Mail cho em, là một minh chứng, đem lại cảm thức về không gian, với một hành động tự do vô bờ nhằm đem lại một cảm giác mới, một thức nhận mới về đời sống. Không còn tổ chức chặt chẽ, lớp lang, thơ văn xuôi như một câu chuyện kể liền mạch, không dấu câu, sự đứt mạch thơ khá rõ, xuất hiện những khoảng trắng thẩm mỹ một cách dày đặc. Tất cả, đều tạo ra một trường liên tưởng cho người đọc, tạo nên tính “đa thanh” của tác phẩm. Song song với tính chất đa thanh là tính chất phi lí, hài hước, nghịch dị mang màu sắc hậu hiện đại thể hiện rõ qua các tác phẩm như: Dạy trẻ con, Hắn, Di chứng, Chuyện còn dài... Có thể nói sự xóa mờ tối đa đường biên ranh giới thể loại thơ – văn xuôi khiến thơ Mai Văn Phấn có khả năng diễn tả khá đa dạng và linh hoạt, sinh động nhiều vấn đề của đời sống nhân sinh hiện đại, “từ chữ đến lời, ngôn ngữ thơ cho đến tư duy thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn nhằm thể hiện khát vọng quyền lực tối thượng của nhà thơ đi tìm một cấu trúc văn bản mới lạ, với cách dụng ngữ riêng, in đậm cá tính sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tích hợp đặc sắc, ưu thế của thủ pháp: truyền thống, tượng trưng siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Văn bản thơ Mai Văn Phấn đầy tiềm năng nghĩa ẩn chứa trong đó, nó có “một kết cấu vẫy gọi” sự mở, sự khám phá của người đọc tri âm, đồng điệu, đồng cảm” [ 46; 364]. Tuy nhiên, bên cạnh thơ văn xuôi của ông vẫn có những hạn chế. Sự lớp lang, tỉ mỉ, chi tiết khiến ngôn ngữ thơ nhiều khi trở nên rườm rà, dài dòng, mất đi những khoảng trống và độ mờ thẩm mĩ cần thiết, vốn là yếu tố quan trọng để tạo nên chất thơ của tác phẩm.

 

3.1.4 Thơ cực ngắn

 

Cùng với xu hướng “văn xuôi hóa”, trong thơ Mai Văn Phấn đồng thời xuất hiện xu hướng ngược lại – giảm thiểu triệt để số lượng từ ngữ trong văn bản. Đó là thể thơ cực ngắn.

 

Thơ cực ngắn là thể thơ sử dụng "tiết kiệm" số từ, số tiếng và câu thơ trong một bài thơ. Trả lời tạp chí Người Đương Thời, nhà thơ Mai Văn Phấn từng chia sẻ: “Những thông điệp mạch lạc, thậm chí tối giản, nhiều khi là tín hiệu gợi mở một không gian thanh tịnh, cho con người sống chân thành và thương yêu nhau hơn” [55; 432].

 

Sự tối giản về từ ngữ được thể hiện tập trung trong Hoa giấu mặt, tập thơ có 99 bài thơ hoàn chỉnh, trong đó, bài thơ 99 – Con mắt  nghiêng, lại gồm 99 phần và mỗi phần được đánh số từ 1 đến 99. Thể thơ cực ngắn được vận dụng linh hoạt trong mỗi bài, mỗi phần của tập thơ, nhằm đáp ứng nhu cầu của người đọc hiện đại: không thích dài dòng và đặc biệt, thơ cực ngắn trong tập thơ được viết theo ngữ đời thường nhưng vẫn đầy khoảng trống đưa đến những liên tưởng đa chiều khi tiếp nhận.

 

Hoa giấu mặt mang đậm tinh thần tượng trưng, trong đó mỗi sinh thể dù bé nhỏ nhất đều có mối liên hệ “tương giao” sâu sắc với toàn thể vũ trụ rộng lớn. Được viết theo thể haiku với mỗi bài chỉ có ba dòng, điều này buộc các ý tưởng thơ phải được cô đặc, dồn nén cao độ. Tự do, Hoa cửa đền, Con cá ấy đã lớn, Cái nhìn, Ngày mai trời lạnh,Yên tĩnh, Trồng cây nêu trước nhà, Nhìn lại răng bừa, Con mắt nghiêng…Mỗi bài thơ ba dòng với số từ tối giản nhưng không vì thể mà tư tưởng, nội dung tư tưởng – thẩm mĩ của nó sút giảm mà ngược lại, chính sự hàm súc ấy tạo nên độ dồn nén và bung tỏa của ý nghĩa cũng như sự liên tưởng. Chẳng hạn, chỉ 9, 10 từ nhưng đọc Tự do, Tranh tượng trưng… ta đều nhận thấy khát vọng tự do mãnh liệt của con người. Hay chỉ qua Cái nhìn ta thấy rõ một quan niệm về nhân sinh quan, sự chiêm nghiệm về con người và nhân tình thế thái: Vũng nước nhỏ dưới chân núi/ Soi/ Tận đỉnh.

 

Qua phân tích, có thể thấy thơ Mai Văn Phấn cách tân và được tái sinh không ngừng. Sự đa dạng các thể loại trong hành trình sáng tạo thêm một lần nữa cho thấy nhu cầu nhận thức hiện thực một cách đa chiều của tác giả

 

3.2.  Kết cấu

 

Kết cấu là cách tổ chức tác phẩm và bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. "Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm các chức năng rất đa dạng: triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ" [18; 157].

 

3.2.1. Kết cấu văn bản

 

Văn bản được sử dụng với nghĩa hẹp (văn bản tác phẩm văn học) được hiểu là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp thành, một thông báo mà tác giả gửi tới người đọc, người xem.

 

Tổ chức văn bản của một bài thơ trữ tình, bao gồm  nhiều yếu tố: nhan đề thơ, dòng thơ và câu thơ, khổ thơ và đoạn thơ.

 

3.2.1.1.  Cách đặt tên bài thơ

 

Bài thơ trữ tình được tổ chức bởi nhiều yếu tố như: nhan đề thơ, dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ,...Trong đó, nhan đề thơ - nhân tố quan trọng, thâu tóm tinh thần cơ bản của nội dung bài thơ, giúp người đọc nhớ và phân biệt với các bài thơ khác. Nhan đề bài thơ là chỉ dẫn để người đọc bước vào thế giới của bài thơ.

 

Nhan đề thơ có thể có hoặc không (vô đề), điều đó phụ thuộc vào dụng ý của tác giả. Tuy nhiên, việc lựa chọn nhan đề cho đứa con tinh thần của mình là công việc không dễ dàng. Lựa chọn nhan đề được ví như là nền tảng, cái móng để xây dựng thành công bài thơ. Với tầm quan trọng đó, đã có nhiều nhà thơ tạo ra được những nét riêng, độc đáo trong các nhan đề thơ của mình. Mai Văn Phấn là cây bút như vậy.

 

Thứ nhất, nhan đề thơ Mai Văn Phấn có khi  như một luận đề ngỏ với những giả thiết, điều kiện… kèm theo. Tiêu biểu là các bài: Sẽ mưa, Giả thiết cho buổi sáng hôm sau, Nếu, Dừng lại để suy nghĩ, Để nhận ra anh, Mùa xuân…Ngay ở nhan đề bài thơ đã vạch ra những dấu chấm hỏi trong trường liên tưởng của người đọc. Ví dụ bài thơ Nếu, nhan đề đã là một câu hỏi, một giả thiết được đặt ra để người đọc bước vào thế giới bài thơ, nơi đó, mở ra bao cánh cửa chờ đón sự diễn dịch của đông đảo người tiếp nhận.

 

Thứ hai, nhan đề thơ Mai Văn Phấn có khi mang chứa những tình huống cho thấy những bất thường của đời sống, chẳng hạn: Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Nghe tin bạn bị mất trộm,  Còn cậu hãy đứng đằng kia, Hội chứng từ một tin đồn, Chuyện còn dài, Bưng chậu nước lên cao, Tin nhắn lúc giao thừa…Ở đây, thơ hướng về cuộc sống thường nhật bề bộn, xô bồ với những hiện tượng gần gũi, quen thuộc nhưng không ít những bất ngờ, hài hước, nghịch dị…của cuộc sống.

 

Thứ ba, nhan đề thơ Mai Văn  Phấn có khi “cực ngắn”, rất cô đọng, chỉ một từ: Chiều, Bạn, Em, Hắn,  Gai, Sen…Chỉ một từ  nhưng có khả năng mở ra những  trường liên tưởng rộng rãi.

 

Thứ tư, nhan đề thơ Mai Văn Phấn là những ẩn dụ. Chẳng hạn, Nỗi đau phát sáng, Mũi tên bóng tối, Đổ về phía khuất vầng trăng, Quyền lực mùa thu, Đất mở, Đối thoại với thời gian, Nhịp điệu vẽ lối đi, Dấu vết bình minh…. Những ẩn dụ trong tiêu đề có sức cuốn hút đối với đông đảo người đọc. Chẳng hạn mùa thu trong Quyền lực mùa thu,  một mùa trong bốn mùa của thiên nhiên đất trời. Mùa thu một danh từ chỉ loại nhưng được tác giả đặt song hành với từ quyền lực, nó đã mang một hàm nghĩa khác. Đổ về phía khuất vầng trăng  là một ví dụ khác. Nhan đề ấy dễ gợi nhiều câu hỏi ám ảnh. Ai đổ? Vì sao lại đổ về phía khuất vầng trăng chứ không phải là phía vầng trăng? Vầng trăng có ý nghĩa tượng trưng như thế nào? Nhan đề bài thơ là những ẩn dụ góp phần mời gọi người đọc đối thoại cùng thi sỹ và tác phẩm.

