Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Hoàng Thị Thanh Nhàn
BỘ GIÁO
DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC VINH
Hoàng Thị Thanh Nhàn
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hồ Quang
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí
do chọn đề tài
2. Lịch
sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu .
5.
Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng
góp của luận văn
7. Cấu
trúc của luận văn
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1.
Thế giới nghệ thuật
1.1.2. Thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình
1.2.
Mai Văn Phấn và các chặng đường thơ
1.2.1. Tiểu sử nhà thơ Mai Văn Phấn
1.2.2. Các chặng đường thơ Mai Văn Phấn
1.3. Cơ sở hình thành thế giới nghệ thuật trong
thơ Mai Văn Phấn
1.3.1. Về
thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
1.3.2. Những cơ sở hình thành nên thế giới
nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
Chương 2. HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG
THẾ GIỚI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1.
Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn
2.1.1. Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng
cách tân thi ca
2.1.2. Cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình
yêu
2.1.3. Cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh
táo và trực giác nhạy bén
2.1.4. Cái tôi khao khát hướng tới một thế
giới tinh thần lý tưởng “thuần Việt
2.2.
Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Một thế giới của sự viên mãn và thuần
khiết
2.2.2. Một thế giới của sự tương giao, hài
hòa
2.2.3. Một thế giới của những cảm giác siêu
nghiệm
Chương 3. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG THẾ GIỚI NGHỆ
THUẬT TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1.
Thể loại
3.1.1. Thơ lục bát
3.1.2. Thơ tự do
3.1.3. Thơ văn xuôi
3.1.4. Thơ cực ngắn
3.2.
Kết cấu
3.2.1. Kết cấu văn bản
3.2.2. Kết cấu hình tượng
3.3.
Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và biện pháp tạo hình
3.3.1. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng
3.3.2. Những tìm tòi trong bút pháp tạo hình
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ts. Lê Hồ Quang (trái) và Th.sỹ Hoàng Thị Thanh Nhàn trong ngày bảo vệ LVTS
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mai Văn Phấn là một cây bút cách tân
tiêu biểu của thơ Việt Nam đương đại. Với ông, sáng tạo nghĩa là phải luôn đổi
mới và quá trình sáng tạo chính là “những cuộc cách mạng liên tiếp xảy ra trong
mỗi nhà thơ”. Điều đó được chứng minh rất rõ qua các chặng đường thơ của ông.
Nhà thơ quan niệm rất nhất quán: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt
những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác
trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân là nhằm
gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [55;378]. Có lẽ
chính vì thế nên khi xuất hiện, những “đứa con tinh thần” của ông luôn tạo ra
những hiệu ứng thẩm mỹ trái chiều và mạnh mẽ.
1.2. Thế giới nghệ thuật là thế giới hình
tượng được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên
tắc tư tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Gắn với một thế giới nghệ
thuật là một quan niệm riêng, cá tính
sáng tạo riêng của mỗi tác giả. Có thể thấy, gắn liền với một quan niệm thẩm mĩ
mới mẻ, thơ Mai Văn Phấn là một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo.
Tuy nhiên, cho đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp bàn đến vấn đề này. Do đó,
chúng tôi quyết định chọn “Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn” làm đề
tài nghiên cứu của luận văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Mai Văn Phấn là cây bút cách tân tiêu biểu
trong văn học đương đại. Về vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, cũng
đã có một số công trình, bài viết quan tâm tìm hiểu. Sau đây chúng tôi sẽ lược
thuật những ý kiến tiêu biểu.
2.1. Những nhận định, đánh giá về đặc trưng
thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
Văn Giá trong bài Thơ
sinh ra để nói về niềm hy vọng của con người, khẳng định thế giới nghệ
thuật trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới rất khó nắm bắt với sự “Bề bộn về số lượng: 370 bài. Bề bộn về ý
tưởng. Bề bộn về thi ảnh. Bề bộn cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do,
thơ văn xuôi, trường ca. Lại đi qua ba quãng tính từ những bài thơ đầu tiên cho đến hôm nay. Thế nên,
để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với
bất cứ ai” [46; 528] Nhà phê bình này cũng nhận xét rất xác đáng: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn
sinh và hóa sinh bất định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên
thật nhất quán: còn sự sống là còn phồn sinh và hóa sinh bất định; và còn phồn
sinh hóa sinh bất định là còn khiến con người ta có quyền hy vọng vào những gì
đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng không bao giờ
ngơi nghỉ ở con người” [46; 529].
Theo Đỗ Minh Tuấn: “Thế giới thơ của Mai Văn Phấn luôn luôn trong trạng thái sẵn sàng bùng
nổ. Một biến động dù thi nhân
day dứt siêu hình, những suy tưởng miên man... tất cả đều có thể là nhỏ nhất
như một tia sáng, một tiếng chim... Từ cuộc sống xung quanh vọng tới cũng
có thể khởi động lên trong sứ giả của
một trật tự thi ca mới mẽ đang chờ” [46; 148].
Theo Nguyễn Quang Thiều, viết về thơ Mai Văn Phấn là viết về “ hiện thực của
những giấc mơ, của những câm lặng, của tưởng tượng và khát vọng. Hiện thực này
trong nghệ thuật được sinh ra để hé lộ cho ta thấy một đời sống tâm linh, và nó
tìm cách cứu vớt sự tuyệt vọng của một hiện thực khác mà con người đang phải
đương đầu” [76; 3].
Nguyễn Thanh Tâm
trong bài Lập thể của ký ức và tưởng
tượng xuyên qua Bầu trời không mái che đã
nhận định:“Thơ Mai Văn Phấn
quyến luyến người đọc không phải bằng sự mượt mà du dương của vần điệu. Sức hấp
dẫn của thơ anh nằm ở thế năng trong cấu trúc ngôn từ và hình ảnh. Đó chính là
những lập thể của kí ức và tưởng tượng, những chồng chất, đan cài, lồng hiện của hình ảnh, hình tượng thông qua
các thủ pháp nghệ thuật đã được dụng công gia cường. Như một tình nhân khó
tính, thơ Mai Văn Phấn khiến người ta mất nhiều tâm sức để chinh phục và khi đã
bén duyên thì không thể nào dứt ra được” [46; 395].
Tác giả Lê Hồ
Quang, trong bài Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn,
nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một
sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm
sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã
được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách
viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ
sáng tạo” [61; 1]. Và “ thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn
rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín
mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [61; 3].
Kim Chuông trong bài Mai Văn Phấn lấp lánh
giữa mông lung vô thức cho rằng: “Vũ
trụ đã nằm trong trái tim thi sĩ” và “Nhà thơ luôn văng mình về một phía xa
khuất để cố nén và ôm trùm nơi hồn mình một ngoại giới mông lung. Một vũ trụ
thiên nhiên tự nhà thơ đẻ ra các dồi dào trực giác, nhưng trực giác lại có quá
trình tích lũy nào đó”[46; 275].
Nhã Thuyên trong bài Khí quyển thơ-sinh
thái của Mai Văn Phấn: thơ, bầu trời và những linh hồn cho rằng thơ Mai Văn Phấn mang đến “không gian luôn rộng mở đón đợi người đọc cùng sáng tạo nhưng lại
không dễ dàng để gọi tên cái “khí” của một người thơ miệt mài, nhẫn nại, trong
lành và nhiệt huyết như Mai Văn Phấn”[46; 451].
Trong luận văn Một số cách tân nghệ thuật
trong thơ Mai Văn Phấn của Nguyễn Quang Hà (Đại học Thái Nguyên) cũng đã đề
cập tới một phương diện của thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, đó là không
gian nghệ thuật. Tác giả luận văn cho rằng: Trong thơ Mai Văn Phấn tập trung
thể hiện không gian đa diện - biến ảo và “biểu hiê%3ḅn rõ nhất của không gian đa diê%3ḅn - biến ảo là không
gian vụt hiê%3ḅn châ%3ḅp chờn giữa thực và ảo và không gian vô thức siêu
thực" [19; 59].
2.2. Những nhận định, đánh giá về nghệ thuật
xây dựng, thể hiện thế giới thơ Mai Văn Phấn
Nguyễn Hoàng Đức, khi đề cập đến sự thay đổi bút pháp
thơ Mai Văn Phấn, đã viết: “ Phải
nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng
thơ hiện đại thế kỷ hai mươi và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm
nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc
công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như
lông hồng” [46; 35].
Đỗ
Quyên, khi đề cập tới ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn, cho rằng: “Chúng ta đang bàn
đến một thi giới gần như không có vốn từ vựng riêng và lạ. Nếu lướt nhẹ trên
vài câu vài bài, sẽ tưởng đây là tay viết bình dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không
phải tra từ điển Việt – Việt! Không khó hiểu với từng bài lẻ nếu có được vốn
tối thiểu của luật câu cú tiếng Việt...” [46; 187]. Cũng theo tác giả Đỗ Quyên,
“Mai Văn Phấn không là chủ nhân của các câu thơ, đoạn thơ hút hồn theo nghĩa
đơn tuyến. Các bài hay và khá của thi sĩ đều là những mạng đan xen trên một
phông văn hóa ổn cố bằng loại ngôn ngữ giản dị, chiêm nghiệm” [46; 164].
Nhà thơ Inrasara thì cho
rằng: "Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn trong những năm hậu đổi mới
chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng và trịnh trọng. Ngôn ngữ thơ
của Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẩn, ngày càng hướng đến sự tự phát và ngẫu
hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng thùng" [46; 73].
Đặng
Văn Sinh, khi đề cập tới tập thơ Bầu trời
không mái che, đã viết: “Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trưng của bút pháp
Mai Văn Phấn. Nó biểu hiện ở dạng thức thơ không vần, không nhịp điệu, không
đăng đối và thường đảo ngược cấu trúc cú pháp”[46; 109].
Theo
học viên Vũ Thị Thảo: “Thơ Mai Văn Phấn có nhiều bài mang hơi thở tự do, ít khi
sử dụng những dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự cú pháp, đề cao sự liên
tưởng cá nhân. Để biểu đạt giấc mơ và đời sống vô thức, lối viết tự động được
xem như là phương thức hữu hiệu...Đó là một cách để thoát khỏi mọi định kiến
của xã hội và luân lý, để biểu lộ niềm tin vào tính dân chủ của ngôn ngữ, để tự
do suy ngẫm về chức năng của nghệ thuật và bản chất của quá trình sáng tạo”
[46; 572].
Tuy nhiên bên cạnh những
nhận định, đánh giá khẳng định giá trị thơ Mai Văn Phấn thì vẫn còn những nhận
định, đánh giá trái chiều. Chẳng hạn Đặng Huy Giang, trong bài viết đánh giá về
tập Thơ viết, đã chỉ trích cách dùng
từ, kết cấu trong thơ Mai Văn Phấn, cụ thể là trong bài Mười bài tập mùa xuân. Theo tác giả, bài thơ chỉ là tập hợp những
câu vọng cổ, rối rắm, vô nghĩa, dài dòng,... mà thôi.
Nhìn chung, những nhận định, đánh giá của các
tác giả về vấn đề thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn khá cụ thể, sâu sắc và có
giá trị, đưa lại cho chúng tôi những gợi dẫn quan trọng trong việc khám phá thế
giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chọn Thế giới nghệ thuật trong
thơ Mai Văn Phấn làm đối tượng nghiên cứu.
3.2. Phạm vi văn bản khảo sát
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong thơ Mai
Văn Phấn, luận văn khảo sát công trình Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận
và trả lời phỏng vấn (2013), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. Tập thơ Hoa giấu
mặt (2012), Nxb Hội Nhà văn Hà Nội. Tập thơ Vừa sinh ra ở đó (2013),
Nxb Hội Nhà văn Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề
tài này, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu sau:
4.1.
Tìm hiểu khái niệm thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn
Phấn.
4.2. Tìm
hiểu đặc điểm hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn.
4.3.
Tìm hiểu phương thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn.
5. Phương
pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
Quan niệm thế giới nghệ
thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc điểm riêng của thế giới nghệ thuật thơ
Mai Văn Phấn, luận văn chú trọng tìm hiểu những yếu tố tạo nên chỉnh thể này và
những quy luật cấu tạo của nó.
5.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp
người viết nhận ra bản sắc riêng, thi pháp riêng của Mai Văn Phấn khi xây dựng
hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới
(so với các nhà thơ khác).
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này giúp
người viết tìm kiếm một cách có hệ thống những hình ảnh, biểu tượng xuất hiện nhiều
lần trong thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn.
5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này giúp người viết làm rõ
những nét đô%3ḅc đáo về thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn và có
cái nhìn khái quát về thơ Mai Văn Phấn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần trong việc xác định, đánh giá những đóng góp
của thơ Mai Văn Phấn vào tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Đồng thời khẳng định
một phong cách thơ độc đáo - Mai Văn Phấn.
7. Cấu trúc
luận văn
Ngoài phần
Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về thế giới nghệ thuật thơ Mai
Văn Phấn
Chương 2. Hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới
trong thơ Mai Văn Phấn
Chương 3. Phương
thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn
Chương
1
KHÁI QUÁT VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1.Thế giới nghệ
thuật
Thế giới nghệ thuật là
khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong đời sống và trong học thuật. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thế giới nghệ
thuật là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ
thuật nhấn mạnh rằng: sáng tác nghệ thuật là
một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế
giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lý của con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ
thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan
hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... Như vậy,
khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ
thuật có cội nguồn trong thế giới quan, văn hoá chung, văn hoá nghệ thuật và cá
tính sáng tạo của nghệ sĩ” [18; 303].
Lí luận văn học (tập 2, do Trần Đình Sử chủ biên), khẳng
định: “Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống
nhất không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng
tạo của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong của nhà văn. Thế giới này chỉ
có trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật…Thế giới nghệ thuật là thế
giới tư tưởng, thế giới thẩm mỹ, thế giới tinh thần của con người” [68; 81]. Và
“Một thế giới nghệ thuật nhất định với tư cách là hệ thống không chỉ đặc trưng
cho tác phẩm đó, mà còn đặc trưng cho cả nhà văn nói chung…Nghiên cứu cấu trúc
của thế giới nghệ thuật vừa cho ta hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm,
quan niệm của tác giả về thế giới, vừa có thể khám phá thế giới bên trong ẩn
kín của nhà văn, cái thế giới chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật”
[68; 83].
Theo Nguyễn Đăng Mạnh: “Thế giới nghệ thuật
của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là chỉnh thể tất phải
có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có nghĩa là quan hệ
nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [37, tr.78].
Tham khảo những định nghĩa trên, chúng tôi đi
đến cách hiểu về khái niệm thế giới nghệ
thuật như sau:
Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng
được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư
tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Đó là một chỉnh thể nghệ thuật
sống động, cảm tính, được xây cất bằng vật liệu ngôn từ và các phương thức,
phượng tiện nghệ thuật đặc thù. Là đứa con tinh thần của nghệ sỹ, thế giới nghệ
thuật luôn hàm chứa và thể hiện quan niệm riêng của người nghệ sỹ về thế giới,
con người và bản thân sự sáng tạo. Đó không phải là một thế giới tĩnh mà là một
thế giới động, phản ánh những biến chuyển tinh vi và phức tạp trong tư tưởng
của người nghệ sĩ.
1.1.2. Thế giới nghệ
thuật trong thơ trữ tình
Theo Từ điển thuật
ngữ văn học, thơ trữ tình (tiếng Pháp: poesie lyrique), là thuật ngữ dùng
chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình. Trong đó, những cảm xúc và suy
tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được
thể hiện một cách trực tiếp. « Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính
chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình.
Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những biểu hiện
phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tình cảm cho tới những chính
kiến, những tư tưởng triết học"[18 ; 317].
Lê Quang Hưng trong Thế
giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945 cho rằng: “Thế giới nghệ thuật trong thi ca là thế giới được
nghệ sỹ sáng tạo ra bằng phương tiện ngôn từ. Nó chưa từng tồn tại trong thế
giới vật chất, và mãi mãi không bao giờ có thể biến thành thực tại vật chất.
Nhưng nó lại mang sự sống và tâm hồn chân thực của một người, một thế hệ, một
thời. Đó là bản lĩnh hình tượng của thế giới nghệ thuật - thuộc về tinh thần.
Là sản phẩm sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ, thế giới nghệ thuật vừa phản ánh
thế giới xung quanh được cảm thấy của chủ thể. Nói theo ngôn ngữ của lý luận
quen thuộc thì nó vừa phản ánh “hiện thực”, vừa phản ánh “ý thức chủ quan” của
người nghệ sỹ” [24; 5].
Thơ trữ tình là sự bộc lộ cái chủ quan, là sự biểu hiện và cảm thụ của
chủ thể trữ tình trong một không gian, thời gian nhất định. Vì thế, thế giới
nghệ thuật trong thơ trữ tình thể hiện rõ qua hai hình tượng: hình tượng cái
tôi và hình tượng thế giới. Cái tôi là hình tượng trung tâm của thơ trữ tình,
mang vẻ đẹp độc đáo không lặp lại. Hình tượng thế giới tồn tại trong thơ trữ
tình với vai trò là khách thể để chủ thể - cái tôi trữ tình thể hiện mình. Tất
nhiên, hình tượng thế giới (cũng như hình tượng cái tôi nói trên) thực chất đều
là hình tượng nghệ thuật, chúng được xây dựng, thể hiện theo những nguyên tắc
thẩm mĩ riêng của nhà thơ.
1.2. Mai Văn Phấn và các
chặng đường thơ
1.2.1. Tiểu sử Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn nhà thơ thuộc thế hệ hậu chiến, một trong
những gương mặt xuất sắc của khuynh hướng cách tân thơ Việt đương đại. Ông sinh
năm 1955, tại Kim Sơn, Ninh Bình, hiện sống và làm việc tại thành phố Hải
Phòng. Hải Phòng – thành phố cảng, chínhlà
nơi đã sinh ra nhiều tên tuổi tài năng như: Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn
Đình Thi, Bùi Ngọc Tấn, Thi Hoàng, Đồng Đức Bốn, Đình Kính, Dư Thị Hoàn, Mai
Văn Phấn... Trong đó, Mai Văn Phấn là một gương mặt tiêu biểu.
Mai Văn Phấn vốn là một học sinh giỏi văn của trường cấp
3 Kim Sơn, là người yêu thơ văn và bắt đầu làm thơ từ những năm 16, 17
tuổi. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Mai
Văn Phấn lên đường nhập ngũ. Năm
1981, trở về quê và làm việc tại Công ty Thuỷ lợi II Ninh Bình. Sau đó, học Đại
học Ngoại ngữ Hà Nội và được cử đi du học ở Liên Xô (cũ). Những năm tháng đi du
học cộng với tinh thần ham học hỏi, ông đã tiếp thu được tinh hoa nhiều nền văn
hóa, văn học trên thế giới. Đây là những kiến thức hết sức quan trọng làm nền
tảng cho hành trình sáng tạo của nhà thơ về sau.
Để hiểu hơn về tác giả này, ta hãy tìm hiểu thêm về những
yếu tố có tác động mạnh mẽ đến con người và hồn thơ ông.
Thứ nhất, yếu tố gia
đình. Xuất thân trong gia đình theo đạo Thiên chúa giáo nên từ nhỏ Mai Văn Phấn
đã rất ngoan đạo. Trong một lần tâm sự với Hoàng Hiệp, nhà thơ từng nói: “Tôi
sinh ra trong gia đình theo đạo Thiên Chúa. Từ nhỏ tôi rất ngoan đạo, thuộc
kinh bổn và thông thạo Kinh Tân Ước và Cựu Ước, các sách thánh, mê hát thánh
ca… Lúc ấy cha mẹ tôi rất muốn cho tôi vào nhà dòng để có thể đi tu lâu dài,
nhưng khi nhận ra con ngựa hoang’ trong tâm hồn mình, thấy sự đam mê, run rẩy quá đỗi của mình với vẻ đẹp của thiên
nhiên và con người… Tôi đã từ chối. Sau này khi du học ở Liên Xô cũ
(1983-1984), tôi đã gặp vợ tôi bây giờ – một người theo Đạo Phật. Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả
sự chiều chuộng người tôi yêu nữa. Khi nghiên cứu các giáo lý của các tôn giáo
lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng: Thượng Đế chỉ có một. Và, chắc chắn chúng
ta được sinh ra và bị chi phối bởi một Đấng –Toàn - Năng. Đấng – Toàn - Năng
cho con người biết được ‘gần đúng khuôn mặt và tinh thần của Ngài thông
qua các hình thức tôn giáo mà thôi”. Qua lời tâm sự này, chúng ta cũng phần nào
thấy được ảnh hưởng của các tôn giáo và các nền văn hóa thế giới trong thơ ông.
Thứ hai, yếu tố quê
hương. Ông được sinh ra và lớn lên ở Ninh Bình, vùng đất với nhiều truyền thống,
nét đẹp văn hóa dân tộc. Ninh Bình là vùng đất giao thoa giữa ba khu
vực Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó tạo nên một nền
văn hóa tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh
châu thổ sông Hồng. Vào thế kỉ X, Ninh Bình được xem là kinh đô, mảnh đất gắn
liền với bao thăng trầm của lịch sử. Đến thế kỉ XVI – XVII, đạo Thiên Chúa được truyền vào Ninh Bình, hình thành trung
tâm Thiên Chúa Giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn. Mảnh
đất quê hương với chiều sâu truyền thống và đặc thù văn hóa ấy đã in đậm vào
tâm khảm thi nhân, tạo nên những trang viết giàu nội lực và ám ảnh. Hiện tại,
Mai Văn Phấn đang công tác và sinh sống tại thành phố Hải Phòng, nơi được xem
là quê hương thứ hai của nhà thơ. Hải
Phòng là một trong các thành phố lớn của Việt Nam, nơi có vị trí quan
trọng về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước. Là
đầu mối giao thông vận tải với hệ thống cảng biển, Hải Phòng là thành phố phát
triển mạnh về kinh tế, cũng như đời sống, văn hóa …
Có thể thấy, yếu tố quê hương, gia đình đã ảnh hưởng, chi
phối mạnh mẽ tới nhiều phương diện nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn. Thơ ông
thể hiện tiếng nói tri ân đối với quê nhà, thể hiện tình yêu quê hương,
đất nước, sự gắn bó với những gì bình dị của đất đai, làng mạc và khát vọng tìm
kiếm, hướng về một tiếng thơ lý tưởng "thuần Việt".
Thứ ba, yếu tố thời đại. Thế kỉ XX,
XXI với sự phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ, xã hội phát triển,
tư duy của con người cũng đổi khác. Tương ứng với sự biến đổi của đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người, thơ ca cũng đang có những thay đổi
với nhiều hướng tìm tòi mạnh mẽ và khác biệt. Nhận thức được điều này, nhà thơ
tìm đến thơ ca để phản ánh hiện thực theo cách riêng, nhằm hướng về những nét
đẹp truyền thống thông qua lăng kính của con người hiện đại.
Mai Văn Phấn là con người thông minh, tài hoa – đó là
điều không thể không nói khi bắt đầu về
con người này.
Ngay từ những năm đang còn ngồi trên ghế nhà trường, tinh
thần ham học hỏi và tình yêu
thơ văn đã trỗi dậy trong ông. Ý chí, nghị lực và sự kiên trì trong học tập,
sáng tạo đã giúp ông có một phông văn hóa rộng và giàu kinh nghiệm trong cuộc
sống. Sau một thời gian dài tích lũy kiến thức, ông đã cho ra mắt bạn đọc hàng
loạt ấn phẩm khẳng định sức sáng tạo dồi
dào và tài năng nghệ thuật của bản thân.
Trong bài Mai Văn
Phấn: hiện thân của sự sáng tạo, nhà văn Cao Năm đã viết: ‘‘Mai Văn Phấn
dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo, sáng tạo không ngừng, con người
hiện thân của sự sáng tao’’[46 ; 33]. Ngoài tài hoa, đam mê, tri thức, ông
còn là người dũng cảm và giàu bản lĩnh trong sáng tạo. Nhà văn Đình Kính đã từng nói : ‘‘Anh làm
thơ như nghệ sỹ tự tin đi trên sợi mảnh,
bên dưới là vực sâu hiểm trở, nhưng vẫn luôn tự tin rằng mình sẽ đến được
đích’’[46 ; 10]. Mai Văn Phấn – con
người luôn mạo hiểm để chinh phục đỉnh
cao nghệ thuật. Tự đổi mới và tự tái tạo
không ngừng chính là phẩm chất nổi bật của ông trong sáng tạo.
1.2.2. Các chặng đường
thơ Mai Văn Phấn
Với sức sáng tạo dồi dào, Mai Văn Phấn đã xuất bản 11 tập
thơ và trường ca: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi
xanh (thơ, 1995); Cầu nguyện ban mai
(thơ, 1997); Nghi lễ nhận tên (thơ,
1999); Người cùng thời (trường ca,
1999); Vách nước (thơ, 2003); Hôm sau (thơ, 2009); Và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009); Bầu trời không mái che (thơ, 2010); Hoa giấu mặt (thơ, 2011); Vừa sinh ra ở đó (thơ, 2013)… Và, ông
cũng gặt hái được nhiều giải thưởng:
Giải thưởng cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội (1994), giải thưởng cuộc
thi thơ tuần báo Văn Nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam năm 2010 cho tập thơ Bầu trời không mái che.
Với sức sáng tạo dồi dào, tư duy sáng tạo không ngừng đổi
mới, thơ Mai Văn Phấn không chỉ được bạn bè trong nước quan tâm mà còn được
đông đảo bạn đọc thế giới đón nhận. Ngày 19 tháng 6 năm 2014, ba tập thơ song
ngữ của nhà thơ đất cảng Hải Phòng lọt vào top 10 tập thơ Châu Á bán chạy nhất
trên mạng AmaZon. Đó là hai tập thơ song ngữ Việt – Anh : Ra vườn chùa xem cắt cỏ (Grass cutting
in a temple garden), Những hạt giống của
đêm và ngày (Seeds of night and day) và tập thơ song Việt – Pháp : Bầu trời không mái che (A ciel ouvert).
1.2.2.1. Từ trước 1995
Với những sáng tác đầu tay, Mai Văn Phấn đã có ý thức
muốn khác và khác so với chính ông và với người khác. Nhà phê bình văn học Phạm
Xuân Nguyên nhận xét: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành cổ điển,
người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta
biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực
của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự
thăm dò để bung phá”[46; 8].
Giai đoạn này có 2 tập thơ: Giọt
nắng (thơ, 1992); Gọi xanh (thơ,
1995). Với những tác phẩm này, tên tuổi Mai Văn Phấn bước đầu được khẳng định
qua các giải thưởng : Giải nhất văn nghệ thành phố Hải Phòng với bài thơ Thuốc đắng ( 1991), Giải nhì (không
có giải nhất) của hai tờ báo : năm 1994 của báo Người Hà Nội với bài Nghi
Tàm ; năm 1995 của báo Văn nghệ
với chùm hai bài Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc và Nhật ký đô thị hóa.
Trong giai đoạn
này thơ Mai Văn Phấn thường hướng về những chủ đề thiên nhiên, tình yêu lứa
đôi, tình cảm quê hương, gia đình …, những chủ đề có tính truyền thống. Những
tác phẩm tiêu biểu của ông thời kì này có thể kể đến Thuốc đắng, Mười nén
nhang ngã ba Đồng Lộc, Em gái đi lấy chồng, Kinh cầu ban mai, Nhật kí đô thị...Ở đó, hiện thực đời sống
hiện lên với những đường nét quen thuộc và giản dị: Đưa dâu qua chiếc cầu
tre/ lòng anh chạm lá chua me chạnh buồn (Em gái đi lấy chồng).
Ngoài thơ lục bát, giai đoạn này Mai Văn Phấn còn sử dụng
thể thơ tự do và thơ văn xuôi. Với hình thức tự do, phóng khoáng, thơ văn xuôi
của ông đưa đến những cảm nhận mới về
thế giới: Mùa thu mang theo trận mưa giục chiếc lá chớm vàng rụng vội. Em
dọn lại căn nhà, còn anh mang chài lưới ra khơi (Ký sự mùa thu). Và, ở đó
nhà thơ thể hiện khát vọng tìm tòi, dâng hiến: Tôi thổi vào lòng ống sáo tối đen địa ngục, để
tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la si” (Viết cho cây sáo).
Nhìn chung, thơ Mai Văn Phấn giai đoạn trước 1995 xét về
mặt thi pháp đã có nỗ lực tìm tòi nhưng vẫn chưa đi xa hơn hệ hình thi pháp
truyền thống.
1.2.2.2. Từ 1995 đến 2000
Từ 1995 đến 2000, Mai Văn Phấn cho ra đời
ba tập thơ: Cầu nguyện ban mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và
trường ca Người cùng thời (1999). Nhà thơ bước đầu làm một cuộc lột xác
về nội dung, tư tưởng cũng như hình thức thể hiện. Về cảm hứng cũng như thi
pháp thơ giai đoạn này đã có nhiều điểm khác trước. Nếu giai đoạn trước, thi sỹ
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cái hiện thực cảm xúc bề mặt, dễ nhận biết của đời
sống thì giai đoạn này, nhà thơ chủ trương hướng về nhận thức chiều sâu nhân
sinh. Do đó, hiện thực được khắc họa với những nét gai góc, phức tạp: Lẽ phải vùi chôn trong đơn thư mặc danh/
Đồng tiền lật ngược trang hồ sơ khởi tố/ Có mặt quỷ sau mặt người lấp ló/ Quỷ thì run mà người thì
buồn. Cuộc sống hiện đại đang dần đổi thay: Sủi bọt. Rạn nổ. Vụn nát/
Hơi nóng bốc cao ngùn ngụt giữa trời/ Nỗi khắc khoải không còn có ý nghĩa/ Sự
đổi thay vượt quá sức mình (Từ hạt mưa); Dấu chân không nhận ra nhau vô
cảm trơn lỳ/ Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ/ cỏ nát...(Khúc
dạo đầu). Ở đó, ý thức cá nhân và tinh thần trách nhiệm cộng đồng hòa nhập làm
một: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/
Nhận ra mình là hòn than cháy dở đêm qua. Ở đó, xuất hiện những nỗi đau mới
và những niềm hy vọng mới: Từ tưởng tượng/ và niềm hy vọng/ Tôi rút những
mũi tên/ Ra đi tìm đích cho ngày mai (Mũi tên bóng tối).
Về mặt thi pháp, nhà thơ
Lê Xuân Đố khẳng định thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này “bứt phá cách tân thi pháp
với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn đề của thời cuộc,
bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét đẹp tiềm ẩn của tình yêu,
đời sống” [46; 283]. Cùng với ý thức cách tân thi pháp, Mai Văn Phấn khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề
sau, bề xa” của nó. Mang đậm dấu ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ ông giờ đây có khi
chỉ là những “Dàn ý” hay “Bài tập mùa xuân”, hoặc những ý tưởng
bất chợt “đến trong ý nghĩ”. Những câu chữ bề bộn, phá vỡ ranh giới thơ
và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man như “những ý nghĩa không sắp
đặt”, “không quán tính”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Điều này được
chứng minh qua các bài thơ tiêu biểu như: Mười bài tập mùa xuân, Mail cho
em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số 18…
Trong những tổ chức ngôn từ tưởng chừng như
phi logic, nhà thơ đang đến gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm
linh. Vì
thế, Văn Giá đã khẳng định: “Chặng thứ 2 là cả một nỗ lực bứt phá: giờ đây
không trọng tự tình nữa, mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở
chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha, để rồi phát huy rõ rệt
ở chặng 3” [45; 539].
1.2.2.3. Từ 2000 đến nay
Từ 2000 đến nay, Mai Văn Phấn cho ra đời hàng loạt tập
thơ: Vách nước (2003), Hôm sau (2009), Và đột nhiên gió
thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Vừa sinh ra ở đó (2013)...;
thể hiện sức sáng tạo dồi dào của nhà thơ. Đây được đánh giá là giai đoạn nở rộ
tài năng của thi sỹ.
Thi pháp thơ Mai Văn Phấn tiếp tục cách tân với những hình
ảnh, liên tưởng, ngôn từ lạ. Thay
cho cái nhìn mang tính “nhất phiến” trước đây là một cái nhìn “phân mảnh” đầy
hoang mang, “sản phẩm” của một thời đại đầy bất an và biến động. Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Đúng vậy,
Chỉ là giấc mơ, Còn cậu hãy đứng đằng kia… phản chiếu một cái nhìn nghịch
dị, hài hước, không kém phần tỉnh táo về một thế giới bị xô lệch, con người bị
biến dạng, trở nên méo mó, không khác gì những sản phẩm “chế tác từ đồ phế
thải”.
Giai đoạn
này, nhà thơ tiếp tục dung nạp những thủ pháp, kĩ thuật viết mới, phức tạp theo
hướng hiện đại chủ nghĩa và hậu hiện đại chủ nghĩa. Song bên cạnh đó, tư tưởng
và nỗ lực hướng đến một lối viết “tự
nhiên/ như đi trên đất”, giản dị, “thuần Việt”, ngày càng hiển lộ rõ nét
trong Những bông hoa mùa thu, Cửa mẫu, Hình đám cỏ…, và gần đây nhất là
những tác phẩm trong tập Vừa sinh ra ở đó.
1.3. Cơ sở hình thành nên thế giới nghệ thuật trong thơ
Mai Văn Phấn
1.3.1. Về thế giới nghệ
thuật trong thơ Mai Văn Phấn
Mai Văn Phấn trong một tiểu luận đã viết: “Thơ ca đang
chuyển động trong một thế giới đa chiều, đa cực. Trách nhiệm của mỗi nhà thơ
phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình, nếu thực sự muốn
tồn tại trong không gian mới của thời đại” [55; 275]. Với ý thức sáng tạo mạnh
mẽ, độc đáo, Mai Văn Phấn đã sớm nỗ lực xây dựng một thế giới nghệ thuật riêng
cho mình.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn được xây dựng
bởi nhiều yếu tố: nhân vật, không gian, thời gian, ngôn từ, thể loại, giọng
điệu, âm thanh và màu sắc…Nhưng do phạm vi đề tài, chúng tôi tập trung làm rõ
hình tượng cái tôi, hình tượng thế giới và những phương thức nghệ thuật xây
dựng thế giới hình tượng trên.
Hình tượng cái tôi là
nhân vật trung tâm của tác phẩm mang vẻ đẹp độc đáo, không lặp lại. Hình tượng
cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện ở các phương diện: Cái tôi giàu khát vọng và năng lượng cách tân
thi ca; cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén; cái tôi nồng nàn, say đắm trong tình yêu và cái tôi khao khát hướng
tới một thế giới tinh thần "thuần Việt". Hình tượng cái tôi trong thơ
Mai Văn Phấn luôn vận động hướng về phía trước để mang lại cho người đọc những
cảm giác mới lạ, không lặp lại. Hình tượng thế giới chính là sự khúc xạ hiện thực qua lăng kính chủ quan của
nhà thơ. Hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn được thể hiện qua các
phương diện cơ bản: Một thế giới của sự viên mãn và thuần khiết; một thế giới
của sự tương giao, hài hòa và một thế giới của cảm giác siêu nghiệm. Để xây dựng
hình tượng cái tôi và hình tượng thế giới, Mai Văn Phấn đã sử dụng khá đa dạng
và linh hoạt các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Tiêu biểu là cách tổ chức
văn bản, cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và bút pháp tạo hình độc đáo.
Có thể thấy, thế giới nghệ thuật trong thơ
Mai Văn Phấn biến đổi đa dạng, phong phú song vẫn nhất quán ở tinh thần vận
động về cái mới, mở ra một chân trời tiếp nhận rộng rãi cho độc giả.
1.3.2. Những cơ sở hình thành nên
thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn
1.3.2.1. Bối cảnh lịch sử - thẩm
mĩ Việt Nam sau 1975
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực qua các giai
đoạn, thời kì. Các giai đoạn phát triển của nền văn học nước nhà thường gắn
liền với mốc phát triển của lịch sử dân tộc. Văn học và lịch sử dân tộc có mối
quan hệ khăng khít với nhau. Trải qua bao thăng trầm dân tộc, đất nước ta ngày
càng đi lên và cùng với sự phát triển của dân tộc là sự phát triển trong tư duy
của con người.
Năm 1975, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, kết thúc vẻ vang ba mươi
năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc, chấm dứt ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc, thực dân hơn một thế kỷ trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước và đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức: chiến tranh vẫn
tiếp tục (chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam); cơ chế quản lý quan liêu
bao cấp với nhiều di hại nặng nề, chính sách cấm vận của Mỹ... Thời hậu chiến
với những khó khăn chồng chất buộc thơ ca không thể tiếp tục nhãn quan, cảm
hứng và giọng điệu sử thi như trước nữa.
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở
ra một trang mới cho lịch sử đất nước nói chung và văn học nghệ thuật nói
riêng. Công cuộc đổi mới không chỉ làm thay đổi diện mạo đất nước trên bình
diện kinh tế, chính trị, xã hội mà còn làm thay đổi một cách sâu sắc và tác
động trực tiếp đến đời sống văn hóa xã hội, trong đó văn học nghệ thuật cũng
không nằm ngoài guồng quay đó.
Sự nghiệp đổi mới đưa nước ta phát triền hòa
nhập với xu thế chung của thế giới. Công nghiệp hóa, hiên đại hóa đã làm thay
đổi tận gốc nền sản xuất, kiến tạo lại hạ tầng cơ sở xã hội. Kinh tế thị trường
đã tác động nhiều mặt tới đời sống người dân cũng như tới hoạt động sáng tạo
nghệ thuật. Cũng với điều đó, xu hướng toàn cầu hóa kéo theo những thay đổi to
lớn trên mọi lĩnh vực đời sống. Việt Nam từ một nền văn hóa mang đậm tính cộng
đồng, làng quê đang chuyển mình thành một nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Nền
văn hóa đó không những đề cao những giá trị truyền thống, những giá trị cộng
đồng mà còn đánh thức tiềm năng sáng tạo kỳ diệu của con người, thúc đẩy xã hội
đi lên trên cơ sở hình thành ý thức cá nhân hiện đại.
Như vậy, hoàn cảnh lịch
sử - xã hội Việt Nam sau 1975 thay đổi dẫn đến những chuyển biến về mặt tâm lý, lối sống của con người. Sự
chuyển biến về tâm lý, lối sống đã dẫn đến sự thay đổi cách nhìn, quan điểm
thẩm mỹ của các nhà thơ và đây là điều
kiện cho sự xuất hiện thế hệ nhà thơ đổi mới với những cách tân thi pháp.
Trước hết là sự thay đổi trong quan niệm thẩm
mĩ về con người và đời sống. Nếu văn học Cách mạng trước 1975 thường phản ánh
hình tượng con người lớn lao, kì vĩ, đại diện cho sức mạnh và vẻ đẹp cộng đồng,
dân tộc thì thơ sau 1975 thường hướng về con người với những lo toan thường
nhật trong cuộc sống, ở đó, ý thức cái tôi cá nhân được khẳng định mạnh mẽ. Thơ
hướng về hiện thực với những bề bộn, phức tạp như nó vốn có. Đồng thời, thơ
cũng đi sâu vào thế giới bên trong tâm hồn con người. Cùng với xu hướng đưa thơ
về gần với hơi thở của đời sống là xu hướng đi sâu vào vùng vô thức của con
người, gia tăng “chất ảo” trong thơ buộc người đọc phải giải mã các tín hiệu
nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng khác nhau.
Quan niệm về bản chất thơ ca cũng đã có những
thay đổi. Nếu trong văn học trung đại, thi sỹ dùng thơ ca để tải đạo, giáo huấn
thì đến thơ ca hiện đại, nhiệm vụ thơ ca đã có sự thay đổi. Ngoài chức năng xã
hội, chức năng giáo dục, thơ ca còn đề cao chức năng thẩm mĩ. Với quan niệm
này, đề tài, chủ đề thơ sau 1975 trở nên
phong phú và đa dạng hơn. Quan niệm tư tưởng sáng tạo thay đổi, tất yếu kéo
theo sự thay đổi về hình thức, ngôn ngữ, bút pháp tạo hình…. Nhiều nhà thơ mạnh dạn vận dụng các kỹ thuật viết
hiện đại, tiếp thu các khuynh hướng văn học trên thế giới, tạo nên những cách
tân mang tính đột phá trong thi pháp thơ.
1.3.2.2. Sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ đổi mới
Lực lượng chủ đạo của
nền thơ đương đại Việt Nam là thế hệ nhà thơ đổi mới. Thực ra, “thế hệ nhà thơ
đổi mới” là một thuật ngữ có tính quy ước, nhằm chỉ thế hệ nhà thơ cầm bút sau
1975 và thành danh sau 1986, theo xu hướng đổi mới và cách tân thi pháp. Với ý
nghĩa đó, “thế hệ đổi mới” thực chất bao gồm nhiều thế hệ cầm bút nối tiếp
nhau. Có thế hệ cầm bút trước 1975, nhưng chỉ thực sự gây ấn tượng và được độc
giả rộng rãi biết đến sau 1986 như nhóm tác giả “dòng chữ”: Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, ..., Có những tác giả cầm bút và thành
danh từ thời chống Mỹ song vẫn tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho thơ
sau 1975 như Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Ý Nhi, Thi Hoàng, Hoàng
Hưng... Có thế hệ viết sau 1975 và thành danh sau 1986, còn gọi “thế hệ hậu
chiến” như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Mai Văn
Phấn, Nguyễn Bình Phương, Irasara... Nối tiếp thế hệ trên là sự ra đời thế hệ
nhà thơ trẻ như Nguyễn
Quyến, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Vĩnh Tiến, Ly
Hoàng Ly, Trần Nguyễn Anh, Văn Cầm, Nguyễn Thị Từ Huy,…
Họ là một thế hệ sáng
tạo sung sức và khao khát cách tân, làm mới thơ ca dựa trên những nền tảng dân
tộc. Họ mong muốn được giải phóng khỏi những quan niệm hẹp hòi, khô cứng, để
không còn quá băn khoăn tôi hay ta, hiện thực hay không hiện thực. Họ mải mê ghi
lại những chấn động đột ngột từ tâm hồn, đắm mình trong dòng chảy của cảm xúc, cứ như thế, càng trọn vẹn bao nhiêu,
hoàn hảo bao nhiêu càng thơ bấy nhiêu. Họ
khao khát làm mới thơ từ nội dung đến hình thức thể hiện. Họ cất lên tiếng nói
mạnh mẽ, quyết liệt, nhiều khi gây sốc.
Tóm lại, sự xuất hiện
thế hệ các nhà thơ đổi mới với những cách tân thi pháp đã đưa thơ ca đương đại
Việt Nam bước sang một trang mới. Họ dám chấp nhận thử thách, dám chối bỏ sự
hoà lẫn đơn điệu vào dòng thơ truyền thống với những bạn đọc quen thuộc và
những nhà phê bình quen thuộc để phiêu lưu vào những con đường sáng tạo
mới nhằm đưa lại diện mạo mới cho thơ Việt đương đại. Sau đây là một số
gương mặt nổi bật trong thế hệ nhà thơ sau 1975 – “thế hệ hậu chiến”.
* Nguyễn
Lương Ngọc (1858 –
2001): Ông quê ở Ba Vì, Hà Nội. Sau
khi tốt nghiệp kĩ sư cơ điện, năm 1981 nhà thơ về công tác tại công trường thủy
điện sông Đà, bắt đầu sáng tác thơ. Sau đó, ông theo học trường viết văn Nguyễn
Du rồi làm báo ở Hà Nội. Nhà thơ qua đời ở cái tuổi mà thơ ca còn độ sung sức
nhất, để lại bao dự định ngổn ngang về thơ, về đời. Nhà thơ Dương Kiều Minh đã nhận định: “Anh
để lại cuộc cách tân thơ ca đầy hứa hẹn với triển vọng của một sức bật mãnh
liệt và vạm vỡ, đã gây nên sự chấn động trong giới văn chương và bạn bè”.
Các tập thơ tiêu biểu của ông gồm: Từ
nước - 1990, Ngày sinh lại -
1991, Lời trong lời – 1994.
* Dương
Kiều Minh (1960 – 2012): Nhà thơ Dương Kiều Minh quê huyện Mê Linh, tỉnh
Vĩnh Phúc. Từ 1980-1991, ông công tác tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà - Hòa
Bình. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du khóa III (1986-1989). Từ năm 1991
đến nay, ông công tác tại Sở Văn hóa thông tin, Hội văn học nghệ thuật Hà Tây
(cũ), Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội, phó chủ tịch thường trực Liên
hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Thủ đô. Ông để
lại 7 tập thơ (Củi lửa - 1989, Dâng mẹ - 1990,
Những thời đại thanh xuân -1991, Ngày xuống núi - 1995; Tựa cửa - 2001; Tôi ngắm mãi những ngày thu tận - 2008;
với một số tập bản thảo sau này in trong Tuyển thơ Dương Kiều Minh (2011), 2 tập tiểu luận và một số tùy đàm
văn chương.
* Nguyễn Bình Phương: Sinh năm 1965, quê ở Thái Nguyên. Nguyễn Bình Phương là gương mặt thơ xuất hiện vào
nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cùng một lúc với nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc.
Gắn bó với quân ngũ và sớm bén duyên với văn chương, Nguyễn Bình Phương bắt đầu cho ra mắt những tác phẩm ấn tượng của mình từ
giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Ở thời điểm đó, ông bắt nhịp hết sức nhanh
chóng với không khí sáng tạo ở Trường Viết văn Nguyễn Du, với những tên tuổi
như Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Giáng Vân… nhưng vẫn rất đậm đà tố chất
độc đáo của mình. Gia tài thơ ca của Nguyễn Bình Phương gồm: Lam chướng (1994), Xa
thân (1997), Từ
chết sang trời biếc (2001)
và tập thơ mới nhất, Buổi câu hờ hững (2011).
*
Nguyễn Quang Thiều: Nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 13/2/1957 tại Làng Chùa, Ứng Hòa, Hà Tây (nay là
Hà Nội). Bắt đầu viết văn từ năm 1983, ông đoạt giải thưởng Hội Nhà văn 1993
cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa. Cho
đến nay, Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 10 tập thơ và tuyển chọn trong số đó để
in thành tuyển thơ lần thứ nhất Châu thổ (NXB
Hội nhà văn, 2011). Ông là một trong những gương mặt cách tân nổi bật của thế
hệ thơ Đổi mới. Tập thơ Châu thổ được
tuyển từ 6 tập thơ đã xuất bản của Nguyễn Quang Thiều: Ngôi nhà 17 tuổi (1990), Sự mất ngủ của lửa (1997), Những người đàn bà
gánh nước sông (1995), Nhịp điệu Châu thổ mới (1997), Bài ca những con chim đêm
(1999), Cây Ánh Sáng (2009).
* Inrasara:
Inrasara - nhà thơ dân tộc
Chăm, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tên thật là Phú Trạm, sinh ngày 20 tháng 9
năm 1957 tại làng Chakleng, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ông là nhà thơ,
đồng thời là nhà lí luận - phê bình, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, nhưng ông
thành công hơn ở lĩnh vực thơ ca. Inrasara đã được trao giải thưởng ASEAN 2005
(giải thưởng dành cho những người có đóng góp về văn hoá và văn học của các nhà
văn trong khu vực châu Á). Ông là tác giả của 5 tập thơ nổi tiếng: Tháp nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng (1997), Hành hương em(1999),
Lễ tẩy trần tháng Tư (1996), Chuyện 40 năm mới kể.
1.3.2.3. Quan niệm sáng
tạo của tác giả
Sáng tạo luôn là nhu cầu của người nghệ sỹ. Trần
Thiện Khanh, một nhà phê bình trẻ viết: “Về phương diện lý thuyết, có bao nhiêu
người sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho cùng, mọi quan
niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình độ nhận thức rất khác nhau
của người cầm bút về văn học” [46; 507].
Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ có quan
niệm sáng tạo rất nhất quán và mang tinh thần đổi mới mạnh mẽ. Quan niệm này
được ông thể hiện theo nhiều cách, hoặc trực tiếp qua các tiểu luận văn học và các bài trả lời phỏng
vấn, hoặc gián tiếp qua các sáng tác thi ca. Sau đây là những khái lược quan
niệm về thơ và nhà thơ của Mai Văn Phấn.
* Quan niệm của Mai Văn
Phấn về thơ
Với Mai Văn Phấn, hành trình sáng tạo nghệ thuật là
hành trình gian khổ, đơn độc để đi tìm cái đẹp, và “dù viết theo bất kỳ khuynh
hướng nào, thơ ca luôn mang vẻ đẹp nguyên khởi, nhằm phục sinh, tái tạo thế
giới, mãi đối lập với cái xấu và gian tà. Thơ ca là ánh sáng đẩy lùi bóng tối,
là nước mát làm xanh tươi mặt đất, là vị thuốc chữa lành những vết thương tâm
hồn, đánh thức thiên lương con người để họ không rơi vào vũng lầy tha hóa, sống
nhân hậu thân thiện hơn” [59; 1]. Với tác giả này, thơ ca là CÁI ĐẸP, nơi con
người hướng đến để thể hiện, để thanh lọc tâm hồn và hoàn thiện nhân cách của
mình. Thơ ca được ví như là dưỡng chất để nuôi lớn tâm hồn con người, là vị
thuốc để chữa lành mọi vết thương lòng, là vị thánh cứu rỗi con người và thế
giới. Thơ ca mang trong mình vẻ đẹp quyền năng lớn lao.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: "Thơ ca,
đối với Mai Văn Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con
đường vĩnh cửu của nó, (...) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội, với
những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con người trần tục của
nhà thơ và con người sáng tạo của anh ta” [71; 15]. Quả đúng vậy! Với Mai Văn
Phấn, “Thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả...
nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới” [55; 454]. Hết sức
đề cao việc đổi mới và cách tân thi pháp thơ, ông viết: “Thơ ca càng ảo bao
nhiêu càng đem lại sự chân thật bấy nhiêu..., hiện thực trong thơ được hiện hữu
trong một “mặt phẳng cong”...Nhà thơ khi viết không nên bận tâm viết cho ai mà
chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng”
[55; 400].
Chúng ta đang sống trong xã hội phát triển, ở đó,
sự cách biệt giữa các dân tộc, giữa con người với con người ngày càng xa. Ý
thức đươc điều này, thi sỹ khẳng định: “Thơ ca là cầu nối, là bàn tay chân
thành, giọng nói ấm áp để chúng ta tìm đến nhau, cảm thông, thấu hiểu nhau hơn.
Nhờ có thơ ca, chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp linh diệu, bí ẩn...cũng như
thấy được sức mạnh tinh thần hiển linh và tiềm ẩn của dân tộc ấy. Chúng ta tựa
vào thơ ca để ngày thêm hoàn thiện, thay đổi, lớn lên và bình đẳng giữa các dân
tộc trên trái đất” [59; 1].Ông cũng nhấn mạnh: “Quan niệm mỗi nền thơ chỉ có
giá trị trong ngôn ngữ mẹ đẻ là phiến diện và nghèo nàn, không thể tồn tại lâu
khi những cuộc giao thương, di dân, hội nhập trong lịch sử đã mang đến cho thơ
những quan niêm mới” [59; 1].
* Quan niệm
của Mai Văn Phấn về nhà thơ
Người làm nghệ thuật
luôn mang trong mình khát vọng sáng tạo nhưng mỗi nghệ sỹ lại có những quan
niệm sáng tạo riêng. Với Mai Văn Phấn, sáng
tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay phát triển
những giá trị đã định hình mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi là đối lập)
với cái đã định giá. Quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong
thân”, là quá trình phủ định bản ngã: “Với mỗi người làm thơ, điều quan trọng
là biết lạnh lùng với chính bản thân mình, dũng cảm nhìn lại một cách trung
thực và chính xác, biết mình là quầy hàng khô hay anh chữa chìa khóa trong một
cái chợ” [55; 399]. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái
mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong
nghệ thuật. Ông cho rằng, bài thơ mà nhà thơ viết ra không còn thuộc về anh ta
nữa mà thuộc về độc giả. Nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong
một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời vì "mỗi bài thơ viết xong hầu
như tồn tại độc lập với người làm ra nó, sự "lưu luyến" hay không xin
dành cho người đọc và thử thách khắc nghiệp với thời gian. Tôi không có thói
quen chiêm bái những con đường cũ của mình,
không "quay vái lạy chiếc áo vừa treo lên giá" [55; 430]. Sáng
tạo luôn đồng hành với việc không ngừng nghỉ trong sáng tác, mỗi đứa con tinh
thần ra đời tồn tại độc lập với những sản phẩm sau đó, “tôi được bài thơ dạy
lại mình cách viết” [55; 441].
Xã hội ngày càng thay
đổi, phát triển kéo theo quan niệm, thị hiếu thẩm mỹ của con người cũng thay
đổi, điều đó đòi hỏi nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi và đổi mới: “ Trách nhiệm
của mỗi nhà thơ phải khám phá cho được không gian nghệ thuật của chính mình,
nếu thực sự muốn tồn tại trong không gian mới của thời đại” [55; 375], và,
“Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn
quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại
những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn cỗi” [55; 399].