 

Có thể thấy, nhan đề trong thơ Mai Văn Phấn được sử dụng với những chủ ý thẩm mĩ rõ rệt, nhằm tạo ra những nét riêng, góp phần mang đến một phong cách độc đáo của nhà thơ đất cảng - Mai Văn Phấn.

 

3.2.1.2.  Cách mở đầu và kết thúc bài thơ

 

Mở đầu bài thơ trong thơ Mai Văn Phấn thường sử dụng câu trần thuật. Câu trần thuật là kiểu câu dùng để kể, miêu tả, thông báo, nhận định, trình bày,…về những hiện tượng, hành động, trạng thái, tính chất trong thực tế. Câu trần thuật hay còn gọi là câu kể, câu tường thuật.

 

Mở đầu bài thơ, tác giả thường sử dụng hình thức câu trần thuật, ví dụ:

 

- Chiều nay em cho con bú.(Em cho con bú).

- Vạt cỏ xưa hai đứa mình ngồi, giờ là nền ngôi nhà cao tầng, để anh làm con bướm chập chờn giữa phố, tìm ra lối ngày nào lạc cánh bay. (Đêm ở Thụy Khuê).

 

- Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang tựa lưng gần bậc cửa. (Bừng tỉnh trên tàu).

 

- Trời đang mưa/ Tôi bưng chậu nước/ Trong căn phòng đóng kín ấm áp. (Bưng chậu nước lên cao).

 

- Khi nhắm mắt chợt thấy thế giới không còn ô nhiễm. (Nhắm mắt).

 

- Những hạt mưa rơi xuống. (Mưa trong đất).

 

- Tôi nhìn thấy trên đỉnh đồi/ Một bông cỏ may vừa nở/ Ánh sáng phát ra từ đó (Nơi cội nguồn thế giới).

 

- Ông vẫn dậy sớm/ Pha trà trong bình minh khác…(Gặp mùa xuân).-

 

Đặc biệt khi sử dụng câu trần thuật cho việc mở đầu bài thơ, tác giả thường đề cập tới một dấu mốc thời gian hoặc đơn vị đo thời gian nhất định:

 

- Đêm tỉnh dậy (Quay theo mái nhà).

 

- Lúc gần đất xa trời, anh nhờ tôi giữ hộ kí ức (Anh tôi).

 

- Lúc đi (Đúng vậy).

 

-  Đêm nay/ nhiều điều kỳ quặc. (Còn cậu hãy đứng đằng kia).

 

- Buổi sáng vào bàn làm việc (Anhanhemem).

 

- Ban chiều (Hoa bằng lăng).

 

- Vừa tỉnh dậy (Giọng nói).

 

Cách mở đầu bài thơ bằng câu trần thuật đưa đến không khí tự nhiên và giản dị. Dường như tác giả không hề cố gắng lên gân để tạo ra cái gọi là “tính thơ” và điều này cho thấy một tâm/ tư thế thơ mới đang được xác lập. Gần gũi, đời thường song vẫn (hay có lẽ vì thế mà trở nên) hiện đại. Ngoài ra, cách mở đầu bài thơ trong thơ Mai Văn Phấn, còn có điểm đặc biệt, đó là thường sử dụng dấu ba chấm (…): Mười bài tập mùa xuân, Dừng lại để suy nghĩ, Linh hồn đã bay, …. Trong đó, bài thơ Mười bài tập mùa xuân  là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ gồm 10 phần nhỏ, được đánh theo số thứ tự từ 1 đến 10 và mở đầu mỗi phần là dấu ba chấm (…).

 

1.

…bức tượng trong vườn ngỡ bị trương lên bởi hơi ẩm mưa dầm quánh đặc tràn lỗ tai con chữ chết dính vào trang sách không rõ ràng cảm xúc văng vẳng cơn mơ tiếng cười lả câu đùa nửa thực nửa hư trong bóng râm mơ hồ muội ám gốc cây nhòa mái đình ngõ nhỏ người đi bóng dán xuống hai vệ cỏ liêu xiêu gợi nhớ bà nội đầu năm châm lửa thắp hương thoảng mùi diêm sinh bay từ chăn chiếu từ nhụy hoa đầy dấu chân ong…

 

2.

…vết bùn vách liếp phiên chợ Tết cổ xưa gom hình ảnh đất ông bà từ sàn sân rêu lầy lội con đường cổ lỗ chôn nông khuôn mặt hạn hán bới nhẹ ra đã bốn mươi năm ký ức tối sẫm hút dài có vết bùn làm chiếc đó đơm ở miệng cống trôi qua thời gian làm con tôm con cá lẫy vào biển chiều kinh động…

 

3.

…con cò bay khỏi đầm lầy cánh bắt nhịp tiếng quẫy ký ức bức tranh thủy mạc nhìn vào sắc cây phù sa lố nhố mặt người khuất khít bên nhau cho đất tươi non diệp lục tràn chân trời khung tranh hồn vía người chết tức tưởi hiện về trầm hương bù vào chỗ không đủ thân xác hiện hữu cách mấy tầng diệp lục phù sa mà xa lạ quá chừng mời người xưa ngồi vào bàn cơm nóng đãi ma đói ma khát tiếng chén đũa hụt hẫng ước lượng khoảng cách từ mặt đầm tới điểm chạm cánh cò chừng vài chục mét và âm thanh quẫy kia không quá mấy đề-si-ben…

……

 

10.

máy vi tính nhảy lỗi trùng lặp không chủ định câu què cụt vô nghĩa nhắc lại nhiều lần thành tiêu đề xưng tụng ngôn từ mặc khải chân không hư không bầu ra những mũi tên từ khớp chân tay bật dây cung bay vọt lên óc nước tràn cốc ánh sáng thanh bạch chạy vào đường ống tối đen gào sập đổ vách ngăn cửi lửa dâng khói dẫn vào cánh đồng mùa xuân tiếng nói…

 

Bài thơ với 10 phần nhỏ, mỗi phần đều bắt đầu bằng dấu ba chấm và trước dấu ba chấm là cả một vùng trời. Mỗi phần bắt đầu một sự vật, hiện tượng khác nhau: phần 1 bắt đầu bằng hình ảnh bức tượng, phần 2 hình ảnh vết bùn, phần 3 hình ảnh con cò…phần 10 bắt đầu bằng hình ảnh máy vi tính. Dấu ba chấm mở đầu bài thơ vừa tạo ra điểm nhấm vừa tạo ra trường liên tưởng cho người tiếp nhận.

 

Trong bài thơ Dừng lại để suy nghĩ, tác giả cũng sử dụng dấu ba chấm ở mở đầu: …tại thời khắc mất lái/ giữa những chiếc xe quá hạn sử dụng/ võng mạc đột mở khâm liệm cái chết. Thời khắc mất lái là thời gian nào? Ai mất lái?...Tất cả được đặt ra như là những câu hỏi dài.

 

Về cách kết thúc trong thơ Mai Văn Phấn, cũng có những điểm đáng chú ý. Không giống như lối viết truyền thống, kết thúc bài thơ là sự khái quát, tổng kết nội dung, ý nghĩa bài thơ. Sự mới lạ của cách kết thúc trong thơ ông thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:

 

Thứ nhất, kết thúc lửng (bài thơ kết thúc bằng dấu ba chấm (...)). Theo thống kê trong cuốn Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn (Nxb Hội nhà văn, 2011), và tập thơ Vừa sinh ra ở đó (Nxb Hội nhà văn, 2013), có đến 16 bài thơ kết thúc bằng dấu ba chấm (…), đó là những bài : Trương Chi; Bâng quơ; Em xa; Lơ lửng; Không đề; Em gái đi lấy chồng; Màu xanh; Nước mắt; Đêm ở Thụy Khuê; Từ hạt mưa; Linh hồn đã bay; Mộng du; Không quán tính; Khai bút cùng cỏ; Em đừng thức giấc; Rời tay để bạn đi.

 

Trong tiếng Việt, dấu ba chấm biểu thị cho những gì chưa kết thúc mà còn tiếp diễn. Mai Văn Phấn, sử dụng dấu ba chấm để kết thúc bài thơ cũng không ngoài mục đích đó. Kết thúc bài Mộng du, tác giả viết: Thêm ly nữa/ Ly nữa…Ly nữa và không biết đến ly thứ bao nhiêu cuộc vui mới kết thúc. Dừng lại ở ba chấm, câu chuyện mộng du của “tôi” và những người bạn về những cuộc gặp gỡ sẽ còn kéo dài dường như đến vô tận trong những khắc khoải. Hay kết thúc bài thơ Rời tay để bạn đi, tác giả viết: Câu thơ mở trái tim đau/ Ngọn lửa thiêu đốt/ Mỗi cuối thu/ Những bờ sương nước … Kết thúc bài thơ nhưng sự tổng kết nội dung, tư tưởng bài thơ, thi sỹ giao quyền cho độc giả, người tiếp nhận.

 

Thứ hai, kết thúc bài thơ bằng câu hỏi. Có thể thấy hình thức kết thúc này trong Mùa xuân, Nếu,… . Kết thúc bài thơ Nếu, tác giả viết:

 

Nếu đêm qua không có cơn mưa?

Nếu tôi không ngủ trên giường?

Nếu không phải khoảng cách ba mét bảy mươi

lăm xăng-ti ?

 

Giả thiết được đặt ra và câu trả lời đang ở phía trước chờ đón chúng ta.  Mơ ước và hiện thực là cả một khoảng cách dài. Chính hiện thực ngột ngạt đó khiến con người phải đặt ra giả thiết “Nếu”.

 

Thứ ba, kết thúc bài thơ bằng những câu thơ không dấu. Cách kết thúc này được thể hiện dày đặc trong những bài thơ sáng tác thuộc giai đoạn sau, tiêu biểu là tập thơ Hoa giấu mặt. Với 99 bài thơ trong tập Hoa giấu mặt  tất cả đều kết thúc bằng những dòng thơ, câu thơ không dấu. Kết thúc bài thơ nhưng không dừng lại ở một lời khẳng định, tất cả đang giấu mặt, đằng sau câu chữ.

 

55.

Cầm bàn tay

Mình đã nuốt em

Không còn lọn tóc

56.

Nhìn lâu

Chiếc đèn lồng

Nỗi cô đơn hình lục giác

 

57.

Sáng mùa xuân

Bóng cổ thụ

Bấy bớt

 

Ngoài ra, kết thúc bài thơ trong thơ Mai Văn Phấn còn sử dụng dấu chấm than (!), thậm chí sử dụng rất nhiều dấu chấm tạo thành như một dòng thơ khi kết thúc bài thơ (………): Không sáng lóe/ Không phun trào/ Không khúc xạ/ Không tiếng nổ/ …………(Không quán tính). Dù kết thúc bài thơ bằng hình thức: dấu hỏi (?), dấu ba chấm (…), hay bằng những dòng thơ không dấu thì nhìn chung đó là lối kết thúc mở. Cách kết thúc mà không kết thúc, luôn mở ra cánh cửa mới để độc giả cùng độc thoại với nhân vật, với thi sỹ.

 

3.2.1.3. Cách tổ chức đoạn thơ, câu thơ

 

Trong quá trình sáng tạo, Mai Văn Phấn luôn có ý thức tạo ra tính mở trong kết cấu văn bản nhằm mời gọi người tiếp nhận đồng sáng tạo, thông qua cách tổ chức đoạn thơ, câu thơ.

 

Cách tổ chức đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn thường là tập hợp của nhiều khổ, nhiều khúc, nhiều liên. Đoạn thơ thường được chia theo cách cảm, cách hiểu của từng cá nhân. Dưới góc độ cá nhân, chúng tôi nhận thấy cách xây dựng đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn nổi lên những điểm đáng chú ý:

 

Thứ nhất, đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn được cấu tạo theo kiểu song hành. Đây là kiểu cấu tạo các đoạn thơ trong bài thơ thường nêu một vấn đề, nội dung tưởng chừng tồn tại độc lập, tách biệt nếu không đặt trong chỉnh thể bài thơ. Đoạn thơ này thường được đặt song hành với đoạn thơ kia, được tác giả đánh dấu theo thứ tự hay dùng các kí hiệu như: @, *…để phân tách. Chẳng hạn, khi đọc bài thơ Cửa Mẫu, chúng ta nhận thấy, mỗi đoạn thơ trong bài được kí hiệu theo từng khúc, mỗi khúc lại đề cập tới một hiện tượng hay một quy luật nhận thức nào đó. Và, để hiểu chúng cần phải đặt các đoạn thơ trong một chỉnh thể nhất định.

 

Thứ hai, đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn được cấu tạo theo kiểu nối tiếp. Đây là kiểu cấu tạo các đoạn thơ nối liền nhau về nội dung trong một bài thơ, là kiểu kết cấu đối lập với kiểu song hành. Chẳng hạn, bài Hắn, đoạn I, II nối tiếp nhau về mạch chuyện nói về nhân vật Hắn. Hay bài Tỉnh dậy trong mưa, bao gồm 27 đoạn thơ và đều có tính nối tiếp giữa các đoạn. Bài thơ là một giấc mơ dài của người con trai khi nhớ về người yêu.          

 

Thứ ba, các câu thơ, khổ thơ trong đoạn thơ thường xuống dòng một cách  khá…ngẫu nhiên. Ở đó những dòng in nghiêng, những khoảng trắng thẩm mỹ được tạo ra tồn tại như một ẩn số. Tùy vào khả năng liên tưởng mà người đọc phát hiện ra những vấn đề khác khau. Hắn, Hội chứng từ một tin đồn, Còn cậu hãy đứng đằng kia, Anh tôi, Nhìn kỹ, Nghe em qua điện thoại, Bưng chậu nước lên cao, Nhìn Anh, Mùa xuân… là những tác phẩm như vậy.

 

Cách tổ chức câu thơ trong thơ Mai Văn Phấn cũng có những điểm đáng chú ý.

Thứ nhất, câu thơ trong thơ Mai Văn Phấn không quy định số tiếng. Câu thơ có thể mở rộng, kéo dài đến hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng thơ. Trong đó, tiếng đầu tiên của dòng đầu được viết hoa, tiếng của dòng tiếp theo không viết hoa.

 

Mình là mạch khí, vực sâu, ngực đất

chọn nơi ấm áp kê giường tủ

nơi thoáng đãng đặt bàn ghế

 

Cùng cố ý, vô tình đi lại

 buông âu lo ngồi vào bàn ăn

gắp cọng rau từ cánh đồng xa tít

con cá cắn câu trong niêu đất kho nhừ

(Từ nhà mình)

 

Thứ hai, câu thơ không còn được tổ chức theo kiểu cấu tạo chủ - vị thông thường, mà trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện dày đặc các kiểu câu đảo ngược trật tự các tiếng, các từ. Hay nói cách khác, cách tổ chức câu thơ không còn bị gò bó trong các quy tắc ngữ pháp tiếng Việt. Ví dụ:

 

Bàn tay em tìm trăng

Từng ngón đêm lóe sáng

Men theo trăng, cười nói trăng

Nghẹn thở một màu trong suốt

Màu óng ả trên lưng chim bói cá

Cho anh thành vạt trăng

Mùa xuân gió hòa gót chân

Trái tim rộn ràng ngực đất

Dòng trăng cuồn cuộn thân cây

(Mùa trăng).

 

Nhà văn Đặng Văn Sinh khẳng định: "Cũng như Mùa trăng, ngôn ngữ diễn đạt của Hình đám cỏ thoát khỏi cấu trúc mô hình truyền thống, triệt để sử dụng loại câu không chủ ngữ, đảo ngược chức năng cú pháp, đưa ngôn ngữ thơ vào đời thường, hạ phóng thơ từ tháp ngà đến với quảng đại công chúng" [46; 118]. Điều này kéo theo hệ quả là “cấu trúc câu văn cổ điển không còn nguyên vẹn, trật tự cú pháp bị đảo lộn, bởi vậy nội hàm của câu thơ đương nhiên chuyển dịch” [46; 119].

 

Thứ ba, câu thơ trong thơ Mai văn Phấn thường được bắt đầu với những liên từ: và, mà, cùng, nếu, thì, là, qua, lại, dù là, , thế là, như, như là…, vừa có tác dụng nối các sự kiện, vấn đề, vừa có tác dụng ngược lại tách biệt, phân biệt, chuyển ý trong các dòng thơ, câu thơ.

 

Ngoài ra, câu thơ trong thơ Mai Văn Phấn còn được xây dựng nhờ những biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…Có thể dẫn ra những câu thơ tiêu biểu:

                                                                      

- Khuôn mặt ai nỡ bung như hạt thóc ủ vào tro nóng (Ngày đẹp trời).

 

- Sương vương dày như đan như thêu (Mặt trăng hay con đường).

 

Những đôi môi giấu mãi vào nhau/ Như vỏ cây muốn lẫn vào ruột gỗ (Sợi dây im lặng).

 

- Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. (Lúc mặt trời mọc).

 

- Mỗi góc tối trong tôi đang ngậm lấy âm thanh như ngậm vào vú mẹ, từ miệng mình he hé ánh sáng bồng bế nhau thong thả tràn vào (Viết cho cây sáo).

 

- Mặt đất lặng thinh dưới sức mạnh trăng/ Như những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng anh. (Nhìn Anh).

 

- Tháng ngày gương lược về đâu/ Chân trời để xõa mô%3ḅt màu cỏ non (Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc).

 

- Nhà thơ trú trong bóng râm/ Những con chữ bị khoét mất mắt (Biến tấu con quạ).