Xuất phát từ những quan
niệm nói trên, Mai Văn Phấn quyết liệt đặt ra vấn đề đổi mới thi pháp thơ: “Đổi
mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm
tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám
phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong
nhịp điệu đời sống hiện đại” [55; 378]. Nhà thơ nếu chỉ để tâm ve vuốt sở thích
của đám đông thì sẽ làm nghèo đi sự phong phú của khu vườn thi ca sinh động.
Mọi người cầm bút đều mong muốn được nhiều bạn đọc chia sẻ, nhưng đây không phải
là cứu cánh của những thi sỹ chân chính. Mai Văn Phấn cho rằng: “Đổi mới thi
pháp trước hết nhằm chống lại sự thoái hóa, trơ mòn thẩm mỹ của người đọc, tạo
những không gian thơ đa dạng, thiết lập hệ quy chiếu mới trong cách tiếp cận
tác phẩm. Sáng tạo là quá trình sản sinh những nhân tố mới, không mô phỏng hay
phát triển những giá trị đã định hình, mà tạo sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi
đối lập) với cái đã được định giá” [55; 423], và phù hợp “lối tư duy phổ quát,
mạch lạc, tốc độ... họ luôn khao khát những giá trị mới lạ phù hợp với đời sống
hiện đại của độc giả” [55; 423].
Tuy nhiên, với Mai Văn
Phấn, sáng tạo, cách tân không đồng nghĩa với việc cắt đứt với thơ ca truyền
thống. Cách tân là tiếp thu cái truyền thống đồng thời làm mới để tạo nên nét
hiện đại cho truyền thống. Mai Văn Phấn
là người đọc nhiều và rất am hiểu về các xu hướng, trường phái thơ phương Tây
hiện đại, nhưng ông quan niệm học hỏi và sáng tạo chứ không phải bắt chước máy móc. Sáng tạo
luôn đòi hỏi tài năng và bản lĩnh. Chính vì thế, trong một bài thơ của mình,
ông viết: Anh là con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển
động (Ngậm em trong miệng).
Là người hành nghề sáng tạo, nhà thơ phải biết dũng cảm rời bỏ bầy đàn và chính mình.
Từ những phân tích trên
ta thấy, Mai Văn Phấn nhà thơ luôn có ý thức quyết liệt đổi mới mình, đổi mới
thi ca. Quan niệm sáng tạo ấy đã phần nào cho thấy bản lĩnh, phẩm chất của thi
sỹ. Đây cũng chính là một cơ sở quan trọng hình thành nên thế giới nghệ thuật
thơ khác biệt, độc đáo của Mai Văn Phấn:
“Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi,
ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định” [55, 447 -
448]. Tất nhiên, từ những quan niệm đến thực tế sáng tác nhiều khi là cả một
khoảng cách đầy thử thách đối người nghệ sỹ sáng tạo.
Chương 2
HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI VÀ HÌNH TƯỢNG THẾ
GIỚI
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
Thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn là một chỉnh
thể thống nhất bao gồm các thành tố cấu trúc và quy luật vận động nội tại, thể
hiện quá trình cái tôi nhà thơ nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tưởng
tượng, sáng tạo. Từ góc độ thi pháp, luận văn chúng tôi tập trung tìm hiểu thế
giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn ở hai phương diện: hình tượng cái tôi và hình
tượng thế giới.
2.1. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn
Cái tôi là biểu hiện của
ý thức về con người cá nhân, là sự tự nhận thức của con người về tư cách, nhân
phẩm hoặc giá trị của chính mình trong xã hội.
Mỗi nhà thơ khi sáng tạo
đều thể hiện sự nhận thức của bản thân về cuộc sống hiện thực và nhu cầu bộc lộ
cảm xúc của cá nhân giữa cuộc đời. Hình tượng cái tôi được xây dựng khi nhà thơ
tự ý thức đầy đủ về cá tính năng lực sáng tạo và con đường nghệ thuật của mình.
Có thể, tìm hiểu hình tượng cái tôi ở nhiều cấp độ: bài thơ, tập thơ, nhà thơ,
thời đại. Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn, chúng tôi nghiên cứu hình tượng
cái tôi ở cấp độ nhà thơ thể hiện qua các sáng tác cụ thể. Ở cấp độ này, hình
tượng cái tôi là một kiểu nhân vật trong tác phẩm văn học. Nó là kết quả của sự
khái quát hiện thực, thể hiện cái nhìn của tác giả và gợi lên ở người đọc quan
niệm, nhận thức sinh động về con người và cuộc sống.
Qua thực tế khảo sát văn
bản thơ, chúng tôi nhận thấy hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn có những
đặc điểm nổi bật sau đây:
- Cái tôi giàu khát vọng
và năng lượng cách tân thi ca
- Cái tôi say đắm, nồng
nàn trong tình yêu
- Cái tôi thống nhất giữa lí tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén
- Cái tôi khao khát hướng tới một thế giới
tinh thần lý tưởng “thuần Việt”
2.1.1. Cái tôi giàu khát
vọng và năng lượng cách tân thi ca
Với Mai Văn Phấn, cách tân thơ là điều tất yếu
trong quy luật vận động thi ca, cũng là khát vọng tự thân mãnh liệt của người
nghệ sỹ này. Điều đó được chứng minh qua hành trình sáng tạo của ông. Mỗi tập thơ ra đời
là kết quả của một ý thức tìm tòi, cách tân mạnh mẽ, để không lặp lại người
khác và quan trọng hơn là không lặp lại chính mình. Hành trình ấy cho thấy nhà
thơ không ngừng học hỏi, tiếp thu, thể nghiệm nhiều bút pháp, khuynh hướng sáng
tạo khác nhau, từ nhiều nguồn thi ca trên thế giới. Khát khao làm mới khuôn mặt tinh thần bản thân
và thi ca, cái tôi Mai Văn Phấn không ngại phủ định và tự phủ định, để liên tục
hướng tới những giá trị thẩm mĩ mới. Cái tôi ấy luôn hướng tới mục tiêu cách
tân nghệ thuật, sử dụng nhiều kỹ thuật hiện đại, song luôn tuân thủ mục đích
tạo ra không gian thơ, trường thơ riêng, coi thơ là tiếng nói khai mở một cõi
thế giới riêng của trực giác, tâm linh. Ở đó, thi sỹ tìm về một tiếng thơ
riêng, thuần khiết của người Việt hiện đại.
Nói như vậy cũng có nghĩa là sự đổi mới này,
dĩ nhiên, không chỉ dừng lại ở những thể nghiệm kĩ thuật nhỏ lẻ, thuần túy.
Ngược lại, nó luôn hướng tới và gắn liền với mục đích kiến tạo một quan niệm mĩ
học hiện đại, nhất quán ở nhà thơ. Với Mai Văn Phấn, “Điều quan trọng trước hết
trong sáng tạo là thiết lập không gian... Không gian ấy hàm chứa những vấn đề
lớn tạo nên từ trường ảnh hưởng cho những bài thơ cụ thể sau này. Đó là những ám ảnh cốt lõi về thời đại,
thời cuộc, những quan chiếu, hệ luỵ trong xã hội, thái độ sống, thái độ chính
trị của thi sỹ; một cõi riêng của cảm giác hay linh giác mà người ngoài
không thể dụng ý chạm tới, và cả những vấn đề muôn thuở của văn chương, như
khuynh hướng, giọng điệu, thể loại, tính nhân bản v.v...”[60; 1]. Đặc biệt,
“Không gian sáng tạo này luôn mang giá trị biệt lập, độc sáng, không trùng hợp
với những người khác, và, không lặp lại chính mình. Đây là thử thách lớn nhất
với nghệ sỹ, đặc biệt nhà thơ, vì thường sau mỗi giai đoạn sáng tạo, các nhà
thơ nhìn lại không gian mình vừa trải qua với thái độ tự hài lòng, cảm giác như
mọi góc khuất đời sống, những bí ẩn của tâm trạng đều được ánh sáng thi ca soi
tỏ; nói cách khác, nhà thơ như không muốn nói thêm điều gì, và, cũng thấy mọi
ngả đường phía trước bị bịt lối... Nếu không mở được không gian nghệ thuật khác
tiếp theo, nhà thơ sẽ rơi vào bế tắc, cùn mòn, thấy nặng nề nếu phải cố gắng
nói những điều đã cũ” [60; 1].
Chính quan niệm cách tân mạnh mẽ này đã tạo
nên đặc điểm nổi bật đầu tiên ở hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn: giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi
ca.
Trước hết, hiện diện trong thơ Mai Văn Phấn
là cái tôi của những tìm tòi, thể nghiệm sáng tạo đa dạng. Trong các
sáng tác trước 1995, như nhận xét của một nhà phê bình, Mai Văn Phấn đã có ý
thức khác đi - so với chính ông và với người khác. Những bài thơ mang đậm dấu
ấn thi pháp truyền thống đã bắt đầu cựa quậy với những dấu hiệu đổi mới trong
thi tứ, thi ảnh. Chẳng hạn:
Tàn mùa chiếc lá lia qua
Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần
Sáng thì làm trăng thượng tuần
Lu thì ghép với mấy lần cong
vênh
(Một
mình)
Hoặc:
Em ngủ say không biết/
anh đang nhìn hạt mưa/ bóng tối xơ xác ngoài cửa sổ/ tán cây đè nặng ngực mình/
.../ Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh/ những đế giày chuẩn bị vỡ
tung/ chân tường mở cánh cửa thoát hiểm/ bụi mưa phùn hay châu chấu bay qua/ cả
ngôi nhà lao đi chóng mặt/ sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh... (Để nhận ra anh).
- Những hạt giống vừa chạm vào ánh sáng / Đã
gặp những gì chẳng thấy trong mơ / Rơm rạ mục dâng lên từ đất ẩm/ Gió xước qua
bụi gai trong lúc giao mùa / Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm / Để lấy đi những
hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi những mùa vàng rạo
rực hiến dâng” (Tự thú
trước cánh đồng).
Ngay trong những sáng
tác ở giai đoạn đầu, thơ Mai Văn Phấn đã đem lại cho người đọc những liên tưởng
mới lạ nhờ các ẩn dụ tinh tế. Chẳng hạn: Vầng trăng em đứng giữa trời/ Để
rơi ngàn mảnh gương ngời mặt sông/ Ngày tràn đêm vỡ lên bông/ Mình ta khua động
cả dòng tịch liêu (Trương Chi) ;
Anh đi níu gió trên trời/ Lùa râm mát tới những nơi em chờ/ ... /
Mắt người buông xuống sông xưa/ Ru con thuyền ấy trong mưa mỏi mòn/ ... (Bâng quơ).
Đấy vẫn là một cái tôi mang trong mình những
vẻ đẹp cổ điển: Em nhòe nắng mới ngây thơ/ Ấm ran khắp tầng vũ trụ/ Anh
thành bông cúc thẫn thờ/ Cuối mùa vàng lên vội vã (Cuối xuân đầu hè), nhưng
không nằm im trong khuôn khổ mà luôn cựa quậy tìm lối, chuyển động: “Lỡ vin
vào bóng mây qua / Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò / Đầu kim tựa có ai chờ/
Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa” (Gom nhặt cuối mùa). Con người luôn tìm cho
mình một lối đi riêng với khát vọng thay đổi: “Những hạt giống vừa chạm vào
ánh sáng / Đã gặp những gì chẳng thấy trong mơ / Rơm rạ mục dâng lên từ đất ẩm
/ Gió xước qua bụi gai trong lúc giao mùa / Ngày mới đến đưa bàn tay nắng ấm /
Để lấy đi những hạt cuối cùng / Tôi chếnh choáng rỗng không chiếc hũ / Đợi
những mùa vàng rạo rực hiến dâng” (Tự thú trước cánh đồng).
Có thể thấy, cái tôi trong sáng tác ở giai
đoạn đầu của nhà thơ vừa mang vẻ đẹp của cái tôi truyền thống vừa có dấu hiệu
bắt đầu cựa quậy để bứt phá, đổi mới.
Từ 1995 đến 2000, thơ Mai Văn Phấn cách tân
thi pháp mạnh mẽ. Khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề rộng, bề xa” buộc
phải đổi mới cách nhìn, cách lí giải về hiện thực. Hình tượng cái tôi trong thơ
Mai Văn Phấn giai đoạn này là sự “cộng hưởng” của ý thức cá nhân và tinh thần
công dân, dân tộc được thể hiện ấn tượng qua hệ thống hình ảnh, ngôn từ mới,
lạ:
Nghe trong đám đông cộng hưởng những giai
điệu cá tính, tựa hào quang hắt lên từng khuôn mặt, đan xen nhau rồi kết thành nhọn tháp.
Ở đó qua chuông trái tim đã được kéo lên…
Cá tính hòa đồng với quy luật thiên nhiên,
cho ta nhịp nhàng, cho ta nguôi ngoai, cho ta thổn thức…
Tuân theo luật mà dồi dào cá tính. Cái Tôi
tận cùng dẫn tới cái ta”
Hay:
“Cộng hưởng cùng bạn bè, đồng chí, vợ
con…Cùng giấc mơ trước thềm thế kỉ, để không còn những ngón tay rã rời (ngón
duy cảm, ngón thì duy lý). Mà tất cả là những ngón tay chân thực, hòa đồng trên
một bàn tay.” (Cộng Hưởng II)
Không dừng lại cái tôi với những khát vọng
của đời sống hiên hữu, nhà thơ còn muốn “hóa thân” để được sống lại với những
cảm giác vô thức trong từng giấc mơ – hay chính là những suy tư của con người,
thông qua tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Đây là giai đoạn cách tân
mạnh mẽ của nhà thơ với nhiều thử nghiệm bút pháp hiện đại: tượng trưng, siêu
thực, tân hình thức… Xin lấy ngẫu nhiên một bài thơ để chứng minh - Ngậm em trong miệng:
Luôn tin có em trong miệng
Nơi không chiến tranh, dịch hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, lừa lọc
Lối em đi không còn gai nhọn
Bão tràn qua anh dựng tường ngăn
Bình yên trong miệng anh
Em thúc nhẹ bờ vai
Vòm ngực, ngón chân vào má
Huyên thuyên và hát thầm
Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể
Anh là con cá miệng dàn dụa trăng
Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động
Đấy là một hình tượng thơ độc đáo. Cái tôi
trữ tình “Luôn tin có em ở trong miệng”,
để có thể che chở, bao bọc em khỏi một thế giới đầy rẫy dịch hạch, thị phi. Có
lẽ, sự hy sinh của anh đã được em đền đáp xứng đáng: Em thúc
nhẹ bờ vai/ Vòm ngực, ngón chân vào má - siêu thực, mộng mơ nhưng lại rất
thực. Đặc biệt là hình ảnh: Anh là
con cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động… Ở
đây, cái
tôi đang có một hành động quyết liệt “rời bỏ bầy đàn”, để khẳng định
mình trong
một thế giới đầy biến động. Chỉ một từ “quẫy” đã làm bật nổi sự khó
khăn khi rời bỏ đám đông rời bỏ những bộ đồng phục tinh thần, tư
tưởng, để có thể đạt tới tự do sáng tạo. Ta cũng có thể thấy rõ điều này
qua
nhiều tác phẩm khác: Chỉ là giấc mơ, Kể lại giấc mơ, Giấc mơ vô tận, Quay
theo mái nhà, Bài học, Hội chứng từ một tin đồn, Tỉnh táo tột cùng,..
Về diện mạo cách tân của thơ Mai Văn Phấn,
một nhà phê bình đã nhận định: “Có thể thấy thơ Mai Văn Phấn là một hành trình
liên tục cách tân, tìm tòi. Vượt lên những hạn chế nhất định, mỗi giai đoạn
sáng tác của ông đều ghi dấu bằng những tác phẩm đáng chú ý. Ý thức học hỏi
nghiêm túc hướng về những nền thơ lớn trên thế giới, đặc biệt là thơ Âu – Mỹ
hiện đại, cộng với “tham vọng” hướng tới xây dựng một tiếng thơ Việt “thuần
khiết” là động lực thúc đẩy ông không ngừng hăng hái tìm kiếm và thử nghiệm. Dĩ
nhiên, song song với việc tiếp thu có chọn lọc là ý thức xây dựng một thẩm mĩ
quan cá nhân độc lập. Bởi vậy, thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng
song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất,
khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [62; 3].
Quả đúng như vậy.
2.1.2. Cái tôi say đắm,
nồng nàn trong tình yêu
Bên cạnh cái tôi tràn
đầy năng lượng và khát vọng cách tân nghệ thuật, hiện diện trong thơ Mai Văn
Phấn còn là một cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu.
Thực ra, tình yêu là một
đề tài vĩnh cửu. Trong phong trào Thơ Mới, đã xuất hiện nhiều nhà thơ tình xuất
sắc như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu...Trong đó,
Xuân Diệu từng được mệnh danh “nhà thơ
tình bậc nhất” (Hà Minh Đức), “vị
hoàng tử của thi ca Việt Nam trên lĩnh vực thơ tình” (Đoàn Thị Đặng Hương).
Với Xuân Diệu, yêu là sự hòa cảm, sự sát kề của hai thể xác:
Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực.
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt.
Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng
Trong say sưa anh sẽ bảo em rằng:
Gần thêm nữa! Thế vẫn còn xa lắm!
(Xa cách)
Ý thức “Yêu là chết trong lòng một ít” nhưng thi
sỹ vẫn lao vào để “yêu”, “được yêu”, “mời yêu”. Ông nồng nàn và quyết liệt
khẳng định:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào
Hãy đốt đời ta muôn thứ lửa
Cho từng tia mắt đọ tia sao
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Có thể thấy, cái tôi
nồng nàn nhục cảm trong thơ Xuân Diệu thường được bộc lộ qua các hành động thụ
hưởng trực tiếp về thân xác (ôm, riết,
hôn, say...). Khao khát mãnh liệt nên cái tôi Xuân Diệu luôn giục giã, vội
vàng “gấp đi em!”, “gần thêm nữa, thế vẫn
còn xa lắm!” (Xa cách), kêu gọi “phải
nói yêu trăm bận đến ngàn lần” (Phải nói), năn nỉ, van xin “mở miệng vàng, và hãy nói yêu tôi/ Dẫu chỉ
là trong một phút mà thôi!” (Mời yêu).
Cái tôi trong thơ Xuân
Diệu thể hiện tình yêu thật mạnh mẽ, nồng nàn. Còn trong thơ Mai Văn Phấn, điều
đó được thể hiện như thế nào?
Thơ Mai Văn Phấn viết về
tình yêu đậm tính dục nhưng không hề tạo ra cảm giác trần trụi, thô tục, ngược
lại vẫn giữ được nét kín đáo mà không kém phần mãnh liệt, thông qua các biểu
tượng, hình ảnh giàu sức liên tưởng. Bài thơ Gió thổi sau đây là một ví dụ tiêu biểu:
Chúng mình hôn nhau trong hành lang hẹp
trên cỏ xanh, trong những góc tối
trên tháp chuông, bên gốc cây cổ thụ...
Bốn bề nước tràn ướt chân
lúc ấy gió thổi rất mạnh
Con sâu đo em đu lên người anh
thì thầm gặm hết những xanh non
Con ong vẫn nhởn nhơ bay
thác đổ đều đều, mưa rơi rất chậm
nhưng tất cả ngọn cây đều bạt về một phía.
(Gió thổi)
Cái tôi nhà thơ khát khao giao cảm, khát khao thể
hiện xúc cảm tình yêu trong mọi không gian: “hành lang hẹp”,“bên gốc cây cổ thụ”,“những góc tối”,... Tình yêu
được thể hiện mạnh mẽ qua những nụ hôn nồng nàn, say đắm. Trong những cảm xúc
thăng hoa, Em biến thành “con sâu đo đu
lên người anh” để “gặm” tất cả
những gì “ xanh non”. Động từ “gặm” được sử dụng rất tài tình: em
cảm nhận cơ thể anh, hòa vào cơ thể anh và muốn tận hưởng cảm giác đó thật lâu,
mãi mãi.
Với con mắt nhân sinh –
thẩm mĩ hiện đại, nhà thơ không ngần ngại mô tả tình yêu gắn liền với tính dục,
với những khát khao nhục cảm. Tính dục không đơn thuần chỉ tồn tại ở con người
mà tồn tại ở mọi sinh vật trong vũ trụ. Mai Văn Phấn thường sử dụng những hình
ảnh thiên nhiên, mùa màng, sự kết giao, sinh nở của vạn vật để diễn tả về tình
yêu đôi lứa của con người. Đó là một tình cảm mang tính phổ quát, thể hiện sự
hợp nhất cao độ giữa các mặt đối lập Âm – Dương, Đất – Trời, Sáng – Tối...,
mang đậm tính triết học:
Vươn thẳng
Tán cây quang hợp mặt trời
Lá chồng lên nhau hoan hỉ
Bật dậy thở chung dòng nhựa
Máu từ đất đau chảy qua bàn chân
Do đó, cảm xúc ấy có thể
hết sức mãnh liệt:
Nhoài lên mỏn đá sắc
Thân thể gió trầy xước
...
Giang tay núi đạp chân vào đất
Vò nát
Xé toang thân gió
Ánh sao rơi
Buổi sớm vỡ òa
Mà cũng rất đỗi tinh tế,
gợi cảm:
Đu cành cao
Chạm ngực em trái chín
Thân bỏng rát
Anh sấm rền gót
chân
Trái chín bay chậm buông thõng
hút lên sạch bụi rì rào
Anh nhai lá khô ngấu nghiến
lưng tròn khép lại vòng tay
(Hái từ đất)
Hình tượng Em trong con mắt thi sỹ là biểu
tượng cho sự sinh sôi, nảy nở và cho những gì tinh túy nhất của con người.
Thông qua Em, Anh có thể nhận ra được chính mình, và hơn thế, bản chất sâu xa
của thế giới. Em là nơi Anh luôn khao khát hướng tới và chờ đợi không chỉ trong
hiện thực mà còn trong cả dòng suy nghĩ, trong giấc mơ:
Anh mơ
được em gieo trồng trên ngực
Bàn tay
dịu dàng vun vào da thịt
Hôn lên
tai anh lời chăm bón thì thào
Anh cựa
mình nồng nàn tơi xốp
Gió sẽ
đến vỗ về từng chiếc lá
Lật
phía bên kia che cơn bão đang về
Mùa
đông em phủ lá vàng lên mặt
Nỗi ưu
phiền mục ra trong lấm chấm mưa xuân.
Từng
giọt mát lành thấm nhuần trong đất
Tươi từ
môi anh đến gót chân em
Anh ngỡ
mình được phép lành thánh thể
Đêm vừa
qua hay đã mấy nghìn năm.
(Bài ca buổi sớm)
Em - một nửa cuộc đời Anh, em người luôn mang
đến cho anh cảm giác được yêu thương, chăm sóc. Ở bên em mọi nỗi ưu phiền của
cuộc sống thường nhật đều mục ra tan
dần và mất đi, em đưa đến một luồng khí tinh nguyên để anh như được hồi sinh và
ngỡ mình được phép làm thánh thể. Một cử chỉ nhỏ của em
cũng làm Anh phải chìm đắm trong yêu thương Cầm
bàn tay/ Mình đã nuốt em/ Không còn lọn tóc, và mỗi nụ hôn nồng nàn cũng
được Anh cảm nhận, níu giữ rất chặt: Hôn
nhau/ Hồi tù và song đôi/ Bay đi rất chậm.
Tình yêu lứa đôi trong thơ Mai Văn Phấn được
tác giả thể hiện qua hệ thống từ ngữ, hình ảnh giàu tính biểu tượng. Vì thế,
tình yêu ấy tuy hết sức mãnh liệt, nồng nàn, mang đậm hơi thở dục tính song vẫn hết sức thiêng
liêng, thuần khiết. Đây là những ví dụ tiêu biểu:
- Rơi vào giấc mơ dâng hiến đắm say. Tắm gôi bằng bóng tối của đất. Nhắm
mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ thể, nước quả óng vàng lan chảy, ấp ủ
anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát thơm. Tưởng tượng em nhặt anh lên, hít
hà, cắn ngập vào lớp vỏ mịn. Nâng niu không vỡ hạt. Bao bọc. Chở mưa phùn gieo
anh nơi đất ẩm.
- Đôi môi anh
làm mỏ chim ong hút nhụy/ Đập cánh liên hồi bay tại chỗ.
- Cùng em nhìn muôn mặt cắt khuất lấp/ Biết mình đã
đổi thay và mãi ngây thơ/ Ngày mai đang
yêu/ Trái tim rộn rã thủa ban đầu/ Trong hơi thở gấp anh biết/ Tay mang hạt
giống/ Gieo...Gieo.../ Ta gieo ...
Đặc biệt, điều này được
thể hiện rõ qua Tỉnh dậy trong mưa. Ở
đó, khát vọng dục cảm Ta gần nhau thêm/
Trước khi ban mai trong suốt kéo lên được thể hiện như một lời kêu gọi hãy
tận hưởng, kẻo thời gian, sức trẻ trôi đi. Và, rồi Nước chảy/ Cứ chảy/ Giữ đôi ta lại. Có thể nói, tính dục trong thơ
Mai Văn Phấn không đơn thuần là sự thỏa mãn bản năng tự nhiên, mà đó là sự gắn
kết tâm hồn, trái tim cùng nhịp đập.
Tóm lại, cái tôi yêu
đương trong thơ Mai Văn Phấn vừa nồng nàn, rạo rực vừa thuần khiết, thiêng
liêng. Cái tôi khao khát được bộc lộ và đón nhận tình yêu, tình dục nhưng không
đưa đến cho ta cảm giác thô tục, trần trụi. Cái tôi mang trong mình hai tính
chất nhục cảm và thuần khiết và chúng
luôn song hành và bổ sung cho nhau. Có thể khẳng định thơ Mai Văn Phấn không hiếm những hình ảnh nhục cảm đắm
đuối nồng nàn, song chúng thường được bao bọc bởi “vòng vòng hào quang” tượng trưng, do vậy, luôn có khả năng hướng
độc giả đến điều gì đó mang tính phổ quát hơn và sâu xa hơn những hình ảnh biểu
hiện cụ thể.
2.1.2. Cái tôi thống nhất giữa lí tính tỉnh
táo và trực giác nhạy bén
Không dừng
lại với cái tôi say đắm, nồng nàn trong tình yêu, trong thơ Mai Văn Phấn còn
hiện diện cái tôi thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén. Vậy
thế nào là lý trí tỉnh táo? Thế nào là trực giác nhạy bén?