 

- Miê%3ḅng bóng tối ghé vào thanh bạch/ Hơi đô%3ḅc từng phun ngược lại âm hình/ Nơi đoán phạt trắng đen, thiê%3ḅn ác/ Lá cỏ trồi ra chiếc lưỡi phân minh (Tập phát âm).

 

- Đặt con lên đất/ Lòng sông đau xé thân đêm (Cửa mẫu - II).

 

- Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non (Tản mạn về cỏ).

       

Việc sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ góp phần tạo nên tính hấp dẫn cho ngôn ngữ, hình ảnh thơ Mai Văn Phấn.

 

3.2.2. Kết cấu hình tượng

 

Kết cấu hình tượng tiêu biểu trong thơ Mai Văn Phấn là kiểu kết cấu mở. Đấy là một kiểu kết cấu hiện đại, ở đó bài thơ được tổ chức như một cấu trúc vận động, không mang tính hoàn tất, khép kín về nghĩa như trong kiểu kết cấu cổ điển. Ta có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như: Em xa, Dấu hiệu mùa xuân, Khúc phóng túng, Trong căn phòng, Cái miệng bất tử, Chuyện còn dài,Gỉa thiết cho buổi sáng hôm sau, Biến tấu con quạ, Anh anh em em, Cửa mẫu, Vô tình trong nắng sớm…

 

Thay cho cách tổ chức “truyền thống” chặt chẽ, quy về sự thống nhất với một nội dung xuyên suốt, thơ Mai Văn Phấn có một lối tổ chức văn bản như một sự “mời gọi” độc giả trong không gian đa chiều. Chẳng hạn trong Mười bài tập mùa xuân, câu chữ không hề bị/ được phân chia bởi những dấu hiệu cú pháp thông thường, các hình ảnh câu chữ đổ tràn sang nhau, xóa mờ những ranh giới hình thức định mệnh. Hình thức trình bày này tự nó ám gợi cái mạch ngầm sự sống lưu chuyển miên viễn, liên tục, bất tận, không đứt đoạn, ngừng nghỉ. Nhưng ngược lại, nó có thể (mà thực tế là đã) gây phản ứng gay gắt về sự “tối tăm”, “vô nghĩa”...

 

Mỗi bài thơ là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình thức. Nội dung phải được thể hiện qua hình thức và hình thức phải truyền tải nội dung. Để gắn kết nội dung và hình thức trong dòng chảy bài thơ không thể không đề cập tới mạch thơ. Mạch thơ được xem như là cái lõi, cột sống chạy dọc bài thơ nhằm tạo áp lực cho sự diễn dịch tác phẩm. Tuy nhiên, thơ Mai Văn Phấn thường có hình thức tổ chức thoạt nhìn khá lỏng lẻo với sự đứt đoạn của mạch thơ. Mạch thơ giữa các phần, các đoạn trong văn bản như là sự lắp ghép ngẫu nhiên, nếu không đặt trong một chỉnh thể thì rất khó để thấy được mối liên hệ của chúng. Ta có thể chứng minh điều này bằng các  tác phẩm: Mùa xuân, Mùa trăng, Ghi ở vạn lý Trường Thành, Còn cậu hãy đứng đằng kia, Đỉnh gió, Những bông hoa mùa thu, Biến tấu con quạ, Cửa mẫu… Cụ thể, bài thơ Mùa xuân như chỉ là sự ghép nối  của một vài sự kiện rời rạc: Tôi (tác giả) chỉ dẫn cho con các dấu hiệu mùa xuân. Các con tranh luận. Những câu hỏi (được in nghiêng, nhằm gây một ấn tượng thị giác). Mỗi đoạn thơ đưa đến những sự kiện khác, nói cách khác đó chính là đứt đoạn mạch thơ. Với sự thay đổi điểm nhìn khiến ta có thể quan sát toàn cảnh bức tranh mùa xuân: Tôi – nhân vật trữ tình, đồng thời vừa có thể “nhập thân” để nhìn thế giới từ một con mắt khác - con mắt của những đứa trẻ. Sự “phi logic” này chỉ là bề mặt, nó nhằm để hướng tới cái logic bề sâu của sự vật, hiện tượng.

 

Trong thơ Mai Văn Phấn, xuất hiện dày đặc những liên tưởng bất định, siêu thực, phi lý, hư ảo, ngay từ những sáng tác đầu tay và cả lúc ở độ chín muồi về cảm hứng, bút pháp. Đây là những ví dụ tiêu biểu:

Ghé môi vào miệng thời gian

Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non

(Tản mạn về cỏ)

 

Bóng ta không còn phân vân trên vách liếp muốn lưu giữ hư danh và sủng ái mơ hồ. Bóng mình bạch trên mặt gương, trên tường vôi, đá ốp, trong tơ nhện vô tình ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ non. (Cộng hưởng I)

Cùng cố ý, vô tình đi lại
Buông âu lo ngồi vào bàn ăn
Gắp cọng rau từ cách đồng xa tít
Con cá cắn câu trong niêu đất kho nhừ

(Từ nhà mình)

 

Sự “lỏng lẻo” trong mạch thơ kết hợp với những liên tưởng phóng túng, và sự “mờ hóa” của cái tôi trữ tình trên bề mặt văn bản chính là những đặc điểm nổi bật của kiểu kết cấu mở trong thơ Mai Văn Phấn. Bên cạnh “nhược điểm” là “gây nhiễu” tiếp nhận (với những độc giả chỉ quen với cách đọc truyền thống, một chiều), chúng có ưu điểm nổi bật là tạo nên rất nhiều “khoảng trống”,  “khoảng trắng” thẩm mỹ. Chúng đồng thời mở ra những trường liên tưởng hết sức rộng rãi để người đọc đồng sáng tạo cùng nhà thơ.

 

Theo nhận định của nhà thơ Đỗ Minh Tuấn:  “Giống như các nhân vật trong quảng cáo bột giặt lặn sâu vào từng thớ vải để đi đến những xứ sở diệu kì lộng lẫy hào quang, Nàng Thơ của Mai Văn Phấn cũng không chịu ngồi yên trong một tọa độ thi ca, mà luôn luôn cưỡi con ngựa liên tưởng bất kham để thực hiện những cuộc phiêu lưu xuyên thế giới,..”[46; 143]. Thơ Mai Văn Phấn, không thể hiểu nếu người tiếp nhận không đặt nó trong cái chỉnh thể của thế giới nghệ thuật thơ ông.

 

3.3. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và bút pháp tạo hình

 

3.3.1.  Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng

 

Hình ảnh, biểu tượng là một trong những phương thức quan trọng xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ.  Mai Văn Phấn là người có khả năng ghi nhận một cách độc đáo và ấn tượng những hình tượng trong thực tế xã hội và trong đời sống tinh thần của con người. Đó là những hình tượng rất đỗi quen thuộc trong đời sống thường nhật nhưng qua nhãn quan của nhà thơ lại trở nên độc đáo, riêng biệt. Nguyễn Đức Hạnh nhận định: "Mỗi bài thơ của Mai Văn Phấn là một ngôi nhà, các biểu tượng là vật liệu. Cách kết nối các biểu tượng ấy theo logic “nhảy cóc, liên tưởng xa và lạ” đã tạo ra một thế giới vừa quen vừa lạ, đặc biệt rất độc đáo" [46; 316].

 

Qua khảo sát Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, và tập thơ Vừa sinh ra ở đó, chúng tôi có bảng thống kê về những hình ảnh, biểu tượng thường xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn như sau:

 

Bảng 3.2

 

Thông kê tần số xuất hiện của các biểu tượng

  

STT

Biểu tượng

Số lần xuất hiện

1

       Cỏ

147

2

       Đất đai

299

3

Cánh đồng

22

4

Con đường

29

5

Chuông

42

6

Em

295

 

 

Trong phạm vi khảo sát  của mình, chúng tôi  nhận thấy có 5 biểu tượng tiêu biểu trong thơ Mai Văn Phấn, đó là: đất đai, cỏ, con đường, cánh đồng, Chuông và em.

 

Thứ nhất là biểu tượng Cỏ.

 

Cỏ là biểu tượng xuất hiện nhiều trong thơ Mai Văn Phấn. Có thể lý giải điều này bởi nhiều lý do, nhưng chủ yếu xuất phát từ quan niệm mĩ học của tác giả: “Muôn năm con người, muôn năm thiên nhiên”. Thiên nhiên dạy cho ta cách sống, cách yêu và cả cách viết (sáng tạo), thiên nhiên là nơi ta thả lỏng hồn mình.

 

Cỏ mang đến cho con người cảm giác của sự tươi mới, tràn đầy năng lượng cuộc sống. Với cách nhìn đó, ngay từ sáng tác đầu tay của thi sỹ, ta đã bắt gặp hình ảnh đầy ấn tượng khi viết về cỏ: “Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai/ Dấu chân đừng hóa chông gai/ Nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn/ Ta về đổ bóng xuống vườn/ Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng/ Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non" (Tản mạn về cỏ).

 

Cỏ không còn là những vật vô tri, vô giác của thiên nhiên mà nó mang trong mình suy nghĩ của con người, nhân danh con người:

 

- Ta nhận biết mình trong tiếng chim mê ngủ/ Ngọn cỏ mơ màng ngậm những vì sao/ Ngọn gió sớm đặt tay lên bàn phím/ Gương mặt ai vào vùng nhớ hôm nào (Người cùng thời – Chương I).

 

- Bên nhau cỏ mọc/ Cỏ diễn tiếp giấc mơ của đất/ Lưng thấm cỏ, chân tay thấm cỏ/ Không cần sấm chớp, tụ mây/ ta mưa vào nhau cơn mưa cỏ xanh/ nắng lại trải vàng mặt đất/ Mưa cỏ xanh dâng mắt ta ngập tận đỉnh cây/ Ta đan vào nhau nghẹt thở… ngô nghê... ú ớ… (Những bông hoa mùa thu)

 

- Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời (Bài hát mùa màng)

 

Thứ hai, biểu tượng Đất đai.

 

Trong thơ Mai Văn Phấn, đất đai cùng những đồng vị của nó như bùn, ruộng, mặt đất…là biểu tượng được miêu tả dưới nhiều điểm nhìn khác nhau và xuất hiện dày đặc trong sáng tác của tác giả tiêu biểu như: Cấu trúc tạm thời, Sáng mùa hè, Bài hát mùa màng, Nhật kí đô thị, Hồi sinh, Những bông hoa mùa thu, Gặp mùa xuân, Tĩnh lặng, Rời tay để bạn đi, Sau mùa gặt…

 

Đất đai - cội nguồn của sự sống, là mạch khí nuôi dưỡng vạn vật và con người:

 

- Kìa thửa ruộng đang vươn lên che chở những ngôi nhà (Cấu trúc tạm thời)

 

- Lao vào đất những ngón chân khát nước/ Chiếc lá mới nhô lên đặt lại ca từ (Sáng mùa hè)

 

- Hạt giống mới nảy mầm trên đất, gọi dòng sông lên tiếng thở sâu, cùng mương máng dọc ngang đến giờ mở mắt (Người cùng thời – Chương III)

 

 Đất đai - sinh thể mang trong mình những suy nghĩ, cảm xúc của con người:

 

- Mặt đất lặng thinh dưới sức mạnh trăng. Như lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lung anh (Nhìn Anh).

 

- Mặt đất còn hằn vết nhăn khát nước, xéo ngang trời những con đường chỉ tay (Những bông hoa mùa thu). 

 

Đất đai gắn liền với sự sinh sôi nảy nở, sự phồn sinh bất tận. Vì thế, đất – tượng trưng cho người mẹ luôn che chở, bảo vệ con: “ Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất/ Đất ở dưới chân mà cao hơn những suy nghĩ của mình (Nhật kí đô thị). Và, hơn thế, đất đai luôn tự nhận về mình trọng trách quan trọng mang lại sự sống cho con người:

                           

Đất nặng nhọc gối đầu lên biển cả

Từng hang cây, tản đá, dấu chân

Kê cao thêm cho anh dễ thở

(Đường bay)

 

Thứ ba, biểu tượng Cánh đồng.                     

 

Cánh đồng là biểu tương gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và truyền thống văn hóa dân tộc. Vốn, sinh ra trong vùng quê hẻo lánh ở châu thổ sông Hồng, hình ảnh cách đồng từ lâu đã tồn tại trong ông và được xem như một biểu tượng ám ảnh trong thơ ông:  Tỉnh dậy trong mưa, Từ nhà mình, Rời tay để bạn đi, Tĩnh lặng…

 

Trong cái nhìn của Mai Văn Phấn, cánh đồng luôn mang trong mình sự sống, sự màu mỡ, phì nhiêu, tươi tốt. Nói tới cánh đồng là nghĩ tới làng  quê Việt với những chi tiết chân thực hiện lên trước mắt ta: Mở mắt nhìn cánh đồng mới gặt/ Những con chim ngói đang nhặt thóc (Tĩnh lặng);  Hay là những liên tưởng giản dị mà độc đáo: Cùng cố ý, vô tình đi lại/ buông âu lo ngồi vào bàn ăn/ gắp cọng rau từ cánh đồng xa tít/ con cá cắn câu trong niêu đất kho nhừ (Từ nhà mình), Triền cát mịn/ Lối lên bờ là cánh đồng/ Tóc em gió cuốn nơi tàng cây yên lặng (Tỉnh dậy trong mưa)… Cánh đồng là biểu tượng thích hợp để nhà thơ truyền tải nội dung, tư tưởng, qua đó, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.

 

- Trên ngực bùn nâu đã linh thiêng ban lộc/ Máu hồi sinh rần rật chạy qua/ .../ Tôi gượng dậy giữa cánh đồng rộng lớn/ Có con nước cường chảy dọc sống lưng (Hồi sinh)

 

- Đừng ngồi trong phòng lâu quá/ Ra cánh đồng, ra bờ sông/ nơi rau xanh, cá quẫy. (Từ nhà mình).

 

-Triền cát mịn/ Lối lên bờ là cánh đồng/ Tóc em gió cuốn nơi tàng cây yên lặng (Tỉnh dậy trong mưa)

 

Thứ tư, biểu tượng Chuông.

 

Chuông là biểu tượng xuất hiện không nhiều trong thơ mai văn Phấn,  nhưng nó đã tạo ra được ấn tượng nghệ thuật khá đặc biệt. Trong một lần tâm sự, nhà thơ có nói: quê tôi ở Kim Sơn – Ninh Bình, nơi có nhà thờ Đá, vì thế tiếng chuông như là ám ảnh trong tiềm thức của tôi. Tiếng chuông được cất lên trong khi cử hành các nghi thức tôn giáo và từ đó con người hướng về những điều tốt lành, thánh thiện trong cuộc đời, để tâm hồn trở nên thư thái: Ta ngồi nhập định cùng hoa/ Thành chuông ai thỉnh ngân nga cỏ mềm (Qua hoàng hôn).

 

Tiếng chuông biểu tượng cho hòa bình, cho một không gian cõi thế bình yên: Những quả chuông trái tim đã nối vào nhau cùng rung lên hồi chuông thống thiết. Có thể lọc từ ngân nga một nỗi lo âu, ai nấy cố che đi câu hỏi kiêng không nói mà cũng kiêng không viết (có hay không cuộc Đại – chiến – thế - giới - III) (Người cùng thời – Chương X).

 

Chuông là biểu tượng cho việc thanh lọc tâm hồn, sự hướng thiện của con người. Biểu tượng quả chuông trong suy nghĩ của nhà thơ mang một ý nghĩa nhân sinh, tiếng chuông cất lên thì bao nhiêu bóng tối đều bị xua tan “Chiếc lá kia rơi/ Mặt đất sẽ trũng xuống/ Vọng tiếng chuông xua mây đen” (Thu đến).

 

Thứ năm, biểu tượng Con đường.

 

Trên thực tế, con đường là hình ảnh mở ra cho ta lối đi mới trong cuộc sống. Không nằm ngoài ý nghĩa đó, con đường đi vào thi giới thơ Mai Văn Phấn được khắc họa, miêu tả thật sinh động:

 

- Trang sách/ Mở mặt đất chữ/ Rừng núi/ sông hồ/ Những con đường chữ (Tĩnh lặng)

 

- Nóng lòng đợi mưa/ Cuối con đường chưa thấy/ Gió đã thổi (Hình đám cỏ - Nhịp I)

 

- Mơ giăng cỏ mượt/ Vồng ngực săn chắc/ Hơi thở nồng nã đất đai/ Chạm nhau nghe đất đi xa / Con đường ngủ yên cây lá/ Đang thức giấc  che chở/ Ghì níu gót chân (Hình đám cỏ - Nhịp V)

 

Con đường mở ra chân trời mới, mở ra nhiều cánh cửa để con người bước tiếp.

 

Và cuối cùng là CON ĐƯỜNG

Tiếng kẹt cửa réo vang

Mở con đường

 

Con đường réo gọi “bàn chân”, “mở” và “bước đi”. Quá khứ với bao thứ rỉ sét cũ kĩ, giết chết bao điều mới lạ. Muốn mở, thi sỹ cần tạo nên tiếng kẹt cửa – về phía con đường, hướng về con đường, để: tìm đường, vạch đường, nhận ra con đường, nhìn rõ con đường, khao khát làm con đường, tô đậm con đường…Bỏ lại sau lưng những “con đường cổ lỗ chôn nông khuôn mặt hạn hạn”, hay “kinh hoàng và ngoái lại thương xót con đường chỉ biết rạch tia chớp vu vơ không khả năng chập cháy”. Con đường bây giờ ta hướng đến là con “đường bay”, “đường chân trời”. “Con đường là cánh tay anh”, “Bàn tay săn bắn và hái lượm giờ tìm đường lên vì sao và xuống các đại dương”. Và, rồi “Bàn tay em tìm trăng/ Từng ngón đêm lóe sáng/ Một con đường thanh sạch/ Thức dậy làn hương”. Con đường mở ra bao chân trời, nơi đó, thơ ca cất tiếng nói ban đầu: tinh khôi, giản đơn và thuần khiết.

 

Thứ sáu, biểu tượng Em.

 

Nằm trong cảm hứng về tái hiện thế giới trong quy luật sinh hóa vĩnh cửu, hình ảnh Em được tô đậm hiện thân của sự tươi tốt và phì nhiêu, niềm vui và hạnh phúc. Xuất hiện với mật độ dày đặc, Em trong thơ Mai Văn Phấn được miêu tả qua nhiều góc nhìn khác nhau.