Nói tới lý
tính, ta thường nghĩ tới khả năng nhận thức thế giới của con người, một sự nhận thức khách quan,
nhạy bén, chính xác qua sự chỉ dẫn của đầu óc. Nhận thức lý trí được hình thành
dựa trên ngũ quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác). Còn
trực giác hay còn gọi là “giác quan thứ sáu” cho phép ta thấy được những gì mà
năm giác quan kể trên không thể thấy, cụ thể như linh cảm, cảm nhận, tưởng
tượng… hay tất cả những gì thuộc về thế giới vô hình. Trực giác nhạy cảm là một
phẩm chất “trời phú”, không phải ai cũng
có thể đạt đến và nắm bắt được.
Sự thống
nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong hình tượng cái tôi trữ
tình là một lý do giải thích cho sự thành công trong thơ Mai Văn Phấn. Nếu
trong thơ chỉ có lý trí tỉnh táo thì sẽ đánh mất bản chất của thơ ca - lãng
mạn, thi vị, thiếu đi những “lóe sáng” thiên khải tạo nên yếu tính của thi ca.
Ngược lại, nếu có trực giác nhạy bén nhưng thiếu đi tri thức về thơ ca, óc mẫn
cảm ngôn từ, khả năng tổ chức sắp xếp văn bản một cách kỹ thuật nhằm tạo nên
tính thơ, tính thẩm mĩ thì cũng khó lòng tạo nên bài thơ toàn thiện.
Trước đây,
Xuân Diệu “sống toàn thân và thức nhọn giác quan” để cảm nhận sự thay đổi của
thế giới vạn vật:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn nghê như nước, lạnh, trời ơi!
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người!
Còn bây giờ,
Mai Văn Phấn không chỉ vận dụng các giác quan để cảm nhận về vạn vật, về thế
giới mà còn sử dụng tiếng nói vô thức để thể hiện những góc khuất trong tâm hồn
con người. Cái tôi trong thơ ông vừa biết phát hiện, cảm nhận những biến chuyển
đời sống, vừa biết tận hưởng mọi vẻ đẹp trong đời sống thế tục. Ở đó, cái tôi
khẳng định mạnh mẽ qua những động thái: Tôi
nhìn, Tôi thấy, Tôi cảm, Tôi biết, Tôi tưởng tượng, Tôi nghĩ…. Bài thơ Tĩnh lặng với 45 phần đã thể hiện rõ
điều đó, chẳng hạn:
Hai đồ vật trên bàn
Đồng hồ
Viên sỏi chặn giấy
Tôi không thể đọc sách
Không nghĩ trọn một việc
Đầu óc mông lung
Nhìn rất lâu từng đồ vật
Tôi xoay một trong hai
Đặt lại khoảng cách
Thấy vệt sáng duy nhất
Giữa đồng hồ và viên sỏi.
Hay:
Gió ra đi
Giam tôi ở đây
Bằng chiếc lá
Nhìn khung cửa và chắn song
Tôi biết không thể bẻ gãy
Những đường gân lá
Chỉ mong những đốm vàng
Trên đó lan nhanh
Nhưng hơi ẩm đang phà hơi
Vào khoảng xanh diệp lục
Mình không manh động
Vào mùa xuân.
Cái tôi với
tâm hồn tĩnh lặng gần như tuyệt đối để cảm nhận, tái hiện những sự vật đang
thay đổi, đang chuyển động: vệt sáng yếu ớt đang tồn tại trong thế giới đầy
những bất trắc của xã hội công nghiệp hiện đại hay sự ra đi của gió... Nơi đó, con người đã ra sức thay
đổi góc nhìn nhằm tìm thấy bản chất của sự vật, hiện tượng.
Cái tôi
thống nhất giữa lý trí tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong thơ Mai Văn Phấn
được thể hiện rõ qua các tập thơ sáng tác vào giai đoạn sau, tiêu biểu là hai
tập thơ Hoa giấu mặt, Vừa sinh ra ở đó.
Trong Hoa giấu mặt, vẻ đẹp của đời
sống tâm linh được thể hiện rất rõ:
Giọt sương nín thở
Treo
Trên vũng nước bẩn
(Mong manh)
Hình ảnh
giọt sương treo trên vũng nước bẩn đưa đến sự liên tưởng độc đáo. Khoảng cách
giữa cái đẹp, tinh nguyên nhất của con người với cái dơ bẩn của xã hội quả là
quá mong manh. Kết thúc bài thơ không một dấu chấm hỏi nhưng đang đặt ra vô vàn
câu hỏi trong lòng người tiếp nhận. Bài thơ có kết cấu mở, ở đó, diễn ra cuộc
đối thoại vô ngôn, mời gọi sự diễn dịch của độc giả.
Cái tôi
trong Hoa giấu mặt không chỉ phản ánh
hiện thực bằng lý trí tỉnh táo mà còn đi sâu vào thế giới hư ảo, linh thiêng
của tâm linh con người với câu tụng niệm, với tiếng chiêng, với nhang khói tỏa
hương, với cuộc hóa vàng, với những linh hồn và với cả những mảnh vỡ của ánh
trăng trên cây… Tất cả tưởng như là
phi lý nhưng rất có lý – cái lý ở bề sâu cảm giác tâm linh. Chỉ bằng những nhận
thức sâu sắc của lý trí cộng với một trực giác trời phú, cái tôi đã thể hiện
được những hình ảnh “vụt hiện” và đó là những hình ảnh diễn đạt không thể đúng
hơn:
- Con bướm đậu
Hạt
mưa
Tập vỗ
cánh
(Con mắt nghiêng)
- Chuông đổ thêm lần nữa
Tôi
nhận ra
Con
giun bò trên đất
(Tìm đường)
- Bà nội rất muốn gặp tôi
Nhưng
những người chết
Ngăn
lại
(Thanh minh)
- Chưa kịp cất lời Kinh
Con chim sâu
Vội
chuyền sang cành khác
(Sát na)
Cái tôi như
đang sống trong khoảng khắc sâu kín nhất của tâm hồn. Đó là những phút “bừng
ngộ” trước vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên đất trời. Vạn vật được sinh ra, lớn
lên rồi cũng quay về với cát bụi, ranh giới sự sống và cái chết quả là mong
manh.
Mai Văn Phấn
đưa đến cho thơ ca một thế giới xa lạ, tiềm ẩn đằng sau những giấc mơ, giấc
mộng - đến bất chợt trong ý nghĩ của con người.
Giấc mơ đến với tất cả mỗi con người nhưng tất cả sẽ không còn dấu ấn
nếu ta tỉnh giấc. Song với thi sỹ Mai Văn Phấn, mọi giấc mơ đến đều được nhà
thơ “kịp thời” nắm bắt để rồi tái hiện lại một cách sinh động, đưa lại cảm nhận
mới cho người tiếp nhận thi ca. Sự vụt hiện của giấc mơ đã được tích lũy bằng
sự chiêm nghiệm cuộc sống, hiện thực của nhà thơ. Bước vào thế giới thơ Mai Văn
Phấn ta thường bắt gặp Chỉ là giấc mơ,
Giấc mơ vô tận, Kể lại giấc mơ, thậm chí là Giấc mơ cây. Giấc mơ thực sự là một ám ảnh nghệ thuật trong thơ
ông.
Cái tôi
thống nhất giữa lý trí tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong thơ Mai Văn Phấn
thường ẩn nấp sau nhân vật kể chuyện để bắt đầu cuộc đối thoại. Cuộc đối thoại
diễn ra trong không gian tĩnh lặng, để cái tôi cảm nhận được những điều bí ẩn,
kể cả những tiếng kêu của linh hồn đã mất:
Lưỡi dao sắc lia ngang
Sát gốc cỏ
Những vong hồn còn mắc kẹt
Cùng ngọn cỏ
Vươn tay
Lá cỏ vun thành đống
Làm thức ăn gia súc
Hoặc phơi khô
Vong hồn nào chưa được bay lên
Còn trong vòng nghiệt ngã
Cơn đau đớn sát sinh
Hoang hoải mùi hăng sữa cỏ.
(Ra vườn xem cắt cỏ)
Có thể thấy, sự thống
nhất lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén là một đặc điểm nổi bật của cái tôi
trữ tình Mai Văn Phấn. Đúng như nhà thơ đã khẳng định: “Thơ hay có thể đến tình
cờ với một số thi sỹ trong khoảng khắc đốn ngộ, xuất thần… Nhưng đa số các nhà
thơ có được thơ hay qua quá trình tu luyện, tích lũy kiến thức phong phú, một
hành trình bới tìm “vỉa quặng” của tâm hồn, đợi đến khi chín muồi, cảm xúc sẽ
chợt nhòe chợt hiện và nhà thơ, viết với tất cả choáng ngợp của mình. Sự choáng
ngợp của tác giả rồi sẽ lan truyền tới người đọc” [55; 391].
2.1.3. Cái
tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần lý tưởng“thuần Việt”
Thơ Mai Văn
Phấn là một hành trình liên tục cách tân, tìm tòi. Mai Văn Phấn vừa chú trọng
tiếp thu tinh hoa truyền thống dân tộc vừa có ý thức học hỏi nghiêm túc những
khuynh hướng sáng tạo mới của thơ ca thế giới. Song, sau tất cả những học hỏi,
tìm tòi về mặt kĩ thuật, cái đích cao nhất mà ông khao khát hướng
đến là một lối viết “tự nhiên/ như đi trên đất” giản dị, nhằm
diễn tả một cách sát đúng và đích đáng nhất tiếng nói thi ca “thuần Việt” – một
thuật ngữ được ông thường nhắc đến trong nhiều tiểu luận và những cuộc chuyện
trò, tao đổi về thi ca. Tất nhiên, “thuần Việt”
ở đây là một thuật ngữ mang tính quy ước hơn là một khái niệm lý thuyết chặt
chẽ. Thế giới tinh thần “thuần Việt” ở đây cần được hiểu theo nghĩa là thế giới
đời sống tư tưởng, tình cảm… của con người mang hồn cốt, tinh hoa của dân tộc, kết
hợp chặt chẽ giữa tình truyền thống và hiện đại. Trong Tiểu luận Thơ,
giá trị cần đến, nhà thơ khẳng định: “Hơi thở
Việt được hiểu như một hệ thống sinh thái, tập hợp nhiều thực thể độc lập nhưng
liên quan với nhau, bắt nguồn từ cội rễ văn hóa và bản sắc dân tộc. Tạo một nền
thơ hiện đại, làm phong phú tính truyền thống là nhiệm vụ cốt tử của mỗi
nhà thơ” [55; 375]. Còn trong tiểu luận Thơ Việt Nam đương đại
buổi ra đi và trở về, Mai Văn Phấn bộc bạch: “Tôi hâm mộ ai đó dám bước đi và biết quay về trên cội nguồn thơ Việt,
với tâm thức của thời đại, biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà
không đánh mất bản chất tâm hồn Việt, vốn sáng trong, chân thành, bao dung mà
rất hiện sinh, tinh tế trong cảm nhận, nhân
bản hồn hậu trong nghĩ suy về phận người”[55; 385].
Từ đây, xuyên xuốt hành trình sáng tạo của Mai Văn Phấn là hình tượng cái
tôi khao khát hướng tới một thế giới tinh thần “thuần Việt”. Thế giới tinh thần
“thuần Việt” mà Mai Văn Phấn hướng đến không phải là một thế giới cũ kĩ, lạc
hậu, hẹp hòi. Đó là một thế giới vừa mang vẻ giản dị, gần gũi truyền thống vừa
mang nét hiện đại, mới mẻ. Chân dung cái tôi khao khát hướng tới một thế giới
tinh thần “thuần Việt” trong thơ Mai Văn
Phấn được thể hiện ở nhiều khía cạnh.
Trước hết, cái tôi ấy khao khát tìm kiếm
những điều giản dị, thân quen trong cuộc sống văn hóa và sinh hoạt hàng ngày
của người Việt. Điều này thể
hiện rõ trong nhiều tác phẩm, chẳng hạn Cửa
mẫu, Giai điệu xuân, Cốm hương, Thu đến, Nghé ơi, Đá trong lòng suối, Hình đám
cỏ...
Cốm hương là một ví dụ tiêu biểu:
Thu về
e ấp/ Cốm non lãng đãng sương giăng/ Khăn áo ấy mịn màng da thịt/ Dâng heo may
lên trời/ Nhịp cốm giã rộn mùa thóc nếp/ Thúng mủng dần sàng vỏ trấu hây
hây/ Trái bưởi thơm dịu ngọt nắng hanh/
Thanh khiết chùm hoa mộc/ Giữa đất trời ngó sen sau mưa/ Da diết nhớ từng vòng
cuộn xiết/ Lá sen xanh ủ cốm em anh/ Chín nẫu chân mây mùa hạ/ Đêm ái ân lặng
phắc ngọn đèn/ Trái hồng đượm trong hương cốm nõn (Cốm
hương).
Những hình ảnh: mùa thu, cốm non, thúng mủng, dần sàng, vỏ trấu, trái bưởi,
ngó sen, trái hồng... được nhà thơ khắc họa sinh động, gợi nên
hình ảnh thiên nhiên, mùa màng, sản vật cây trái… xiết bao gần gũi và quen
thuộc của những miền quê đất Việt. Mùa xuân trong thơ thi sỹ được nhận biết với
những dấu hiệu xiết bao quen thuộc: Mây
nặng. Hoa đào. Củi mục. Đường trơn…
Vốn là nước xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước, hình ảnh
“Làng” với bến nước, mái đình, cây đa… là những điều không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của người Việt. Cuộc sống xô bồ công nghiệp ập đến, liệu những
nét đẹp đó có còn giữ được không? Mai Văn Phấn đã khẳng định những giá trị
truyền thống đó qua những hình ảnh thơ
giàu sức liên tưởng: “Nước lùa bóng ao lên chót vót/ ngập cuống nhau rã phận
hoa bìm/ lối về thấp thỏm/ Cội rễ giữ đất/ Con đường bầu vú vương thơm/ nối
khuôn mặt với bao nhiêu họp sọ/ trên tay chuyền một chuyền hai” (Làng).
Cái tôi
trong thơ Mai Văn Phấn còn thiết tha hướng về những giá trị văn hóa nguồn cội
với những dấu ấn hiển hách mà bi thương của lịch sử dân tộc. Việt Nam – dân tộc
anh hùng. Bài thơ Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc là một minh chứng. Lịch sử dân tộc được tái hiện qua hình ảnh các
cô gái thanh niên xung phong, sự hy sinh của họ đưa lại nền tự do, hòa bình cho
chúng ta hôm nay. Thay mặt mọi người, thi sỹ thắp nén nhang để tưởng nhớ về họ:
Nhang này
quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn
(Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc)
Nén nhang
“quặn” đau hay đó chính là nỗi lòng của thi sỹ : hướng về quá khứ, về nguồn
cội, để rồi khẳng định: Tôi nay tôi của
cơn mưa về nguồn.
Và xa hơn,
khi đọc thơ Mai Văn Phấn một phần lịch sử được tái hiện. Bài thơ tiêu biểu như:
Nhớ Hà Nội, Khúc cảm mùa thu, Mưa cuối hạ, Qua hoàng hôn, Những con sẻ chùa
Vĩnh Nghiêm, Đêm ở Thụy Khuê,… với
những câu thơ:
Hồ Gươm tựa
ngày biển lặng
Tháp Rùa
đứng đó buông neo
Mặt người
thành mây soi bóng
Nỗi buồn
biêng biếc rong rêu
(Nhớ Hà
Nội)
Bằng thơ, tác giả tái hiện gương
mặt lịch sử đau thương của một đất nước
đầy giặc giã và những cuộc chiến tranh liên miên – “gương mặt” của những quả
phụ và những em bé “chết vì đạn bom chưa một lần được sinh ra”: :
Vết sẹo tựa bản đồ một cuộc chiến tranh
Những cuộc
đời quả phụ
Những em bé chết
vì đạn bom chưa một lần được ra
Thành phố
Nỗi đau một
thời lau bằng rạ rơm
(Tiếng
gọi từ những cánh đồng)
Cái tôi khao khát hướng tới một tinh thần
“thuần Việt” trong thơ Mai Văn Phấn còn được thể hiện ở một khía cạnh khác, đó
là cái tôi nặng lòng với những giá trị văn hóa, đạo lý truyền thống dân tộc. Ngày
giỗ; Tạ ơn; Trồng cây nêu trước nhà; Hóa vàng; Hoa cửa đền…như những lời
nhắn gửi nhẹ nhàng, đầy ân nghĩa của tác giả với chính mình và với cuộc đời.
Đặc biệt, cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn luôn
thiết tha hướng về hướng về đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt. Ở đó,
dấu ấn văn hóa tâm linh của người Việt hiện lên rất rõ. Tiêu biểu là tục thờ
“Mẫu”. Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có lịch sử hình thành và phát
triển lâu đời, trở nên có hệ thống và phát triển mạnh vào thời Hậu Lê. Tín
ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở đất nước nông nghiệp, ở đó, chế độ mẫu hệ tồn tại, phát
triển nhằm đề cao vai trò của người phụ nữ, đề cao tính nữ. Mẫu – mẹ là đại diện
cho sự che chở, bao bọc, đồng thời Mẫu là đại diện cho sự sinh sôi, nảy nở.
Tín ngưỡng thờ Mẫu không chỉ phát triển trong
xã hội phong kiến mà còn phát triển mạnh mẽ trong xã hội công nghiệp hóa hiện
nay. Thờ Mẫu là tín ngưỡng hướng về đời sống trần thế hiện tại, chứ không phải
hướng về thế giới ảo, không có thực ở thế giới bên kia. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể
hiện ước vọng về sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm
linh của người Việt, mang lại cho họ niềm tin và sức mạnh trong cuộc sống. Thờ
Mẫu vừa là một tín ngưỡng tôn giáo, vừa là một nét đẹp trong văn hóa người
Việt.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự ngưỡng mộ, tôn vinh
và thờ phụng những vị nữ thần gắn với các hiện tượng tượng tự nhiên, được người
đời cho rằng có chức năng sáng tạo, che chở, bao bọc cho sự sống của con người
(như đất, sông, nước…); thờ những bậc anh hùng dân tộc, khi sống họ đem tài
năng giúp dân, giúp nước; khi mất họ hiển linh phù trợ cho con người, vạn vật
được bình an (như: những thái hậu, hoàng hậu, công chúa…).
“Mẫu” khởi nguồn của mọi sự sống trên thế
gian, là biểu tượng của cảnh khai thiên lập địa. Mẫu là đại diện của sự che
chở, bao bọc, đồng thời cũng là đại diện của sự sinh sôi, nảy nở, trù phú.
Trong bất cứ mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh của cuộc sống, mẫu luôn theo
sát, nâng niu, bảo vệ và dẫn đường cho con
vượt qua bao khó khăn, thử thách, bao sóng to gió lớn của cuộc đời. Mẫu
chính là chỗ dựa vững chắc trên con đường con lựa chọn. Mẫu là cội nguồn sự sống cho nên mỗi chúng ta
dù đi đâu, làm gì cũng không thể quên Mẫu. Điển hình cho quan niệm này là bài
thơ Cửa Mẫu, với cảm hứng linh thiêng
về Thánh Mẹ.
Bài thơ mở đầu với liên khúc I, khẳng định
vai trò của Mẹ đối với người con của mình.
Mẫu
nâng niu con ánh trăng
Tiếng
chuyền cành, tiếng hú
Da thịt
con yêu trải sâu đêm tối
Dựng
tầng mây mưa nguồn
Không chỉ nâng niu, yêu thương Mẹ còn là
người chỉ bảo, dẫn đường cho con bước những bước chân đầu tiên trong cuộc đời:
Chợt
nhớ mùa nước lớn ngập tràn hang dế
Lóc bóc
tiếng bong bóng phun lên từng đợt
Cho con
biết được đâu là cửa hang…
Và đến một ngày, con phải tự mình nếm trải
sóng gió cuộc đời (Khúc II, III, IV, V) với bao khó khăn chông gai nhưng chính
trong biển lớn khó khăn cuộc đời, con mới trưởng thành và khi đó: Con biết ơn trận mưa/ Sấm to và gió mát.
Mẫu ở đây không đơn thuần là người mẹ sinh
thành ra con, mà đó là người Mẹ Cả của vũ trụ, của thiên nhiên. Mẫu - trung tâm
của con, của cha và của tất cả mọi người. Chính vì thế, hướng về Mẫu là nhu cầu
tự thân của mỗi người thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu.
Sự tôn vinh cái đẹp trong tín ngưỡng thờ Mẫu
được thể hiện qua lễ hầu đồng. Không gian buổi lễ với những nghi thức, khiến
con người được thăng hoa, quên đi những âu lo trong cuộc sống thường nhật. Tín
ngưỡng thờ Mẫu được tác giả khắc họa rất rõ nét qua nhịp IX của bài thơ: trống chiêng bát bửu/ mở hội long đình/ múa
hát cao xanh/ công đồng tứ phủ/ mở lòng đệ tứ/ bao dung mắt nhìn/ mưa thuận gió
êm/ khâm sai ân huệ/ tâm thành kính lễ…cầu mong: đi tươi về tốt/ thuận buồn xuôi ngược/ má phấn môi son/ lá phách sênh
tiền/ rồng thiêng bay lượn/ năm tòa quan lớn/ phơ phất bàn tay/ tài cao đức
dày…Thơ Mai Văn Phấn cho ta hình
dung được nét đẹp, sự linh thiêng mà tín ngưỡng thờ Mẫu mang lại. Đó cũng chính là nét đẹp của con người Việt – luôn
hướng về nguồn cội, hướng về sự sống, với cái tâm thành kính.
Ngoài ra, ta
còn bắt gặp trong thơ Mai Văn Phấn một
cái tôi luôn khao khát hướng đến cái “Tâm” thanh tịnh in đậm màu sắc tâm
linh truyền thống người Việt. Khi con người hướng về và ý thức được mọi việc
nhờ tu tâm thì “cốt cách” sẽ được khẳng định dù ở bất cứ hoàn cảnh nào:
Cánh hoa sen
Ngay ngắn rơi xuống
Vũng bùn
(Cốt cách)
Có thể thấy,
cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn luôn vận động với những cách tân và tìm tòi đa
dạng, song càng ngày ý thức hướng đến tìm kiếm một vẻ đẹp tinh thần thuần Việt
ngày càng đậm đà, rõ nét. Cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn mang những nét đẹp
truyền thống trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại – một vẻ đẹp hài
hòa giữa truyền thống và hiện đại.
2.2. Hình
tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn
Tìm hiểu
hình tượng thế giới trong thơ Mai Văn Phấn có nghĩa là thừa nhận tính khách thể
của hình tượng trữ tình này. Qua ngôn từ gợi tả của lời thơ và bằng trí tưởng
tượng, người đọc có thể hình dung bức tranh về thế giới với những đường nét,
màu sắc, hình khối và âm thanh sinh động. Hình tượng thế giới thơ Mai Văn Phấn
được thể hiện qua các phương diện cơ bản sau:
2.2.1. Một
thế giới của sự viên mãn và thuần khiết
Như một số
nhà phê bình đã nhận xét, thế giới trong thơ Mai Văn Phấn được tái hiện tất độc
đáo qua “nhãn quan phồn sinh”. Ở đó, vạn vật đều được nhìn ngắm trong sự sinh
sôi, nẩy nở và tràn đầy năng lượng. Nhà phê bình Văn Giá nhận định: “Toàn bộ
thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất tận” [46;
529 ].
Thế giới qua
lăng kính phồn sinh là “thế giới phì nhiêu, nhiều tầng, nhiều cá thể cộng sinh
chen chúc đầy hoan lạc, tựa như cánh rừng nhiệt đới vậy” [46; 529]. Xuyên suốt
sáng tác thơ Mai Văn Phấn là sự xuất hiện dày đặc các hình tượng: mùa màng, cây
cỏ; đất đai, cánh đồng,…tượng trưng cho cho sự sinh sôi, vĩnh hằng của thế
giới. Ở đó, những câu thơ tôn vinh thế giới phì nhiêu thật ấn tượng: Ghé môi
vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non (Tản mạn về cỏ); Chỉ
còn ta lại với ta/ Cỏ run đầu ngõ như đà cắn câu (Lơ lửng); Mắt vừa mở
với rạng đông/ Chân trời hổn hẻn phập phồng ngón chân (Kinh cầu ban mai); đất
mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời/
Những mùa tái sinh trổ đòng chín rục/ Sấm nổ vang trong lòng tay mầm hạt/ Vòng
phù sa tươi ròng ấp ôm thớ đất (Bài hát mùa màng); Thiên nhiên động
tiếng mùa sang/ Dấu chân trong cỏ mỡ màng trổ hoa/ Quả thơm trĩu ngọt la đà/ Tạ
ơn sương đọng vái xa chân trời (Chương VIII: Trái tim giải thoát)…Thiên
nhiên tràn đầy sức sống trong con mắt
tác giả.
Nhãn quan
phồn sinh hướng về thiên nhiên thực chất
là hướng về con người, hướng về đời sống
nhân thế. Hình ảnh “Em” trong thơ Mai Văn Phấn là hiện thân của đất đai, mùa
màng, tươi tốt và sự gieo trồng: Em chợt hiện/ Từ hương thơm trái chín/
Trong dập dờn bãi ngô mùa thụ phấn/ Lá giật mình/ Cá lặn xuống chân/ Hút mãi về
em/ Từng hơi thở đất/ Anh hạn hán/ Cơn mưa chiều tất bật (Nỗi nhớ mùa thu)…Và “Anh” khao khát
đón nhận sự gieo trồng của “Em”: Anh mơ được em gieo trồng
trên ngực/ bàn tay dịu dàng vun vào da thịt/ Hôn lên tai anh lời chăm bón thì
thào/ Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp (Bài
ca buổi sớm)…
Thế giới
phồn sinh viên mãn còn được thể hiện qua khát vọng nhục cảm trong tình yêu nam
nữ, trong cái khát khao gieo trồng và sinh nở: “Tìm miệng anh gieo hạt/ Gió
níu chân tay đất dịu dàng”, để rồi “Anh dìu em lộng lẫy váy hoa/ Hôn em,
ngón tay út/ Nâng em lên trăng”; “Mỗi nụ hôn mở thêm cánh cửa/ Níu chặt
tay nhau/ Bám chặt tay nhau/ Không thất lạc”… Trong một cái nhìn mang tính
lý tưởng hóa, hành động tính giao trong tình yêu được nhà thơ ví như một nghi
lễ xiết bao kì vĩ và thiêng liêng: Yêu nhau. Là những nghi thức dâng tụng
trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh Kim và em mệnh Hỏa. Từ lửa làm ra Thổ,
ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung (Anh anh em em)… Nơi đó, con người sẽ luôn cảm nhận được sự
nồng nàn mà tình yêu mang lại: “Chạm vào anh biết viên sỏi rất mềm,
cọng rơm khô trĩu nặng, sợi tóc thở nhẹ (Tỉnh
dậy trong mưa).
Thơ Mai Văn
Phấn đưa ta đến thế giới của sự sống, sự sinh sôi, nảy nở. Đó là sự sinh sôi
nảy nở của vạn vật và con người: Dòng sông vừa chảy/ vừa sinh nở (Đất
mở); Ngựa thở dốc/ bời ngợp cảm giác cỏ/ chùm lưỡi dìu nhau đứt cuống/ xuyên
qua tim lăn vào đât tơi/ nở những bàn tay sau lưng tươi tốt (Được quyền nghĩ
những điều đã ước)…Người đọc dễ dàng
bắt gặp trong thơ Mai Văn Phấn những tính từ chỉ trạng thái, cảm giác về sự
sung mãn, tràn trề năng lượng: căng tràn nhựa mật, ứ
căng dòng nhựa, chật căng mầm hạt, bạt
ngàn cây lá, lá mầm che mặt đất sum suê, lá lên xanh thắm…; các động từ
chỉ hoạt động sinh nở, phát triển: nứt
vỡ vỏ cây, chồi lên thành lộc biếc, rộ
lên từng đợt lá non; vùi vào nhau
hạt mầm bé nhỏ; đọt mầm bật dậy…
Tuy nhiên, bên cạnh tính chất phồn
sinh viên mãn, thơ Mai Văn Phấn còn đưa người đọc vào một thế giới của sự thuần
khiết, trong trẻo. Ta có thể thấy điều này rất rõ qua nhiều tác phẩm của ông,
tiêu biểu là tập Vừa sinh ra ở đó.
Vừa sinh ra ở đó tái hiện không gian thiên nhiên thật đẹp đẹp
và thuần khiết.
Đó là không
gian làng quê Việt Nam với những Màu xanh lá mạ/ Đọt mầm/ Nõn chuối/ Bãi dâu
non; Vườn cây/ Dòng mương/ Khoảng không lặng im/ Trong suốt…gợi lên sự gần
gũi, thân quen và bình yên. Nơi đó, con người tìm về tâm hồn thiên nhiên để gạt bỏ bao phiền muộn, u sầu
trong công việc, trong cuộc sống: Dang
tay vươn thở/ Sải mình/ Mở cùng nước/ Cơ thể anh/ Cánh cửa nhỏ bé/ Gập mình dịu
mát/ Thả lỏng/ Sắp đặt lại xương cốt/ Dòng nước cuốn từng tế bào chết (Tỉnh
dậy trong mưa).
Đó cũng là không
gian của gió, của nắng, của ban mai, của bình minh mà
thiên nhiên mang đến cho con người:
- Nắng hây hây, nắng xế/ Làm cánh đồng lúa
chín rộ lên
- Kéo mặt đất lên cho hơi mát, tiếng chim/
Dồn vào nơi thanh vắng/ Ánh ngày reo trong đất sâu
- Nắng sớm đang phủ lên đỉnh núi/ Làm trong
suốt lòng đất, lòng cây
- Tiếng chim thổi bung gió lộng
- Ánh sáng phát ra từ đó/ Bình minh phát ra
từ đó/ soi rõ chân đồi, lối ra bìa rừng…
Ánh sáng
tràn ngập trong các bài thơ. Chẳng hạn, trong bài Tĩnh lặng “ánh sáng”, “quầng sáng”, xuất hiện 13 lần, trong bài Quang phổ, “ánh sáng” xuất hiện 12 lần.
Ánh sáng mang nguồn năng lượng sống, xua tan sự hắc ám, thanh lọc tâm hồn con người.
Đó cũng là
không gian của hương hoa, sắc hoa ngọt ngào và tinh khôi:
- Hương thơm/ Nhẹ tinh khôi
-
Hương hoa thanh khiết phủ đá núi
- Rừng nụ chờ em bước đến mới nở, điệp trùng
hoa trắng lan nhanh
- Nhụy hồng tươi/ Cánh trắng tinh khôi/ Mở
bầu trời hơi thở
- Xương cốt mùa đông/ da thịt mùa xuân/ Hoa
loa kèn mở cánh trắng muốt…/ Cuống hoa tựa vào anh biếc xanh
-Từng cánh hoa trắng muốt/ Giăng kín khoảng
không
- Từng chùm hoa rạng rỡ trong mưa….
Trong không
gian này, con người hướng về thiên nhiên - hướng về những gì thuần khiết nhất:
- Anh là cây mận trắng trong mưa xuân se lạnh,
càng quay quắt nhớ hoa càng trắng muốt. Mắt nhìn, hơi thở rung rinh. Vầng hoa
đang rụng bớt những cánh mỏng. (Mùa hoa mận).
- Mỗi ngày anh được hồi sinh từ vòm lá, chập
chững, biết lo toan, để sớm mai bắt đầu một đời sống khác. Biết
bao lần anh hạc gày khắc khổ, rồi sum suê bên cây. Là đứa trẻ mải chơi bóng
mát, mỗi vui buồn anh lại ngước lên. (Giấc mơ cây).
- Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ
thể, nước quả óng vàng loang chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát
thơm.Tưởng tượng em nhặt anh lên, hít hà, cắn ngập vào lớp vỏ mịn. Nâng niu
không vỡ hạt. Bao bọc. Chờ mưa phùn gieo anh nơi đất ẩm. (Giấc mơ cây).
Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn là thế giới vừa viên mãn, sinh sôi, nảy
nở vừa hết sức trong trẻo, tĩnh lặng, thuần khiết. Sự viên mãn, nảy nở và sự
thuần khiết là hai đặc tính thẩm mĩ gắn
liền nhau, tạo nên nét đặc thù của thi
giới thơ Mai Văn Phấn.
2.2.2. Một thế giới của sự tương giao, hài hòa
Thế giới của
Mai Văn Phấn còn là thế giới của sự tương giao, hài hòa. Ở đó, con người và
thiên nhiên luôn tồn tại trong một mối quan hệ thống nhất, hài cao độ. Cấu trúc
thế giới ấy cho thấy một quan niệm thẩm mĩ mang đậm dấu ấn triết lý phương Đông
truyền thống song đồng thời đã mang những dáng mẻ hiện đại, khác biệt.
Không còn là
bức tranh mênh mông, rợn ngợp trước vũ trụ mà Thơ Mới thường gợi tả:
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về
nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành
khô lạc mấy dòng
(Tràng giang – Huy Cận)
Giờ đây, bức tranh thế giới trong thơ
Mai Văn Phấn hoàn toàn được thay đổi. Ở đây, con người và vũ trụ luôn có sự hài
hòa, tương giao. Nhà thơ Đỗ
Quyên đã khẳng định: “Cái tôi trữ tình trong thơ Mai Văn Phấn, không còn là cái
tôi công dân, cái tôi sử thi hay cái tôi riêng tư. Mà là cái tôi nhân sinh. Nhà
thơ chuyển từ quan niệm thơ là nỗi lòng mình, mục đích khiến cảm động lòng
người đến thái độ coi thơ là lập ngôn, làm thơ là thực hiện đạo sống. Hai đối
tượng chính đã lập trình dòng thơ này là con người và thiên nhiên..”[ 54; 172].
Nếu thơ
Nguyễn Quang Thiều chìm đắm trong hoài niệm và huyền thoại thì đến với thơ Mai
Văn Phấn, ông thấu nhập cái tôi vào vũ trụ, vào thiên nhiên, vào những “yếu tố
bản nguyên”, hòa nhập vào "thế
giới", nhìn xuyên thấu vũ trụ để nhận ra cái tinh thần, thần thái của muôn
vật:
Bất chợt vệt cánh chim bay qua
Hay quanh quất bóng mình còn sót lại
Cánh chim tựa que diêm quẹt vào ngây dại
Ngọn lửa thiên thần nào có thể bén vào tôi.
(Cánh chim bay
qua)
Cánh chim
trên bầu trời bay qua để lại một vết sáng và "bóng mình" hiện lên
trong sự hư vô của tiềm thức. Ở đó, cánh chim, ngọn lửa và "tôi" như
hòa nhập vào nhau.
Con người và
thiên nhiên hòa chung vào nhau để sinh tồn. Ở đó, con người mang trong mình một
khát khao của "hoa thơm cỏ dại" để thanh lọc tâm hồn: Từng
cá thể e dè tự xưng danh, mang nỗi khát khao tự nhiên của hoa thơm cỏ dại.
Những cánh hoa nhỏ nhoi tự tin đứng trên đài hoa. Không gian giãn ra cho chúng
thổi lên trời cao bao giọng điệu bất tận, làm hơi thở con người ngân lên tiếng
chuyển mùa cùng thời tiết, đất đai”.
Và mỗi cá
nhân như mang trong mình nhịp đập của thiên nhiên vạn vật:
Cá tính hòa
đồng với quy luật thiên nhiên, cho ta nhịp nhàng, cho ta nguôi ngoai, cho ta
thổn thức.
Tuân theo
luật mà dồi dào cá tính. Cái Tôi tận cùng dẫn tới cái Ta.
Khi làn
hương thanh cao bí ẩn ra đi, nặng trĩu đài sen cõng trên lưng mùa hạ. Những
chiếc lá nằm mơ được hái gói cốm, lũ ve sầu còn ngân lên lời xưng tụng cuối
cùng.
Chân chim
nhấc lên để đôi cánh được đường bay tung hứng. Ta biết ơn khoảng không và thời
khắc cho rực rỡ bắt đầu, cho hương thơm sắp sửa.
(Cộng hưởng II)
Bức tranh thiên nhiên với vạn vật đang được
hoà quyện vào đời sống của con người.
Bóng những chiếc ghế,
hàng cây, ngọn tháp…
Trốn màn đêm đi tìm ước mơ
Những lưng
ghế không biết đổ mồ hôi
Và tán lá
không làm ra diệp lục
(Phía
sau ánh sáng)
Đang tan vỡ
bao giấc mơ lộn ngược
Trong
nước mưa mát lành - phồng nở - rền vang
(Biến
tấu đêm mưa)
Những mái rạ chồng lên nhau thở dốc
Mặt đất nôn nao mở miệng sông hồ
Mùa thu chạy vào nỗi niềm thâm căn cố đế
Hơi nóng râm ran truyền lên thịt da (…)
Khi mùa thu thoát ra qua mắt sâm cầm
(Quyền lực mùa thu)
Trong thơ
Mai văn Phấn, con người và thiên nhiên như là những người bạn đồng hành. Hình
ảnh Anh - Em đồng hành cùng hình ảnh vạt nắng - ban mai để hướng về tương lai
thật đẹp, thật gợi cảm: Anh bước lên vạt nắng/ Một con thuyền ban mai/ Em
bảo hãy chờ để khóa chặt cổng. Không những thế, thiên nhiên còn là
"thầy thuốc" tái sinh tâm hồn mệt mỏi của con người : Sớm mai thay
áo mới/ Ánh hồng nhung hắt lên khuôn mặt em/ Thôi miên làn gió chợt qua/ Tiếng
chim qua đỉnh đầu/ Vào cơ thể anh lúc đang tịnh độ/ Xua đi cho lòng yên lặng/
Sao về được tâm không/ Tiếng chim âm u/ Lập lòe sáng từng phần cơ thể/ Ngỡ bay
cùng đàn chim/ Ngực căng tức tiếng hót.
Bức tranh thế giới trong thơ Mai Văn Phấn
hiện lên trong không gian mênh mông, đa chiều. Ở đó, hình ảnh thiên nhiên hiện
lên với mật độ dày đặc: cây cối, đất đai,
sông nước, trăng, gió, mây,..Và, tất cả thật gần gũi như một phần không thể
thiếu của con người: Trăng đã về bên kia/ Phủ lên những nụ hôn khác/ Màn
sương, mùi cỏ khác/ Nơi ấy một dòng kênh/ Bóng con thuyền nhỏ qua cầu/ Bờ đá
nằm im nghe mồ hôi lạ/ Giọt giọt trăng khuya/ Bàn tay em tìm trăng/ Từng ngón
đêm lóe sáng/ Một con đường thanh sạch/ Thức dậy làn hương/ Chuỗi thanh âm tràn
dâng ngày/ Men theo trăng, cười nói trăng/ Nghẹn thở một màu trong suốt (Mùa trăng). Và ngược
lại, mang ơn thiên nhiên, con người đã
hồi đáp thiên nhiên bằng chính tình yêu và sự chân thành của tâm hồn: Hôn em
trời đổ mưa/ đất đai/ hồi sinh tươi tốt (Những bông hoa mùa thu).
Sự hài hòa giữa ngoại
giới và con người được tác giả tái hiện như một thể thống nhất. Ta hãy đọc
những câu thơ sau để cảm nhận về điều này:
Hạt mưa
chạm mặt anh khỏa nhẹ.
Tiếng mưa dâng bầy thủy sinh, vây cá lượn lờ.
Con tôm cong búng giật trong cơ thể anh nghẹn sóng.
Đừng mưa lây rây, mưa nhỏ giọt, mà xối xả lòng
suối lòng hồ, lòng đá mềm giãn nở. Cánh tay trần vực dậy thân cây. Những nụ mầm
ướt.
Mưa chạm vào da vào lưỡi, gợi đường cong và eo
lưng mưa.
Tiếng sấm nổ vào thời khắc anh hình dung con
cá lớn quẫy khỏi cơ thể. Ngoi lên. Ung dung bơi đi trong mưa.
Có thể thấy thơ Mai Văn
Phấn khắc họa thành công một thế giới tương giao, hòa hợp như một ý niệm triết
học cũng là một ứng xử văn hóa.
2.2.3. Một thế giới của những cảm giác siêu nghiệm
Thế giới hình tượng trong thơ Mai
Văn Phấn đi từ việc khắc họa những gì tồn tại hiển nhiên đến chỗ biểu đạt thế
giới bí ẩn bên trong mà nhà thơ khám phá
nhờ cảm giác siêu nghiệm. Trả lời tạp chí Người
Đương Thời, Mai Văn Phấn từng khẳng định: “Thơ ca, cũng như một số ngành
nghệ thuật tiền phong khác, đang dần dà khai triển trong những tầng sâu của tâm
thức và vì thế phần nào trở thành chính chất lượng cuộc sống…Thơ ca gần như tôn
giáo, nhưng không cao vợi và phải thờ phụng theo những nghi lễ. Thơ ca cũng là
tâm linh, nhưng nhà thơ có thể làm biến đổi cả đời sống tinh thần con người và
mở ra những không gian riêng biệt khi gặp được “duyên” cảm xúc” [55; 433-434].
Siêu nghiệm là những cảm giác được hình thành
không cần trải qua những kinh nghiệm đời sống thông thường. Nó vượt lên những
cảm giác kinh nghiệm để dấn sâu thể hiện đời sống tâm linh, vô
thức, trực giác. Tuy nhiên, cần lưu ý sự khác biệt giữa cảm giác siêu nghiệm
với cảm giác siêu việt – thần bí. Cảm giác siêu nghiệm không phải là cái không
có thực, không tồn tại. Nhưng, đó là sự tồn tại không thể quan sát bằng cặp mắt
thực của con người và vì thế, kinh nghiệm không thể lý giải, không thể minh
giải. Nơi tồn tại những cảm giác siêu nghiệm không thể kiểm chứng bằng kinh
nghiệm nhưng lại được “chứng ngộ” bởi trực giác, tâm linh.
Mai Văn Phấn người có điều kiện tiếp tiếp thu kinh nghiệm sáng tác của
những trường phái thơ hiện đại chủ nghĩa và luôn khát khao lí giải về thế giới trong chiều sâu
bản chất của nó. Vì thế, trong sáng tác, nhà thơ đặc biệt chú ý đến tiếng nói
của trực giác, vô thức, tâm linh. Nhà phê bình Nguyễn Chí Hoan đã nhận định:
“Cho đến nay có thể anh (nhà thơ Mai Văn Phấn) là nhà thơ duy nhất trong thơ ca
đương thời đã đưa vào thơ một cách có hệ thống và dày đặc đến thế những liên hệ
siêu nghiệm, những hình ảnh siêu nghiệm” [46; 292].
Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ tồn
tại trong không gian thực của cánh đồng, căn phòng, phố phường, dòng sông… mà
còn hiện lên trong không gian hư ảo của giấc mơ, không gian đầy mộng mị, siêu
thực của bóng người, bóng con vật, bóng đồ vật… Chẳng hạn:
Bóng ta không còn phân vân trên vách liếp
muốn lưu giữ hư danh và sủng ái mơ hồ. Bóng minh bạch trên mặt gương, trên
tường vôi, đá ốp, trong tơ nhện vô tình ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ
non.
Ta theo bóng những cây cầu bắc qua sông lờ
lững, qua trễ nải lo âu của hoa cỏ đôi bờ, qua cái miệng xoáy nước ngây thơ
chưa biết nói, qua hồn người chết đuối không biết bơi.
Còn bóng ai in trên quả chuông, loa kèn, tang
trống. Nơi ấy Phật - Thích -Ca và Chúa Giê- Su cộng hưởng, làm sự lặng im cũng
nhấp nhô chuyện trò trong khoảng rỗng ban mai.
Sinh ra từ ngọn lửa và ánh sáng, bóng chạy
theo mình, cái có có không không duy nhất mắt ta nhìn thấy được.
(Chương III: Cộng hưởng I –Người cùng thời)
Chiều sâu tri giác của trực giác tâm linh, vô thức giúp con người nhận ra những vẻ đẹp đầy quyến
rũ, ma mị, bí ẩn của thế giới mà một cái nhìn lí tính thông thường khó lòng đạt
tới. Nó giúp con người lặn sâu xuống đáy bản thể để nhận ra sự tồn tại đích
thực của mình giữa thế giới, như một bông hoa: Tóc và vai tôi màu trắng/
Chiếc cuống/ Bắt đầu ngả vàng… một cái cây: Không cần nước/ Tôi mọc cây
non trên sa mạc… một quả trứng: Rũ
lớp vỏ ánh sáng/ Tôi mở mắt đứng lên… Và khi biết dứt bỏ tạp niệm, trở nên trong
suốt, vũ trụ và Tôi là một: Không khô cứng/ Không còn sắc nhọn/ Tôi bình
đẳng/ Hòa trong thế giới…
Hướng tới những cảm giác siêu nghiệm, ngòi bút Mai Văn Phấn đặc biệt chú
ý tới những trạng thái dịch chuyển mơ hồ, những phức hợp cảm giác mong manh, sự
tương giao lạ lùng giữa hình ảnh, âm thanh, đường nét, sắc màu… Thế giới được soi ngắm bằng con mắt nghiêng và nhà thơ đưa người đọc
tới những miền đất xa lạ qua những giấc mơ của chính mình. Tất nhiên, ở đây
những cảm giác siêu nghiệm không chỉ là cái
được mô tả mà còn là một cách mô tả.
Có khi ta thấy nhà thơ mượn cái vỏ vô thức để khẳng định ý thức tỉnh táo của con người trong xã hội
hiện đại – nơi mà mọi giá trị đang bị lộn sòng: Nói rằng xin/ bởi nếu tôi
không đồng ý/ của quý kia phải liệng xuống hố phân/ (chúng biết cả bí quyết
thần chú)/ Tôi bảo:/ các ông có thể lấy hết/ nhưng cho tôi giữ lại chút riêng/
xin tự nguyện làm đồ chơi, giẻ lau, trâu chó…
Tóm lại, nhìn thế giới bằng con mắt siêu nghiệm, nhà thơ có thể mô tả và
lý giải thế giới trong chiều sâu bản chất của nó. Một thế giới đầy những cảm giác
siêu nghiệm – đó vừa là một đặc điểm, cũng là một nét đặc sắc nghệ thuật nổi
bật của thơ Mai Văn Phấn.
Chương 3
PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
3.1. Thể thơ
Mai Văn Phấn
sử dụng đa dạng các thể thơ, nổi bật là thể thơ lục bát, thơ tự do, thơ văn
xuôi và thơ cực ngắn. Khảo sát Thơ tuyển
Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội nhà văn (2011), Hoa giấu mặt, Nxb Hội nhà văn (2012), Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội nhà văn
(2013), chúng tôi đưa ra bảng tỉ lệ các bài thơ theo các thể thơ khác nhau như
sau:
Bảng
3.1
Thống kê số lượng các bài thơ theo các thể
thơ
STT
|
Thể thơ
|
Số bài
|
Tỉ lệ (%)
|
1
|
Lục bát
|
19
|
5.90
|
2
|
Tự do
|
164
|
50.93
|
3
|
Thơ văn xuôi
|
40
|
12.42
|
4
|
Cực ngắn
|
99
|
30.74
|
3.1.1. Thơ
lục bát
Lục bát là
“một thể câu thơ cách luật mà các thể thức được tập trung thể hiện trong một
khổ hai dòng với số tiếng cố định: dòng sáu tiếng (câu lục) và dòng tám tiếng
(câu bát). Các thể thức chủ yếu của lục bát: Gieo vần, phối điệu và ngắt
nhịp”[18;190].
Bước vào
làng thơ, Mai Văn Phấn chọn cho mình một lối đi truyền thống với thể thơ thơ
lục bát. Thoạt nhìn, việc này tưởng như dễ dàng nhưng thực tế không ít khó khăn
đang chờ đón thi sỹ ở phía bước. Một nhà thơ Argentina đã từng nói đại ý: muốn
thử tài năng của một nhà thơ hãy bảo anh ta làm thơ theo thể thơ dân tộc. Làm
thơ dân tộc như người làm xiếc trên dây, không có tài thì sẽ ngã.
Là một người
có thực tài, Mai Văn Phấn đã có được những bài thơ lục bát đẹp về cảm xúc cũng
như hình ảnh, chẳng hạn Tản mạn về cỏ, Một mình, Nước mùa xuân, Kinh cầu ban
mai, Lơ lửng, Qua hoàng hôn, Bâng Quơ, Gom nhặt cuối mùa, Khúc cảm mùa thu, Con
ngủ,…Thể thơ quen thuộc nhưng hình
ảnh, nhịp điệu trong thơ đã thay đổi. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân
Nguyên trong lời giới thiệu Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời
phỏng vấn đã nhận xét rằng: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng muốn thành
cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết
khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ sáu tám trong cái sự chừng mực của
khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của người viết đã chất chứa một sự thăm
dò để bung phá” [55; 8].
Thành công ban đầu của Mai Văn Phấn khi sử dụng thể
thơ lục bát có lẽ là sự xuất hiện những ý tưởng, hình ảnh lạ (vào thời điểm
ấy), chẳng hạn:
Ghé môi vào miệng thời gian
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non.
(Tản mạn về cỏ)
Em đi cùng đám mây bông
Mình
anh gió hú dọc sông Ngân Hà
Tàn mùa chiếc lá lia qua
Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy
phần
Sáng thì làm
trăng thượng tuần
Lu thì ghép với mấy lần
cong vênh.
(Một mình)
cầm tay gió dắt vào đêm
Mà hồn xanh lỡ để quên cuối trời
Dấu chân xin cát chớ vùi
Cho ta về lại luân hồi kiếp sau.
(Qua hoàng hôn)
Không chỉ lạ
hóa hình ảnh mà nhịp thơ trong thơ lục bát của Mai Văn Phấn cũng đã có sự thay
đổi: Trong sương khói/ có sóng gầm/ Một mai vọng xuống cát lầm tạnh khô.
Nó báo hiệu sự thay đổi trong nội dung, cảm hứng, làm đà cho sự bứt phá ở giai đoạn sau.
Nổi bật
trong thơ lục bát của Mai Văn Phấn giai đoạn đầu là những ẩn dụ tinh tế: Tàn mùa chiếc lá lia
qua/ Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần; Hoa tàn cây vẫn còn đau/ Hương thơm quyến
luyến trên đầu cỏ xanh; Mắt vừa mở với rạng đông/ Chân trời hổn hển phập phồng
ngón chân; Nhang này quặn nỗi đau xưa/ Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn; Trăng
gày mòn bến mày ngài/ Thuyền ta qua nổi đêm dài này không…Các sự vật, hiện tượng đều được lạ hóa, mang
trong mình tâm trạng, nỗi đau, niềm vui cái tôi cá thể: cây đau, chân trời
hổn hển, nhang quặn đau, trăng gày mòn…
Lục bát là thể thơ được tác giả sử dụng trong giai đoạn đầu sáng tác,
chiếm số lượng ít, thậm chí là rất ít trong các sáng tác của nhà thơ cho đến
thời điểm hiện tại (19 bài). Đến với lục bát, thi sỹ đã tuân theo những quy tắc
về hình thức và thể hiện những vấn đề quen thuộc trong thơ như mùa thu, hoàng
hôn, cỏ cây… Song, so với các nhà thơ cùng thời như: Nguyễn Quang Thiều, Dương
Kiều Minh, Đồng Đức Bốn… lục bát trong thơ Mai Văn Phấn cũng có nét riêng. Dù
vậy, thơ lục bát với những khuôn mẫu, quy tắc vần
nhịp truyền thống vẫn chưa thực sự làm toát lên nét độc đáo trong diện mạo thơ
của tác giả này.
3.1.2. Thơ
tự do
Thơ tự do là
thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen
các đoạn thơ làm theo các thể thơ khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do. Đặc điểm
đáng chú ý của thơ tự do là phá khổ và có thể mở rộng câu thơ, kéo dài câu thơ
thành hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng in, có thể sắp xếp thành "bậc
thang" để tô đậm nhịp điệu trong câu, có thể xen kẽ câu ngắn dài thoải
mái. Thơ tự do ra đời để đáp ứng nhu cầu diễn đạt tình cảm, cung bậc cảm xúc
không giới hạn của con người hiện đại, giải phóng cảm xúc thoát khỏi những ràng
buộc chặt chẽ bởi những quy tắc về hình thức (từ ngữ, nhịp điệu, cách tổ chức
câu thơ…).
Đây là thể
thơ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sáng tác của Mai Văn Phấn với 164 bài thơ, và
càng về sau thì thể tự do càng chiếm ưu thế về số lượng trong thơ của ông.
Thơ tự do
của Mai Văn Phấn thường hướng về phản ánh hiện thực cuộc sống và khám phá đời
sống bên trong của con người. Thơ tự do được sử dụng nhằm tái hiện linh hoạt
các cung bậc cảm xúc và làm sống lại những điều ẩn sâu trong tâm hồn của con
người. Sử dụng hình thức thơ tự do giúp nhà thơ thể hiện nội dung, chủ đề đa
dạng, phong phú và linh hoạt, không bị gò bó hay bị câu thúc trong một khuôn
khổ nhất định của vần, nhịp,…Ở đó, những suy tư, cảm xúc được thi sỹ thể hiện
một cách mạnh mẽ, chân thực nhất.