 

- Em chợt hiện/ Từ hương thơm trái chín/ Trong dập dờn bãi ngô mùa thụ phấn/ Lá giật mình/ Cá lặn xuống chân./ Hút mãi về em/ Từng hơi thở đất/ Anh hạn hán/ Cơn mưa chiều tất bật./ Heo may thoảng hơi người phảng phất/ Mặt nước trong veo một nỗi ngóng em về (Nỗi nhớ mùa thu).

 

- Thế giới lặng im/ Chỉ lẻ loi tiếng sáo/ Dịu hiền em (Hình đám cỏ - Nhịp VII).

 

- Bình yên trong miệng anh/ Em thúc nhẹ bờ vai/ Vòm ngực, ngón chân vào má/ Huyên thuyên và hát thầm/ Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể (Ngậm em trong miệng)

 

Với Mai Văn Phấn, Em vừa là người vợ, người mẹ, vừa là người bạn tình. Em là hóa thân của Mẫu, người mẹ thiên nhiên cao cả, vô lượng: Mẫu nâng niu con ánh trăng/ Tiếng chuyền cành, tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng mây mưa nguồn… Từng chồi chân tay bé xíu/ Bật nhẹ trong cơ thể Người/ Con tỉnh giấc (Cửa Mẫu)…Em là người vợ đã ban tặng cho anh niềm vui, hạnh phúc: Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều ngọt ngào cánh cò, cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình chẳng còn bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con be bé xinh xinh (Em cho con bú)

 

Em hiện hữu như là chốn bình yên để nhà thơ bám víu, nương tựa, trở về trong những cơn phong ba bão táp của cuộc đời.: "Luôn tin có em trong miệng anh/ Nơi không chiến tranh, dịch hạch/ Mũi tên bắn lén tẩm độc/ Thị phi, cạm bẫy, lọc lừa/ Lối em đi không còn gai nhọn/ Bão tràn qua anh dựng tường ngăn/ Bình yên trong miệng anh/ Em thúc nhẹ bờ vai/ Vòm ngực, ngón chân vào má/ Huyên thuyên và hát thầm/ Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể/ Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động" (Ngậm em trong miệng). Và, chính em đã đem đến cho anh: "Từng giọt mát lành thấm nhuần trong đất/ Tươi từ môi anh đến gót chân em/ Anh ngỡ mình được phép lành thánh thể/ Đêm vừa qua hay đã mấy nghìn năm" (Ngậm em trong miệng).

 

Dù xuất hiện ở bất cứ vai trò gì thì “Em” vẫn luôn mang lại cho anh niềm vui, chỉ có bên em anh mới thấy được bình yên như con chiên được chúa che chở. “Em” là một biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở. Với ý nghĩa đó, Em mang lại tình yêu bất tận cho cõi thế.

 

Mỗi hình ảnh, biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn được xây dựng nhằm thể hiện những ý nghĩa nghệ thuật nhất định và làm rõ quan niệm tái hiện thế giới trong một quy luật sinh hóa vĩnh cửu,bất diệt.

 

3.3.2. Những tìm tòi mới trong bút pháp tạo hình

 

Khái niệm "bút pháp" là "cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó” [18; 29]. Bút pháp tạo hình là bút pháp xây dựng một thế giới hữu hình với mọi màu sắc, âm thanh, hình khối, không gian và thời gian cụ thể.

 

3.3.2.1. Tạo hình bằng những hình ảnh, chi tiết “tả thực”

 

Thơ ca luôn phản ánh sự vật, hiện tượng theo đúng bản chất của nó. Xuyên suốt hành trình thơ Mai Văn Phấn, ngay từ những sáng tác ở giai đoạn đầu, chúng ta đã bắt gặp không ít nhưng những chi tiết mang tính tả thực, chẳng hạn:

 

- Bát canh nóng…/làm môi anh dễ bỏng/ mùi hành hoa, gia vị, rau thơm, nước ngọt xương hầm, mộc nhĩ…(Những bông hoa mùa thu).

 

- Chênh vênh nhịp cầu ao/ Ru ta hoài…lặng lẽ/ Có con cáy ngạo nghễ/ Đang bò trên cánh bèo…(Nét quê).

 

- Em cười nói hồn nhiên trẻ nhỏ/ Lất phất mưa anh phờ phạc ưu tư/ Lặng lẽ một mình đan ngón tay/ Không cho ánh sáng đi qua/ Không cho gió đi qua/ Ở đây không nắng và gió/ Càng khủng khiếp nép vào tĩnh lặng (Hình đám cỏ - Nhịp II).

 

Trong tập thơ Hoa giấu mặt, nhà thơ tái hiện lại bức tranh cuộc sống qua nhiều chi tiết thoạt nhìn rất sống, rất thực. Chẳng hạn, đọc bài thơ Con mắt nghiêng, ta sẽ bắt gặp được những hình ảnh:

 

- Đang tắm dở/ Nghe tin thời thế/ Đã đổi

 

- Một ngày làm việc/ Xây mộ hoàng đế/ Góc nào biết góc ấy

 

- Bát cơm, quả trứng/ Người chết không ăn/ Nhường giun dế

 

- Cỏ trên mộ cha/ Như vườn trồng/ Tự bao giờ

 

- Vẫn chìa khóa ấy/ Hôm nay/ Không thể mở

 

- Trời tối/ Con chuột và tôi/ Băng qua  đường

 

-Trăng/ Sáng hơn/ Trên đám cỏ héo

 

- Trong rừng sâu/ Con ếch lơ láo/ Nhìn tôi

 

- Suốt cơn mưa/ ít có hạt nào/ Rơi thẳng

 

Với bút phát tạo hình bằng chi tiết tả thực, nhà thơ đã tái hiện bức tranh đồng nội của làng quê Việt Nam thật gần gũi, thân quen. Ở đó, con người luôn được thả lỏng tâm hồn mình để hòa vào thiên nhiên, sống với thiên nhiên, gạt bỏ bao âu phiền sau những lo toan của cuộc sống:

 

Thương lắm dấu chân gốc rạ

 giếng sâu, sông ngòi, ao chuôm

 

Đừng ngồi trong phòng lâu quá

ra cánh đồng, ra bờ sông

nơi rau xanh, cá quẫy

 

Cắn miếng dứa thơm, núi cam ngọt

từng giọt rơi xuống đất nâu.

(Từ nhà mình)

 

Đặc biệt, khi miêu tả giấc mơ, nơi thế giới mộng tưởng, huyễn hoặc, thi sỹ lại sử dụng vốn từ ngữ, hình ảnh rất đỗi bình dị, quen thuộc, gần gũi:

 

Đêm qua tôi mơ

Người bán vé số đầu ngõ

Được làm vua

 

Tôi và mấy hàng xóm

Mặt mày nhởn nhơ

 

Một hoan quan thét lên: Quỳ xuống!

Các ngươi đã lạc sang thế giới khác!

(Tiếng vỗ ngắn)

 

Đúng là không thể “thực” hơn! Tất nhiên, đấy là những chi tiết thực tế của của đời sống đã được chọn lọc và chưng cất theo cách riêng của sáng tạo nghệ thuật. Không nên (và cũng không thể) đánh đồng “cái thực” trong thơ với “cái thực”của đời sống xã hội bên ngoài.

 

Trong thơ Mai Văn Phấn, các chi tiết chân thực của đời sống được đưa vào thơ với tư cách là những phương tiện diễn đạt, nhằm để đem lại một sự ngẫm nghĩ nhân sinh đời hơn, thực hơn, gần gũi hơn nhưng không kém phần phổ quát và sâu sắc. Bằng bút pháp tạo hình ấy, Bông hoa Yên Tử thật là thực mà cũng thật là ảo diệu:

 

Xuống chân núi

Gặp đoàn hành hương

Tay gậy trúc

Mắt ngước lên

Thiêu đốt gốc hoa ngùn ngụt

(Bông hoa Yên Tử)

     

Tóm lại, với bút pháp tạo hình bằng những chi tiết tả thực, Mai Văn Phấn đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và tâm hồn con người  một cách tươi tắn, thú vị mà không kém phần sâu sắc và bất ngờ. Cũng cần chú ý, trong một trường nhìn mang tính tổng thể, những chi tiết tạo hình giàu tính tả thực này luôn có khả năng “lóe sáng” những ý nghĩa tượng trưng rộng lớn hơn, phổ quát hơn chính nó.

 

3.3.2.2. Tạo hình bằng những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực

Nếu thơ ca, chỉ đơn thuần phản ánh hiện thực với những ngôn từ gọi đúng bản chất sự vật mà mất đi sự lãng mạn, “bí ẩn” thì không còn là thơ. Bằng tài năng và trực giác nhạy bén trời ban, thi sỹ Mai Văn Phấn luôn đưa đến cho bạn đọc những hình ảnh ấn tượng nhờ bút pháp tạo hình bằng những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực.

 

Bên cạnh tính “tả thực”, hình ảnh trong thơ Mai Văn Phấn còn mang đậm tính hư ảo, tưởng tượng. Điều đó xuất hiện ngay trong những sáng tác ở giai đoạn đầu như Tự thú trước cánh đồng; Bài ca ban mai; sau mùa gặt…và càng về sau, những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng càng xuất hiện dày đặc trong sáng tác của thi sỹ: Gió thổi,Tắm đầu năm;  Những bông hoa mùa thu, Để nhận ra anh, Đỉnh gió, Mùa trăng, Hình đám cỏ, Ngậm em trong miệng, Tỉnh dậy trong mưa, Buông tay cho trời rạng, Giấc mơ cây… Ở đó, chúng ta bắt gặp những điều tưởng như phi lý nhưng lại rất có lý trong cuộc sống của con người hiện đại hôm nay.

 

Tắm đầu năm là một bài thơ được xây dựng bằng rất nhiều những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực:

 

Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch

Quay về tắm bằng ngọn đèn

xối ánh sáng vào từng góc khuất

góc khuất như lò thúc mầm

như thép nóng đem tôi vào nước

như quả trứng trong ổ đang ấp

rễ thân cành đã chiết đâm ngang

 

Trong thơ Mai Văn Phấn, phần lớn những hình ảnh  mang tính hư ảo, tưởng tượng này rất  đẹp và thơ mộng. Điều này được thể hiện rất rõ, rất ấn tượng qua những  câu thơ, bài thơ viết về tình yêu. Chẳng hạn những câu thơ này:

 

Chúng mình hôn nhau trong hành lang hẹp

trên cỏ xanh, trong những góc tối

trên tháp chuông, bên gốc cây cổ thụ…

 

Bốn bề nước tràn ướt chân

lúc ấy gió thổi rất mạnh

(Gió thổi)          

 

Hay:

Em mơ một con thuyền

Trôi trên cao

Có thể nhìn thấy đáy

Tưởng tượng anh nhón chân đến gần

 

Luồng ánh sáng từ mảnh thiên thạch

Vòm cây cao, những vì sao

Tan tác khi con thuyền nghiêng bánh lái

(Buông tay cho trời rạng)

 

Thi sỹ đang diễn tả lại giấc mơ của “Em” và “Anh”. Em mơ về một không gian đầy ánh sáng, nơi đó có một con thuyền để chở em đi. Con thuyền mà em đang mơ, đang muốn níu giữ đó có lẽ không phải là con thuyền thực mà phải chăng đó chính là “Anh”, nên: Em vẫn mơ canh giữ con thuyền/ Thức dậy đổ đầy trăng vào nắng sớm. Canh giữ để đến một ngày nào đó khi niềm tin trong em đủ lớn, em sẽ: Cố nép vào thành giường/ Em nín thở chờ thời khắc yên tĩnh/ Ôm con bồ câu vô hình/ Đợi mặt đất bình yên buông tay cho trời rạng.

 

Bài thơ Ngậm em trong miệng là một ví dụ tiêu biểu khác.

 

Luôn tin có em trong miệng anh

 

Nơi không chiến tranh, dịch hạch

Mũi tên bắn lén tẩm độc

Thị phi, cạm bẫy, lọc lừa

Lối em đi không còn gai nhọn

Bão tràn qua anh dựng từng ngăn

 

Bình yên trong miệng anh

Em thúc nhẹ bờ vai

Vòm ngực ngón chân vào má

Huyên thuyên và hát thầm

Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể

 

Anh là con cá miệng dàn dụa trăng

Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động

(Ngậm em trong miệng)

 

Quả thực đấy là những hình ảnh thơ đầy bất ngờ, đầy hư ảo và siêu thực. Những hình ảnh này gợi liên tưởng đến Tình nhân của Paul Eluard: Em đứng trên mi mắt anh/ Tóc em nằm trong tóc anh/ Em có dáng hình giống như hai bàn tay anh/ Em có sắc màu của đôi mắt anh/ Em chìm ngập trong bóng anh/ Như một phiến đá ở trên trời...Có thể nói, bút pháp tạo hình bằng những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực trong thơ Mai Văn Phấn đưa đến cho người đọc những cảm nhận và liên tưởng độc đáo.

 

3.3.2.3. Tạo hình bằng cách tô đậm những đường nét, yêu tố nghịch dị

 

Tạo hình theo nguyên tắc "ảo hóa" bằng cách tô đậm những đường nét, dáng vẻ nghịch dị, lạ lùng của sự vật nhằm đem lại những ấn tượng thẩm mỹ khác thường là một nét độc đáo khác trong bút pháp Mai Văn Phấn.

 

Để diễn tả về một đời sống đầy bạo lực, bất toàn, méo mó, nhà thơ đã dùng một thứ ngôn ngữ hình ảnh siêu thực, nghịch dị (rất gần với hội họa siêu thực) để diễn tả. Trong cái nhìn “lạ hóa” của ông, thế giới hiện lên dị dạng, méo mó, khác thường. Đó là hình ảnh cái miệng đang trôi “không phát ra tiếng động/ chỉ hiện lên một đoạn phim câm”, cái lưỡi “bị thắt/ treo lên đỉnh cột/ mỗi lần nói/ chiếc lưỡi phải rút/ kéo thân thể béo ị lên cao”, những đứa trẻ “nghẹn ngào nước mắt chảy vào trong”, giấc mơ của con chó, con gián “kiếp trước từng là người đàng hoàng”, giờ đây tôi và con gián “Tôi và con gián cùng hội thảo khoa học/ cùng đeo khẩu trang, cùng ngắm hoa/ cùng bẫy chim, cùng khắc phục hậu quả/ cùng lau mồ hôi, cùng tiên tri”… Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ… Phản ánh hiện thực qua các hình ảnh nghịch dị làm nổi bật nhận thức về cái phi lý như một tồn tại tất yếu của đời sống con người hiện đại. Đó là kết quả của một cái nhìn nghiệm sinh bi đát nhưng không kém phần chua chát và hài hước về trạng thái tha hóa của nhân sinh. Không thể tin, Quay theo mái nhà, Hắn, Dạy trẻ con, Hội chứng từ một tin đồn, Chỉ là giấc mơ, Ở những đỉnh cột, Nếu, Cái miệng bất tử,…   là những bài thơ dày đặc hình ảnh siêu thực, nghịch dị. Con người trong thế giới thơ đó dường như cũng trở nên tha hóa, bất thành nhân dạng. Hình ảnh “hắn” trong Hắn, Đến trong ý nghĩ…  là một hình nhân ma mãnh, kì dị, âm bản của một cái tôi “tỉnh táo tột cùng”. Hắn có mặt ở khắp nơi nhưng luôn ẩn trong bóng tối và có khả năng biến hình tùy theo hoàn cảnh:

 

Hắn là nơi hoàn thiện:

của gương đã lành/ sâu đã nở/ trinh đã mất/ cáp đã

đứt/ cống đã thông...

là bãi phế thải của giẻ rách/ mảnh thủy tinh/ băng vệ

sinh/ giày dép lạc mốt...

là viên đạn bay đi chạm đích/ những vòng kinh hồi

sinh/ dòng sông gặp biển...

(Hắn)

 

Dường như,với bút pháp tạo hình bằng cách tô đậm những đường nét, dáng vẻ nghịch dị, lạ lùng của sự vật, Mai Văn Phấn đã đưa ra lời cảnh báo cho con người rằng: thế giới đang biến đổi chóng mặt và ngày càng trở nên nhiễu loạn.

 

Tóm lại, để xây dựng thế giới nghệ thuật riêng, Mai Văn Phấn đã sử dụng nhiều phương thức, phương tiện thể hiện tương ứng, hiệu quả. Trong đó, hình ảnh – biểu tượng và bút pháp tạo hình là một nét nghệ thuật độc đáo, nổi bật.  

 

 

KẾT LUẬN

 

1. Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Đó là một chỉnh thể nghệ thuật sống động, cảm tính, được xây cất bằng vật liệu ngôn từ và các phương thức, phượng tiện nghệ thuật đặc thù. Là đứa con tinh thần của nghệ sỹ, thế giới nghệ thuật luôn hàm chứa và thể hiện quan niệm riêng của người nghệ sỹ về thế giới, con người và bản thân sự sáng tạo. Mai Văn Phấn là gương mặt cách tân nổi bật của thơ Việt Nam đương đại. Hành trình sáng tạo của thi sỹ là một hành trình lao động miệt mài, bền bỉ với tìm tòi, cách tân thi pháp không mệt mỏi. Cho đến thời điểm hiện tại, nhà thơ đã cho ra mắt bạn đọc 11 tập thơ và  trường ca. Có những tác phẩm được tái bản nhiều lần và một số tập thơ song ngữ của ông được giới thiệu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong thơ, Mai Văn Phấn đã kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo, nổi bật.