Mai Văn Phấn đã đưa đến cho bạn đọc những bài
thơ tự do đặc sắc: Nhật kí đô thị, Giấc
mơ đi qua, Khúc dạo đầu, Mũi tên bóng tối, Cấu trúc tạm thời, Đổ về phía khuất
vầng trăng, Im trôi, Được quyền nghĩ những điều đã ước, Chỉ là giấc mơ, Ghi ở
vạn lý Trường Thành, Biết thì sống, Ngậm em trong miệng, Vô tình trong nắng
sớm, Nơi cội nguồn thế giới,…
Ở đó, thi sỹ
thoát khỏi phong cách lãng mạn và hiện thực đơn tuyến để thoải mái thể hiện nội
dung, tư tưởng. Chẳng hạn, Đá trong
lòng suối, bài thơ không chấm câu, không vần, không đăng đối mà chỉ tuôn
theo nhịp đập tâm hồn để trình bày tư tưởng thẩm mỹ của nhà thơ. Trong không
gian đa chiều, bức tranh thiên nhiên mùa xuân nơi rừng sâu hiện lên sinh động
với vẻ đẹp nguyên sơ tinh khiết: tiếng chim, hoa rừng, mưa bụi…Và tâm thế “nhắm
mắt an nhiên”, “ở yên chỗ đó” như là thông điệp thi sỹ muốn gửi tới bạn đọc:
Hãy để cho vạn vật tồn tại tự nhiên, con người xin đừng can thiệp. Đó là một
quan niệm nhân sinh quen thuộc song được diễn tả qua một cách viết mới, phóng
khoáng và tự nhiên, trở nên thuyết phục.
Cũng với thể thơ tự do, nhà thơ thể hiện một
khát vọng dâng hiến, khát vọng tái sinh: "Đất đai – người
đàn ông nằm ngủ/ Mắt khép một vùng cửa sông/ Hạt hạt phù sa mê man bên gốc
rạ" (Sau mùa gặt). Nơi đó, cung bậc cảm xúc được giải phóng: Em, bông hoa
rừng buổi sớm/ Và anh bỗng thành hươi nai/ Trời xanh xanh vạt cỏ dài (Em),
và trong thế giới đó, con người lại được quay về với những gì gần gũi, thân
quen của cuộc sống bình dị: Thương lắm
dấu chân gốc rạ/ giếng sâu, sông ngòi, ao chuôm (Từ nhà mình).
Thơ tự do là thể thơ có
hiệu năng trong việc thể hiện tư tưởng
tinh thần, tư tưởng của con người hiện đại với bao bộn bề, phức tạp. Với thơ tự
do, người viết có thể bộc lộ tiếng nói nội tâm một cách mạnh mẽ, phóng khoáng
và “tự do”, như chính tên thể thơ. Có lẽ đây chính là lý do khiến Mai Văn Phấn
tìm đến thơ tự do như một thể thơ chủ
đạo trong sáng tác.
3.1.3. Thơ
văn xuôi
Thơ văn xuôi
là thể thơ cách tân cả về hình thức biểu hiện lẫn tư duy nghệ thuật trong thơ
ca hiện đại, nhằm xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi. Ý thức cách tân
thơ cùng nhu cầu đào sâu tiếng nói tinh thần của con người hiện đại tạo nên
xung lực mạnh mẽ làm “rạn vỡ” đường biên ranh giới thể loại thơ - văn xuôi
trong sáng tác của Mai Văn Phấn.
Thơ văn xuôi trong sáng tác của nhà thơ chiếm số lượng tương đối nhiều
(40 bài). Những tác phẩm tiêu biểu:
Viết cho cây sáo, Nước mắt, Em cho con bú, Bừng tỉnh trên tàu, Kí sự mùa
thu, Giải pháp, Bến cuối, Di chứng, Vòng cung thời gian, Những ý nghĩ không sắp
đặt, Niệm khúc số 18, Dấu vết, Quay theo mái nhà, Nghe tin bạn bị mất trộm,
Nghe em qua điện thoại, Nhắm mắt, Mười bài tập mùa xuân, Anha hem em, Nghe em
qua điện thoại, Mùa hoa mận, Giấc mơ cây, Quang phổ… Nhiều bài thơ của ông
sử dụng hình thức cốt truyện đơn giản, như một tình huống nhận thức, chẳng hạn:
Chương VII: Mail cho em, là một minh
chứng, đem lại cảm thức về không gian, với một hành động tự do vô bờ nhằm đem lại một cảm giác mới, một thức nhận
mới về đời sống. Không còn tổ chức chặt chẽ, lớp lang, thơ văn
xuôi như một câu chuyện kể liền mạch, không dấu câu, sự đứt mạch thơ khá rõ,
xuất hiện những khoảng trắng thẩm mỹ một cách dày đặc. Tất cả, đều tạo ra một
trường liên tưởng cho người đọc, tạo nên tính “đa thanh” của tác phẩm. Song
song với tính chất đa thanh là tính chất phi lí, hài hước, nghịch dị mang màu
sắc hậu hiện đại thể hiện rõ qua các tác phẩm như: Dạy trẻ con, Hắn, Di
chứng, Chuyện còn dài...
Có thể nói sự xóa mờ tối đa đường biên ranh giới thể loại thơ – văn xuôi
khiến thơ Mai Văn Phấn có khả năng diễn tả khá đa dạng và linh hoạt, sinh động
nhiều vấn đề của đời sống nhân sinh hiện đại, “từ chữ đến lời, ngôn ngữ thơ cho
đến tư duy thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn nhằm thể hiện khát vọng quyền lực tối
thượng của nhà thơ đi tìm một cấu trúc văn bản mới lạ, với cách dụng ngữ riêng,
in đậm cá tính sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tích hợp đặc sắc, ưu thế của
thủ pháp: truyền thống, tượng trưng siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Văn bản
thơ Mai Văn Phấn đầy tiềm năng nghĩa ẩn chứa trong đó, nó có “một kết cấu vẫy
gọi” sự mở, sự khám phá của người đọc tri âm, đồng điệu, đồng cảm” [ 46; 364].
Tuy nhiên, bên cạnh thơ văn xuôi của ông vẫn có những hạn chế. Sự lớp lang, tỉ
mỉ, chi tiết khiến ngôn ngữ thơ nhiều khi trở nên rườm rà, dài dòng, mất đi
những khoảng trống và độ mờ thẩm mĩ cần thiết, vốn là yếu tố quan trọng để tạo
nên chất thơ của tác phẩm.
3.1.4 Thơ cực ngắn
Cùng với xu hướng “văn xuôi hóa”, trong thơ
Mai Văn Phấn đồng thời xuất hiện xu hướng ngược lại – giảm thiểu triệt để số
lượng từ ngữ trong văn bản. Đó là thể thơ cực ngắn.
Thơ cực ngắn
là thể thơ sử dụng "tiết kiệm" số từ, số tiếng và câu thơ trong một
bài thơ. Trả lời tạp chí Người Đương Thời,
nhà thơ Mai Văn Phấn từng chia sẻ: “Những
thông điệp mạch lạc, thậm chí tối giản, nhiều khi là tín hiệu gợi mở một không
gian thanh tịnh, cho con người sống chân thành và thương yêu nhau hơn”
[55; 432].
Sự tối giản về từ ngữ được thể hiện tập trung
trong Hoa giấu mặt, tập thơ có 99 bài thơ hoàn chỉnh, trong đó, bài thơ
99 – Con mắt nghiêng, lại gồm 99 phần và mỗi phần được
đánh số từ 1 đến 99. Thể thơ cực ngắn được vận dụng linh hoạt trong mỗi bài,
mỗi phần của tập thơ, nhằm đáp ứng nhu cầu của người đọc hiện đại: không thích
dài dòng và đặc biệt, thơ cực ngắn trong tập thơ được viết theo ngữ đời thường
nhưng vẫn đầy khoảng trống đưa đến những liên tưởng đa chiều khi tiếp nhận.
Hoa
giấu mặt mang đậm tinh thần tượng
trưng, trong đó mỗi sinh thể dù bé nhỏ nhất đều có mối liên hệ “tương giao” sâu
sắc với toàn thể vũ trụ rộng lớn. Được viết theo thể haiku với mỗi bài chỉ có
ba dòng, điều này buộc các ý tưởng thơ phải được cô đặc, dồn nén cao độ. Tự
do, Hoa cửa đền, Con cá ấy đã lớn, Cái nhìn, Ngày mai trời lạnh,Yên tĩnh, Trồng
cây nêu trước nhà, Nhìn lại răng bừa, Con mắt nghiêng…Mỗi bài thơ ba dòng
với số từ tối giản nhưng không vì thể mà tư tưởng, nội dung tư tưởng – thẩm mĩ
của nó sút giảm mà ngược lại, chính sự hàm súc ấy tạo nên độ dồn nén và bung
tỏa của ý nghĩa cũng như sự liên tưởng. Chẳng hạn, chỉ 9, 10 từ nhưng đọc Tự
do, Tranh tượng trưng… ta đều nhận thấy khát vọng tự do mãnh liệt của con
người. Hay chỉ qua Cái nhìn ta thấy rõ một quan niệm về nhân sinh quan,
sự chiêm nghiệm về con người và nhân tình thế thái: Vũng nước nhỏ dưới chân
núi/ Soi/ Tận đỉnh.
Qua phân tích, có thể thấy thơ Mai Văn Phấn
cách tân và được tái sinh không ngừng. Sự đa dạng các thể loại trong hành trình
sáng tạo thêm một lần nữa cho thấy nhu cầu nhận thức hiện thực một cách đa
chiều của tác giả
3.2. Kết cấu
Kết cấu là cách tổ chức tác phẩm và bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có
một kết cấu nhất định. "Kết cấu
là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm
các chức năng rất đa dạng: triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc
hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả: tạo ra
tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ" [18; 157].
3.2.1. Kết cấu văn bản
Văn bản được sử dụng với nghĩa hẹp (văn bản tác phẩm văn học) được hiểu
là một chỉnh thể nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp
thành, một thông báo mà tác giả gửi tới người đọc, người xem.
Tổ chức văn bản của một bài thơ trữ tình, bao gồm nhiều yếu tố: nhan đề thơ, dòng thơ và câu
thơ, khổ thơ và đoạn thơ.
3.2.1.1. Cách đặt tên bài thơ
Bài thơ trữ
tình được tổ chức bởi nhiều yếu tố như: nhan đề thơ, dòng thơ, câu thơ, khổ
thơ, đoạn thơ,...Trong đó, nhan đề thơ - nhân tố quan trọng, thâu tóm tinh thần
cơ bản của nội dung bài thơ, giúp người đọc nhớ và phân biệt với các bài thơ
khác. Nhan đề bài thơ là chỉ dẫn để người đọc bước vào thế giới của bài thơ.
Nhan đề thơ
có thể có hoặc không (vô đề), điều đó phụ thuộc vào dụng ý của tác giả. Tuy
nhiên, việc lựa chọn nhan đề cho đứa con tinh thần của mình là công việc không
dễ dàng. Lựa chọn nhan đề được ví như là nền tảng, cái móng để xây dựng thành
công bài thơ. Với tầm quan trọng đó, đã có nhiều nhà thơ tạo ra được những nét
riêng, độc đáo trong các nhan đề thơ của mình. Mai Văn Phấn là cây bút như vậy.
Thứ nhất,
nhan đề thơ Mai Văn Phấn có khi như một
luận đề ngỏ với những giả thiết, điều kiện… kèm theo. Tiêu biểu là các bài: Sẽ
mưa, Giả thiết cho buổi sáng hôm sau, Nếu, Dừng lại để suy nghĩ, Để nhận ra
anh, Mùa xuân…Ngay ở nhan đề bài thơ đã vạch ra những dấu chấm hỏi trong
trường liên tưởng của người đọc. Ví dụ bài thơ Nếu, nhan đề đã là một câu hỏi, một giả thiết được đặt ra để người
đọc bước vào thế giới bài thơ, nơi đó, mở ra bao cánh cửa chờ đón sự diễn dịch
của đông đảo người tiếp nhận.
Thứ hai,
nhan đề thơ Mai Văn Phấn có khi mang chứa những tình huống cho thấy những bất
thường của đời sống, chẳng hạn: Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Nghe tin
bạn bị mất trộm, Còn cậu hãy đứng đằng
kia, Hội chứng từ một tin đồn, Chuyện còn dài, Bưng chậu nước lên cao, Tin nhắn
lúc giao thừa…Ở đây, thơ
hướng về cuộc sống thường nhật bề bộn, xô bồ với những hiện tượng gần gũi, quen
thuộc nhưng không ít những bất ngờ, hài hước, nghịch dị…của cuộc sống.
Thứ ba, nhan đề thơ Mai Văn Phấn
có khi “cực ngắn”, rất cô đọng, chỉ một từ: Chiều, Bạn, Em, Hắn, Gai, Sen…Chỉ một từ nhưng có khả năng mở ra những trường liên tưởng rộng rãi.
Thứ tư, nhan đề thơ Mai Văn Phấn là những ẩn dụ. Chẳng hạn, Nỗi đau
phát sáng, Mũi tên bóng tối, Đổ về phía khuất vầng trăng, Quyền lực mùa thu,
Đất mở, Đối thoại với thời gian, Nhịp điệu vẽ lối đi, Dấu vết bình minh…. Những ẩn dụ trong tiêu đề có sức cuốn hút
đối với đông đảo người đọc. Chẳng hạn mùa thu trong Quyền lực mùa thu, một mùa trong bốn mùa của thiên nhiên đất
trời. Mùa thu một danh từ chỉ loại nhưng được tác giả đặt song hành với từ quyền
lực, nó đã mang một hàm nghĩa khác. Đổ về phía khuất vầng trăng là một ví dụ khác. Nhan đề ấy dễ gợi nhiều câu
hỏi ám ảnh. Ai đổ? Vì sao lại đổ về phía khuất vầng trăng chứ không phải là
phía vầng trăng? Vầng trăng có ý nghĩa tượng trưng như thế nào? Nhan đề bài thơ
là những ẩn dụ góp phần mời gọi người đọc đối thoại cùng thi sỹ và tác phẩm.
Có thể thấy, nhan đề trong thơ Mai Văn Phấn được sử dụng với những chủ ý
thẩm mĩ rõ rệt, nhằm tạo ra những nét riêng, góp phần mang đến một phong cách
độc đáo của nhà thơ đất cảng - Mai Văn Phấn.
3.2.1.2.
Cách mở đầu và kết thúc bài thơ
Mở đầu bài thơ trong thơ Mai Văn Phấn thường sử dụng câu trần thuật. Câu
trần thuật là kiểu câu dùng để kể, miêu tả, thông báo, nhận định, trình bày,…về
những hiện tượng, hành động, trạng thái, tính chất trong thực tế. Câu trần
thuật hay còn gọi là câu kể, câu tường thuật.
Mở đầu bài thơ, tác giả thường sử dụng hình thức câu trần thuật, ví dụ:
- Chiều nay em cho con bú.(Em cho con bú).
- Vạt cỏ xưa hai đứa mình ngồi, giờ là nền
ngôi nhà cao tầng, để anh làm con bướm chập chờn giữa phố, tìm ra lối ngày nào
lạc cánh bay. (Đêm ở Thụy
Khuê).
- Tôi đứng lên nhường chỗ cho thiếu phụ đang
tựa lưng gần bậc cửa. (Bừng tỉnh trên tàu).
- Trời đang mưa/ Tôi bưng chậu nước/ Trong
căn phòng đóng kín ấm áp. (Bưng chậu nước lên cao).
- Khi nhắm mắt chợt thấy thế giới không còn ô
nhiễm. (Nhắm mắt).
- Những hạt mưa rơi xuống. (Mưa trong đất).
- Tôi nhìn thấy trên đỉnh đồi/ Một bông cỏ
may vừa nở/ Ánh sáng phát ra từ đó (Nơi cội nguồn thế giới).
- Ông vẫn dậy sớm/ Pha trà trong bình minh
khác…(Gặp mùa
xuân).-
…
Đặc biệt khi sử dụng câu trần thuật cho việc
mở đầu bài thơ, tác giả thường đề cập tới một dấu mốc thời gian hoặc đơn vị đo
thời gian nhất định:
- Đêm tỉnh dậy (Quay
theo mái nhà).
- Lúc gần đất xa trời, anh nhờ tôi giữ hộ kí ức (Anh tôi).
- Lúc đi (Đúng vậy).
- Đêm
nay/ nhiều điều kỳ quặc. (Còn
cậu hãy đứng đằng kia).
- Buổi sáng vào bàn làm việc (Anhanhemem).
- Ban chiều (Hoa bằng lăng).
- Vừa tỉnh dậy (Giọng nói).
…
Cách mở đầu bài thơ bằng câu trần thuật đưa
đến không khí tự nhiên và giản dị. Dường như tác giả không hề cố gắng lên gân
để tạo ra cái gọi là “tính thơ” và điều này cho thấy một tâm/ tư thế thơ mới
đang được xác lập. Gần gũi, đời thường song vẫn (hay có lẽ vì thế mà trở nên)
hiện đại. Ngoài ra, cách mở đầu bài thơ trong thơ Mai Văn Phấn, còn có điểm đặc
biệt, đó là thường sử dụng dấu ba chấm (…): Mười
bài tập mùa xuân, Dừng lại để suy nghĩ, Linh hồn đã bay, …. Trong đó, bài
thơ Mười bài tập mùa xuân là một tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ gồm 10
phần nhỏ, được đánh theo số thứ tự từ 1 đến 10 và mở đầu mỗi phần là dấu ba chấm
(…).
1.
…bức tượng trong vườn ngỡ bị trương lên bởi hơi ẩm mưa dầm quánh đặc
tràn lỗ tai con chữ chết dính vào trang sách không rõ ràng cảm xúc văng vẳng
cơn mơ tiếng cười lả câu đùa nửa thực nửa hư trong bóng râm mơ hồ muội ám gốc
cây nhòa mái đình ngõ nhỏ người đi bóng dán xuống hai vệ cỏ liêu xiêu gợi nhớ
bà nội đầu năm châm lửa thắp hương thoảng mùi diêm sinh bay từ chăn chiếu từ
nhụy hoa đầy dấu chân ong…
2.
…vết bùn vách liếp phiên chợ Tết cổ xưa gom hình ảnh đất ông bà từ sàn
sân rêu lầy lội con đường cổ lỗ chôn nông khuôn mặt hạn hán bới nhẹ ra đã bốn
mươi năm ký ức tối sẫm hút dài có vết bùn làm chiếc đó đơm ở miệng cống trôi
qua thời gian làm con tôm con cá lẫy vào biển chiều kinh động…
3.
…con cò bay khỏi đầm lầy cánh bắt nhịp tiếng quẫy ký ức bức tranh thủy
mạc nhìn vào sắc cây phù sa lố nhố mặt người khuất khít bên nhau cho đất tươi
non diệp lục tràn chân trời khung tranh hồn vía người chết tức tưởi hiện về
trầm hương bù vào chỗ không đủ thân xác hiện hữu cách mấy tầng diệp lục phù sa
mà xa lạ quá chừng mời người xưa ngồi vào bàn cơm nóng đãi ma đói ma khát tiếng
chén đũa hụt hẫng ước lượng khoảng cách từ mặt đầm tới điểm chạm cánh cò chừng
vài chục mét và âm thanh quẫy kia không quá mấy đề-si-ben…
……
10.
…máy vi
tính nhảy lỗi trùng lặp không chủ định câu què cụt vô nghĩa nhắc lại nhiều lần
thành tiêu đề xưng tụng ngôn từ mặc khải chân không hư không bầu ra những mũi
tên từ khớp chân tay bật dây cung bay vọt lên óc nước tràn cốc ánh sáng thanh
bạch chạy vào đường ống tối đen gào sập đổ vách ngăn cửi lửa dâng khói dẫn vào
cánh đồng mùa xuân tiếng nói…
Bài thơ với 10 phần nhỏ, mỗi phần đều bắt đầu bằng dấu ba chấm và trước
dấu ba chấm là cả một vùng trời. Mỗi phần bắt đầu một sự vật, hiện tượng khác
nhau: phần 1 bắt đầu bằng hình ảnh bức tượng, phần 2 hình ảnh vết bùn, phần 3
hình ảnh con cò…phần 10 bắt đầu bằng hình ảnh máy vi tính. Dấu ba chấm mở đầu
bài thơ vừa tạo ra điểm nhấm vừa tạo ra trường liên tưởng cho người tiếp nhận.
Trong bài thơ Dừng lại để suy nghĩ,
tác giả cũng sử dụng dấu ba chấm ở mở đầu: …tại
thời khắc mất lái/ giữa những chiếc xe quá hạn sử dụng/ võng mạc đột mở khâm
liệm cái chết. Thời khắc mất lái là thời gian nào? Ai mất lái?...Tất cả được đặt ra như là những câu hỏi dài.
Về cách kết thúc trong thơ Mai Văn Phấn, cũng có những điểm đáng chú ý.
Không giống như lối viết truyền thống, kết thúc bài thơ là sự khái quát, tổng
kết nội dung, ý nghĩa bài thơ. Sự mới lạ của cách kết thúc trong thơ ông thể
hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, kết thúc lửng (bài thơ kết thúc bằng dấu ba chấm (...)). Theo
thống kê trong cuốn Thơ tuyển Mai Văn
Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn (Nxb Hội nhà văn, 2011), và tập
thơ Vừa sinh ra ở đó (Nxb Hội nhà
văn, 2013), có đến 16 bài thơ kết thúc bằng dấu ba chấm (…), đó là những bài : Trương Chi; Bâng quơ; Em xa; Lơ lửng; Không
đề; Em gái đi lấy chồng; Màu xanh;
Nước mắt; Đêm ở Thụy Khuê; Từ hạt mưa; Linh hồn đã bay; Mộng du; Không quán
tính; Khai bút cùng cỏ; Em đừng thức giấc; Rời tay để bạn đi.
Trong tiếng Việt, dấu ba chấm biểu thị cho những gì chưa kết thúc mà còn
tiếp diễn. Mai Văn Phấn, sử dụng dấu ba chấm để kết thúc bài thơ cũng không
ngoài mục đích đó. Kết thúc bài Mộng du,
tác giả viết: Thêm ly nữa/ Ly nữa…Ly
nữa và không biết đến ly thứ bao nhiêu cuộc vui mới kết thúc. Dừng lại ở ba
chấm, câu chuyện mộng du của “tôi” và những người bạn về những cuộc gặp gỡ sẽ
còn kéo dài dường như đến vô tận trong những khắc khoải. Hay kết thúc bài thơ Rời tay để bạn đi, tác giả viết: Câu thơ mở trái tim đau/ Ngọn lửa thiêu đốt/
Mỗi cuối thu/ Những bờ sương nước … Kết thúc bài thơ nhưng sự tổng kết nội
dung, tư tưởng bài thơ, thi sỹ giao quyền cho độc giả, người tiếp nhận.
Thứ hai, kết thúc bài thơ bằng câu hỏi. Có thể thấy hình thức kết thúc
này trong Mùa xuân, Nếu,… . Kết thúc
bài thơ Nếu, tác giả viết:
Nếu đêm qua không có cơn mưa?
Nếu tôi không ngủ trên giường?
Nếu không phải khoảng cách ba mét bảy mươi
lăm xăng-ti ?
Giả thiết được đặt ra và câu trả lời đang ở phía trước chờ đón chúng
ta. Mơ ước và hiện thực là cả một khoảng
cách dài. Chính hiện thực ngột ngạt đó khiến con người phải đặt ra giả thiết
“Nếu”.
Thứ ba, kết thúc bài thơ bằng những câu thơ không dấu. Cách kết thúc này
được thể hiện dày đặc trong những bài thơ sáng tác thuộc giai đoạn sau, tiêu
biểu là tập thơ Hoa giấu mặt. Với 99
bài thơ trong tập Hoa giấu mặt tất cả đều kết thúc bằng những dòng thơ, câu
thơ không dấu. Kết thúc bài thơ nhưng không dừng lại ở một lời khẳng định, tất
cả đang giấu mặt, đằng sau câu chữ.
55.
Cầm bàn tay
Mình đã nuốt em
Không còn lọn tóc
56.
Nhìn lâu
Chiếc đèn lồng
Nỗi cô đơn hình lục giác
57.
Sáng mùa xuân
Bóng cổ thụ
Bấy bớt
…
Ngoài ra, kết thúc bài thơ trong thơ Mai Văn Phấn còn sử dụng dấu chấm
than (!), thậm chí sử dụng rất nhiều dấu chấm tạo thành như một dòng thơ khi
kết thúc bài thơ (………): Không sáng lóe/
Không phun trào/ Không khúc xạ/ Không tiếng nổ/ …………(Không quán tính). Dù
kết thúc bài thơ bằng hình thức: dấu hỏi (?), dấu ba chấm (…), hay bằng những
dòng thơ không dấu thì nhìn chung đó là lối kết thúc mở. Cách kết thúc mà không
kết thúc, luôn mở ra cánh cửa mới để độc giả cùng độc thoại với nhân vật, với
thi sỹ.
3.2.1.3. Cách tổ chức đoạn thơ, câu thơ
Trong quá trình sáng tạo, Mai Văn Phấn luôn có ý thức tạo ra tính mở
trong kết cấu văn bản nhằm mời gọi người tiếp nhận đồng sáng tạo, thông qua
cách tổ chức đoạn thơ, câu thơ.
Cách tổ chức đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn thường là tập hợp của nhiều
khổ, nhiều khúc, nhiều liên. Đoạn thơ thường được chia theo cách cảm, cách hiểu
của từng cá nhân. Dưới góc độ cá nhân, chúng tôi nhận thấy cách xây dựng đoạn
thơ trong thơ Mai Văn Phấn nổi lên những điểm đáng chú ý:
Thứ nhất, đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn được cấu tạo theo kiểu song hành. Đây là kiểu cấu tạo các đoạn
thơ trong bài thơ thường nêu một vấn đề, nội dung tưởng chừng tồn tại độc lập,
tách biệt nếu không đặt trong chỉnh thể bài thơ. Đoạn thơ này thường được đặt
song hành với đoạn thơ kia, được tác giả đánh dấu theo thứ tự hay dùng các kí
hiệu như: @, *…để phân tách. Chẳng hạn, khi đọc bài thơ Cửa Mẫu, chúng ta nhận
thấy, mỗi đoạn thơ trong bài được kí hiệu theo từng khúc, mỗi khúc lại đề cập
tới một hiện tượng hay một quy luật nhận thức nào đó. Và, để hiểu chúng cần
phải đặt các đoạn thơ trong một chỉnh thể nhất định.
Thứ hai, đoạn thơ trong thơ Mai Văn Phấn được cấu tạo theo kiểu nối tiếp. Đây là kiểu cấu tạo các đoạn
thơ nối liền nhau về nội dung trong một bài thơ, là kiểu kết cấu đối lập với
kiểu song hành. Chẳng hạn, bài Hắn,
đoạn I, II nối tiếp nhau về mạch chuyện nói về nhân vật Hắn. Hay bài Tỉnh dậy trong mưa, bao gồm 27 đoạn thơ
và đều có tính nối tiếp giữa các đoạn. Bài thơ là một giấc mơ dài của người con
trai khi nhớ về người yêu.
Thứ ba, các câu thơ, khổ thơ trong đoạn thơ thường xuống dòng một
cách khá…ngẫu nhiên. Ở đó những dòng in
nghiêng, những khoảng trắng thẩm mỹ được tạo ra tồn tại như một ẩn số. Tùy vào
khả năng liên tưởng mà người đọc phát hiện ra những vấn đề khác khau. Hắn, Hội chứng từ một tin đồn, Còn cậu hãy
đứng đằng kia, Anh tôi, Nhìn kỹ, Nghe em qua điện thoại, Bưng chậu nước lên
cao, Nhìn Anh, Mùa xuân… là những tác phẩm như vậy.
Cách tổ chức câu thơ trong thơ Mai Văn Phấn cũng có những điểm đáng chú
ý.
Thứ nhất, câu thơ trong thơ Mai Văn Phấn không quy định số tiếng. Câu
thơ có thể mở rộng, kéo dài đến hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng thơ. Trong đó,
tiếng đầu tiên của dòng đầu được viết hoa, tiếng của dòng tiếp theo không viết
hoa.
Mình là
mạch khí, vực sâu, ngực đất
chọn
nơi ấm áp kê giường tủ
nơi
thoáng đãng đặt bàn ghế
Cùng cố
ý, vô tình đi lại
buông âu lo ngồi vào bàn ăn
gắp
cọng rau từ cánh đồng xa tít
con cá
cắn câu trong niêu đất kho nhừ
(Từ nhà mình)
Thứ hai, câu thơ không còn được tổ chức theo kiểu cấu tạo chủ - vị thông
thường, mà trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện dày đặc các kiểu câu đảo ngược trật tự các tiếng, các từ. Hay
nói cách khác, cách tổ chức câu thơ không còn bị gò bó trong các quy tắc ngữ
pháp tiếng Việt. Ví dụ:
Bàn tay em tìm trăng
Từng ngón đêm lóe sáng
…
Men theo trăng, cười nói trăng
Nghẹn thở một màu trong suốt
…
Màu óng ả trên lưng chim bói cá
Cho anh thành vạt trăng
…
Mùa xuân gió hòa gót chân
Trái tim rộn ràng ngực đất
Dòng trăng cuồn cuộn thân cây
(Mùa trăng).
Nhà văn Đặng Văn Sinh
khẳng định: "Cũng như Mùa trăng,
ngôn ngữ diễn đạt của Hình đám cỏ
thoát khỏi cấu trúc mô hình truyền thống, triệt để sử dụng loại câu không chủ
ngữ, đảo ngược chức năng cú pháp, đưa ngôn ngữ thơ vào đời thường, hạ phóng thơ
từ tháp ngà đến với quảng đại công chúng" [46; 118]. Điều này kéo theo hệ
quả là “cấu trúc câu văn cổ điển không còn nguyên vẹn, trật tự cú pháp bị đảo
lộn, bởi vậy nội hàm của câu thơ đương nhiên chuyển dịch” [46; 119].
Thứ ba, câu thơ trong thơ Mai văn Phấn thường được bắt đầu với những
liên từ: và, mà, cùng, nếu, thì, là, qua,
lại, dù là, , thế là, như, như là…, vừa có tác dụng nối các sự kiện, vấn
đề, vừa có tác dụng ngược lại tách biệt, phân biệt, chuyển ý trong các dòng
thơ, câu thơ.
Ngoài ra, câu thơ trong thơ Mai Văn Phấn còn được xây dựng nhờ những
biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…Có thể dẫn ra những câu thơ tiêu
biểu:
- Khuôn mặt ai nỡ bung như hạt
thóc ủ vào tro nóng (Ngày đẹp trời).
- Sương vương dày như đan như thêu (Mặt trăng hay con đường).
Những đôi môi giấu mãi vào nhau/ Như vỏ cây
muốn lẫn vào ruột gỗ (Sợi dây im lặng).
- Con đã thức dậy trong ban mai của cha. Phía
chân trời hừng đông như trẻ thơ bụ bẫm đang duỗi dài khoái hoạt. (Lúc mặt trời mọc).
- Mỗi góc tối trong tôi đang ngậm lấy âm
thanh như ngậm vào vú mẹ, từ miệng mình he hé ánh sáng bồng bế nhau thong thả
tràn vào (Viết cho
cây sáo).
- Mặt đất lặng thinh dưới sức mạnh trăng/ Như
những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng anh. (Nhìn Anh).
-
Tháng ngày gương lược về đâu/ Chân trời để xõa mô%3ḅt màu cỏ non (Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc).
- Nhà thơ trú trong bóng
râm/ Những con chữ bị khoét mất mắt (Biến tấu con quạ).
- Miê%3ḅng bóng tối ghé vào thanh bạch/ Hơi đô%3ḅc
từng phun ngược lại âm hình/ Nơi đoán phạt trắng đen, thiê%3ḅn ác/ Lá cỏ
trồi ra chiếc lưỡi phân minh (Tập phát âm).
- Đặt con lên đất/ Lòng
sông đau xé thân đêm (Cửa mẫu - II).
- Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non (Tản mạn về cỏ).
Việc sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ góp
phần tạo nên tính hấp dẫn cho ngôn ngữ, hình ảnh thơ Mai Văn Phấn.
3.2.2. Kết
cấu hình tượng
Kết cấu hình tượng tiêu biểu trong thơ Mai
Văn Phấn là kiểu kết cấu mở. Đấy là
một kiểu kết cấu hiện đại, ở đó bài thơ được tổ chức như một cấu trúc vận động,
không mang tính hoàn tất, khép kín về nghĩa như trong kiểu kết cấu cổ điển. Ta
có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như: Em xa, Dấu hiệu mùa xuân, Khúc
phóng túng, Trong căn phòng, Cái miệng bất tử, Chuyện còn dài,Gỉa thiết cho
buổi sáng hôm sau, Biến tấu con quạ, Anh anh em em, Cửa mẫu, Vô tình trong nắng
sớm…
Thay cho cách tổ chức “truyền thống” chặt
chẽ, quy về sự thống nhất với một nội dung xuyên suốt, thơ Mai Văn Phấn có một
lối tổ chức văn bản như một sự “mời gọi” độc giả trong không gian đa chiều.
Chẳng hạn trong Mười bài tập mùa xuân, câu chữ không hề bị/ được phân
chia bởi những dấu hiệu cú pháp thông thường, các hình ảnh câu chữ đổ tràn sang
nhau, xóa mờ những ranh giới hình thức định mệnh. Hình thức trình bày này tự nó
ám gợi cái mạch ngầm sự sống lưu chuyển miên viễn, liên tục, bất tận, không đứt
đoạn, ngừng nghỉ. Nhưng ngược lại, nó có thể (mà thực tế là đã) gây phản ứng
gay gắt về sự “tối tăm”, “vô nghĩa”...
Mỗi bài thơ
là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình thức. Nội dung phải được thể
hiện qua hình thức và hình thức phải truyền tải nội dung. Để gắn kết nội dung
và hình thức trong dòng chảy bài thơ không thể không đề cập tới mạch thơ. Mạch
thơ được xem như là cái lõi, cột sống chạy dọc bài thơ nhằm tạo áp lực cho sự
diễn dịch tác phẩm. Tuy nhiên, thơ Mai Văn Phấn thường có hình thức tổ chức
thoạt nhìn khá lỏng lẻo với sự đứt đoạn của mạch thơ. Mạch thơ giữa các phần,
các đoạn trong văn bản như là sự lắp ghép ngẫu nhiên, nếu không đặt trong một
chỉnh thể thì rất khó để thấy được mối liên hệ của chúng. Ta có thể chứng minh
điều này bằng các tác phẩm: Mùa xuân,
Mùa trăng, Ghi ở vạn lý Trường Thành, Còn cậu hãy đứng đằng kia, Đỉnh gió,
Những bông hoa mùa thu, Biến tấu con quạ, Cửa mẫu… Cụ thể, bài thơ Mùa xuân như chỉ là sự ghép nối của một vài sự kiện rời rạc: Tôi (tác
giả) chỉ dẫn cho con các dấu hiệu mùa xuân. Các con tranh luận. Những câu hỏi
(được in nghiêng, nhằm gây một ấn tượng thị giác). Mỗi đoạn thơ đưa đến những
sự kiện khác, nói cách khác đó chính là đứt đoạn mạch thơ. Với sự thay đổi điểm
nhìn khiến ta có thể quan sát toàn cảnh bức tranh mùa xuân: Tôi – nhân vật trữ
tình, đồng thời vừa có thể “nhập thân” để nhìn thế giới từ một con mắt khác -
con mắt của những đứa trẻ. Sự “phi logic” này chỉ là bề mặt, nó nhằm để hướng
tới cái logic bề sâu của sự vật, hiện tượng.
Trong thơ
Mai Văn Phấn, xuất hiện dày đặc những liên tưởng bất định, siêu thực, phi lý,
hư ảo, ngay từ những sáng tác đầu tay và cả lúc ở độ chín muồi về cảm hứng, bút
pháp. Đây là những ví dụ tiêu biểu:
Ghé môi vào
miệng thời gian
Cho hơi thở
mọc vô vàn cỏ non
(Tản mạn về cỏ)
Bóng ta không còn phân vân trên vách liếp
muốn lưu giữ hư danh và sủng ái mơ hồ. Bóng mình bạch trên mặt gương, trên
tường vôi, đá ốp, trong tơ nhện vô tình ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ
non. (Cộng hưởng I)
Cùng cố ý, vô tình đi lại
Buông âu lo ngồi vào bàn ăn
Gắp cọng rau từ cách đồng xa tít
Con cá cắn câu trong niêu đất kho nhừ
(Từ nhà mình)
Sự “lỏng
lẻo” trong mạch thơ kết hợp với những liên tưởng phóng túng, và sự “mờ hóa” của
cái tôi trữ tình trên bề mặt văn bản chính là những đặc điểm nổi bật của kiểu
kết cấu mở trong thơ Mai Văn Phấn. Bên cạnh “nhược điểm” là “gây nhiễu” tiếp
nhận (với những độc giả chỉ quen với cách đọc truyền thống, một chiều), chúng
có ưu điểm nổi bật là tạo nên rất nhiều “khoảng trống”, “khoảng trắng” thẩm mỹ. Chúng đồng thời mở ra
những trường liên tưởng hết sức rộng rãi để người đọc đồng sáng tạo cùng nhà
thơ.
Theo nhận
định của nhà thơ Đỗ Minh Tuấn: “Giống
như các nhân vật trong quảng cáo bột giặt lặn sâu vào từng thớ vải để đi đến
những xứ sở diệu kì lộng lẫy hào quang, Nàng Thơ của Mai Văn Phấn cũng không
chịu ngồi yên trong một tọa độ thi ca, mà luôn luôn cưỡi con ngựa liên tưởng
bất kham để thực hiện những cuộc phiêu lưu xuyên thế giới,..”[46; 143]. Thơ Mai
Văn Phấn, không thể hiểu nếu người tiếp nhận không đặt nó trong cái chỉnh thể
của thế giới nghệ thuật thơ ông.
3.3. Cách sử
dụng hình ảnh, biểu tượng và bút pháp tạo hình
3.3.1. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng
Hình ảnh,
biểu tượng là một trong những phương thức quan trọng xây dựng thế giới nghệ
thuật trong thơ. Mai Văn Phấn là người
có khả năng ghi nhận một cách độc đáo và ấn tượng những hình tượng trong thực
tế xã hội và trong đời sống tinh thần của con người. Đó là những hình tượng rất
đỗi quen thuộc trong đời sống thường nhật nhưng qua nhãn quan của nhà thơ lại
trở nên độc đáo, riêng biệt. Nguyễn Đức Hạnh nhận định: "Mỗi bài thơ của
Mai Văn Phấn là một ngôi nhà, các biểu tượng là vật liệu. Cách kết nối các biểu
tượng ấy theo logic “nhảy cóc, liên tưởng xa và lạ” đã tạo ra một thế giới vừa
quen vừa lạ, đặc biệt rất độc đáo" [46; 316].
Qua khảo sát Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng
tiểu luận và trả lời phỏng vấn, và tập thơ Vừa sinh ra ở đó, chúng tôi có bảng thống kê về những
hình ảnh, biểu tượng thường xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn như sau:
Bảng 3.2
Thông kê tần số xuất hiện của các biểu tượng
STT
|
Biểu tượng
|
Số lần xuất hiện
|
1
|
Cỏ
|
147
|
2
|
Đất đai
|
299
|
3
|
Cánh đồng
|
22
|
4
|
Con đường
|
29
|
5
|
Chuông
|
42
|
6
|
Em
|
295
|
Trong phạm vi khảo
sát của mình, chúng tôi nhận thấy có 5 biểu tượng tiêu biểu trong thơ
Mai Văn Phấn, đó là: đất đai, cỏ, con
đường, cánh đồng, Chuông và em.
Thứ nhất là biểu tượng Cỏ.
Cỏ là biểu tượng xuất hiện nhiều trong thơ Mai Văn Phấn.
Có thể lý giải điều này bởi nhiều lý do, nhưng chủ yếu xuất phát từ quan niệm
mĩ học của tác giả: “Muôn năm con người,
muôn năm thiên nhiên”. Thiên nhiên dạy cho ta cách sống, cách yêu và cả
cách viết (sáng tạo), thiên nhiên là nơi ta thả lỏng hồn mình.
Cỏ mang đến
cho con người cảm giác của sự tươi mới, tràn đầy năng lượng cuộc sống. Với cách
nhìn đó, ngay từ sáng tác đầu tay của thi sỹ, ta đã bắt gặp hình ảnh đầy ấn
tượng khi viết về cỏ: “Thôi đừng dỗ cỏ lên
trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai/ Dấu chân đừng hóa chông gai/ Nép vào
bóng xế dũa mài hoàng hôn/ Ta về đổ bóng xuống vườn/ Cho xanh tươi lại từng cơn
úa vàng/ Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non" (Tản mạn về cỏ).
Cỏ không còn là những vật vô
tri, vô giác của thiên nhiên mà nó mang trong mình suy nghĩ của con người, nhân
danh con người:
- Ta nhận biết mình trong tiếng chim mê ngủ/ Ngọn cỏ mơ màng ngậm những vì sao/ Ngọn gió sớm đặt tay
lên bàn phím/ Gương mặt ai vào vùng nhớ hôm nào (Người cùng thời –
Chương I).
- Bên nhau cỏ mọc/ Cỏ diễn tiếp giấc mơ của
đất/ Lưng thấm cỏ, chân tay thấm cỏ/ Không cần
sấm chớp, tụ mây/ ta mưa vào nhau cơn mưa cỏ xanh/ nắng lại trải vàng mặt
đất/ Mưa cỏ xanh dâng mắt ta ngập tận
đỉnh cây/ Ta đan vào nhau nghẹt thở… ngô nghê... ú ớ…
(Những bông hoa mùa thu)
- Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng
lên khuôn mặt/ dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời (Bài hát mùa màng)
Thứ hai, biểu tượng Đất đai.
Trong thơ Mai Văn Phấn, đất đai cùng những
đồng vị của nó như bùn, ruộng, mặt đất…là biểu tượng được miêu tả dưới nhiều
điểm nhìn khác nhau và xuất hiện dày đặc trong sáng tác của tác giả tiêu biểu
như: Cấu trúc tạm thời, Sáng mùa hè, Bài hát mùa màng, Nhật kí đô thị, Hồi
sinh, Những bông hoa mùa thu, Gặp mùa xuân, Tĩnh lặng, Rời tay để bạn đi, Sau
mùa gặt…
Đất đai - cội nguồn của sự sống, là mạch khí
nuôi dưỡng vạn vật và con người:
- Kìa thửa ruộng đang
vươn lên che chở những ngôi nhà (Cấu trúc tạm thời)
- Lao vào đất những ngón
chân khát nước/ Chiếc lá mới nhô lên đặt lại ca từ (Sáng mùa hè)
-
Hạt giống mới nảy mầm trên đất, gọi dòng sông lên tiếng thở sâu, cùng mương
máng dọc ngang đến giờ mở mắt (Người cùng thời – Chương III)
Đất đai - sinh thể mang trong mình những suy
nghĩ, cảm xúc của con người:
- Mặt đất lặng thinh dưới sức mạnh trăng. Như
lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lung anh (Nhìn Anh).
- Mặt đất còn hằn vết nhăn khát nước, xéo
ngang trời những con đường chỉ tay (Những bông hoa mùa thu).
Đất đai gắn
liền với sự sinh sôi nảy nở, sự phồn sinh bất tận. Vì thế, đất – tượng trưng
cho người mẹ luôn che chở, bảo vệ con: “
Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất/ Đất ở dưới chân mà cao hơn những
suy nghĩ của mình (Nhật kí đô thị). Và, hơn thế, đất đai luôn tự nhận về
mình trọng trách quan trọng mang lại sự sống cho con người:
Đất nặng nhọc gối đầu lên biển cả
Từng hang cây, tản đá, dấu chân
Kê cao thêm cho anh dễ thở
(Đường bay)
Thứ ba, biểu tượng Cánh đồng.
Cánh đồng là
biểu tương gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và truyền thống văn hóa dân
tộc. Vốn, sinh ra trong vùng quê hẻo lánh ở châu thổ sông Hồng, hình ảnh cách
đồng từ lâu đã tồn tại trong ông và được xem như một biểu tượng ám ảnh trong
thơ ông: Tỉnh dậy trong mưa, Từ nhà mình, Rời tay để
bạn đi, Tĩnh lặng…
Trong cái nhìn của Mai Văn Phấn, cánh đồng
luôn mang trong mình sự sống, sự màu mỡ, phì nhiêu, tươi tốt. Nói tới cánh đồng
là nghĩ tới làng quê Việt với những chi tiết chân thực hiện
lên trước mắt ta: Mở mắt nhìn cánh đồng
mới gặt/ Những con chim ngói đang nhặt thóc (Tĩnh lặng); Hay
là những liên tưởng giản dị mà độc đáo: Cùng
cố ý, vô tình đi lại/ buông âu lo ngồi vào bàn ăn/ gắp cọng rau từ cánh đồng xa
tít/ con cá cắn câu trong niêu đất kho nhừ (Từ nhà mình), Triền cát mịn/ Lối lên bờ là cánh đồng/ Tóc
em gió cuốn nơi tàng cây yên lặng (Tỉnh dậy trong mưa)… Cánh đồng là biểu
tượng thích hợp để nhà thơ truyền tải nội dung, tư tưởng, qua đó, thể hiện tình
yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.
- Trên ngực bùn nâu đã
linh thiêng ban lộc/ Máu hồi sinh rần rật chạy qua/ .../ Tôi gượng dậy giữa
cánh đồng rộng lớn/ Có con nước cường chảy dọc sống lưng (Hồi sinh)
- Đừng
ngồi trong phòng lâu quá/ Ra cánh đồng, ra bờ sông/ nơi rau xanh, cá quẫy. (Từ
nhà mình).
-Triền
cát mịn/ Lối lên bờ là cánh đồng/ Tóc em gió cuốn nơi tàng cây yên lặng (Tỉnh
dậy trong mưa)
Thứ tư, biểu tượng Chuông.
Chuông là biểu
tượng xuất hiện không nhiều trong thơ mai văn Phấn, nhưng nó đã tạo ra được ấn tượng nghệ thuật
khá đặc biệt. Trong một lần tâm sự, nhà thơ có nói: quê tôi ở Kim Sơn – Ninh
Bình, nơi có nhà thờ Đá, vì thế tiếng chuông như là ám ảnh trong tiềm thức của
tôi. Tiếng chuông được cất lên trong khi cử hành các nghi thức tôn
giáo và từ đó con người hướng về những điều tốt lành, thánh thiện trong cuộc
đời, để tâm hồn trở nên thư thái: Ta
ngồi nhập định cùng hoa/ Thành chuông
ai thỉnh ngân nga cỏ mềm (Qua hoàng hôn).
Tiếng chuông biểu tượng cho hòa bình, cho một không gian cõi thế bình
yên: Những quả chuông trái tim đã nối vào
nhau cùng rung lên hồi chuông thống thiết. Có thể lọc từ ngân nga một nỗi lo
âu, ai nấy cố che đi câu hỏi kiêng không nói mà cũng kiêng không viết (có hay
không cuộc Đại – chiến – thế - giới - III) (Người cùng thời – Chương X).
Chuông là biểu tượng cho việc thanh lọc tâm hồn, sự hướng thiện của con
người. Biểu tượng quả chuông trong suy nghĩ của nhà thơ mang một ý nghĩa nhân
sinh, tiếng chuông cất lên thì bao nhiêu bóng tối đều bị xua tan “Chiếc lá kia rơi/ Mặt đất sẽ trũng xuống/
Vọng tiếng chuông xua mây đen” (Thu đến).
Thứ năm, biểu tượng Con đường.
Trên thực
tế, con đường là hình ảnh mở ra cho ta lối đi mới trong cuộc sống. Không nằm
ngoài ý nghĩa đó, con đường đi vào thi giới thơ Mai Văn Phấn được khắc họa,
miêu tả thật sinh động:
- Trang
sách/ Mở mặt đất chữ/ Rừng núi/ sông hồ/ Những con đường chữ (Tĩnh lặng)
- Nóng lòng
đợi mưa/ Cuối con đường chưa thấy/ Gió đã thổi (Hình đám cỏ - Nhịp I)
- Mơ giăng
cỏ mượt/ Vồng ngực săn chắc/ Hơi thở nồng nã đất đai/ Chạm nhau nghe đất đi xa
/ Con đường ngủ yên cây lá/ Đang thức giấc
che chở/ Ghì níu gót chân (Hình đám cỏ - Nhịp V)
Con đường mở
ra chân trời mới, mở ra nhiều cánh cửa để con người bước tiếp.
Và cuối cùng là CON ĐƯỜNG
Tiếng kẹt cửa réo vang
Mở con đường
Con đường
réo gọi “bàn chân”, “mở” và “bước đi”. Quá khứ với bao thứ rỉ sét cũ kĩ, giết
chết bao điều mới lạ. Muốn mở, thi sỹ cần tạo nên tiếng kẹt cửa – về phía con
đường, hướng về con đường, để: tìm đường, vạch đường, nhận ra con đường, nhìn
rõ con đường, khao khát làm con đường, tô đậm con đường…Bỏ lại sau lưng những “con đường cổ lỗ chôn nông khuôn mặt hạn hạn”,
hay “kinh hoàng và ngoái lại thương xót
con đường chỉ biết rạch tia chớp vu vơ không khả năng chập cháy”. Con đường
bây giờ ta hướng đến là con “đường bay”, “đường chân trời”. “Con đường là cánh tay anh”, “Bàn tay săn bắn
và hái lượm giờ tìm đường lên vì sao và xuống các đại dương”. Và, rồi “Bàn tay em tìm trăng/ Từng ngón đêm lóe
sáng/ Một con đường thanh sạch/ Thức dậy làn hương”. Con đường mở ra bao
chân trời, nơi đó, thơ ca cất tiếng nói ban đầu: tinh khôi, giản đơn và thuần
khiết.
Thứ sáu, biểu tượng Em.
Nằm trong
cảm hứng về tái hiện thế giới trong quy luật sinh hóa vĩnh cửu, hình ảnh Em
được tô đậm hiện thân của sự tươi tốt và phì nhiêu, niềm vui và hạnh phúc. Xuất
hiện với mật độ dày đặc, Em trong thơ Mai Văn Phấn được miêu tả qua nhiều góc nhìn
khác nhau.
- Em chợt hiện/ Từ hương
thơm trái chín/ Trong dập dờn bãi ngô mùa thụ phấn/ Lá giật mình/ Cá lặn xuống
chân./ Hút mãi về em/ Từng hơi thở đất/ Anh hạn hán/ Cơn mưa chiều tất bật./
Heo may thoảng hơi người phảng phất/ Mặt nước trong veo một nỗi ngóng em về (Nỗi nhớ mùa thu).
- Thế giới lặng im/ Chỉ lẻ loi tiếng sáo/ Dịu hiền em
(Hình đám cỏ - Nhịp VII).
- Bình yên trong miệng anh/ Em thúc nhẹ bờ vai/
Vòm ngực, ngón chân vào má/ Huyên thuyên và hát thầm/ Hồn nhiên cho lưỡi và
răng anh chạm vào cơ thể (Ngậm em trong miệng)
Với Mai Văn Phấn, Em vừa là người vợ, người mẹ, vừa là người bạn tình. Em
là hóa thân của Mẫu, người mẹ thiên nhiên cao cả, vô lượng: Mẫu nâng niu con ánh trăng/ Tiếng chuyền
cành, tiếng hú/ Da thịt con yêu trải sâu đêm tối/ Dựng tầng mây mưa nguồn… Từng
chồi chân tay bé xíu/ Bật nhẹ trong cơ thể Người/ Con tỉnh giấc (Cửa
Mẫu)…Em là người vợ đã ban tặng cho anh niềm vui, hạnh phúc: Anh hôn lên ngực em căng đầy thơm mát, chiều
ngọt ngào cánh cò, cánh vạc, qua môi anh khẽ đậu xuống hồn. Căn phòng mình
chẳng còn bức tường bao quanh và không gian thành thời gian thánh thiện, khi
anh mải mê nhìn vầng ngực em dâng đầy như biển, cứ thu mình tìm vào miệng con
be bé xinh xinh (Em cho con bú)…
Em hiện hữu như là chốn
bình yên để nhà thơ bám víu, nương tựa, trở về trong những cơn phong ba bão táp
của cuộc đời.: "Luôn tin có em trong
miệng anh/ Nơi không chiến tranh, dịch hạch/ Mũi tên bắn lén tẩm độc/ Thị phi,
cạm bẫy, lọc lừa/ Lối em đi không còn gai nhọn/ Bão tràn qua anh dựng tường ngăn/
Bình yên trong miệng anh/ Em thúc nhẹ bờ vai/ Vòm ngực, ngón chân vào má/ Huyên
thuyên và hát thầm/ Hồn nhiên cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể/ Anh là con
cá miệng dàn dụa trăng/ Rời bỏ bầy đàn quẫy vào biển động" (Ngậm em
trong miệng). Và, chính em đã đem đến cho anh: "Từng giọt mát lành thấm nhuần trong đất/ Tươi từ môi anh đến gót
chân em/ Anh ngỡ mình được phép lành thánh thể/ Đêm vừa qua hay đã mấy nghìn
năm" (Ngậm em trong miệng).
Dù xuất hiện ở bất cứ
vai trò gì thì “Em” vẫn luôn mang lại cho anh niềm vui, chỉ có bên em anh mới
thấy được bình yên như con chiên được chúa che chở. “Em” là một biểu tượng cho
sự sinh sôi, nảy nở. Với ý nghĩa đó, Em mang lại tình yêu bất tận cho cõi thế.
Mỗi hình
ảnh, biểu tượng trong thơ Mai Văn Phấn được xây dựng nhằm thể hiện những ý
nghĩa nghệ thuật nhất định và làm rõ quan niệm tái hiện thế giới trong một quy
luật sinh hóa vĩnh cửu,bất diệt.
3.3.2. Những
tìm tòi mới trong bút pháp tạo hình
Khái niệm "bút pháp" là "cách thức hành văn, dùng chữ, bố
cục, cách sử dụng các phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ
thuật nào đó” [18; 29]. Bút pháp tạo hình là bút pháp xây dựng một thế giới hữu
hình với mọi màu sắc, âm thanh, hình khối, không gian và thời gian cụ thể.
3.3.2.1. Tạo hình bằng những hình ảnh, chi tiết “tả thực”
Thơ ca luôn
phản ánh sự vật, hiện tượng theo đúng bản chất của nó. Xuyên suốt hành trình
thơ Mai Văn Phấn, ngay từ những sáng tác ở giai đoạn đầu, chúng ta đã bắt gặp
không ít nhưng những chi tiết mang tính tả thực, chẳng hạn:
- Bát
canh nóng…/làm môi anh dễ bỏng/ mùi hành hoa, gia vị, rau thơm, nước ngọt xương
hầm, mộc nhĩ…(Những bông hoa mùa
thu).
- Chênh vênh nhịp cầu ao/ Ru ta hoài…lặng lẽ/ Có con cáy ngạo nghễ/ Đang
bò trên cánh bèo…(Nét quê).
- Em cười nói hồn nhiên trẻ nhỏ/ Lất phất mưa anh phờ phạc ưu tư/ Lặng
lẽ một mình đan ngón tay/ Không cho ánh sáng đi qua/ Không cho gió đi qua/ Ở
đây không nắng và gió/ Càng khủng khiếp nép vào tĩnh lặng (Hình đám cỏ -
Nhịp II).
Trong tập thơ Hoa giấu mặt, nhà
thơ tái hiện lại bức tranh cuộc sống qua nhiều chi tiết thoạt nhìn rất sống,
rất thực. Chẳng hạn, đọc bài thơ Con mắt
nghiêng, ta sẽ bắt gặp được những hình ảnh:
- Đang tắm dở/ Nghe tin thời thế/ Đã đổi
- Một ngày làm việc/ Xây mộ hoàng đế/ Góc nào
biết góc ấy
- Bát cơm, quả trứng/ Người chết không ăn/
Nhường giun dế
- Cỏ trên mộ cha/ Như vườn trồng/ Tự bao giờ
- Vẫn chìa khóa ấy/ Hôm nay/ Không thể mở
- Trời tối/ Con chuột và tôi/ Băng qua đường
-Trăng/ Sáng hơn/ Trên đám cỏ héo
- Trong rừng sâu/ Con ếch lơ láo/ Nhìn tôi
- Suốt cơn mưa/ ít có hạt nào/ Rơi thẳng
…
Với bút phát tạo hình bằng chi tiết tả thực, nhà thơ đã tái hiện bức
tranh đồng nội của làng quê Việt Nam thật gần gũi, thân quen. Ở đó, con người
luôn được thả lỏng tâm hồn mình để hòa vào thiên nhiên, sống với thiên nhiên,
gạt bỏ bao âu phiền sau những lo toan của cuộc sống:
Thương lắm dấu chân gốc rạ
giếng
sâu, sông ngòi, ao chuôm
Đừng ngồi trong phòng lâu quá
ra cánh đồng, ra bờ sông
nơi rau xanh, cá quẫy
Cắn miếng dứa thơm, núi cam ngọt
từng giọt rơi xuống đất nâu.
(Từ nhà mình)
Đặc biệt, khi miêu tả giấc mơ, nơi thế giới mộng tưởng, huyễn hoặc, thi
sỹ lại sử dụng vốn từ ngữ, hình ảnh rất đỗi bình dị, quen thuộc, gần gũi:
Đêm qua tôi mơ
Người bán vé số đầu ngõ
Được làm vua
Tôi và mấy hàng xóm
Mặt mày nhởn nhơ
Một hoan quan thét lên: Quỳ xuống!
Các ngươi đã lạc sang thế giới khác!
(Tiếng vỗ ngắn)
Đúng là không thể “thực” hơn! Tất nhiên, đấy là những chi tiết thực tế
của của đời sống đã được chọn lọc và chưng cất theo cách riêng của sáng tạo
nghệ thuật. Không nên (và cũng không thể) đánh đồng “cái thực” trong thơ với
“cái thực”của đời sống xã hội bên ngoài.
Trong thơ Mai Văn Phấn, các chi tiết chân thực của đời sống được đưa vào
thơ với tư cách là những phương tiện diễn đạt, nhằm để đem lại một sự ngẫm nghĩ
nhân sinh đời hơn, thực hơn, gần gũi hơn nhưng không kém phần phổ quát và sâu
sắc. Bằng bút pháp tạo hình ấy, Bông hoa
Yên Tử thật là thực mà cũng thật là ảo diệu:
Xuống chân núi
Gặp đoàn hành hương
Tay gậy trúc
Mắt ngước lên
Thiêu đốt gốc hoa ngùn ngụt
(Bông hoa Yên Tử)
Tóm lại, với bút pháp tạo hình bằng những chi tiết tả thực, Mai Văn Phấn
đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và tâm hồn con người một cách tươi tắn, thú vị mà không kém phần
sâu sắc và bất ngờ. Cũng cần chú ý, trong một trường nhìn mang tính tổng thể,
những chi tiết tạo hình giàu tính tả thực này luôn có khả năng “lóe sáng” những
ý nghĩa tượng trưng rộng lớn hơn, phổ quát hơn chính nó.
3.3.2.2. Tạo hình bằng những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực
Nếu thơ ca, chỉ đơn thuần phản
ánh hiện thực với những ngôn từ gọi đúng bản chất sự vật mà mất đi sự lãng mạn,
“bí ẩn” thì không còn là thơ. Bằng tài năng và trực giác nhạy bén trời ban, thi
sỹ Mai Văn Phấn luôn đưa đến cho bạn đọc những hình ảnh ấn tượng nhờ bút pháp
tạo hình bằng những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực.
Bên cạnh tính “tả thực”, hình ảnh trong thơ Mai Văn Phấn còn mang đậm
tính hư ảo, tưởng tượng. Điều đó xuất hiện ngay trong những sáng tác ở giai
đoạn đầu như Tự thú trước cánh đồng; Bài
ca ban mai; sau mùa gặt…và càng về sau, những chi tiết, hình ảnh tưởng
tượng càng xuất hiện dày đặc trong sáng tác của thi sỹ: Gió thổi,Tắm đầu năm; Những bông
hoa mùa thu, Để nhận ra anh, Đỉnh gió, Mùa trăng, Hình đám cỏ, Ngậm em trong
miệng, Tỉnh dậy trong mưa, Buông tay cho trời rạng, Giấc mơ cây… Ở đó,
chúng ta bắt gặp những điều tưởng như phi lý nhưng lại rất có lý trong cuộc
sống của con người hiện đại hôm nay.
Tắm đầu năm là một bài thơ được xây dựng bằng rất nhiều những chi
tiết, hình ảnh tưởng tượng, phi thực:
Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch
Quay về tắm bằng ngọn đèn
…
xối ánh sáng vào từng góc khuất
góc khuất như lò thúc mầm
như thép nóng đem tôi vào nước
như quả trứng trong ổ đang ấp
rễ thân cành đã chiết đâm ngang
Trong
thơ Mai Văn Phấn, phần lớn những hình ảnh mang tính hư ảo, tưởng tượng
này rất đẹp và thơ mộng. Điều này được thể hiện rất
rõ, rất ấn tượng qua những câu thơ, bài
thơ viết về tình yêu. Chẳng hạn những câu thơ này:
Chúng mình hôn nhau trong hành lang hẹp
trên cỏ xanh, trong những góc tối
trên tháp chuông, bên gốc cây cổ thụ…
Bốn bề nước tràn ướt chân
lúc ấy gió thổi rất mạnh
(Gió
thổi)
Hay:
Em mơ một con thuyền
Trôi trên cao
Có thể nhìn thấy đáy
Tưởng tượng anh nhón chân đến gần
Luồng ánh sáng từ mảnh thiên thạch
Vòm cây cao, những vì sao
Tan tác khi con thuyền nghiêng bánh lái
(Buông tay cho trời rạng)
Thi sỹ đang diễn tả lại giấc mơ của “Em” và “Anh”. Em mơ
về một không gian đầy ánh sáng, nơi đó có một con thuyền để chở em đi. Con
thuyền mà em đang mơ, đang muốn níu giữ đó có lẽ không phải là con thuyền thực
mà phải chăng đó chính là “Anh”, nên: Em
vẫn mơ canh giữ con thuyền/ Thức dậy đổ đầy trăng vào nắng sớm. Canh giữ để
đến một ngày nào đó khi niềm tin trong em đủ lớn, em sẽ: Cố nép vào thành giường/ Em nín thở chờ thời khắc yên tĩnh/ Ôm con bồ
câu vô hình/ Đợi mặt đất bình yên buông tay cho trời rạng.
Bài thơ Ngậm em trong miệng là một ví dụ tiêu
biểu khác.
Luôn tin có em trong miệng anh
Nơi không chiến tranh, dịch hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, lọc lừa
Lối em đi không còn gai nhọn
Bão tràn qua anh dựng từng ngăn
Bình yên
trong miệng anh
Em thúc nhẹ
bờ vai
Vòm ngực
ngón chân vào má
Huyên thuyên
và hát thầm
Hồn nhiên
cho lưỡi và răng anh chạm vào cơ thể
Anh là con
cá miệng dàn dụa trăng
Rời bỏ bầy
đàn quẫy vào biển động
(Ngậm em
trong miệng)
Quả thực đấy
là những hình ảnh thơ đầy bất ngờ, đầy hư ảo và siêu thực. Những hình ảnh này
gợi liên tưởng đến Tình nhân của Paul
Eluard: Em đứng trên mi mắt anh/ Tóc em nằm trong tóc anh/ Em có dáng hình giống
như hai bàn tay anh/ Em có sắc màu của đôi mắt anh/ Em chìm ngập trong bóng
anh/ Như một phiến đá ở trên trời...Có thể nói, bút pháp tạo hình bằng những chi tiết, hình ảnh tưởng tượng,
phi thực trong thơ Mai Văn Phấn đưa đến cho người đọc những cảm nhận và liên
tưởng độc đáo.
3.3.2.3. Tạo hình
bằng cách tô đậm những đường nét, yêu tố nghịch dị
Tạo hình theo nguyên tắc
"ảo hóa" bằng cách tô đậm những đường nét, dáng vẻ nghịch dị, lạ lùng
của sự vật nhằm đem lại những ấn tượng thẩm mỹ khác thường là một nét độc đáo
khác trong bút pháp Mai Văn Phấn.
Để diễn tả về một đời sống đầy bạo lực, bất
toàn, méo mó, nhà thơ đã dùng một thứ ngôn ngữ hình ảnh siêu thực, nghịch dị
(rất gần với hội họa siêu thực) để diễn tả. Trong cái nhìn “lạ hóa” của ông,
thế giới hiện lên dị dạng, méo mó, khác thường. Đó là hình ảnh cái miệng đang
trôi “không phát ra tiếng động/ chỉ hiện lên một đoạn phim câm”, cái
lưỡi “bị thắt/ treo lên đỉnh cột/ mỗi lần nói/ chiếc lưỡi phải rút/ kéo thân
thể béo ị lên cao”, những đứa trẻ “nghẹn ngào nước mắt chảy vào trong”,
giấc mơ của con chó, con gián “kiếp trước từng là người đàng hoàng”, giờ
đây tôi và con gián “Tôi và con gián cùng hội thảo khoa học/ cùng đeo khẩu
trang, cùng ngắm hoa/ cùng bẫy chim, cùng khắc phục hậu quả/ cùng lau mồ hôi,
cùng tiên tri”… Áo khoác kêu thất thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện
thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc
vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng
thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo vệ… Phản ánh hiện thực qua
các hình ảnh nghịch dị làm nổi bật nhận thức về cái phi lý như một tồn tại tất
yếu của đời sống con người hiện đại. Đó là kết quả của một cái nhìn nghiệm sinh
bi đát nhưng không kém phần chua chát và hài hước về trạng thái tha hóa của
nhân sinh. Không thể tin, Quay theo mái nhà, Hắn, Dạy trẻ con, Hội chứng từ
một tin đồn, Chỉ là giấc mơ, Ở những đỉnh cột, Nếu, Cái miệng bất tử,… là những bài thơ dày đặc hình ảnh siêu thực,
nghịch dị. Con người trong thế giới thơ đó dường như cũng trở nên tha hóa, bất
thành nhân dạng. Hình ảnh
“hắn” trong Hắn, Đến trong ý nghĩ…
là một hình nhân ma mãnh, kì dị, âm bản của một cái tôi “tỉnh táo tột
cùng”. Hắn có mặt ở khắp nơi nhưng luôn ẩn trong bóng tối và có khả năng
biến hình tùy theo hoàn cảnh:
Hắn là nơi hoàn thiện:
của gương đã lành/ sâu đã nở/ trinh
đã mất/ cáp đã
đứt/ cống đã thông...
là bãi phế thải của giẻ rách/ mảnh
thủy tinh/ băng vệ
sinh/ giày dép lạc mốt...
là viên đạn bay đi chạm đích/ những
vòng kinh hồi
sinh/ dòng sông gặp biển...
(Hắn)
Dường
như,với bút pháp tạo hình bằng cách tô đậm những đường nét, dáng vẻ nghịch dị,
lạ lùng của sự vật, Mai Văn Phấn đã đưa ra lời cảnh báo cho con người rằng: thế
giới đang biến đổi chóng mặt và ngày càng trở nên nhiễu loạn.
Tóm
lại, để xây dựng thế giới nghệ thuật riêng, Mai Văn Phấn đã sử dụng nhiều
phương thức, phương tiện thể hiện tương ứng, hiệu quả. Trong đó, hình ảnh –
biểu tượng và bút pháp tạo hình là một nét nghệ thuật độc đáo, nổi bật.
KẾT LUẬN
1. Thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng
được sáng tạo, xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tư
tưởng – thẩm mĩ nhất định của người nghệ sĩ. Đó là một chỉnh thể nghệ thuật
sống động, cảm tính, được xây cất bằng vật liệu ngôn từ và các phương thức,
phượng tiện nghệ thuật đặc thù. Là đứa con tinh thần của nghệ sỹ, thế giới nghệ
thuật luôn hàm chứa và thể hiện quan niệm riêng của người nghệ sỹ về thế giới,
con người và bản thân sự sáng tạo. Mai Văn Phấn là gương mặt cách tân nổi bật của thơ
Việt Nam đương đại. Hành trình sáng tạo của thi sỹ là một hành trình lao động
miệt mài, bền bỉ với tìm tòi, cách tân thi pháp không mệt mỏi. Cho đến thời
điểm hiện tại, nhà thơ đã cho ra mắt bạn đọc 11 tập thơ và trường ca. Có những tác phẩm được tái bản
nhiều lần và một số tập thơ song ngữ của ông được giới thiệu ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Trong thơ, Mai Văn Phấn đã kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật
hết sức độc đáo, nổi bật.
2. Tìm hiểu thế giới
nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, trước hết, chúng tôi đi sâu khám phá hình
tượng cái tôi và hình tượng thế giới. Hình tượng cái tôi trong thơ Mai Văn Phấn
nổi lên bốn đặc điểm cơ bản: a) giàu khát vọng và năng lượng cách tân thi ca; b) say đắm, nồng nàn trong tình yêu;
c) thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy cảm; d) khao khát hướng
tới một thế giới tinh thần lý tưởng, “thuần Việt”. Đi cùng hình tượng cái tôi
là hình tượng thế giới. Đó là một thế giới viên mãn và thuần khiết; tương giao
và hài hòa; và đầy ắp những cảm giác
siêu nghiệm. Để tổ chức nên thế giới nghệ thuật độc đáo ấy, nhà thơ đã sử dụng
một cách linh hoạt và hiệu quả nhiều phương thưc, phương tiện thể hiện. Ông sử
dụng đa dạng thể thơ, bao gồm lục bát, thơ tự do, thơ văn xuôi và thơ cực ngắn.
Thơ ông nghiêng về kiểu kết cấu mở,
tạo nên những khoảng trống thẩm mĩ rộng rãi, “vẫy gọi” nhiều hướng tiếp nhận
khác biệt. Việc sử dụng linh hoạt bút pháp tạo hình, đặc biệt theo hướng siêu
thực – nghịch dị, là điều kiện để thi sỹ thâm nhập sâu hơn vào hiện thực và đời
sống tinh thần, vốn đầy những mâu thuẫn
và đối nghịch, của con người hiện đại.
3. Bên cạnh những thành công, thơ Mai Văn Phấn vẫn còn
những hạn chế nhất định. Sự lớp lang, tỉ mỉ, chi tiết khiến ngôn ngữ thơ nhiều khi trở nên rườm
rà, dài dòng, mất đi những khoảng trống và độ mờ thẩm mĩ cần thiết, vốn là yếu
tố quan trọng để tạo nên chất thơ của tác phẩm. Bên cạnh đó, việc cố
tính phá bỏ tính nhạc truyền thống (được tạo nên bởi cách gieo vần, ngắt nhịp,
phối thanh quen thuộc…) để nhằm hướng tới tính nhạc bên trong của hình tượng…
cũng khiến thơ ông trở nên khó đọc, khó nhớ. Những tìm tòi, cách tân quyết liệt
về mặt kĩ thuật viết là hết sức đáng quý song chính điều đó có khi khiến tác
giả chưa tìm được sự tương khớp giữa mục tiêu, cảm hứng với hình thức thể hiện…
Mục đích tìm đến một tiếng thơ Lý tưởng, hài hòa giữa tiếng nói nội tâm của con
người hôm nay với những giá trị truyền thống và với những kĩ thuật viết hiện
đại là hết sức có ý nghĩa. Song có lẽ, tác giả cũng cần chú ý hơn đến phương
diện tiếp nhận của độc giả…
4. Nhìn chung, thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn là một
cấu trúc phức tạp, đa diện, liên tục biến đổi. Nói đến thơ Mai Văn Phấn là nói
đến cái nội lực chi phối tổng thể, cái “từ trường thẩm mĩ” được tạo ra hơn là
các câu chữ riêng lẻ. Bởi vậy, thật không dễ cho người đọc khi tiếp cận, lí
giải. Nhưng, đúng như một nhà phê bình đã nhận xét, “ một khi vượt qua định
kiến của thói quen thẩm mĩ, chấp nhận những quy ước mới của “luật chơi” sáng
tạo vốn vô cùng đa dạng, có lẽ ta sẽ được đền bù xứng đáng. Ít nhất, trải
nghiệm đọc ấy cũng giúp ta nhận ra sự rộng rãi không cùng của không gian sáng
tạo và vẻ đẹp của sự phong phú trên những hành trình tinh thần của con người”
[62].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945
- 1995, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại -
nhận thức và thẩm mỹ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam
1975 - 2000, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
- Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ
Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975-2000), Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
- Mai Ngọc Chừ (2005), Vần thơ Việt Nam dưới ánh
sáng ngôn ngữ học, Nxb Văn hoá - Thông tin.
- Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb văn
học, Hà Nội.
- Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc
và văn học, Nxb Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học.
- Phan Cự Đệ (chủ biên, 2004), Văn
học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục.
- Nguyễn
Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
11.
Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ,
Nxb Văn học, Hà Nội.
12.
Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá, Lê Quang Hưng, Nguyễn
Phượng, Chu Văn Sơn (2005), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại,
(tập 1), Nxb Giáo dục.
13.
Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau
1975 - từ cái nhìn toàn cảnh”, Nghiên cứu văn học, (11).
14.
Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm,
Nxb Giáo dục.
15.
Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ
Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16.
Hà Minh Đức (chủ biên 1999), Lý luận văn học,
Nxb Giáo dục.
17.
Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại,
Nxb Hà Nội.
18.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ
biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19.
Nguyễn Quang Hà (2012), Một số cách tân nghệ thuật
trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Thái Nguyên.
20.
Nguyễn Hưng Hải, "Thơ Mai Văn Phấn, tiếng nói
tỉnh táo và đa thanh", 4phuong.net
21.
Hegel (1998), Mỹ học, tập 1 (Phan Ngọc dịch), Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.
22.
Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb
Hội Nhà văn.
23. Nguyễn Nhật Huy (2014),
" Những biểu tượng thức giấc trong thơ Mai Văn Phấn", vannghethainguyen.vn.
24.
Lê Quang Hưng, Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu
- thời kì trước 1945, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
25. Mã Giang Lân (2001), Tiến
trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
26.
Mã Giang Lân, (2005), Văn
học hiện đại Việt Nam vấn đề - Tác giả, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27.
Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế
kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
28.
Phong Lê, Vũ Văn Sĩ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ
(2000), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động.
29.
Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại
nghĩ tiếp..., Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
30.
Nguyễn Văn Long (2003), Văn
học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31.
Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học
Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
32.
Phương Lựu (chủ biên, 2009), Lý luận văn học,
tập 1: Văn học - nhà văn - bạn đọc, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
33. Phương
Lựu (chủ biên, 2009), Lý luận văn học, tập 3: Tiến trình văn học, Nxb
Đại học sư phạm, Hà Nội.
34. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình (2004), Lý luận văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35.
Phạm Thùy Linh (2009), “Nỗi cô đơn mênh mông trong Để nhận ra anh”, Hải Phòng cuối
tuần, (15).
36.
Vi Thùy Linh (1999), “Một con chiên nguyên khiết
của thi ca”, Thừa Thiên Huế, (1507).
37.
Phương Mai, "Tản mạn về "cỏ" trong
thơ Việt", mucxanhaotrang.vn
38.
Nguyễn Đăng Mạnh (1991), " Con đường đi vào
thế giới nghệ thuật của nhà văn", Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Gieke
Marina, "Nhà thơ Mai Văn Phấn: con đường khác tìm đến thơ Việt hiện đại", Vanvn.net
40.
Dương Kiều Minh (2009), “Hiện thực giả định và hiện
thực tâm tưởng trong thơ Mai Văn Phấn”, Văn nghệ công an, (114).
41.
Dương Kiều Minh, "Lộ trình thơ Mai Văn Phấn-
1", 4phuong.net
42.
Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1990), Thơ ca Việt
Nam - hình thức và thể loại, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
43. Trần
Thế Nhân, "Nhìn nhận yếu tố tượng trương, siêu thực
trong thơ Mới", bichkhe.org
44. Yến Nhi (2010), "Vẻ
đẹp siêu thực trong thơ", 4phuong.net/ebook/.
45.
Hoàng Kim Ngọc (2011), “Đồng sáng tạo để giải mã
văn bản thơ “Hoa Giấu mặt” của Mai Văn Phấn, Vietvan.vn.
46.
Nhiều tác giả (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng
Đức Bốn, khác biệt và thành công, Nxb Hội Nhà văn.
47.
Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập thơ Việt Nam
giai đoạn 1975-2000 (3 tập), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
48.
Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Lao động, Hà Nội.
49.
Nhiều tác giả (2002), Lý luận văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
50. Nhiều tác giả (2001), Siêu thực, tuyển tập
văn chương 5, Nxb Thanh niên.
51. Nhiều tác giả (1997), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
52.
Lê Lưu Oanh
(1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990), Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
53.
Lê Lưu Oanh
(2006), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
54.
Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (hai
tập), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55.
Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển cùng tiểu
luâ%3ḅn và trả lời phỏng vấn, Nxb Hô%3ḅi nhà văn, Hà Nô%3ḅi.
56. Mai
Văn Phấn (2012), Hoa giấu mặt, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
57. Mai
Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, Nxb Hội nhà văn, Việt Nam.
58. Mai
Văn Phấn (2013), Những hạt giống của đêm và ngày, Nxb Hội nhà văn Việt
Nam.
59. Mai
Văn Phấn (2013), “Vẻ đẹp quyền năng của thơ ca”, http://maivanphan.vn
60. Mai
Văn Phấn (2013), “Không gian thơ”, http://maivanphan.vn
61. Lương
Kim phương (2014), “Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng”, http://mai vanphan.vn
62. Lê
Hồ Quang (2014), "Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn", http://maivanphan.vn
63. Lê Hồ Quang (2014), “Tất cả chúng ta vừa sinh
ra ở đó”, http://maivanphan.vn
64. Nguyễn Hưng Quốc (1998), Sống với chữ, Nxb
Văn nghệ, Califonia, Hoa Kỳ.
65. Nguyễn
Hưng Quốc (2001), Văn học Việt Nam từ điểm nhìn hậu hiện đại, Nxb Văn nghệ.
66. Roland Barthes (1997), Độ
không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn.
67. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
68. Trần
Đình Sử (chủ biên ), Lí luận văn học, tập 2: tác phẩm và thể loại văn học,
Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
69. Hoài
Thanh, Hoài Chân (2005), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
70. Nguyễn Hữu Tấn
(2013),“Vô thức trong văn học”, tapchisonghuong.com.vn.
71.
Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ
hiện đại Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
72.
Vũ Thị Thảo (2011), Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai
Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Đà Nẵng.
73.
Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao
động, Hà Nội.
74.
Đỗ Lai Thúy (2005), Bút pháp của ham muốn, Nxb
Lao động, Hà Nội.
75.
Nguyễn Quang Thiều (2006), “Người đứng trước những
con sóng”, An ninh thế giới cuối tháng, (54).
76.
Phạm Quang Trung (2001), “Nghĩ từ Những ngón tay dị dạng của Đặng Huy
Giang”, Người Hà Nội, (43).
77.
Lê Vũ (2010), "Mai Văn Phấn, hai tập thơ, hai
mảng màu hiện thực", Tản Viên Sơn,
(4).
78.
Lê Vũ (2014), “Hoa giấu mặt và cuộc đối thoại vô
ngôn”, http://maivanphan.vn