 

2. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, trước hết, chúng tôi đi sâu khám phá hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn nổi lên bốn đặc điểm cơ bản: a) giàu khát vọng và năng lượng cách tân  thi ca; b) say đắm, nồng nàn trong tình yêu; c) thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy cảm; d) khao khát hướng tới một thế giới tinh thần lý tưởng, “thuần Việt”. Đi cùng hình tượng cái tôi là hình tượng thế giới. Đó là một thế giới viên mãn và thuần khiết; tương giao và hài hòa; và đầy ắp  những cảm giác siêu nghiệm. Để tổ chức nên thế giới nghệ thuật độc đáo ấy, nhà thơ đã sử dụng một cách linh hoạt và hiệu quả nhiều phương thưc, phương tiện thể hiện. Ông sử dụng đa dạng thể thơ, bao gồm lục bát, thơ tự do, thơ văn xuôi và thơ cực ngắn. Thơ ông nghiêng về kiểu kết cấu mở, tạo nên những khoảng trống thẩm mĩ rộng rãi, “vẫy gọi” nhiều hướng tiếp nhận khác biệt. Việc sử dụng linh hoạt bút pháp tạo hình, đặc biệt theo hướng siêu thực – nghịch dị, là điều kiện để thi sỹ thâm nhập sâu hơn vào hiện thực và đời sống tinh thần,  vốn đầy những mâu thuẫn và đối nghịch, của con người hiện đại.

 

3. Bên cạnh những thành công, thơ Mai Văn Phấn vẫn còn những hạn chế nhất định. Sự lớp lang, tỉ mỉ, chi tiết khiến ngôn ngữ thơ nhiều khi trở nên rườm rà, dài dòng, mất đi những khoảng trống và độ mờ thẩm mĩ cần thiết, vốn là yếu tố quan trọng để tạo nên chất thơ của tác phẩm. Bên cạnh đó, việc cố tính phá bỏ tính nhạc truyền thống (được tạo nên bởi cách gieo vần, ngắt nhịp, phối thanh quen thuộc…) để nhằm hướng tới tính nhạc bên trong của hình tượng… cũng khiến thơ ông trở nên khó đọc, khó nhớ. Những tìm tòi, cách tân quyết liệt về mặt kĩ thuật viết là hết sức đáng quý song chính điều đó có khi khiến tác giả chưa tìm được sự tương khớp giữa mục tiêu, cảm hứng với hình thức thể hiện… Mục đích tìm đến một tiếng thơ Lý tưởng, hài hòa giữa tiếng nói nội tâm của con người hôm nay với những giá trị truyền thống và với những kĩ thuật viết hiện đại là hết sức có ý nghĩa. Song có lẽ, tác giả cũng cần chú ý hơn đến phương diện tiếp nhận của độc giả…

 

4. Nhìn chung, thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn là một cấu trúc phức tạp, đa diện, liên tục biến đổi. Nói đến thơ Mai Văn Phấn là nói đến cái nội lực chi phối tổng thể, cái “từ trường thẩm mĩ” được tạo ra hơn là các câu chữ riêng lẻ. Bởi vậy, thật không dễ cho người đọc khi tiếp cận, lí giải. Nhưng, đúng như một nhà phê bình đã nhận xét, “ một khi vượt qua định kiến của thói quen thẩm mĩ, chấp nhận những quy ước mới của “luật chơi” sáng tạo vốn vô cùng đa dạng, có lẽ ta sẽ được đền bù xứng đáng. Ít nhất, trải nghiệm đọc ấy cũng giúp ta nhận ra sự rộng rãi không cùng của không gian sáng tạo và vẻ đẹp của sự phong phú trên những hành trình tinh thần của con người” [62].

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO


  1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - nhận thức và thẩm mỹ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
  4. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
  5. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975-2000), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
  6. Mai Ngọc Chừ (2005), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, Nxb Văn hoá - Thông tin.
  7. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb văn học, Hà Nội.
  8. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học.
  9. Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.
  10. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

11.  Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

12.  Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá, Lê Quang Hưng, Nguyễn Phượng, Chu Văn Sơn (2005), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, (tập 1), Nxb Giáo dục.

13.  Nguyễn Đăng Điệp (2006), Thơ Việt Nam sau 1975 - từ cái nhìn toàn cảnh, Nghiên cứu văn học, (11).

14.  Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục.

15.  Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16.  Hà Minh Đức (chủ biên 1999), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

17.  Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hà Nội.

18.  Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19.  Nguyễn Quang Hà (2012), Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Thái Nguyên.

20.  Nguyễn Hưng Hải, "Thơ Mai Văn Phấn, tiếng nói tỉnh táo và đa thanh",  4phuong.net

21.  Hegel (1998), Mỹ học, tập 1 (Phan Ngọc dịch), Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.

22.  Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn.

23.  Nguyễn Nhật Huy (2014), " Những biểu tượng thức giấc trong thơ Mai Văn Phấn", vannghethainguyen.vn.

24.  Lê Quang Hưng, Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu - thời kì trước 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

25.  Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26.  Mã Giang Lân, (2005), Văn học hiện đại Việt Nam vấn đề - Tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27.  Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

28.  Phong Lê, Vũ Văn Sĩ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2000), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động.

29.  Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp..., Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

30.  Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31.  Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

32.  Phương Lựu (chủ biên, 2009), Lý luận văn học, tập 1: Văn học - nhà văn - bạn đọc, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

33.  Phương Lựu (chủ biên, 2009), Lý luận văn học, tập 3: Tiến trình văn học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

34.  Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

35.  Phạm Thùy Linh (2009), “Nỗi cô đơn mênh mông trong Để nhận ra anh”, Hải Phòng cuối tuần, (15).

36.  Vi Thùy Linh (1999), “Một con chiên nguyên khiết của thi ca”, Thừa Thiên Huế, (1507).

37.  Phương Mai, "Tản mạn về "cỏ" trong thơ Việt", mucxanhaotrang.vn

38.  Nguyễn Đăng Mạnh (1991), " Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn", Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39.  Gieke Marina, "Nhà thơ Mai Văn Phấn: con đường khác tìm đến  thơ Việt hiện đại", Vanvn.net

40.  Dương Kiều Minh (2009), “Hiện thực giả định và hiện thực tâm tưởng trong thơ Mai Văn Phấn”,  Văn nghệ công an, (114).

41.  Dương Kiều Minh, "Lộ trình thơ Mai Văn Phấn- 1", 4phuong.net

42.  Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1990), Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.

43.  Trần Thế Nhân, "Nhìn nhận yếu tố tượng trương, siêu thực trong thơ Mới",  bichkhe.org

44.  Yến Nhi (2010), "Vẻ đẹp siêu thực trong thơ", 4phuong.net/ebook/.

45.  Hoàng Kim Ngọc (2011), “Đồng sáng tạo để giải mã văn bản thơ “Hoa Giấu mặt” của Mai Văn Phấn, Vietvan.vn.

46.  Nhiều tác giả (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Nxb Hội Nhà văn.

47.  Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập thơ Việt Nam giai đoạn 1975-2000 (3 tập), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

48.  Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.

49.  Nhiều tác giả (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Nhiều tác giả (2001), Siêu thực, tuyển tập văn chương 5, Nxb Thanh niên.

51. Nhiều tác giả (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

52.  Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

53.  Lê Lưu Oanh (2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.

54.  Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (hai tập), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

55.  Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển cùng tiểu luâ%3ḅn và trả lời phỏng vấn, Nxb Hô%3ḅi nhà văn, Hà Nô%3ḅi.

56.  Mai Văn Phấn (2012), Hoa giấu mặt, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

57.  Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội nhà văn, Việt Nam.

58.  Mai Văn Phấn (2013), Những hạt giống của đêm và ngày, Nxb Hội nhà văn Việt Nam.

59.  Mai Văn Phấn (2013), “Vẻ đẹp quyền năng của thơ ca”,  http://maivanphan.vn

60.  Mai Văn Phấn (2013), “Không gian thơ”, http://maivanphan.vn

61.  Lương Kim phương (2014), “Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng”, http://mai vanphan.vn

62.  Lê Hồ Quang (2014), "Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn", http://maivanphan.vn

63.  Lê Hồ Quang (2014), “Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó”, http://maivanphan.vn

64.  Nguyễn Hưng Quốc (1998), Sống với chữ, Nxb Văn nghệ, Califonia, Hoa Kỳ.

65.  Nguyễn Hưng Quốc (2001), Văn học Việt Nam từ điểm nhìn hậu hiện đại, Nxb Văn nghệ.

66.  Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn.

67.  Trần  Đình Sử (1995),  Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

68.  Trần Đình Sử (chủ biên ), Lí luận văn học, tập 2: tác phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

69.  Hoài Thanh, Hoài Chân (2005), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

70.  Nguyễn Hữu Tấn (2013),“Vô thức trong văn học”, tapchisonghuong.com.vn.

71.  Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

72.  Vũ Thị Thảo (2011), Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Đà Nẵng.

73.  Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.

74.  Đỗ Lai Thúy (2005), Bút pháp của ham muốn, Nxb Lao động, Hà Nội.

75.  Nguyễn Quang Thiều (2006), “Người đứng trước những con sóng”,  An ninh thế giới cuối tháng, (54).

76.  Phạm Quang Trung (2001), “Nghĩ từ Những ngón tay dị dạng của Đặng Huy Giang”,  Người Hà Nội, (43).

77.  Lê Vũ (2010), "Mai Văn Phấn, hai tập thơ, hai mảng màu hiện thực", Tản Viên Sơn, (4).

78.  Lê Vũ (2014), “Hoa giấu mặt và cuộc đối thoại vô ngôn”, http://maivanphan.vn

 

 

 

 

 

 







BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị